Mùa Hè Bất Tận Của Ngài Loiseau

Chương 2: Chương 2



Mấy ngày kế tiếp, Harry ở trong trạng thái tự mình chơi đùa, không ai trông coi cậu cả.

Martha mang cho cậu một ít bút màu và giấy vẽ, sau đó thì không xuất hiện nữa.

Lò sưởi sát tường trong phòng bếp chưa bao giờ tắt mặc dù Harry chưa từng thấy người nào bỏ thêm gỗ hoặc than vào.

Rất có thể là yêu tinh đã làm chuyện này.

Thầy Meeks dạy lịch sử bảo rằng yêu tinh không có thật, Harry còn chưa chắc có nên tin lời thầy hay không.

Trên bàn dài luôn có sẵn thức ăn, chẳng ai để ý xem cậu có ăn không hay ăn vào lúc nào.

Thỉnh thoảng sẽ gặp được người làm vườn hoặc hầu gái, nhưng bọn họ xem như không thấy Harry, như thể ngày nào cũng có một đứa bé chín tuổi ăn chực chân giò xông khói ở đây.
Harry đi lang thang trong dinh thự như một âm hồn, từng chút một khám phá những khu vực mới.

Thư phòng ở phía đông, với Harry, hẳn nên gọi nó là thư viện.

Mọi thứ trong phòng đều có mùi gỗ và mùi da cũ, đồng hồ để trên bàn tích tắc từng giây.

Giữa các kệ sách làm bằng gỗ hồ đào là những ô cửa sổ thủy tinh cao mà hẹp, ánh mặt trời xuyên qua đây tạo thành những dải nắng có thể nhìn thấy rõ chuyển động của những hạt bụi.

Thảm lót rất dày và cũ kỹ, cậu không thể nhìn rõ hoa văn trên đó.

Tấm thảm giống như một vũng lầy mềm mại, chỉ cần đạp lên là sẽ chìm xuống ngay.

Trên tấm thảm treo tường có hình một con heo rừng đang chạy trốn, nó đứng sững lại trong tư thế kêu rên, ngọn giáo đâm xuyên qua ngực nó, một con chó săn cắn vào chân sau của nó, một con khác cắn vào cổ, những sợi lông bạc màu trên tấm thảm tái hiện cảnh máu tươi bắn tung tóe.

Cậu bé thụt lùi về sau hai bước, lựng đụng vào một chiếc ghế dựa cao, người thợ săn cưỡi trên con ngựa đen trong tấm thảm giơ ngọn giáo về phía cậu và con heo rừng, bóng râm trên trần nhà đổ xuống che kín mặt anh ta.
Bàn đọc sách rất rộng làm từ gỗ sồi, những quyển sách xếp thành hình tháp cao ngất trên mặt bàn.

Harry lật xem một quyển ở trên cùng, bên trong toàn là những con chữ chằng chịt, chẳng có hình vẽ nào nên không thể hấp dẫn cậu.

Những bức thư chưa mở bày la liệt, một cây bút máy lẫn trong đó, vì đã lâu không sử dụng, mực bút bị đọng lại.

Bên cạnh lọ mực là một khung ảnh to tướng có viền bằng đồng thau, trong hình là một nhà năm người, người cha đứng phía sau bên trái, tay ông khoác lên vai của người con trai và người con gái, người mẹ thì ngồi, tay bà ôm một đứa bé sơ sinh, chiếc váy của bà rủ xuống mặt đất.

Cha của Harry vẫn luôn muốn đi chụp một tấm ảnh như vậy nhưng lúc nào cũng bận rộn, trong ngân hàng luôn luôn có chuyện.

Cha đã đầu quân vào từ nửa năm hoặc một năm trước gì đó, từ khi nghỉ học, Harry đã không còn nhớ chính xác thời gian.

Tất cả các ngăn kéo đều bị khóa, Harry thử mở từng cái một nhưng đều không được.

Đồng hồ để bàn bỗng kêu vang, kim giờ chỉ đúng chín giờ, một người hầu gái cầm chổi ngâm nga đi vào khiến đứa bé sợ hết hồn, cô đuổi cậu ra ngoài như đuổi một con mèo hoang.

Từ đó cửa thư phòng khóa lại.
Nhưng Harry vẫn còn chỗ tuyệt hơn để đi, đó là căn phòng hứng nắng.

