Dương Hoài Ngọc tiếp tục giơ đuốc quan sát những hình khắc trên
bức tường băng, ánh mắt đầy kinh ngạc và rúng động.
Nhị Rỗ ngó nghiêng xung quanh, lại vòng ra trước cửa băng cung,
thấy ngay tấm bảng trên cửa có khác một dòng chữ Tạng rất lớn, nét
bút to bằng cả thân người, Nhị Rỗ nói, dòng chữ đó có nghĩa là
“Thần Thú đại điện”.
Vương Uy lấy làm lạ, trong Thần Thú đại điện này thờ cúng thần
thú nào nhỉ?
Ba người qua cửa vòm bước vào đại điện, ánh đuốc nhảy múa,
hắt bóng người lên những bức tường băng xung quanh, tưởng như khắp nơi
đều thấy bóng người cùng ánh lửa, vừa bước vào đại điện, cả ba
lập tức sững sờ trước sự hùng vĩ của nó.
Băng qua ba lớp cửa vòm, ba người tiến vào trong đại điện. Tòa đại
điện này rất rộng, từ cửa điện vào đến nơi thờ phải hơn một trăm
mét, tiếng bước chân lộp cộp trên nền băng cứ văng vẳng trong đại
điện, từ nơi sâu thẳm của đại điện chợt nghe có âm thanh ầm ầm vọng
lại.
Trong cung điện băng Nhị Rỗ tỏ ra rất kích động, một mình đi
trước, đến pho tượng Bồ tát, bỗng gã “ồ” lên một tiếng, Vương Uy và
Dương Hoài Ngọc vội lại gần.
Nhị Rỗ chỉ vào bức tượng băng khổng lồ nằm giữa đại điện:
– Hai người hãy nhìn, đây là cái gì?
Vương Uy thoạt nhìn đã giật thót mình, Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc
chưa từng thấy cái này bao giờ, nhưng Vương Uy từng đối diện nó, đã
nhìn rõ mồn một gương mặt ấy, liền nói:
– Đây là thứ ẩn náu trong sương mù trên bức tượng ấy, té ra hình
dáng nó là thế này.
Đúng như Vương Uy lúc ấy trông thấy, thứ đó có một gương mặt
Phật, mũi và miệng giống hệt như Di Lặc cười, mắt trợn tròn như
chuông đồng, lông mi đỏ rũ xuống đến quá tầm mắt, tựa như một vầng
lửa che phủ đôi mắt.
Nhị Rỗ quan sát kỹ con thú khổng lồ, thấy thân hình nó to lớn
kềnh càng, nằm dài trên mặt đất, hệt như một con sư tử đang ngủ.
Dáng dấp nó to lớn, những khớp xương vồng lên thành hình vòng cung
tràn trề sinh lực, tưởng chừng như hễ chồm lên là có thể vồ người
tới nơi, đầy vẻ oai phong hùng dũng.
Dương Hoài Ngọc bước ra đằng sau con thú, Vương Uy đi vòng sang bên
cạnh, quan sát kỹ sinh vật mấy lần suýt dồn họ vào chỗ chết, đúng
là càng nhìn càng kinh hãi. Con thú này nanh sắc móng nhọn, thể
hình cường tráng, chẳng trách gì nó đi lại thoăn thoắt như gió, mắt
người không thể nhìn rõ được.
Kỳ lạ nhất là bộ mặt của nó, bộ mặt giống với mặt Di Lạc, rõ
ràng được khắc họa dựa theo mặt người. Nếu thoáng nhìn chắc chắn
sẽ cho rằng bộ mặt này chỉ là do con người tưởng tượng ra rồi tạc
thành, nhưng Vương Uy đã từng trông thấy con thú này bằng xương bằng
thịt, gương mặt đó quả thực giống pho tượng băng này như khuôn đúc,
là một gương mặt Phật đầy đủ thần thái.
Nhị Rỗ từ phía sau đi vòng ra phía trước, chợt lớn tiếng kêu:
– Chỉ huy đến mà xem, trận pháp đằng sau này rất khác thường.
Nghe Nhị Rỗ nói, Vương Uy vội chạy lại, quả nhiên thấy đằng sau
con thú này còn một đám những con thú nhỏ, chỉ lớn bằng sư tử hoặc
hổ thông thường, sắp xếp thành trận pháp. Thoáng nhìn có vẻ rất
lộn xộn, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy, cách sắp xếp những con thú nhỏ này
giống hệt như những đường nét trong mấy bức vẽ trên lòng bàn tay pho
tượng đất.
Trông thấy vậy, ba người sực hiểu ra, trận thế của những con thú
này đã chứng minh các đường nét trên tranh vẽ đúng là khắc họa con
thú ẩn náu trong sương mù. Nhưng các bức vẽ cũng như cự thú trận
này đều bày ra cũng một trận thế, điều này nhằm mục đích gì? Lẽ
nào việc bụng bức tượng đất nổ tung có liên quan đến con thú này
sao? Và làm thế nào để thông qua những con thú này, tìm thấy được
hai cánh cửa đồng có hai chiếc kích hình dã thú?
Tất cả những điều này vẫn còn là bí ẩn.
Vương Uy cảm thấy đứng dưới đất khó mà trông rõ được thú trận.
Anh liền gọi Nhị Rỗ, hai người từ hai bên leo lên mình con thú “đầu
lĩnh”. Thân mình nó quá lớn, băng lại rất trơn, hơn nữa tay chân họ
cũng không thể bấu víu vào đâu được, nếu bị dính vào băng sẽ bị
bóc hẳn một mảng da.
Vương Uy lấy từ trong ba lô ra một sợi dây thừng, đầu dây có buộc
móc câu ba cạnh, đồ vật này trong giới lục lâm giang hồ gọi là “bò
cạp vượt tường”, là công cụ thiết yếu để bọn trộm cắp trèo tường.
Người đứng bên ngoài ném “bọ cạp vượt tường” ra, móc ba cạnh sẽ móc
vào khe ngói ở mái hiên, móc này rất chắc, hơn nữa kết cấu rất đặc
biệt, hễ móc vào khe ngói nếu không khéo léo thì không thể nào lấy
xuống nổi. Móc ba cạnh là lợi khí vượt tường của bọn trộm cắp, nên
quan trên cấm người dân sản xuất.
Tổ tiên Vương Uy vốn là thế gia trong giới lục lâm, những thứ này
không những anh thấy nhiều mà còn sử dụng thành thạo, hễ vung lên là
móc câu móc vào đúng vị trí đã định, không sai một phân. Lực đạo
của tuyệt kỹ này chính là lực cổ tay mà anh luyện được khi tập
ngón Đoạn Môn chỉ, chỉ cần vung tay lên là phát ra kình lực hùng
hậu, anh nhắm đúng vị trí, vùng mạnh, “bò cạp vượt tường” bay vút
ra như rắn, vượt qua lưng con dã thú sang bên kia, rơi xuống hơn mười
mét, rồi quấn vào chân nó, móc sắt bám vào khe băng.
Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc tròn mắt, há hốc mồm ra, công phu này
của Vương Uy quả là xảo diệu vô cùng, trong khéo còn có cái khéo
hơn. Cả hai đều là kẻ sống trên đầu mũi đao mũi kiếm, từng trải
không ít sự đời, nhưng công phu xảo diệu thế này quả là chưa thấy bao
giờ, khiến họ không khỏi nhìn Vương Uy bằng con mắt khác.
Vương Uy quay sang bảo Nhị Rỗ:
– Đứng sững ra đấy làm gì, mau leo lên.
Hai người nắm lấy sợi dây thừng, hồi hộp leo lên lưng con thú cao
hơn chục mét. Vì thân hình con thú rất lớn, họ nằm bò trên tấm lưng
nó như trên mặt đất, không sợ bị trượt ngã.
Nhị Rỗ bảo Dương Hoài Ngọc đi sang phía bên cạnh thú trận đằng
sau, như vậy có thể dựa vào ánh đuốc bên dưới, để quan sát toàn cục
trận thế. Hai người căng mắt nhìn kỹ, lại so sánh với những bức vẽ
trong trí nhớ, xác định thú trận này được bài trí sắp xếp giống
hệt với những đường nét trong các bức tranh trên bàn tay pho tượng.
Vương Uy leo lên để nhìn cho rõ xem bên trong thú trận còn có gì
lạ không, nhưng nhìn mãi nhìn mãi, ngoại trừ kỹ thuật điêu khắc đã
đạt đến độ hoàn mỹ, thì không thấy gì khác.
Khỏi cần phải nghi ngờ gì nữa, cung điện băng nằm sâu dưới lòng
đất này rõ ràng là do bàn tay con người tạc nên, nhưng quái lạ là,
từng đường nét chạm trổ đều không chút tì vết tinh tế đến lạ lùng.
Theo ba người thấy, đây gần như là chuyện không thể. Dẫu rằng phải
mất rất nhiều sức người, sức của điêu khắc được hoàn mỹ như vậy,
nhưng lâu ngày băng tan chảy, chắc chắn các pho tượng sẽ tổn hại lớn.
Vậy mà không thể nhận ra một chút tổn hại nào nơi cung điện băng
dưới lòng đất này, ngay cả những nét chạm khắc đơn giản cũng được
thực hiện rất cẩn thận, không dính chút vụn băng nào, quả là bất
thường.
Vừa bước vào cổng vòm, Vương Uy đã chú ý ngay đến điểm này. Tòa
cung điện này quá hoàn chỉnh, tinh tế, thoạt nhìn đã biết là do
những người thợ giỏi, tay nghề điêu luyện tạo nên. Nhưng những bước
tượng băng xuất hiện dưới lòng đất sâu mấy nghìn mét như vậy quả là
ngoài sức tượng tượng, khả năng duy nhất đó là hằng ngày đều có
người sửa sang tu chỉnh chúng. Những người làm nên cung điện băng này
từ bấy đến giờ vẫn chưa chết, họ sống trong thế giới dưới lòng
đất, hằng ngày giữ cho tòa cung điện này thật hoàn mỹ, không để xây
xước mảy may nào.
Đó là cách giải thích duy nhất đối với việc những bức điêu khắc
bằng băng này. Nghĩ đến điểm này, toàn thân Vương Uy toát mồ hôi
lạnh, những người thợ từ hơn một nghìn năm trước vẫn sống đến ngày
nay, hằng ngày tu sửa cho những bức tượng băng, chuyện này quả là
quái gở. Trước đây gặp phải ba tên lính mặc quân phục màu vàng trong
hẻm núi lớn, anh đã cảm thấy quải gở lắm rồi, sau đấy lại đụng độ
mấy lần, anh vẫn không xác định được đó là người hay ma, thắc mắc
này vẫn đeo đẳng trong anh suốt dọc đường. Vậy mà thứ lần này gặp phải
lại càng quái lạ hơn, những pho tượng băng này không thể giải thích
bằng lý lẽ thông thường được.
