“Ai sẽ làm chuyện như thế chứ?” Hai mươi phút sau, tôi đang run lẩy bẩy bên cạnh lò sưởi trong căn phòng chính ở tầng một, tay siết chặt một cốc vại trà thảo mộc. “thật kinh khủng!”
Giống hầu hết các cuốn cổ thư, Ashmole 782 được làm từ giấy da – loại da đặc biệt đã được chuẩn bị sẵn, ngâm trong nước vôi để tẩy hết lông, nạo hết các lớp thịt và mỡ dưới da đi, sau đó lại ngâm trước khi đem trải lên một cái khung, rồi nạo thêm vài lần nữa.
sự khác biệt là ở đây, những sinh vật được dùng làm giấy da không phải là cừu, bò, hay dê mà là yêu tinh, ma cà rồng và phù thủy.
“Chắc nó được lưu giữ như một kỷ lục.” Matthew vẫn đang cố lý giải cho những gì chúng tôi đã thấy.
“Nhưng đó là hàng trăm trang sách,” tôi hoài nghi nói. Ý nghĩ có ai đó đang lột biết bao nhiêu da của yêu tinh, ma cà rồng và phù thủy để làm giấy thật sự không thể hiểu nổi. Tôi không dám chắc từ nay mình còn có thể ngủ ngon cả đêm được nữa không.
“Điều đó có nghĩa là cuốn sách ấy chứa hàng trăm mẫu DNA khác biệt.” Matthew luồn các ngón tay cào tóc nhiều đến mức trông anh bắt đầu giống một con nhím.
“Các sợi chỉ xoắn nối chúng ta với Ashmole 782 trông giống như những sợi xoắn kép,” tôi nói. Chúng tôi phải giải thích các kiến thức di truyền học hiện đại cho Gallowglass, dù không có bốn thế kỷ rưỡi tri thức về sinh vật học và hóa học xen vào, anh chàng cũng đang cố hết sức mình để theo kịp.
“Vậy D-N-A giống như một cây phả hệ, các cành lá bao phủ rộng hơn một gia đình phải không?” Gallowglass đọc to “DNA” một cách chậm rãi, với một khoảng nghỉ ngắn giữa mỗi chữ cái.
“Đúng vậy,” Matthew nói. “Đại khái là thế.”
“anh có trông thấy cái cây ở trang đầu tiên không?” Tôi hỏi Matthew. “Thân cây được tạo nên từ các xác người, còn cái cây đang ra hoa, kết trái và trổ lá y hệt như cây Dianæ chúng ta tạo ra trong phòng thí nghiệm của Mary.”
“không, nhưng anh đã thấy sinh vật ngậm đuôi trong miệng nó,” Matthew nói.
Tôi luống cuống cố gắng hồi tưởng lại những gì đã thấy, nhưng trí nhớ của tôi đã thất bại khi tôi cần nó nhất, có quá nhiều thông tin mới cần hấp thụ.
“Bức hình vẽ hai sinh vật đang đánh nhau – hay âu yếm nhau ấy, em không thể nói rõ là cái nào vì em không có cơ hội đếm số chân của chúng. Máu chúng rơi xuống, sản sinh ra hàng trăm sinh vật, mặc dù nếu một trong hai con không phải là rồng bốn chân mà là rắn…”
“Và một con là rồng lửa có hai chân, vậy thì những con rồng hóa học đó có thể tượng trưng cho em và anh.” Matthew chửi thề, tuy ngắn ngủi nhưng cũng đầy cảm xúc.
Gallowglass kiên nhẫn lắng nghe cho tới khi chúng tôi đã nói xong, quay trở lại chủ đề ban đầu của anh chàng. “Còn D-N-A này, nó tồn tại trong da chúng ta à?”
“không chỉ da thôi đâu, mà cả trong máu, xương, tóc, móng tay và móng chân của cháu – trên khắp cơ thể,” Matthew giải thích.
“Hừm.” Gallowglass vuốt cằm. “Thế chính xác cô định hỏi gì khi nói cuốn sách này có thể có tất cả đáp án?”