Những đóa phong lan nhiệt đới giương nanh múa vuốt ở đó tạo thành một khu rừng nguyên sinh, bóng râm phủ rải rác trên chiếc bàn trà hình tròn và hai chiếc ghế đan bằng mây.

Một chiếc lồng vẹt tinh xảo được treo bên cửa sổ thủy tinh nhưng lại không có vẹt.

Không có ai đuổi cậu ra ngoài cả, trên thực tế thì trừ cậu ra chắc chẳng có ai lui tới chỗ này.

Harry mang bút màu và giấy vẽ xuống đây, cậu nằm nhoài trên bãi cỏ vẽ tranh khiến một ngày trôi qua lâu hơn.

Sau khi màu xanh lá cây và màu vàng nhanh chóng mòn hết, cậu bắt đầu chuyển sang dùng màu đỏ và màu xám để vẽ hỏa hoạn và những đống tro tàn ở London.
Sau đó, khi đã chán ghét những gian phòng và những dãy hành lang u ám, Harry bắt đầu khám phá cảnh vật bên ngoài.

Một cây sồi to lớn lặng lẽ đứng cuối bãi cỏ, trông nó như một người khổng lồ màu nâu âm trầm, vì sắp đến mùa hè nên trên người nó vẩy thêm những giọt màu xanh lá.

Đi tiếp về phía đông, xuyên qua giữa hai giá hoa hồng trống rỗng, cậu có thể thấy một đài phun nước bằng đá, đáng ra nước sẽ được phun ra từ miệng của một con cá có răng nanh thật dài nhưng giờ phút này ở đó lại khô khốc, chất đầy những đống lá khô.

Ở đây không có đủ người làm vườn.

“Tất cả bọn họ đều đã nhập ngũ, đi đánh giặc, cháu yêu ạ, họ đi đánh giặc rồi, thật giống George đáng thương của chúng ta”, bà Martha đã nói với cậu như vậy.

Vậy nên đài phun nước và những bụi cỏ đều không còn được chăm sóc kỹ càng.

Trông đám cỏ dại có lẽ còn cao hơn bả vai của Harry, một khi đi vào sẽ chỉ có thể nhìn thấy bầu trời và những chú ong rừng thỉnh thoảng bay qua.

Harry tìm được một ổ chim sơn ca, bên trong có một chú chim non còn chưa mở mắt, bên cạnh nó là hai quả trứng có lốm đốm màu nâu.
Ban ngày trôi qua thật nhanh, ánh sáng có thể xua tan bóng tối, cho dù trời có mưa vẫn sẽ sáng sủa.

Nhưng ban đêm lại là chuyện khác.

Chiếc đài trong phòng bếp được mở đúng giờ vào mỗi tối, một giọng nam nghiêm túc kèm theo tiếng sột soạt của đài phát thanh thông báo về số người chết trong vụ đánh bom tối qua, miêu tả cảnh những con đường và phố xá bốc cháy, hạn chế khẩu phần ăn, thiếu hụt sợi bông, thiếu hụt thuốc lá, rượu cồn và cả bột mì.

Âm thanh từ đài phát thanh khiến nỗi sợ len lỏi trong tâm trí Harry: Tiếng còi báo động phòng không chói tai, tiếng ồn ào xa xa của máy bay ném bom và tiếng nổ lách tách của lửa khi đốt cháy những thanh xà bằng gỗ.

Có một lần, mẹ đánh thức cậu dậy vào lúc nửa đêm, lôi cậu chạy khỏi nhà.

Còi báo động vang vọng khắp những con phố tối đen, mọi người không ai nhìn rõ mặt nhau, ai ai cũng hốt hoảng chạy vào hầm trú ẩn.

Đứa bé trai vấp phải một viên gạch rồi bị té sấp xuống, mẹ cậu vội ôm lấy cậu, tiếp tục chạy về phía trước.

Bọn họ rơi vào tốp người cuối cùng, tiếng động cơ máy bay phía sau đã có thể nghe rõ, viên cảnh sát đứng ở cửa hầm trú ẩn vẫy bọn họ, giục bọn họ chạy nhanh lên.

Mẹ chạy xuống hết đoạn cầu thang này lại đến đoạn cầu thang khác.

Tiếng cửa sắt nặng nề đóng lại, một ngọn đèn leo lét chiếu sáng, mọi người chen chúc chung một chỗ, lo sợ không dám ho he lấy một tiếng.

Trên mặt đất liên tục rung lắc dữ dội, ngọn đèn vụt tắt, tro bụi rơi xuống như mưa.