Hai người nhìn hồi lâu, không thấy trong thú trận có gì khác, bèn
tuột xuống theo sợi dây thừng. Nhị Rỗ nghiêng người, dùng chân gỡ sợi
dây thừng đang quấn vào chân con thú ra, Vương Uy soi đuốc cho gã, Nhị
Rỗ vừa gỡ vừa chăm chú quan sát.
Vừa gỡ được sợi dây thừng ra, bỗng Nhị Rỗ mở to mắt, nhìn chằm
chằm vào lưng con thú, Vương Uy cũng nhận ra sự khác thường của Nhị
Rỗ, liền cúi xuống nhìn, phát hiện ra dưới lưng con thú có một khối
đen đen.
Vật ấy nằm sâu dưới lớp băng, vì lớp băng quá dày nên không biết
vật đó nằm sâu bao nhiêu, cũng không thấy rõ được hình dạng. Vương Uy
bỗng thấy tình cảnh này hệt như lúc họ phát hiện cỗ quan tài trong
suốt trong rừng ở Xương Đô, chẳng nhẽ bên trong có người chết?
Nhị Rỗ nói:
– Thưa chỉ huy, có thể đây là một manh mối, chúng ta tìm cách lấy
ra xem, nói không chừng lại là một xác chết từ nghìn năm nay đấy?
Vương Uy gật đầu. Nhưng nói thì dễ, muốn phá lớp băng dày mấy
mét thế này thì chẳng phải chuyện đơn giản, dùng báng súng đập thì
chỉ vỡ ra một ít vụn băng, không có tác dụng gì.
Nhị Rỗ xoắn chòm râu dê, đảo mắt, liền nghĩ ra một kế. Gã bàn
kế hoạch với Vương Uy, Vương Uy luôn miệng khen hay, hai người vội trượt
ngay xuống đất.
Dương Hoài Ngọc thấy hai người thì thầm trên kia hồi lâu, liền hỏi
họ có chuyện gì?
Nhị Rỗ cười hăng hắc:
– Haha… không nói cho cô tây rởm biết đâu.
Thấy Dương Hoài Ngọc giận tím mặt, Vương Uy lườm Nhị Rỗ, nghĩ
bụng bây giờ là lúc nào rồi mà còn bụng dạ gây rối. Vương Uy thuật
lại với Dương Hoài Ngọc tình hình phía trên, cũng tiết lộ cho cô
cách phá hủy con thú bằng băng này, Dương Hoài Ngọc vỗ tay tán đồng.
Ba người ngồi xuống xúm quanh một chân con thú, dùng báng súng gõ
mạnh vào một góc trên mặt đất. Mấy người cùng ra sức, cuối cùng
đập vỡ được một lỗ to bằng nắm tay. Mặt đất vốn là một khối băng
lớn hoàn chỉnh, hiện giờ đã đập vỡ được một lỗ nhỏ, càng đập
càng dễ, ba người lại tiếp tục đập, chẳng mấy chốc dưới chân con
thú đã xuất hiện một cái hốc rộng đến mấy mét vuông.
Cái chân khổng lồ của con thú thụt xuống hố, mặt đất liền vang
lên tiếng lách cách, ba người đang ra sức đập, chợt Nhị Rỗ ngoảnh
lại nhìn, vội kêu lên kinh hãi, thì ra con thú bằng băng kia đã lung
lay sắp đổ.
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc lập tức lăn ngay sang một bên, Nhị Rỗ
nhanh chân hơn, đã chạy tuốt ra đến cửa điện, Vương Uy và Dương Hoài
Ngọc tức tốc vùng dậy, không dám ngoảnh nhìn, cứ thế cắm đầu chạy
ra ngoài theo Nhị Rỗ.
Bấy giờ, trong đại điện vang lên tiếng nổ đinh tai nhức óc, cả
tòa cung điện bắt đầu rung lên, khối băng trên đỉnh trần ầm ầm rơi
xuống, khiến ba người hốt hoảng chạy khỏi cung điện.
Nhị Rỗ vừa chạy vừa ngoảnh lại nhìn, thấy tảng băng to như tảng
đá lớn rơi xuống, đập vào nền đất cứng làm lủng một hố sâu, vụn
băng bắn tung tóe, vô cùng kinh hãi. Nhị Rỗ chạy cuối cùng, trước
mặt sau lưng đều nghe thấy tiếng gió phần phật do những tảng băng rơi
xuống tạo nên, gã kinh hãi cắm đầu chạy, gai ốc nổi cùng mình.
Ba người ra khỏi cung điện băng, thì mọi chấn động trong đại điện
cũng ngừng lại, chỉ còn tiếng những tảng băng nhỏ rơi lách cách.
Những bức tường băng ở đây đều kiên cố vô cùng, hơn nữa kết cấu của
tòa cung điện băng rất lạ, nó có một mái nhà hình chóp đứng, sức
nặng của lớp băng dày trên mái có thể thông qua mặt băng phân tán đều
cho mấy bức tường băng. Cho nên toàn bộ tòa cung điện lúc gặp phải
lực xung kích có thể phân tán đến những bề mặt khác nhau rồi truyền
đến tường băng, nhờ vậy, cả cung điện luôn luôn vững như bàn thạch.
Lúc Vương Uy leo lên lưng con dã thú, anh đã đứng trên cao quan sát
kỹ toàn bộ mái vòm cung điện. Bấy giờ anh rất lấy làm lạ, không
hiểu sao tòa cung điện băng này lại xây mái vòm như thế này, nhưng
hiện giờ anh đã hiểu nguyên do. Tòa cung điện này nằm dưới lòng đất
cả nghìn mét, nếu không có kết cấu chống chấn động như thế này,
hẳn quá nửa cung điện đã bị nát vụn vì địa hình biến đổi rồi.
Ba người đoán chừng những khối băng trên mái cung điện đã rơi
xuống gần hết, bèn quay lại vào bên trong. Lúc này, cả cung điện băng
hoàn mỹ đã bị con thú băng kia đổ xuống đè cho gãy vỡ ngổn ngang cả
lên, chỗ nào cũng thấy mảnh băng và vụn băng, thú trận bằng băng
phía sau con thú “đầu lĩnh” càng thảm hại hơn. Vì con thú đổ kềnh
về phía sau, vừa khéo ngã đổ lên thú trận, con thú băng kềnh càng
nhường ấy đổ xuống, đè nát toàn bộ thú trận, không còn nổi một pho
tượng nào nguyên vẹn.
Nhị Rỗ tiếc rẻ lắc đầu, nói:
– Đẹp thế mà bị vỡ. Tiếc rằng không phải vàng ngọc gì, nếu
không mang ra ngoài cũng kiếm được bộn tiền.
Vương Uy bước vào cung điện, lập tức đưa mắt quét qua mọi chỗ,
xác định trên vòm cung điện không còn băng rơi xuống nữa, xung quanh
cũng đã an toàn, mới gọi Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc lại.
Hai người kia hiểu ý, cùng đến trước đống băng vỡ của con thú.
Nửa thân con thú khổng lồ nằm đè lên thú trận, đầu, cổ, toàn thân
đều vỡ thành mấy mảnh. Cả thú trận vỡ nát ùn lại như một gò băng
vụn cao ngất, ba người hối hả leo lên, bắt đầu bới tìm vật đen đen
kia quanh mấy đoạn thân thể của con thú “đầu lĩnh”.
Trong đống băng đổ nát, ngoài vô số mảnh băng vụn, vẫn còn những
tảng băng to như bức tường nằm chềnh ềnh giữa đống băng vỡ, khiến
công tác dọn dẹp phát hiện trở nên rất phiền phức, bởi không có
cách nào chuyện dịch nổi những tảng băng. Vì thế thoạt đầu họ chỉ
dọn những vụn băng nhỏ xung quanh, nhưng sau một hồi thu dọn, đào bới
hết cả, vẫn không thu lượm được gì.
Nhị Rỗ nghỉ tay một lúc, nói:
– Chăc chắn cái đó bị vùi xuống dưới mất rồi, chúng ta phải đập
vỡ những tảng băng lớn mới được.
Vương Uy gật đầu, quan sát kỹ những tảng băng lớn nằm chềnh ềnh
trên đống đổ nát một hồi, quyết định ra tay với khối băng vỡ khá
lớn trên thân con thú “đầu lĩnh”. Khối băng này kích thước chừng bảy,
tám mét, dày chừng bốn mét, hơn nữa còn là một bộ phận trên cơ thể
của con thú, rất kiên cố, dao kiếm khó làm gì nổi. Nhị Rỗ leo lên
quan sát hồi lâu, lắc đầu vẻ bất lực:
– Bên trong khối băng mờ đục, hơn nữa những khoảng rỗng phân bố
không đều, không nhìn rõ được trong đó có gì.
Vương Uy suy nghĩ hồi lâu, rồi đập mạnh vào đám băng vụn phía
dưới khối băng, anh ngờ rằng vật đen đen kia bị đè dưới những khối
băng lớn này. Đống băng vỡ lớn như vậy, lại chồng chất bấy nhiêu
tảng băng dày, đúng là khó giải quyết.
Ba người đứng quanh tảng băng lớn, mỗi người một cách, nhưng đập mãi
mà nó vẫn không hề suy chuyển. Trước những khối băng kiên cố lạ thường
như vậy, ho không có bất kỳ dụng cụ nào khả dĩ, cũng chẳng có nhân
lực dồi dào, muốn đập vỡ khối băng này chẳng khác gì châu chấu đá
xe.
Nhị Rỗ xua tay, nói với Vương Uy:
– Chúng ta đi vòng quanh đây xem, nói không chừng lại phát hiện thứ
gì khác, chứ vật đen đen kia sợ rằng không moi ra nổi đâu.
Vương Uy không nói gì, chỉ dùng báng súng tiểu liên của Nhị Rỗ,
thọc vào kẽ khối băng, định bẩy nó ra một chút, rồi soi đuốc nhìn
xem thứ bị chôn chặt bên dưới. Vương Uy vận sức mấy lần, tuy khối băng
vẫn đè lên lớp băng vụn, nhưng nó không hề lỏng ra như anh mong đợi
chút nào. Trái lại, những mảnh băng vụn mắc kẹt vào báng súng bỗng
nhiên vang lên âm thanh răng rắc. Ngay lúc ấy, Vương Uy chợt nghe thấy
tiếng va chạm mạnh, lòng anh bỗng trầm xuống.