“Tại sao chúng ta lại khác loài người,” Matthew đáp gọn. “Và tại sao một phù thủy như Diana có thể mang thai đứa con của một wearh.”
Gallowglass tặng cho chúng tôi một nụ cười rạng rỡ. “Chú muốn nói đến con của chú, Matthew. Cháu biết rõ là có thể cô đã mang thai lúc ở London. cô chẳng bao giờ có mùi giống bất kỳ ai khác ngoài mùi của chính cô ấy – và chú. Philippe có biết không?”
“Rất ít người biết,” tôi đáp nhanh.
“Hancock biết, vậy thì Françoise và Pierre cũng biết. Cháu đoán Philippe chắc cũng biết rồi.” Gallowglass đứng dậy. “Vậy thì cháu sẽ đi tìm cuốn sách của cô về. Nếu nó liên quan tới những đứa trẻ của nhà de Clermont thì chúng ta phải có nó.”
“Rudolf sẽ khóa kỹ nó lại hoặc ôm nó lên giường ngủ cùng,” Matthew dự đoán. “sẽ không mang nó ra khỏi cung điện dễ dàng đâu, đặc biệt là nếu bọn họ đã tìm thấy Pistorius và gã chắc đã ra ngoài yểm bùa hay làm những trò ma quái rồi.”
“nói đến hoàng đế Rudolf, cô có thể bỏ cái vòng cổ xuống không? Cháu ghét cái huy hiệu đẫm máu ấy.”
“Rất vui lòng,” tôi nói rồi đưa tay giật sợi dây chuyền xuống và ném món đồ lòe loẹt đó lên bàn. “Chính xác thì Dòng Tu Diệt Rồng có liên quan gì với người nhà de Clermont vậy? Em đoan chắc bọn họ chẳng phải bạn bè gì với các Hiệp sĩ Lazarus, căn cứ vào những con rắn khốn khổ bị lột da và tự thắt cổ.”
“Chúng căm ghét bọn anh đến chết,” Matthew thẳng thắn nói. “Nhà Drăculeşti không tán thành tầm nhìn thông suốt của cha anh về Đạo Hồi và người Ottoman, đã thề sẽ đánh đổ tất cả bọn anh. Bằng cách đó, chúng có thể thỏa mãn những tham vọng chính trị không kiểm soát được của mình.”
“Và chúng muốn tiền của nhà de Clermont,” Gallowglass nhận xét.
“Nhà Drăculeşti ư?” Giọng tôi mệt mỏi. “Nhưng Dracula là nhân vật trong truyền thuyết – kẻ gieo rắc nỗi sợ hãi về ma cà rồng.” Đó là truyền thuyết của loài người về ma cà rồng.
“ Vlad Rồng – kẻ đứng đầu gia tộc đó sẽ ngạc nhiên đấy,” Gallowglass bình luận, “mặc dù hắn sẽ vui sướng khi biết được mình đang gieo rắc sự kinh hãi cho mọi người.”
“Dracula của loài người – con trai của Rồng nổi tiếng là Kẻ Xiên Người – là hậu duệ duy nhất của Vlad,” Matthew giải thích.
“Kẻ Xiên Người là một thằng con hoang ghê tởm. May mắn là giờ hắn đã chết, và tất cả những gì chúng ta phải lo lắng là về cha hắn, các anh em của hắn cùng những tên đồng minh Báthory của chúng.” Gallowglass có phần hớn hở.
“Theo những ghi chép của loài người, Dracula đã sống nhiều thế kỷ, vì thế có thể hắn vẫn đang sống. Có chắc chắn là hắn thật sự đã chết rồi không?” Tôi hỏi.
“Cháu đã quan sát Baldwin xé toạc đầu hắn ra và thiêu nó cách xa phần thân xác còn lại ba mươi dặm. Vậy thì hắn thực sự đã chết, giờ thì thật sự chết rồi.” Gallowglass nhìn tôi quở trách. “cô nên biết rõ hơn là tin vào mấy câu chuyện của con người chứ. Chúng chẳng bao giờ có được nhiều hơn một đốm bụi sự thật trong đó.”