Đâu đó trong bóng tối, tiếng trẻ sơ sinh gào khóc vang lên, ngọn đèn lại được thắp sáng, nó nhẹ nhàng lắc lư, chiếc bóng phía sau cũng lay động theo.

Bây giờ Harry mới nhận ra máu ở cằm đang nhỏ xuống vạt áo, mẹ nhỏ giọng nói một câu “Ôi, Harry” rồi lấy khăn tay đè trên vết thương của cậu.
Khăn tay của mẹ để dưới gối có mùi hoa hồng nhẹ nhàng, đó là mùi từ loại xà bông mà mẹ thích nhất.

Harry lấy khăn tay dưới gối ra rồi trải lên gối, cậu vùi mặt vào, nằm co lại chờ đến khi trời sáng.
Cậu bị Martha đánh thức, bà kín đáo đưa cho cậu một chiếc áo sơ mi đã được ủi phẳng và một chiếc khăn lông mới tinh, gọi cậu đi rửa mặt chải đầu ngay.

Áo sơ mi này chính là chiếc áo mà cậu đã mặc khi còn đi học, nó có màu xanh nhạt, mẹ đã dùng chỉ trắng để thêu chữ “H.E.P.” ở bên túi áo.

Chiếc áo này vốn được nhét dưới đáy của balo, Harry không biết Martha đã lấy bộ quần áo này ra từ lúc nào.

Harry ghét bộ quần áo này, chất liệu và mùi hương của nó khiến Harry nhớ tới bút mực và chiếc bàn học bị mọt gặm đầy lỗ nhưng Martha không muốn nghe lý do của cậu, bà đẩy cậu vào một phòng tắm chật chội rồi đóng cửa lại.
Mười phút sau cậu bị dẫn xuống lầu, ăn mặc giống như chuẩn bị đi gặp Thủ tướng.

Khoảng hai mươi người đang tụ tập ở sảnh chính, nhiều hơn tất cả số người mà Harry đã nhìn thấy trong những ngày qua.

Trước cửa bỗng truyền tới tiếng động cơ xe hơi, một người hầu gái hắt xì một cái, có người đang trò chuyện ở ngoài cửa, sau đó cười to.

Cửa mở ra, một người đàn ông có râu đang cầm một cây gậy tiến vào, Harry nhận ra ông chính là người cha ở trong tấm ảnh trong thư phòng.

Martha đè bả vai Harry, đẩy cậu tới trước mặt người đàn ông có râu.
“Chính là đứa bé này hả?”
“Đúng vậy, thưa ngài.”
Nam tước Loiseau quay sang nói với Harry: “Chào buổi sáng.” Ông chìa tay ra, tôn trọng cậu như một người trưởng thành.

Harry do dự nhưng vẫn bắt tay ông, thấp giọng trả lời: “Chào buổi sáng thưa ngài!”
“Đã tìm được người thân của thằng bé chưa?” Nam tước hỏi Martha.
“Vẫn chưa, thưa ngài.”
“Chúng ta sẽ tiếp tục tìm, Prudence à, cháu không cần phải lo lắng.

Trước đó, ta e rằng cháu sẽ phải mắc kẹt với đám người Cornwall này một thời gian.” Nam tước vỗ vào vai Harry một cái: “Thử gặp con của ta nhé, nó là đứa nhỏ nhất, lớn bằng cháu.

Alex, lại đây nào.”
Bây giờ Harry mới để ý đến đứa cậu trai kia, hắn cao tầm Harry, có mái tóc màu vàng sậm và đôi mắt xanh giống cha của hắn, hắn mặc một chiếc áo sơ mi với chiếc áo vest làm bằng len màu nâu nhạt, quần cụt.

Harry có thể nhìn thấy trên đầu gối bên trái của hắn có một vết trầy da.

Dưới sự yêu cầu của cha, Alex đi tới, hắn gật đầu với Harry, nở một nụ cười mỉm cẩn trọng.
Sự chú ý của Nam tước đã không còn đặt trên người bọn trẻ.

Người làm vườn đang đi theo ông lên lầu, giải thích đứa con trai nhỏ của mình vừa tròn mười tám tuổi, thằng bé muốn gia nhập vào lực lượng không quân hoàng gia như George, không biết Nam tước có thể khuyên nhủ thằng bé lại không.