Âm thanh ấy tuyệt nhiên không phải tiếng bẩy băng, băng và báng
súng chèn vào nhau sẽ phát ra âm thanh giòn tan, nhưng tiếng va chạm
này, hình như lại là tiếng do rất nhiều thứ cùng phát ra.
Vương Uy thấy hai người kia vẫn đang mải miết đập khối băng, vẻ như
không hề nghe thấy âm thanh ấy, thật vô cùng quái đản. Vương Uy không
làm kinh động bọn họ, tiếp tục cúi xuống đập băng, nhưng tai thì
dỏng lên nghe ngóng động tĩnh xung quanh.
Một lúc sau âm thanh ấy lại vang lên, hơn nữa không phải một tiếng
mà là một chuỗi, nghe như tiếng chân cả đoàn người đi trên băng vậy,
rất có tiết tấu, âm thanh lại không gần không xa, hình như ngay ở bên
ngoài cung điện vậy.
Lần này Vương Uy đã hoàn toàn xác định được, đúng là có âm thanh
lạ. Anh ngước nhìn Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc, thấy hai người kia
cũng đang sững sờ nhìn mình, liền hiểu ra ngay, mọi người đều nghe
thấy âm thanh ấy.
Ba người vội vàng súng, chạy ra ngoài cung điện. Lúc chui vào
bụng bức tượng đất họ đã trông thấy rất rõ, cách duy nhất để vào
đây chỉ có thể là bay từ trên không vào, pho tượng đất này có hai
tay, không biết trên lòng bàn tay kia có chim sắt hay không nữa. Nhưng
lúc tiến vào họ thấy trên mặt đất có một lớp bụi phủ dày, những
xác chết cứng đơ nằm kia hình như cũng không có ai đụng vào, hẳn đã
lâu lắm rồi không có người vào đây. Cho nên rất ít khả năng lúc họ
bay vào bụng pho tượng, cũng có người cùng bay vào theo.
Phạm vi chiếu sáng của ba bó đuốc khá rộng, ba người chạy ra
khỏi cung điện, chỉ thấy bên ngoài băng hoa đầy cây, những đóa hoa lung
linh tinh xảo, cùng con đường nhỏ thăm thẳm không một bóng người. Bóng
tối đè nặng, xung quanh lặng lẽ đến rợn người, chỉ cần có động
tĩnh, âm thanh sẽ được phóng đại lên nhiều lần.
Ba người chia nhau đi quanh một vòng, trong phạm vi mấy trăm mét có
hơn một chục tòa cung điện nguy nga như vậy, cùng những con thú bằng
băng giống hệt nhau nằm ở đủ mọi góc trong thế giới dưới lòng đất
này. Bên ngoài băng cung còn có tường băng bao bọc, tất cả trông như
một khuôn viên lớn, cây băng chạm hoa, đường mòn quanh co, gần như một
hoa viên hoàn mỹ, nhìn khung cảnh bên ngoài cung điện tự cảnh chùa
chiền Tây Tạng vậy.
Nhưng người đi trong đó lại có cảm giác rất ngột ngạt, mọi thứ
trong khuôn viên được chạm khắc vô cùng tinh xảo bị bóng tối nặng nề
bao phủ, tạo cảm giác không thoải mái, tưởng như sắp có vật gì từ
trong bóng tối chồm ra.
Ba người đi một vòng, xem xét hết các ngóc ngách trong khuôn viên
nhưng chẳng hề thấy dấu vết người sống. Họ lại quay về Thần Thú
đại điện, việc cần kíp nhất trước mắt là phải đào bằng được vật
đen đen trong lớp băng lên đã.
Vừa bước vào cửa điện, họ đã thấy có gì khác thường. Trong cung
điện văng vẳng tiếng vọng, Nhị Rỗ đ, vội kêu lên:
– Có băng rơi xuống.
Vừa dứt lời, cả tòa cung điện chợt rung chuyển, băng từ trên vòm
điện rơi xuống tới tấp như mưa tên. Ba người hoảng hốt, vừa rồi có
băng từ trên vòm cao rơi xuống còn có chỗ ẩn nấp, nhưng lúc này băng
rơi xuống rào rào, mặt đất bị băng chọc thủng lỗ chỗ.
Ba người lấy tay che đầu, chạy tán loạn, chốc chốc lại có mấy
tảng băng rơi trúng đầu nhưng nhờ đã dùng tay che nên không đập trúng
chỗ hiểm. Dù vậy, cả ba vẫn vô cùng thảm hại, cuống quýt hết chạy
rồi nhảy tránh, ẩn náu khắp nơi.
Trong cung điện, khắp chốn đều nghe thấy tiếng băng đổ ầm ầm, nghe
thấy bức tường mình đang ẩn thân cũng lách tách nứt ra, Vương Uy phát
hoảng, vội cắm đầu bỏ chạy. Chưa chạy ra đến cửa điện, anh đã nghe
phía sau ầm một tiếng, cả bức tường băng đổ sập xuống. Bức tường
mặt bên chống đỡ mái điện đã sập, mái vòm tức thì đổ xuống theo,
đầu óc Vương Uy trống rỗng, lúc này anh chỉ biết lao như tên bắn về
phía trước, dù có phải hứng lấy phân thối nước tiểu thì cũng phải
lao.
Vương Uy đâu có ngờ cả tòa cung điện kiên cố như vậy bất ngờ đổ
sụp, thấy không có cách nào tránh được băng khối và băng vụn đổ
xuống, anh đành nấp vào góc tường. Trong lúc hoảng loạn, mấy ngọn
đuốc cũng tắt ngấm, không biết Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc chạy đâu
nữa, họ cũng náu mình như anh hay là chạy ra ngoài? Anh vừa do dự
vừa hoảng loạn, vội chạy xộc ra cửa điện, gọi to tên hai người,
những mảnh băng tảng trên đầu chợt ngừng hẳn không rơi xuống nữa. Anh
thở phào nhẹ nhõm, ngoảnh đầu nhìn, chỉ thấy toàn bộ khuôn viên tối
om, đâu thể trông thấy gì?
Anh sốt ruột, vội quay đầu lại, liền trông thấy một người đang
chạy về phía này. Người ấy len lỏi giữa đống băng vỡ rơi rào
rào tựa như châu chấu nhanh như điện, Vương Uy nhìn thấy rõ mồn
một, đầu óc đang trống rỗng còn chưa kịp trấn tĩnh lại, cả
người đã đờ ra. Chỉ thấy gương mặt kẻ kia tái nhợt, không có
vẻ gì là người sống, đầu đội mũ cắm lông công, mặc áo khoác
ngắn màu đỏ, ăn vận theo lối quan binh cuối triều nhà Thanh.
Theo cảnh tượng đó, Vương Uy chợt rùng mình, nhưng chẳng đợi
anh rùng mình cho hết, một luồng gió bỗng ập tới trước mặt,
chưa kịp trở tay thì người đã bị xô văng đi hơn chục mét, nếu
không phải anh đang nín một hớp khí trong ngực, có lẽ sương
xườn cũng gãy mất mấy cái rồi. Anh ngã lăn ra đất, mắt tối
sầm lại, toàn thân cứng đơ, không còn đủ sức để nhúc nhích.
Ngay lúc ấy, tòa Thần Thú đại điện khổng lồ bỗng ầm một tiếng đổ sập xuống, làm rung chuyển cả hang núi.
Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc vội chạy tới đỡ Vương Uy dậy,
Vương Uy vẫn chưa hoàn hồn, tay chân cứng đơ, hai người kia cố
mãi vẫn không đỡ được anh lên. Vừa gắng gượng đứng dậy, chân
đã chuội đi, không giữ nổi mình.
Nhị Rỗ hoảng hốt bảo Dương Hoài Ngọc:
– Hỏng rồi, e rằng xương cốt trên mình chỉ huy đã gãy hết,
ở đây thứ nhất không có trạm cứu thương, thứ hai là chỉ anh Uy
mới biết bó xương, có khi anh ấy thành ra tàn phế mất.
Dương Hoài Ngọc nói:
– Trước hết đừng động vào, tay chân anh ấy bị gãy, chưa bó
vào được, giờ chúng ta càng đụng vào càng hỏng việc thôi.
Nhị Rỗ gật đầu lia lịa, hai người bèn để Vương Uy nằm ngay
ngắn trên mặt đất rồi sờ nắn chân anh, xác định xem bị gãy
chỗ nào.
Vương Uy không nói nên lời, chỉ biết giương mắt nhìn hai người sờ sẫm mình như thầy bói xem voi. Thật ra anh chỉ là bị nén
khí trong ngực, không xuôi đi được, nên cả người nghẹn tắc, đành giương mắt ra đó.
Nhị Rỗ sờ nắn một lúc không thấy có chỗ nào bất thường,
nhất thời cũng lúng túng chẳng biết Vương Uy bị thương ra sao.
Trong lúc bối rối, gã liền cuống quýt cầu trời khấn Phật, từ Quan Thế m Bồ tát, Địa Tạng Vương Bồ tát, Khách Ba Bồ tát đủ cả. Vương Uy chỉ biết mở trừng mắt ra nhìn, tay chân mỗi lúc
một cứng hơn.
Dương Hoài Ngọc thấy Vương Uy có vẻ khác thường, liền vỗ
mạnh vào ngực anh một cái, vuốt xuôi khí nghẹn trong ngực. Vừa mở miệng, anh lập tức chửi toáng lên:
– Mẹ kiếp, định nắn đến chết ống đấy à!
Nhị Rỗ chỉ cười hề hề, vỗ ngực cho Vương Uy, khí nghẹn dần dà xuôi xuống, tay chân anh cũng bắt đầu cử động được.
Nghe Nhị Rỗ kể lại toàn bộ sự việc, Vương Uy mới biết hai
người đã chạy ra khỏi cung điện từ lâu. Ra đến bên ngoài, họ
nhìn lại không thấy Vương Uy đâu, liền thắp đuốc định chạy vào
tìm. Vừa thắp đuốc lên thì thấy Vương Uy từ trong đại điện
cuống cuồng chạy ra, vừa chạy vừa nhìn về phía sau. Họ đứng
gần cửa cung điện, ngọn đuốc vừa sáng lên đã làm cho Vương Uy . Bấy giờ cái xác mặc quần áo lính nhà Thanh lại chạy bổ về
phía anh, khiến đầu óc anh càng thêm bối rối, không còn nghe
thấy tiếng Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc gọi nữa.
Hai người chứng kiến tất cả từ lúc cái xác lướt qua rồi
Vương Uy đụng phải nó văng bắn ra, cú va chạm này mạnh chừng
nào, Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc đều thấy rõ. Thấy Vương Uy lăn
đi hơn chục mét, họ sợ hết hồn, vội chạy lại xem. Hai người
đoán chừng bị va chạm mạnh như thế, chắc chắn Vương Uy không
sống nổi, nào ngờ được Dương Hoài Ngọc vỗ cho một cái, Vương
Uy đã bình thường trở lại.