“Em nghĩ Benjamin cũng có một cái huy hiệu rồng này. Herr Maisel đã đưa cho nó và em nhận ra sự tương đồng về màu sắc khi lần đầu tiên hoàng đế đưa nó ra.”
“Cháu bảo với ta Benjamin đã rời Hungary rồi mà,” Matthew buộc tội cậu cháu trai.
“Đúng ạ, cháu thề. Baldwin đã ra lệnh cho anh ấy rời khỏi hoặc sẽ phải chịu chung số phận như Kẻ Xiên Người. Đáng lẽ chú nên nhìn thấy mặt này của Baldwin. Ác quỷ cũng sẽ không dám trái lời anh trai chú.”
“Ta muốn tới lúc mặt trời mọc, tất cả chúng ta đã ở cách xa Praha nhất có thể,” Matthew cứng rắn nói. “Có gì đó rất sai lầm, ta có thể ngửi thấy mùi của nó.”
“Đó có lẽ không phải ý hay đâu, chú không biết đêm nay thế nào sao?” Gallowglass hỏi. Matthew lắc đầu. “Lễ Walpurgisnacht. Bọn họ đang đốt lửa mừng khắp thành phố và thiêu hình nộm phù thủy – dĩ nhiên là trừ phi bọn họ có thể tìm thấy một phù thủy thật sự.”
“Chúa ơi.” Matthew lại điên cuồng cào xới mái tóc. “Ít nhất các đám lửa cũng đánh lạc hướng phần nào. Chúng ta phải tìm ra cách chọc thủng phòng tuyến canh gác của Rudolf, đột nhập vào khu phòng riêng của hắn và tìm cuốn sách. Sau đó, dù có đốt lửa hay không, chúng ta sẽ ra khỏi thành phố.”
“Chúng ta là wearh, Matthew, nếu có kẻ nào có thể đánh cắp nó thì chính là chúng ta,” Gallowglass tự tin nói.
“sẽ không dễ dàng như cháu nghĩ đâu. Chúng ta có thể vào, nhưng sẽ ra được không?”
“Cháu có thể giúp, ông Roydon ơi.” Giọng Jack vang lên như tiếng sáo du dương, so với giọng ồm ồm nam trầm của Gallowglass và giọng nam trung của Matthew. Matthew quay sang cau có với thằng bé.
“không, Jack,” anh nói kiên quyết. “Cháu sẽ không trộm cắp bất cứ thứ gì, nhớ chưa? Hơn nữa, cháu mới chỉ tới tàu ngựa của cung điện thôi, cháu sẽ không biết đi đâu để tìm cả.”
“A… sự thật thì không hẳn thế.” Gallowglass có vẻ không thoải mái. “Cháu đã mang thằng bé tới nhà thờ và Đại Sảnh để xem các bức biếm họa chú từng vẽ trên các bức tường của Cầu Thang Các Hiệp Sĩ. Thằng bé cũng đến khu bếp hoàng cung rồi. Ồ,” Gallowglass nói tiếp sau khi ngẫm nghĩ thêm, “Dĩ nhiên là Jack cũng đã tới khu nhốt bầy thú xiếc rồi. sẽ thật độc ác nếu không để cho thằng bé xem bầy thú.”
“Thằng bé cũng đến lâu đài cùng với tôi nữa,” Pierre nói vọng vào từ ngoài cửa. “Tôi không muốn một ngày nào đó, nó đi phiêu lưu và bị lạc đường.”
“Và anh đã đưa nó đi đâu, Pierre?” Giọng Matthew lạnh buốt. “Phòng thiết triều, để nó có thể nhảy nhô nhảy nhào lên ngai vàng hả?”
“không, milord. Tôi đã đưa thằng bé tới tiệm lò rèn gặp ông Hoefnagel.” Pierre rướn thẳng người, sử dụng hết mức chiều cao tương đối khiêm tốn để trợn mắt nhìn ông chủ mình. “Tôi nghĩ, thằng bé nên cho ai đó có tài năng thực sự trong lĩnh vực này xem những bức tranh của nó. Ông Hoefnagel hết sức ấn tượng và đã vẽ một bức chân dung thằng bé bằng bút mực để tặng nó làm phần thưởng.”