Vương Uy vừa ngồi dậy liền đi tìm cái xác tên lính nhà
Thanh, Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc cũng đi theo. Cái xác nằm ngay bên đống băng vỡ vụn, Vương Uy soi đuốc, trông thấy một khối
băng lớn, bao bọc lấy một người bên trong. Người ấy nằm ngửa
mặt lên trời, mắt trợn ngược, mặt tái nhợt, vận trang phục
tướng quân nhà Thanh, đầu đội mũ đính lông công, mặc áo bào đỏ có tán đinh đồng, dưới ánh đuốc, cái xác trong khối băng trông càng tím tái lạ thường, vô cùng đáng sợ.
Khối băng không dày, hơn nữa từ trong cung điện bắn ra, nên đã bị va đập làm rạn nứt nhiều chỗ, Nhị Rỗ và Vương Uy mỗi
người một khẩu súng, dùng báng súng đập mạnh, khối băng vỡ ra làm đôi, cái xác từ trong đó lăn ra.
Vương Uy nói:
– Không phải, tôi thấy cái xác từ trong cung điện băng chạy ra kia mà, tại sao vẫn còn nằm trong băng thế này?
Nhị Rỗ tiếp lời:
– Lúc ấy chỉ huy luống cuống không nhìn rõ, chứ tôi với cô
Ngọc đây rõ mồn một, cả tảng băng lớn từ trong đó văng ra. Có
thể vì đụng vào bức tường băng cho nên cái xác mới bật ra
ngoài. Bức tường băng bề thế như thế, vừa đụng vào đã làm nó bắn tung lên.
Vương Uy hơi nghi ngờ, bèn vắt óc nhớ lại sự việc vừa rồi.
Đuốc vừa sáng lên, anh liền trông thấy một người lính nhà Thanh chạy tới trước mặt, rồi đầu óc anh chợt thấy mơ hồ hẳn đi.
Hắn lao đến rất nhanh, chỉ một loáng đã đụng vào anh, không
thể nào nhìn kỹ được. Nghĩ lại mới hiểu, bức tường băng khí
thế bằng cả vạn quân nện xu
ống, khối băng lại có thể không bắn ra nhanh được ư?
Nhị Rỗ ẩy ẩy cái xác, nói:
– Đúng rồi, đây là cái thứ chúng ta trông thấy lúc ở trên
lưng con thú “đầu lĩnh” đấy, nó nằm khoanh tròn lù lù trong
lớp băng bằng một đống mà.
Vương Uy thấy Nhị Rỗ lật cái xác lên, bỗng tròng mắt anh
chuyển động, anh thấy hai cái tay của xác chết đều cuộn lại,
đút vào trong tay áo, quả là một tư thế kỳ lạ.
Anh bảo Nhị Rỗ đừng động rồi ngồi xuống nắm lấy hai tay
xác chết, vận sức tách nó ra, nhưng cố mấy lần vẫn không thể
tách nổi.
Nhị Rỗ ngồi bên cạnh nói:
– Thưa chỉ huy, chỉ huy không biết đấy thôi, người chết rồi cơ thịt sẽ cứng lại, các khớp xương cố định, không dễ gì tách
ra nổi đâu.
Vương Uy gật đầu, nhất thời anh quên mất chuyện đó. Không thể tách rời hai tay xác chết, vậy phải làm thế nào? Anh nghĩ
ngợi, rồi xắn tay áo xác chết lên, Nhị Rỗ soi đuốc lại gần
hơn, ba người vừa thấy đôi tay xác chết bên dưới lớp áo, đều
giật bắn mình.
Bàn tay xác chết nắm một vật hình dạng tựa như chuông Kim
Cương trong Phật giáo Tây Tạng, nhưng cũng có nhiều điểm khác
biệt. Chuông Kim Cương nói chung đều dài chừng mười lăm phân,
được người tu hành sử dụng như pháp khí, chuôi cầm giống như
chiếc Kim Cương chử[1] bằng đồng, trên bầu có bầu chuông. Còn
cái chuông Kim Cương này dài đến ba mươi phân, chuôi cầm bằng
đồng dài chừng mười lăm phân, trên tay cầm một cái chử bằng
đồng, phần cuối chử là một chiếc đầu lâu trông thật dễ sợ.
Mắt, mũi, miệng, hình dáng chiếc đầu lâu này giống hệt hình
chạm khắc trên cái kích Vương Uy đeo trên lưng, không giống đầu
lâu người cho lắm. Cái xác này một tay nắm vào chiếc đầu lâu
trên chử, một tay nắm lấy bầu chuông bằng đồng trên đỉnh, giấu
cả chiếc chuông Kim Cương to vậy vào ống tay áo. Cho đến khi
chết hắn vẫn không buông cái chuông Kim Cương này, chứng tở rất
xem trọng nó, ắt hẳn đây là một báu vật.
[1] Một loại pháp khí dùng trong Phật giáo.
Nhị Rỗ cũng ngồi xuống, vạch hai tay cái xác ra, đáng tiếc
cái xác này nằm trong băng quá lâu ngày, toàn thân đã cứng đanh lại như thép, làm thế nào cũng không tách ra được. Nhị Rỗ cố tách đến mỏi nhừ cả tay mà không nổi, bèn bực mình, vái cái xác hai vái, lẩm bẩm khấn:
– Ông ơi, hai chúng tôi cũng xuất thân lính tráng, nói thật,
chức còn to hơn ông, tuy chúng ta không cùng triều đại, nhưng tốt xấu gì quan nhỏ thấy quan lớn thì phải có quà ra mắt. Anh em
chúng tôi biết ông nghèo, cũng không lấy gì nhiều đâu, chỉ cần
cái chuông Kim Cương của ông thôi, ông thấy có đượcNhị Rỗ tuy
miệng nói linh tinh nhưng tay chân lại rất nhanh nhẹn tháo vát,
cứ thế giơ báng súng gõ vào từng đốt ngón tay cái xác, gõ
một hồi, cái chuông Kim Cương cũng dần dần rời ra. Thấy có
hiệu quả, Nhị Rỗ càng hăng hái đập mạnh. Gã để một tay cái
xác lên mặt đất, lại giơ cao báng súng, đập liền hai ba cái,
các đốt ngón tay của cái xác vỡ vụn ra.
Nhị Rỗ tiếp tục làm như thế, chẳng mấy chốc đã tách được
hai tay cái xác ra, chiếc chuông Kim Cương cũng theo thế mà lăn
xuống. Gã bỏ mặc cái xác đấy, cầm ngay lấy cái chuông, thấy
rất nặng, không như những vật dụng bằng đồng khác.
Vương Uy soi bó đuốc lại gần, Nhị Rỗ lật đi lật lại xem xét chuông Kim Cương. Cái chử rất bình thường, trừ chiếc đầu lâu ra thì không thấy có gì khác lạ, nhưng bầu chuông trên đỉnh thì
khá đặc biệt, nó là hình trụ tròn, trên rộng dưới hẹp. Giữa
bầu chuông có tám lỗ vuông, hễ lắc chuông, tám cái lỗ sẽ phát ra tiếng leng keng.
Nhị Rỗ lắc mấy cái, thấy tiếng chuông ngân dài không dứt,
khi vang thì như Trường Giang cuộn sóng, khi khẽ lại như ve sầu
đêm hè, ran ran trong tai. Kỳ lạ nhất là, tiếng chuông có thể
tác động đến tinh thần của con người. Nhị Rỗ vừa lắc mấy
cái, ba người đều cảm thấy đầu óc chao đảo, ngực như bị nén
chặt, khó thở, có cảm giác ruột gan rối bời.
Vương Uy vội bảo Nhị Rỗ ngừng tay:
– Cẩn thận đấy, pháp khí này lạ lắm.
Anh đưa bó đuốc cho Nhị Rỗ rồi cầm lấy cái chuông, giơ bầu
chuông lên soi dưới ánh lửa, quan sát tỉ mỉ, bỗng trợn tròn
mắt lên.
Nhị Rỗ nhìn bầu chuông, lại nhìn Vương Uy, thấy anh biến sắc, gã liền hỏi:
– Chỉ huy thấy gì rồi?
– Những nét chạm khắc trên bầu chuông hình như có vấn đề.
Nhị Rỗ nghe nói liền ghé sát lại, Dương Hoài Ngọc cũng đến gần xem.
Chiếc chuông Kim Cương trải bấy nhiêu năm tháng, bề mặt đã
xỉn màu, càng nhìn càng cảm thấy toát lên một cảm giác ngột
ngạt áp bức rất xưa cũ. Trên bầu chuông đầy những đường khắc
chìm, nhưng hình vẽ do các đường này tạo nên rất rời rạc tản
mác, hễ chỗ nào hơi có hình dáng một chút, thì lại bị tám
lỗ vuông kia làm gián đoạn.
Nhị Rỗ lẩm bẩm:
– Cái thứ này, giống như một bức vẽ dỡ dang vậy.
Vương Uy gật đầu vẻ tán đồng, chỉ vào một góc trên bầu chuông, nói:
– Nhìn chỗ này này, trông như một mặt tường của cung điện ấy nhỉ, cái bóng trên này chắc là bóng cây.
Nhị Rỗ nhìn theo tay chỉ của Vương Uy, liền nhận ra ngay, lại xoay cái chuông Kim Cương thêm hai vòng nữa để mọi người thấy
được toàn bộ những nét chạm khắc trên đó, nhưng xoay đi xoay
lại một hồi, gần như các nét chạm khắc tại mỗi góc đều bị
khuyết, mà cho dù sắp thành hình thì lại vừa khéo bị một lỗ vuông làm cho gián đoạn, chỗ nào cũng thế.
Vương Uy nhìn đi nhìn lại, bỗng nổi nóng:
– Mẹ kiếp, thứ ma quái gì thế này, rõ ràng là người thiết kế chả ra gì, nét chạm khắc đến chỗ quan trọng nhất thì lại là cái lỗ vuông, không có cách nào nhìn ra hình thù gì.
Nhị Rỗ cũng lắc đầu, những nét chạm khắc này không thể so
được với những bức vẽ trên bàn tay bức tượng đất. Đường nét
trên những bức vẽ lớn kia tuy đơn giản, nhưng không bị thiếu
nét, chỉ cần có nhãn lực tốt, ngộ tính cao là có thể nhận ra đầu mối. Còn mỗi đường nét trên cái chuông Kim Cương kì dị
này đều được khắc rất sâu, mô tả rất sinh động, nhưng chỉ là
một bức vẽ dở dang, càng nhìn càng khó hiểu.
Dương Hoài Ngọc nãy giờ vẫn chăm chú quan sát, thấy Nhị Rỗ
cứ xoay đi xoay lại cái chuông, nhìn kỹ từng đường từng nét,
cứ như thế mấy lần, cô bỗng sực hiểu ra:
– Tôi nhớ ra rồi, tôi đã từng thấy những đường nét chạm khắc trên chuông này.
Câu nói của cô khiến Vương Uy và Nhị Rỗ giật nảy mình, đồng thanh:
– Cái gì cơ?
Dương Hoài Ngọc nhìn hai người nói:
– Anh Uy còn nhớ lúc ở trong rừng Xương Đô bác Tôn nói gì
không? Bức bích họa mà bác ấy thấy trong địa lao phủ bối lặc
ấy, về sau bị cha tôi đem đi, nhưng cha tôi cho phép bác ấy sao
lại một bản, hồi xưa tôi đã thấy bản sao ấy rồi.
Nghe đến đây, Vương Uy cũng đoán ra ngay, chắc chắn những
đường nét chạm khắc trên bầu chuông Kim Cương này giống hệt bức bích họa ở địa lao phủ bối lặc kia, như vậy những giả thuyết về vương triều Lạp Cách Nhật lại càng có cơ sở rồi.
Dương Hoài Ngọc chỉ một góc trên chiếc chuông Kim Cương, nói:
– Bức tường mà các anh nghi hoặc nãy giờ rất giống với bức tường trong vương cung của vương triều Lạp Cách Nhật trên bức
bích họa trong phủ bối lặc, có điều góc độ hơi khác mà thôi.
Bóng đen in trên tường, đúng là cái cây to từ trong điện vươn ra.
Nhị Rỗ nói:
– Mẹ kiếp, tôi thấy thứ này quái gở lắm, chỉ huy nói xem,
trên chuông Kim Cương của Tây Tạng thường chỉ khắc hình Bồ tát,
được xem như thần khí của kẻ tu hành, nhưng cái này lại khắc
hình vương cung, thật không ra sao.
Đối với vấn đề này, Vương Uy cũng rất nghi hoặc, trên những
pháp khí thông thường chỉ chạm khắc hình quỷ thần để xua đuổi tà ma, nhưng cái chuông Kim Cương này hình như lại có tác dụng
khác. Anh quan sát đi quan sát lại nhưng vẫn không hiểu tại sao,
về phần Dương Hoài Ngọc cũng chỉ nhận ra được một góc của
bầu chuông, còn những chỗ khác, cô đều mù tịt cả.
Trong lúc mọi người đang bối rối, chợt Nhị Rỗ lại phát
hiện ra vấn đề. Ở một góc khác của bầu chuông có mười mấy
chấm nhỏ, chỉ chiếm một diện tích bằng móng tay, hơn nữa bên
trên còn phủ một lớp gỉ đồng đen, Nhị Rỗ cứ mân mê bầu chuông
mãi, đột nhiên làm tróc lớp gỉ đồng, nên những chấm nhỏ khắc
chìm vào trong mới lộ ra.
Nhị Rỗ có trí nhớ tốt, hơn nữa trước đây đã nghiên cứu kỹ
tranh vẽ trên lòng bàn tay pho tượng đất, nhớ rất rõ hình dạng những bức vẽ đó. Thấy những chấm này, gã sực nghĩ ra, mười
mấy chấm nhỏ này cũng giống như cách sắp xếp những sinh vật
trên bức tranh nơi lòng bàn tay pho tượng.
Tuy hơn chục chấm nhỏ này chỉ bằng một góc trong thế trận
của lũ sinh vật đó, nhưng cách sắp xếp này lại rất đặc biệt, không khác gì cách sắp xếp trên bức tranh nơi tay pho tượng
đất. Nhị Rỗ chăm chú quan sát bầu chuông, nhưng những phần có
dấu chấm khác đều bị những lỗ vuông làm cho gián đoạn, không
có thêm bất cứ đầu mối nào nữa.
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc cũng dán mắt vào bầu chuông, mọi hành động của Nhị Rỗ, họ đều mau chóng hiểu ra ngay. Từ khi
trông thấy thú trận trong Thần Thú đại điện, họ đã không để ý tới sự thần bí của những đường nét trong trên những tranh vẽ
kia nữa, mà xác định rằng đầu mối nằm trên mình những con thú quái dị kia.
Nhưng sự thật hình như không phải thế, những chấm nhỏ thần
bí trên chuông Kim Cương lại tái hiện, càng làm tăng thêm nghi
hoặc trong lòng họ, trận thế kỳ lạ này rốt cuộc có ý nghĩa
gì? Vấn đề có lẽ không nằm ở những con thú kia, mà ở thế
trận này, bọn chúng trước sau đều giữ nguyên tư thế kỳ lạ ấy, ắt hẳn phải có lý do gì khác. Hơn nữa, những bức tranh trên
bàn tay tượng, Thần Thú đại điện, những nét chạm khắc trên
bầu chuông Kim Cương còn có cả hình vương cung Lạp Cách Nhật,
điều này có liên quan gì đến vương triều Lạp Cách Nhật chăng?
Những bí mật này có lẽ đều nằm ở tám lỗ vuông trên bầu
chuông Kim Cương. Nhị Rỗ thò ngón tay vào lỗ vuông trên bầu
chuông Kim Cương sờ sờ, chợt hiểu ra:
– Trong những lỗ vuông này có rãnh ngầm, chắc là để những
lá đồng bịt kín các lỗ vuông khớp vào, những nét chạm khắc
này quả nhiên là một thể hoàn chỉnh.
Vương Uy cũng cho ngón tay vào, quả nhiên sờ thấy vách trong
của bầu chuông có một đường rãnh chìm, khe rãnh rất hẹp, xem
ra những lá đồng bịt kín các lỗ vuông kia cũng rất mỏng.
Nhị Rỗ kiểm tra từ đầu xuống chân cái xác lính nhà Thanh,
không thấy có một lá đồng nào, gã vẫn chưa tin, lại tìm từ dưới lên trên một lần nữa, cởi hết quần áo, vẫn không thấy gì.
Vương Uy nói:
– Cái chuông Kim Cương quái gở như thế, những lá đồng bịt kín lỗ
vuông kia lại mới là quan trọng, xem ra chưa hẳn đã dễ tìm đâu, phải mất công một chút.
Nhị Rỗ hoang mang gật đầu, Vương Uy nói nghe rất có lý, nhưng lúc này không tìm ra đầu mối, thì dù có nói lý đến đâu cũng bằng không.
Đúng lúc ấy, bên ngoài đống đổ nát của cung điện băng lại vang lên
một loạt tiếng chân người. Lần này không chỉ có vài tiếng chân lẻ tẻ đơn điệu mà rầm rập hết trận này tới trận khác, nghe như một đại đội đang
hành quân vậy, hơn nữa bước đi còn rất có trật tự, chỉ nghe cũng có thể
biết đó là quân chính quy.
Ba người nhìn nhau, lần này thì thật rồi, tiếng chân này từ trong
khuôn viên băng vọng ra, hơn nữa còn vang hơn lần trước, nghe thật hơn
nhiều.
Cả ba gần như đồng thời chạy xộc ra khuôn viên băng, ba ngọn đuốc len lỏi giữa đám cây cối bằng băng, hắt ánh vàng lên lớp băng long lanh
trông vô cùng đẹp mắt.
Tiếng bước chân nghe như gần ngay trước mắt, nhưng khi ba người xộc
vào hoa viên bằng băng, lại không thấy dấu vết gì của sinh vật cả, ánh
đuốc xé toang một mảng tối, chỉ thấy những cây băng đan chéo, ngoài ra
đâu còn gì khác?
Những hàng cây bằng băng chia cắt ba người, chỉ thấy ba ngọn đuốc
chập chờn giữa bóng tối mênh mông. Có điều tiếng bước chân bí ẩn kia vẫn vang lên, nghe như ở ngay bên tai nhưng mọi nơi mà ánh đuốc chiếu đến,
lại chỉ có những tảng băng im lìm.
Nhị Rỗ và Vương Uy đứng cách nhau vài gốc cây lớn, khoảng cách giữa
đôi bên chừng hơn chục mét. Cả hai đứng dưới gốc cây băng, lắng tai nghe ngóng động tĩnh, thấy bước chân hình như vang lên ở ngay dưới gốc cây,
nhưng Nhị Rỗ soi đuốc xuống nhìn lại chỉ thấy mặt băng dày cộp và gốc
cây băng cắm sâu xuống mặt băng, chẳng hề có gì khác.
Nhị Rỗ vốn là kẻ táo bạo, mười mấy năm đánh trận giết không biết bao
nhiêu người mà kể, đừng nói gì đến quỷ, ngay cả thần tiên gã cũng chẳng
coi vào đâu, vậy mà bây giờ cũng thấy nơm nớp. Nghe tiếng bước chân rầm
rập cứ dội vào tai, Nhị Rỗ vã cả mồ hôi trán, những giọt mồ hôi to như
hạt đậu, vừa nhỏ xuống đất đã đóng thành băng, lòng gã càng thêm kinh
hãi. Vương Uy cũng căng thẳng chẳng kém, bên trái anh là Nhị Rỗ, bên
phải là Dương Hoài Ngọc, ba người đứng cách nhau không xa lắm, tiếng
bước chân hình như ở ngay trước mặt, nhưng anh tìm mãi cũng không thấy
được là do thứ gì phát ra.
Vương Uy soi đuốc vào mấy cái cây quanh đấy, nhưng không thấy bất cứ
thứ gì. Anh chợt nhớ lại dạo ở Xuyên Trung, từng nghe được chuyện “ma
hành quân” lưu truyền trong dân chúng. Hồi ấy đơn vị anh đóng quân ở một làng, đó là giai đoạn hỗn quan hỗn quân, quân phiệt đấu đá lẫn nhau,
rất nhiều thanh niên trai tráng trong làng đều bị bắt vào lính, không
quá ba tháng đã trở thành bia đỡ đạn.
Trước đấy ít lâu, một trận đánh ác liệt vừa diễn ra ở thung lũng đối
diện với làng, nửa thung lũng bị đạn pháo tàn phá. Trận ấy là quân chủ
lực của Lưu Tương đánh nhau với quân tinh nhuệ của Dương Sâm, quân số cả hai bên đều rất đông, nói ra cũng thật kỳ lạ, trong trận đó, cả hai bên gần như đều bị tiêu diệt hoàn quân, chẳng còn mấy người sống sót.
Hồi ấy Vương Uy chỉ là một đại đội phó trong một đơn vị tinh nhuệ
dưới cờ của Lưu Văn Huy mà thôi, cả đơn vị anh được cử đến chiến trường
để điều tra nguyên nhân toàn quân bị tiêu diệt, nhưng điều tra mãi mà
vẫn không tìm ra nguyên nhân.