“Pierre cũng cho cháu đến khu phòng của lính gác,” Jack lí nhí. “Đó là nơi cháu lấy được cái này.” Thằng bé giơ lên một chùm chìa khóa. “Cháu chỉ muốn xem con kỳ lân thôi, vì cháu không thể tưởng tượng một con kỳ lân leo lên các vì sao trông như thế nào và nghĩ rằng chúng hẳn phải có cánh. Thế nên ông Gallowglass đã chỉ cho cháu xem Cầu Thang Các Hiệp Sĩ – cháu rất thích bức vẽ con hươu đang chạy của ông, ông Roydon ạ. Lính gác đang trò chuyện, cháu không thể hiểu hết mọi thứ, nhưng họ nhắc tới từ einhorn, và cháu nghĩ có thể họ biết nó ở đâu, và…”
Matthew nắm lấy hai bờ vai của Jack và khom người xuống để mắt cả hai gặp nhau. “Cháu có biết họ sẽ làm gì nếu bắt được cháu không?” Chồng tôi tỏ vẻ sợ sệt như một đứa bé.
Jack gật đầu.
“Và việc nhìn thấy một con kỳ lân đáng bị đánh đòn không?”
“Trước đây cháu đã bị đánh rồi, nhưng cháu chưa bao giờ trông thấy một con thú huyền thoại cả, ngoại trừ con sư tử trong khu nhốt thú làm xiếc của hoàng đế, và con rồng của bà Roydon.” Jack trông hoảng hốt và vội đưa tay lên bịt miệng mình lại.
“Vậy là cháu cũng đã trông thấy thứ đó à? Praha đúng là nơi để mở mang tầm mắt đấy.” Matthew đứng dậy và chìa tay ra. “Đưa cho ta chìa khóa nào.” Jack miễn cưỡng làm như được bảo. Matthew cúi đầu chào thằng bé. “Ta nợ cháu lần này, Jack.”
“Nhưng cháu đã là người xấu,” Jack thì thầm nói và xoa xoa mông như thể vừa cảm thấy sự trừng phạt mà Matthew nói tới.
“Ta thì lúc nào cũng là người xấu,” Matthew thú nhận. “Nhưng đôi khi những điều tốt đẹp lại đến từ đó.”
“Vâng, nhưng không có ai đánh đòn ông cả,” Jack nói, vẫn cố gắng để hiểu cái thế giới xa lạ, nơi mà những người đàn ông trưởng thành lại nợ những thằng nhóc bé con và người anh hùng của nó lại không hề hoàn hảo gì.
“cô đã chứng kiến cha Matthew từng đánh đòn chú ấy bằng một thanh kiếm.” Đôi cánh của rồng lửa vỗ nhè nhẹ trong lồng ngực tôi thể hiện sự tán thành lặng lẽ. “Sau đó ông hạ gục và đứng lên trên chú ấy.”
“Ông ấy chắc hẳn phải to lớn như con gấu Sixtus của hoàng đế,” Jack nói, kinh sợ trước ý nghĩ có người nào đó chế ngự được Matthew.
“Đúng thế đấy,” Matthew nói, gầm lên giống như con gấu được nói tới. “Quay về giường ngay bây giờ.”
“Nhưng cháu lanh lợi và nhanh nhẹn,” Jack vẫn cự nự. “Cháu có thể lấy được cuốn sách của bà Roydon mà không để ai trông thấy mình.”
“Ta cũng có thể làm vậy, Jack,” Matthew hứa.
***
Matthew và Gallowglass từ cung điện trở về, người đầy máu, đất bẩn, bồ hóng – và mang theo Ashmole 782.
“anh lấy được nó rồi!” Tôi la lên. Annie và tôi vẫn đang đợi ở tầng một. Chúng tôi đã đóng gói hành lý trong các túi xách nhỏ với những món đồ thiết yếu cho chuyến đi.