Ngôi làng mà họ đóng quân không còn tráng đinh, chỉ có ông già và bà
lão. Lúc đó đang độ gió thu thổi rát, người già trong làng đều phải
chuẩn bị củi cho mùa đông, ra khỏi làng phải băng qua mấy ngọn núi, qua
cả thung lũng nơi diễn ra trận đánh. Nghe nói có mấy ông già kết bạn với nhau, lúc gùi củi đi ngang qua thung lũng ấy, còn nghe thấy tiếng súng
nổ đì đùng cùng tiếng lính chạy rầm rập bên trong, hệt như đang đánh
nhau.
Khi mấy ông già về ngang qua đó thì trời đã tối, thình lình nghe thấy tiếng súng và tiếng quân lính chạy, họ sợ đến nỗi ngồi phệt xuống đất,
vỡ cả mật.
Hôm sau, đại đội của Vương Uy vào thung lũng, gặp ngay mấy ông già sợ quá đâm ra ngớ ngẩn kia, có một ông lão vẫn còn chút tỉnh táo, bèn kể
lại mọi chuyện, khiến đám lính kỳ cựu dạn dày lửa đạn nghe mà toát mồ
hôi lạnh. Ông ta kể rằng hiện tượng đó gọi là “ma hành quân”, thung lũng đó thời xưa gọi là thung lũng ma. Nghe người xưa kể lại, vào thời Tam
Quốc, nước Ngụy đánh nhau với nước Thục, năm vạn người ngựa quân Thục bị quân Ngụy bao vây tiêu diệt trong thung lũng, không ai sống sót, từ đấy về sau hễ đêm đêm đi qua thung lũng này luôn nghe thấy tiếng người ngựa chạy rầm rập.
Chuyện hai cánh quân đánh nhau đến nỗi chết sạch không còn một mống
vốn rất quái gở, quá nửa là có liên quan đến chuyện “ma hành quân” trong thung lũng này. Đám binh lính năm xưa vùi xác trong thung lũng, chết
rồi vẫn ở lại đấy, đêm đêm kêu gào chém giết. Trước đây có người nghe
thấy “ma hành quân”, phần lớn là nghe thấy tiếng người gào thét bằng
giọng Ba Thục cùng tiếng gươm đao chan chát, ngựa hí vang trời, nhưng
sau trận đánh lần ấy tiếng súng đã át cả tiếng gươm đao, quả nhiên thung lũng lại có thêm ma mới.
Đại đội trưởng của Vương Uy là người thô lỗ, đời nào chịu tin những
chuyện quỷ thần của ông lão, ngay đêm hôm ấy lệnh cho lính hạ trại nơi
đầu núi, đồng thời giữ mấy ông già lại trong doanh trại. Anh ta huênh
hoang rằng, nếu không nghe thấy tiếng “ma hành quân” sẽ bắn họ tại trận.
Trời tối dần, mãi đến khi mây đen che kín cả mặt trăng, trong thung lũng
không còn bất cứ động tĩnh gì. Đại đội trưởng cũng ngáp ngắn ngáp dài đi ngủ, trên đầu núi chỉ còn mấy tên lính gác. Đến nửa đêm, nghe mấy tên
lính gác đánh thức, mọi người mới vùng dậy, đầu óc ong cả lên. Chỉ nghe
trong thung lũng ầm ầm vẳng ra tiếng súng vang trời dậy đất cùng tiếng
kếu gào chém giết, hệt như đang ở giữa chiến trường vậy.
Đại đội trưởng của Vương Uy mồ hôi đẫm trán, nhưng anh ta vốn là
người cứng rắn, trước tình cảnh kinh khủng này mà vẫn vững vàng, còn hô
hào cả đám binh lính đang run đến nỗi không đi nổi kia xông vào thung
lũng. Quả nhiên bên trong đó rất khác thường, quá nửa đêm mà sương mù
nổi lên dày đặc, họ dò dẫm tìm kiếm trong sương mù hồi lâu, nhưng chẳng
tìm thấy một bóng ma nào, chỉ có tiếng súng vẫn nổ y như thật.
Lúc bấy giờ Vương Uy được gọi lên ban chỉ huy đơn vị, cùng lữ đoàn
trưởng phân tích địa hình xung quanh, chuẩn bị chặn đánh quân chi viện
của Dương Sâm, nên không tham dự chuyến đi trinh sát lần ấy. Đầu đuôi sự việc sau đấy anh chỉ được nghe kẻ lại.
Chưa đến ba ngày sau, đại đội trưởng ốm liệt giường, một người vạm
vỡ, cao hơn một mét tám mươi lúc này gầy xọp đi, chỉ dám trốn trong
buồng tối, không thể trông thấy ánh sáng. Chưa đầy một tháng sau, viên
đại đội trưởng và mấy ông già kia đều chết.
Chuyện này vô cùng quái gở, quân lính Tứ Xuyên thời ấy không ai không biết, đến nỗi mấy lần cấp trên ra lệnh không được lan
truyền chuyện này trong quân, kẻ nào vi phạm sẽ bị xử bắn.
Vương Uy nhớ lại, cảm thấy tình cảnh lần này chẳng khác gì chuyện “ma hành quân” mà đại đội anh gặp phải năm xưa, bất
giác trán đổ mồ hôi lạnh. Lúc viên đại đội trưởng chết Vương
Uy cũng đến thăm, thấy toàn thân anh ta chỉ còn da bọc xương,
sắc mặt nhợt nhạt, đôi mắt đầy tia máu, mí mắt xanh lè, hết
sức kỳ dị.
Tiếng chân xung quanh càng lúc càng dồn dập, khiến người ta
nghe trống ngực đập thình thịch, mặt tái dại, chân run bắn lên. Vương Uy nhìn sang Nhị Rỗ, thấy mặt gã cũng đầy vẻ kinh
hoàng, cặp mắt trợn trừng nhìn chằm chằm vào mặt băng, ánh
đuốc soi vào càng khiến gương mặt Nhị Rỗ thêm méo mó.
Tiếng chân dồn dập lắng dần, hình như đoàn người ngựa đã đi xa, âm thanh rầm rập xung quanh bỗng biến mất, chỉ còn lại một bầu không khí vắng lặng như tờ. Không hiểu tại sao tâm trạng
của cả ba người lại càng thêm ngột ngạt, bóng tối âm u này
càng trở nên đáng sợ hơn. Họ cứ cảm thấy trong bóng tối dường như có thứ gì đó sắp xông ra, nhưng khi họ tiến tới thì lại
không có gì cả.
Ba người tiếp tục tiến sâu vào khuôn viên băng, càng đi càng
xa, càng đi càng sâu. Trong bóng tôi mênh mông vang vọng tiếng
bước chân đơn điệu của họ. Mỗi khi đặt chân xuống hay nhấc bước lên, họ đều hết sức cẩn thận, cẩn một cách đầy trực giác,
như thể đặt chân xuống sẽ giẫm lên cái gì đó vậy, nhưng sự
thật chỉ có mặt băng trơn trượt.
Trong lúc ba người tưởng như sắp rơi vào tuyệt vọng trước
bầu không khí ngột ngạt này, bỗng trong bóng tối vang lên một
tiếng kêu, họ chưa kịp phản ứng thì đã nghe thấy tiếng mặt
băng nứt vỡ.
Vương Uy nhìn về phía âm thanh phát ra, bất ngờ hít một hơi
khí lạnh thật sâu. Cách mấy mét trước mặt họ, những vệt băng
nứt cuồn cuộn lan ra, trông hệt như những mũi tên nhắm thẳng
tới họ.
Vương Uy thầm than không hay, rồi lùi về phía sau thân cây băng. Anh lùi lại hơn chục mét, xuyên qua mấy gốc cây băng lớn, mới
khỏi bị mặt băng nứt đuổi kị Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc cũng
bị những vệt băng nứt dồn ép, phải chạy về phía Dương Uy.
Các vệt nứt trên mặt băng cứ lan ra, vệt này tiếp vệt khác
khiến mặt băng chấn động, rồi chỉ một lúc đống băng đã vỡ ùn lên, những vệt nứt nhiều không đếm xuể.
Tiếng băng nứt vang lên khắp nơi trong bóng tối, nghe thật
chói tai, họ chỉ có thể trông thấy những mảnh băng vỡ đùn lên, nhưng bên dưới lớp băng là thứ gì thì chịu. Thứ đó chuyển
động rất nhanh, lướt qua đến đâu là mặt băng nứt ra những vệt
như đường cày đến đó.
Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc chạy đến trước mặt Vương Uy, Nhị Rỗ thở hổn hển hỏi:
– Chỉ huy ơi, bên dưới lớp băng lạ lắm, bắn nhé?
Vương Uy lắc đầu:
– Cứ xem đã, hình như nó không định tấn công chúng ta đâu, hẵng đợi đấy.
Nhị Rỗ gật đầu, giương mắt nhìn những vết nứt đang lan ra
trên mặt băng, cơ hồ đã giăng kín tất cả những chỗ họ có thể
nhìn đến. Bấy giờ, chợt có một bóng đen từ dưới lớp băng vỡ
vọt ra, Nhị Rỗ trố mắt, khom người đưa ngọn đuốc ra xa, thấy
vật kia lao khỏi đống băng vỡ, là một con rắn toàn thân đen
trũi.
Vương Uy vô cùng ngạc nhiên, nói với Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc:
– Tại sao lại là rắn? Nơi này lạnh như vậy, rắn phải trốn
đi ngủ đông cả rồi mới phải, hơn nữa có bao giờ nghe nói trong
núi Đường Cổ Lạp có rắn đâu?
Nhị Rỗ cũng lẩm bẩm:
– Gà trống đẻ trứng, người sống giả làm người chết, mẹ
kiếp, chuyện này đúng là quái gở, ai đời lại có rắn hành
quân giữa vùng băng tuyết bao giờ!
Trong lúc nói chuyện, rắn đen từ dưới lớp băng vỡ đã ùn ùn vọt lên, tất cả đều đen trùi trũi, có con dài đến mấy mét,
con ngắn cũng phải trên dưới một mét, mắt đỏ rực, nhìn thật
dễ sợ.
Lũ rắn đen trườn lên tụ tập lại một chỗ, chỉ một lúc sau
trên mặt băng đã có một bầy rắn đông nghìn nghịt tụ lại, không biết bắt đầu từ đâu, chấm dứt ở đâu nữa. E rằng đây là lần
đầu tiên trong đời ba người được thấy nhiều rắn đến thế.