Matthew mở bìa sách ra. “Ba trang đầu tiên đã biến mất.”
Cuốn sách mới mấy tiếng trước còn nguyên vẹn, giờ đã bị phá hỏng, các văn tự chạy loạn trên trang giấy. Tôi dự định, khi nó đã nằm trong tay chúng tôi, sẽ dùng các ngón tay lướt trên chữ cái và ký hiệu để xác định ý nghĩa của nó. Nhưng giờ thì không thể bởi ngay khi đầu ngón tay tôi chạm vào trang sách, các từ ngữ túa ra khắp các hướng.
“Bọn anh tìm thấy Kelley ở cùng cuốn sách, hắn đang khom người trên nó và ngân nga hát như một gã điên.” Matthew ngừng một chút. “Cuốn sách lúc ấy đang nói chuyện đáp lại.”
“Chú nói thật đấy thưa cô, cháu cũng nghe thấy, mặc dù chẳng hiểu gì.”
“Vậy cuốn sách thực sự đang sống,” tôi lẩm bẩm.
“Và cũng thật sự đã chết nữa,” Gallowglass nói, chạm vào bìa bọc. “Nó là một thứ ma quỷ đồng thời cũng đầy quyền năng.”
“Khi Kelley phát hiện ra bọn anh, hắn ra sức kêu gào và bắt đầu xé các trang sách ra. Lính gác đã ập vào trước khi anh kịp tới chỗ hắn, nên anh phải lựa chọn giữa cuốn sách và Kelley.” Matthew ngập ngừng. “anh đã làm đúng phải không?”
“Em nghĩ vậy,” tôi nói. “Khi em tìm thấy cuốn sách ở anh, nó đã bị hỏng rồi. Nhưng có lẽ tìm các trang sách bỏ trốn kia trong tương lai sẽ dễ dàng hơn bây giờ.” Phương tiện tra cứu hiện đại và các danh mục thư viện sẽ là sự trợ giúp to lớn vì tôi biết mình đang tìm kiếm cái gì.
“Miễn là các trang sách chưa bị phá hủy,” Matthew nói. “Nếu trường hợp đó xảy ra…”
“Vậy thì chúng ta sẽ không bao giờ biết được toàn bộ bí mật của cuốn sách. Cho dù thế đi nữa, phòng thí nghiệm hiện đại của anh có thể tiết lộ từ những gì còn lại, để ta biết được nhiều điều hơn chúng ta tưởng tượng lúc mới bắt đầu cuộc truy lùng này.”
“Vậy là em đã sẵn sàng để trở về à?” Matthew hỏi, một tia sáng lóe lên trong mắt nhưng anh đã làm nó dịu đi một cách nhanh chóng. Là sự phấn khích ư? Hay khiếp sợ?
Tôi gật đầu. “Đến lúc rồi.”
***
Chúng tôi bỏ chạy khỏi Praha dưới ánh sáng của những đống lửa hội. Vào dịp lễ Walpurgisnacht, các sinh vật đồng đạo của chúng tôi còn đang lẩn trốn, họ không muốn bị đám người ăn chơi chè chén bắt gặp, đề phòng trường hợp bỗng nhận ra mình bị ném lên giàn hỏa thiêu lúc nào không biết.
Nước Biển Bắc lạnh cóng nên chỉ thuyền bè đi lại được, băng tan mùa xuân đã phá vỡ lớp băng đá ở cảng. Tàu thuyền đang rời bến đến anh, thế nên chúng tôi có thể bắt một con thuyền đi mà không bị trì hoãn gì. Dù vậy, khi chúng tôi rời khỏi bờ biển châu Âu, thời tiết lại mưa bão.
Dưới boong thuyền, tôi tìm thấy Matthew đang nghiên cứu cuốn sách. anh đã phát hiện ra nó được khâu lại bằng những sợi tóc dài.
“Dieu,” anh lẩm bẩm, “thứ này có thể chứa không biết bao nhiêu thông tin di truyền nhỉ?” Trước khi tôi kịp ngăn lại, anh đã chạm đầu ngón tay út vào lưỡi, và rồi các giọt máu trút xuống từ mái tóc của đứa bé ở trang sách đầu tiên.
“Matthew!” Tôi hoảng hốt thốt lên.
“Đúng như anh nghĩ, trong mực có máu. Nếu thế thì anh có cơ sở đáng tin để đoán rằng, lá vàng và bạc trên những bức tranh minh họa này được làm từ xương của các sinh vật khác người.”
Con thuyền tròng trành dưới gió khiến dạ dày tôi cũng chao đảo theo. Khi tôi trải qua cơn say sóng, Matthew ôm tôi trong vòng tay, cuốn sách nằm giữa hai chúng tôi, hơi hé mở và những dòng văn bản đang tìm kiếm chỗ của chúng theo đúng trật tự.
“Chúng mình đã làm gì thế này?” Tôi thì thầm.
“Chúng mình đã tìm thấy Cây Đời và Cuốn Sách Cuộc Sống, được gói trọn trong một thứ.” Matthew áp má lên tóc tôi.
“Khi Peter Knox nói với em, cuốn sách lưu giữ tất cả những câu thần chú khởi nguồn của phù thủy, em đã bảo hắn ta điên. Em đã không tưởng tượng nổi, có ai lại ngu ngốc đến mức đặt quá nhiều tri thức vào một nơi như thế.” nói rồi tôi chạm vào cuốn sách. “Nhưng cuốn sách này còn chứa đựng nhiều hơn thế – và chúng ta vẫn không biết từ ngữ trong đó nói gì. Nếu nó rơi nhầm vào tay kẻ xấu ở thời đại của chúng ta…”
“Nó có thể được dùng để hủy diệt tất cả chúng ta.” Matthew nói nốt.
Tôi ngước lên nhìn anh. “Vậy chúng ta sẽ làm gì với nó đây? Mang nó về tương lai cùng chúng ta hay để nó lại đây?”
“anh không biết, mon coeur.” anh ôm tôi sát lại gần hơn, bóp nghẹt đi tiếng gió bão khi nó quất vào thân thuyền.
“Nhưng có thể cuốn sách này nắm giữ chìa khóa cho tất cả thắc mắc của anh.” Tôi ngạc nhiên rằng, giờ đây, Matthew có thể tách nó ra để biết nó chứa đựng những gì bên trong.
“không phải tất cả,” anh nói. “Có một câu hỏi chỉ duy nhất em mới có thể trả lời.”
“Là gì cơ?” Tôi cau mày hỏi.
“Em say sóng hay có mang vậy?” Ánh mắt Matthew nặng nề và dậy bão như bầu trời ngoài kia, cùng với những tia chớp lóe lên sáng rực.
“anh biết rõ hơn em mà.” Chúng tôi làm tình mới chỉ có mấy ngày trước nhưng ngay sau đó, tôi nhận ra kinh nguyệt của mình bị chậm.
“anh không trông thấy đứa bé trong máu của em hay vẫn chưa nghe thấy nhịp tim của nó, chỉ nhận thấy mùi hương của em có sự thay đổi. anh nhớ nó từ lần cuối cùng ấy. Em không thể nào có thai hơn vài tuần được.”
“Em đã nghĩ, mình mang thai sẽ khiến anh vui vẻ hơn việc giữ rịt quyển sách ở bên cạnh anh cơ.”
“Có lẽ các câu hỏi của anh không cần lời giải đáp khẩn cấp như anh tưởng.” Để chứng minh quan điểm của mình, Matthew đặt cuốn sách xuống sàn, khuất khỏi tầm nhìn. “anh đã nghĩ, nó sẽ cho anh biết mình là ai và tại sao anh lại ở đây. Có lẽ anh đã biết rồi.”
Tôi đợi anh giải thích.
“Sau tất cả những việc tìm kiếm và tra cứu, anh phát hiện ra rằng, anh vẫn luôn là chính anh: Matthew de Clermont. một người chồng. một người cha. một ma cà rồng. Và anh ở đây vì một lý do duy nhất: Để làm nên một sự khác biệt.”