Đám rắn từ từ tập kết xong, trong lớp băng vụn vẫn còn lẻ
tẻ rắn đen bò lên, tập trung lại. Đám rắn phát ra những tiếng
rào rào, tiếp theo chúng tức tốc bò vào sâu trong rừng băng,
tiếng bò của bầy rắn nghe hệt như tiếng cả đám người nện gót chân. Thì ra cái gọi là “ma hành quân” chính là do lũ rắn đen
này phát ra khi di động dưới lớp băng.
Lũ rắn bò rất lộn xộn, những con rắn khác nhau bò với tốc độ khác nhau, chúng kết thành từng nhóm vài ba con trườn lên
lớp băng, trông rối rắm vô cùng.
Nhị Rỗ hỏi:
– Thưa chỉ huy, phải làm thế nào bây giờ?
Vương Uy tỏ ra bình tĩnh khác thường:
– Chúng ta đi theo xem, giữa vùng băng tuyết thế này tự nhiên
có một lũ rắn xuất hiện, nhất định là chuyện không đơn giản.
Ba người bám theo lũ rắn không gần không xa, cách chúng chừng mươi
mét. Lũ rắn không tỏ ra thù địch đối với họ, ai biết phận nấy, chúng
trườn rào rào trên mặt băng, tốc độ rất nhanh, vì mặt băng trơn, ba
người vừa phải giữ thăng bằng lại phải theo kịp tốc độ bầy rắn, nên đi
rất vất vả.
Nhị Rỗ đi ngang hàng với Vương Uy, vừa thở vừa nói:
– Mẹ kiếp, lũ rắn này đang đùa với chúng ta đấy à? Tại sao chúng đi mỗi lúc một nhanh thế?
Vương Uy sững người, hỏi:
– Sao cơ?
Nhị Rỗ vừa chạy vừa không quên xoắn chòm râu dê, ánh mắt đầy vẻ thẫn thờ, khiến Vương Uy càng thêm nghi ngờ:
– Mẹ kiếp, anh làm bộ làm tịch gì thế?
Nhị Rỗ nói với Vương Uy:
– Không ổn rồi, tôi thấy sự bố trí của lũ rắn giống hết như trận thế
trong bức tranh trên bàn tay bức tượng, chuyện này quả là kỳ lạ.
Nghe Nhị Rỗ nói, trong đầu Vương Uy bỗng hiện lên những nét khắc trên bầu chuông Kim Cương, phải chăng bí mật bên trong chuyện này đều đúng
như suy đoán? Anh căng mắt quan sát một lúc, nhưng chỉ thấy lũ rắn bò
lộn xộn, chẳng hề thấy trận thế trong tranh vẽ mà Nhị Rỗ nói đâu cả.
Nhị Rỗ nhận ra vẻ nghi ngờ của Vương Uy, liền giải thích:
– Chỉ huy, không phải nhìn như thế, chỉ huy nhìn mười hai con rắn gần chỉ huy nhất kia kìa, nhìn cách chúng sắp xếp mà xem.
Vương Uy nhìn theo tay Nhị Rỗ chỉ, quả nhiên nhận ra mấu chốt trong
đó. Hơn nữa, cả đàn rắn lớn là do nhiều đàn rắn nhỏ như thế hợp lại
thành, bố cục di chuyển của các đàn rắn nhỏ đều giống hệt cách sắp xếp
những đường nét trong bức vẽ trên bàn tay tượng đất.Vương Uy vừa hiểu
ra, lòng lại nảy mối nghi ngờ. Lũ rắn kỳ lạ này từ dưới lớp băng chui
lên, có rất nhiều điểm đáng ngờ, đầu tiên là chúng có thể hành động
thoăn thoắt như bay trong vùng băng tuyết bên dưới lòng đất này, hơn
nữa, đội hình di động của chúng lại kỳ quặc như vậy, nếu nói là bẩm sinh chúng đã như thế thì dù có đánh Vương Uy cũng không tin, nhất định có
vấn đề gì ở đây rồi.
Ba người đi theo lũ rắn chừng một dặm, bỗng trước mắt họ xuất hiện
một cung điện băng to lớn, bức hoành phi trước điện để trắng, không có
một dòng chữ nào. Lũ rắn ào ào chui vào cung điện, tuy cổng cung điện
rộng lớn nhưng cũng không đủ chỗ cho từng ấy rắn len vào, nhất thời, lũ
rắn chen chúc lẫn nhau, xếp chồng lên cao đến hơn một mét, không ít con
bị đè ở dưới.
Tất nhiên ba người không thể chen chúc vào cùng lũ rắn, họ vẫn giữ
khoảng cách mười mấy mét quan sát chúng bò vào cung điện. Lúc bầy rắn
đen chuyển động, miệng chúng há ra rồi khép lại, lưỡi thè ra rụt
vào, đôi mắt đỏ rực đầy tà khí, bộ mặt hung dữ vô cùng, ai
trông thấy cũng không rét mà run.
Ba người đều trưởng thành trong cảnh chém giết, nên tuy đã
sợ khiếp vía, nhưng vẫn có thể gắng trấn tĩnh, chăm chú quan
sát lũ rắn hoạt động, chờ thời cơ tiến vào cung điện.
Họ đứng chờ ở cửa nửa tiếng đồng hồ đám rắn kia mới tản
đi hết. Nhị Rỗ sốt ruột, liền rảo bước đi theo chúng, vào đến trước cửa cung. Không ngờ mặt băng trước cửa điện chợt nứt ra
một đường, Nhị Rỗ ngớ ra, chỉ thấy mặt băng vỡ làm đôi theo
đường nứt kia, từ trong đó một con rắn đen to bằng cổ tay vọt
ra.
Đôi mắt đỏ rực của con rắn nhìn chằm chặp vào Nhị Rỗ, rồi thình lình bổ tới như một mũi tên, làm Nhị Rỗ giật bắn
mình, lần tay toan rút súng. Đáng tiếc, một tay gã đang cầm
đuốc, một tay cầm chuông Kim Cương, trong lúc luống cuống, gã
rút súng hơi chậm, con rắn đã lao thẳng đến trước mặt, bốn
mắt trừng trừng nhìn nhau.
Nhị Rỗ đứng sững tại chỗ, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc nhất
loạt giương súng lên, nhắm thẳng vào đầu con rắn đen, chỉ cần
nó đến gần thêm một bước, hai phát đạn sẽ đồng thời bay ra.
Đôi mắt ti hí đỏ ngầu của con rắn nhìn Nhị Rỗ, cái đầu
dựng thẳng lắc lư giữa không trung, Nhị Rỗ vốn nhạy bén vô
cùng, trong đời lại từng kinh qua không biết bao nhiêu sóng gió,
vậy mà đứng trước mặt con rắn, cũng chỉ biết đờ người ra. Con rắn đen thè lè cái lưỡi dài, thậm chí Nhị Rỗ còn ngửi thấy cả mùi tanh từ miệng nó. Gã không khỏi cau mày, mồ hôi ướt
đẫm hai bàn tay đang cầm đuốc và chuông Kim Cương, nhỏ tong tỏng
xuống đất.
Rắn đen và Nhị Rỗ nhìn nhau một hồi, bỗng nó từ từ rụt
đầu lại, hờ hững nhìn Nhị Rỗ, vẻ không còn hứng thú, đoạn
quay đầu chui vào cửa điện. Thần kinh của Vương Uy và Dương Hoài Ngọc đang căng như dây đàn, bấy giờ mới được thả lỏng, Nhị Rỗ quay lại cười nói hai người:
– Mẹ kiếp, cái đồ rắn đen mà cũng định diễu võ dương oai
trước mặt ông, cuối cùng lại bị khí thế của ông áp đảo.
Nhị Rỗ chưa dứt lời thì con rắn đen đã nhanh như chớp vọt
tới, bấy giờ Nhị Rỗ còn chưa kịp ngoảnh lại, chỉ vừa trông
thấy Vương Uy và Dương Hoài Ngọc biến sắc mặt, gã hiểu ngay
chuyện gì xảy ra, vội vứt đuốc, hấp tấp lùi lại, nhưng phản
ứng của người đâu nhanh bằng rắn, gã vừa lùi lại được hai
bước thì thấy thắt lưng căng cứng, đã bị đuôi rắn quấn chặt.
Con rắn đen dài chừng bốn năm mét, thân to bằng cánh tay người,
quất đuôi vù vù như gió. Nhị Rỗ bị rắn quấn ngang người, không sao chịu nổi, đã bắt đầu đỏ bừng mặt lên, thở dốc.
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc chạy tới, hai khẩu súng nhắm
thẳng vào đầu rắn. Nhưng đầu con rắn đen sát với đầu Nhị Rỗ,
khoảng cách gần như thế không thể nổ súng, lỡ run tay một cái
thì Nhị Rỗ sẽ bị bắn vỡ đầu.
Hai người căng thẳng thở gấp, con rắn đen đang thè lưỡi trước mặt Nhị Rỗ, bỗng quay ngoắt lại hướng về phía Vương Uy và
Dương Hoài Ngọc, há to miệng, thè lè cái lưỡi dài, thấy rõ
hai chiếc răng nanh độc nhọn hoắt cong cong bên trong.
Vương Uy vội lôi Dương Hoài Ngọc lùi lại, bấy giờ con rắn đen mới quay về với Nhị Rỗ. Thấy con rắn đang chậm chạp uốn éo
trên người Nhị Rỗ, toàn thân Nhị Rỗ căng lên, lòng Vương Uy cũng thắt lại. Con rắn đen càng lúc càng siết chặt Nhị Rỗ, chẳng
bao lâu nữa xương sườn của Nhị Rỗ sẽ bị siết gãy, cắm vào
nội tạng, cuối cùng chết vì thủng nội tạng.
Hai mắt Nhị Rỗ đã trợn trắng, sắc mặt từ đỏ chuyển sang
tím, xem ra không chống đỡ được bao lâu nữa. Lúc này lòng Vương
Uy như lửa đốt, anh không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, liền vứt
khẩu súng lục xuống đất, dồn sức vào đầu ngón tay, đầu ngón
tay phải giơ lên, từ từ đến gần con rắn.
Dường như con rắn cũng cảm thấy sự nguy hiểm khi Vương Uy đến gần, toàn thân nó càng uốn éo dữ dội hơn trên người Nhị Rỗ,
ngóc đầu thẳng đứng, đôi mắt đỏ phẫn nộ nhìn Vương Uy, Vương Uy đột ngột lao tới, tay phải vung ra, điểm vào chỗ bảy tấc trên
mình con rắn.
Con rắn này rất có linh tính, thấy ngón tay Vương Uy điểm ra, nó liền quay ngoắt đầu đi, tránh ngón tay anh, rồi phè lưỡi
về phía Vương Uy. Vương Uy đánh hụt, không kịp phòng bị, đành
lùi lại thủ thế, nào dè nửa thân trên của con rắn lao đến tập kích Vương Uy trong khi phần đuôi vẫn quấn lấy Nhị Rỗ khiến
xương cốt gã kêu lên răng rắc. Nhị Rỗ vốn gầy gò, trên người
không có mấy thịt, chịu không nổi cú siết của con rắn, cũng
không sao vận được khí lên, bắt đầu váng đầu hoa mắt, chuông Kim Cương tuột tay rơi xuống đất, người cũng hôn mê bất tỉnh.
Chuông Kim Cương rơi xuống đất đánh keng, tiếng chuông ngân dài, lao xao như gió mùa thu đùa tán lá, lại vang vọng như Trường
giang cuộn sóng ào ào. Vương Uy thấy trong lòng nhộn nhạo, vội
nhặt khẩu súng trên mặt đất lên. Không ngờ con rắn đen vừa nghe
thấy tiếng chuông Kim Cương, liền rụng rời tuột xuống khỏi người Nhị Rỗ, thoăn thoắt trườn trên mặt băng, hối hả lẩn ngay vào
điện mất dạng.
Vương Uy và Dương Hoài Ngọc chứng kiến một loạt hành động
của nó, cảm thấy vô cùng khó hiểu. Con rắn đen vừa buông trói, Nhị Rỗ liền ngã nhào xuống mặt băng, Vương Uy và Dương Hoài
Ngọc phải chạy tới đỡ dậy.
Hai người bấm huyệt, xoa ngực cho Nhị Rỗ một hồi, sắc mặt
Nhị Rỗ mới dần dần khôi phục, gã thở hắt ra tỉnh lại. Vừa
mở mắt, toàn thân Nhị Rỗ đã run lên cầm cập.
Vương Uy đẩy Nhị Rỗ một cái, nói:
– Ông Triệu, khí thế của ông đâu cả rồi? Khí thế run lẩy
bẩy vì sợ thế này mà cũng dám ăn cơm nhà binh cơ đấy?
Nhị Rỗ nhìn quanh, không thấy con rắn đen đâu nữa, mới thở phào nhẹ nhõm, cười cười:
– Ông đây có bộ râu tổ truyền, có thể đoán phong thủy xem
địa nhãn, cưỡi gió đạp sóng, đạp bằng chông gai, xông pha chiến trường, thắng bại không biết bao nhiêu trận, dù sao cũng đường
đường một đấng trượng phu. Nó chẳng qua chỉ là một con rắn
nhãi, nếu chẳng phải ông sơ ý, bị con rắn nhãi thừa cơ giở
trò, thì làm sao đến nông nỗi ấy?
Vương Uy xoa ngực cho Nhị Rỗ thở đều, đỡ Nhị Rỗ dậy, nói:
– Anh Nhị đúng là anh hùng khí khái, mau vào ngay trong cung
điện băng, giết hết lũ rắn kia để cho cánh này hả giận.
Nhị Rỗ cười khì khì, làm bộ định rút súng xông vào. Vương Uy vội xua tay nói:
– Thôi thôi, đừng ra vẻ nữa.
Vương Uy nhặt cái chuông Kim Cương lên, quan sát kỹ một lượt, rồi nói:
– Cái chuông này quả không phải thứ bình thường, đúng là thần khí…
Nhị Rỗ sững sờ nhìn Vương Uy, rồi lại nhìn sang Dương Hoài Ngọc, ánh mắt đầy nghi hoặc. Gã nói với Vương Uy:
– Chỉ huy giải thích rõ hơn đi, nói thế tôi chẳng hiểu gì cả.
Vương Uy bèn kể lại quá trình Nhị Rỗ bị rắn quấn ngạt
thở, chuông Kim Cương tuột tay rơi xuống phát ra tiếng, rắn đen
nghe thấy tiếng chuông như bị trúng tà, cuống quýt chạy vào
trong đại điện…
Nhị Rỗ cầm lấy chuông Kim Cương từ tay Vương Uy, hí hoáy một lúc rồi tự nhủ:
– Đúng là báu vật, chúng ta phải nghĩ cách thoát ra, cái
này chắc sẽ bán được khối tiền ấy, nửa cuộc đời còn lại
của chúng ta không phải lo lắng nữa rồi, khỏi cần đi lính kiếm cơm.
Vương Uy hiểu cuộc sinh tử này đã không còn đường lùi nữa,
nếu muốn sống sót thoát khỏi đây, họ phải xông lên, đập tan bí mật của thế giới dưới lòng đất, nếu không chỉ có thể bỏ
mạng tại nơi tối tăm không thấy ánh mặt trời này mà thôi.
Anh nói với Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc:
– Bấy nhiêu rắn đen chui vào trong cung điện băng này, chắc
chắn nơi đây có ẩn giấu huyền cơ, mọi người phải cẩn thận, đi
gần bên nhau, không được phân tán. Nhị Rỗ liệu mà giữ lấy
chuông Kim Cương cho cẩn thận, sinh mệnh ba chúng ta e rằng phải
phụ thuộc cả vào nó đấy.
Nhị Rỗ gật đầu lia lịa, nhưng vẻ mặt lại đầy lo lắng, rõ
ràng vẫn còn kinh hoàng về chuyện rắn quấn vừa rồi, Nhị Rỗ
chưa được chứng kiến con rắn đen sợ chuông Kim Cương ra sao, nên
trong lòng vẫn thấp thỏm không yên.
Vương Uy đưa mắt ra hiệu cho hai người, rồi xăm xăm bước vào
điện trước, Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc bám sát theo sau, một
người cầm súng tiểu liên cỡ nhỏ, một người cầm chuông Kim
Cương, lòng bàn tay đều đẫm mồ hôi.
Ba bó đuốc sáng đồng thời xông vào. Cung điện băng trống
không, trong vòng mười mấy mét vuông, không thấy bóng dáng con
rắn nào cả, chỉ cảm thấy bóng tối mênh mông cùng bao điều
rùng rợn rập rình bên ngoài phạm vi ánh đuốc.
Ba người đi sâu vào hơn một trăm mét mới nhìn thấy chính giữa cung
điện đầy những tháp băng san sát chen nhau. Những tháp băng này chỉ cách nhau chừng hơn chục mét, trong phạm vi ánh đuốc có thể rọi đến, có tới
ba tòa tháp. Nhị Rỗ đi ra phía ngoài chừng hơn chục mét lại thấy thêm
một số tháp nữa.
Những tháp băng này chiếm khoảng hơn chục mét vuông diện
tích, cao mấy chục mét trở lên, đứng trên mặt băng không thể
trông thấy đỉnh tháp. Diện tích băng cung này lớn hơn Thần Thú
đại điện nhiều, thật không đếm nổi có bao nhiêu tháp băng nữa.
Nhị Rỗ đi sang ngang hơn hai trăm mét nhưng vẫn không thấy đâu là
tận cùng.
Vương Uy chăm chú quan sát tòa tháp băng nằm chính giữa cung
điện, phát hiện tháp băng này khác hẳn với những tháp băng
còn lại trong khuôn viên băng. Gần như tất cả những gì có trong
khuôn viên băng đều được chạm trổ vô cùng hoàn mỹ, không mảy may khiếm khuyết, không một nét sai sót, giữa các rãnh khắc không
có lấy một mảnh băng vụn. Nhưng những cái tháp này hình như
không phải do bàn tay con người tạo nên. Xem ra chúng giống như
những nhũ băng từ dưới đất nhô lên, trên thân nhũ băng đâu đâu
cũng mang dấu ấn hình thành tự nhiên, không có vết dao khắc,
cũng không có dấu vết chạm trổ, nhưng hình dáng cái nào cái
nấy trông hệt những tòa băng tháp đủ hình đủ vẻ, không chệch
đi đâu được.
Bên dưới tháp băng có bảy tầng, mỗi tầng đều có mái hiên,
có cửa sổ, cách bố trí sắp đặt từng tầng cũng khác nhau,
cấu tạo mỗi tòa tháp đều tinh xảo tuyệt vời.
Nhị Rỗ dạo quanh một vòng rồi quay lại, hỏi:
– Chỉ huy này, sao không thấy rắn nhỉ? Hay là chúng chui xuống dưới lớp băng rồi?
Vương Uy cũng không có cách nào trả lời được, anh dùng báng
súng gõ vào mái hiên một tòa tháp, lập tức trong cung điện
vang lên những tiếng vọng lanh canh, nhưng bên trong tháp không có
động tĩnh gì.
Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc cũng bắt chước theo, gõ vào
những cái tháp bên cạnh khắp một lượt, trong cung điện lao xao
tiếng vọng nhưng những ngọn tháp vẫn im lìm như cũ, không hề
thấy cảnh tượng lũ rắn nhào nhào lên như họ mong đợi.
Cả ba đều lấy làm lạ theo họ suy đoán thì những tòa tháp
kia là chỗ ẩn náu của lũ rắn, hóa ra lại không phải.
Vương Uy bảo Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc từ hai bên vòng sang,
còn mình thì đi thẳng vào rừng tháp, chừng uống cạn chén
trà, ba người đã lùng sục khắp lượt cung điện. Tòa cung điện
này dài rộng có đến mấy trăm mét, vách băng tường băng vây
quanh đều sừng sững nguy nga, cao không thấy đỉnh, người đứng bên trong có cảm giác rất nhỏ bé, tưởng như bất cứ lúc nào cũng có thể bị cung điện khổng lồ này nuốt chửng.
Ba người càng tìm càng thấy lạ, nền băng, tường băng, tháp
băng trong cung điện đều không thấy bóng dáng lũ rắn đen đâu cả. Hơn nữa, những công trình bằng băng ở đây không hề có dấu vết
hư hại, lũ rắn không thể lẩn trốn nhanh đến thế được, vậy tại sao cả đàn rắn đông như vậy lại không cánh mà bay?
Cả ba đi vào đến giữa rừng tháp, nhất thời lại quay sang
nhìn nhau. Hàng nghìn hàng vạn con rắn chỉ trong nháy mắt đã
biến mất không tăm tích. Vương Uy càng nghĩ càng lấy làm lạ,
bèn leo lên tháp băng, trèo tít lên tận đỉnh tháp, đoạn giương
đuốc xuống nhìn chung quanh. Đứng trên đỉnh tháp cao hơn hai chục mét có thể trông rõ những ngọn tháp băng gần đó cùng mặt
đất bên dưới, xung quanh chỉ có sự yên tĩnh đầy trống trãi,
rừng tháp dưới ánh đuốc lung linh dập dờn, ánh vàng ánh đỏ
đan xen vào nhau lấp loáng, đâu thấy bóng đen nào.