Những người khác cũng lục tục rời đi như ong mật về tổ, người thì trở lại phòng bếp, người thì trở lại chuồng ngựa, người thì trở lại vườn hoa.

Trong tiền sảnh chỉ còn lại hai đứa bé trai chín tuổi đang trố mắt nhìn nhau.
“H.E.P.

là gì vậy?” Alex nhìn áo sơ mi của Harry.
“Đó là.” Harry cúi đầu nhìn quần áo của mình, trông cứ như chưa từng nhìn thấy nó bao giờ: “Tên đầy đủ của tớ, Harry Edward Prudence.”
“Cậu có muốn đi gặp Mercury với tớ không?”
“Mercury?”
“Ngựa của tớ, bây giờ chỉ còn lại mình em ấy, những con khác bị lục quân trưng dụng rồi.”
Chẳng có lý do gì để từ chối hết.
Hai cậu bé đi vào phòng bếp lấy vài trái táo, xuyên qua căn phòng mặt trời rồi đi ra ngoài.

Chúng nheo mắt lại dưới ánh mặt trời chói chang.

Mùa hè năm nay có vẻ đến hơi sớm, trên sân cỏ mọc đầy những bông hoa bé tí, nhìn cứ như những mảnh vỡ thủy tinh rực rỡ sắc màu.

Đài phun nước đã được dọn dẹp, dòng nước trong veo được phun ra từ chiếc răng nanh bằng cẩm thạch trong miệng cá, nước chảy lấp lánh rơi xuống hồ.
“Mau vào đây nào.” Alex nhét trái táo vào trong túi quần, khom người chui xuống một bụi cây, Harry đi theo sau.

Sau bụi cây cao ngất ấy là một lỗ hổng, đây rất có thể là một bụi cây đã chết khô, người làm vườn đã nhổ nó đi nhưng lại không trồng vào cây mới, thế là thực vật ở xung quanh từ từ che cái lỗ này lại.
Bên kia bụi cây là một lớp cát bị bao lại bởi hàng rào, chỗ này bị bỏ hoang không sử dụng, cỏ dại mọc xung quanh len lỏi chen vào.

Trong chuồng ngựa rất yên tĩnh, đầy mùi cỏ khô và mùn cưa.

Phần lớn chuồng đều trống không nhưng trên đó vẫn treo bảng tên của những con ngựa, “Soot”, “Nicky”, “Phoebe”, “Apollo” và rất nhiều những cái tên khác nữa.
“Mercury.” Alex mở gian chuồng cuối cùng ra, hắn mỉm cười với một chú ngựa con có màu trắng xám, để lộ đôi má lúm đồng tiền.

Chú ngựa lắc đầu, cọ vào lòng bàn tay của hắn, sau đó ngửi túi quần hắn.

Alex cẩn thận đút cho nó hai trái táo khô, hắn ngẩng đầu nhìn Harry, tỏ ý cậu hãy đến gần hơn một chút.
Chú ngựa Ả Rập này còn cao hơn cả cậu, trên lớp lông màu trắng của nó lấm tấm những đốm màu xám bạc.

Chú ngựa cúi chiếc cổ cong xinh đẹp quan sát Harry.

Alex nắm tay cậu rồi nhẹ nhàng đặt lên lỗ mũi Mercury, hơi thở ấm áp thổi vào lòng bàn tay cậu, Mercury lắc tai, áp sát vào lòng bàn tay cậu hơn.
“Em ấy rất đẹp.” Harry nhỏ giọng nói, vu0t ve lớp lông bóng mượt của chú ngựa con.
“George đã đồng ý sẽ dạy tớ chơi mã cầu*.” Alex lấy chiếc túi vải khỏi móc sắt rồi lấy một chiếc lược dài ra, bắt đầu chải chuốt lông cho chú ngựa: “Anh ấy và cha đều rất thích trò này, Leila cũng vậy, chị gái tớ ấy, Apollo là ngựa của chị ấy, Phoebe là của George.” Cậu bé tóc vàng dùng cán lược chỉ lớp cát ở bên ngoài: “Bọn họ từng luyện tập ở chỗ này, tớ chỉ có thể nhìn, bởi vì Mercury còn rất nhỏ.”
“Anh cậu đầu quân rồi hả?”
“Vào không quân.” Alex gật đầu: “Leila thì ở London.”
“Ở đó làm gì?”
“Tớ không biết.” Alex nhét chiếc lược lại vào chỗ cũ: “Cha chưa từng nói những chuyện này cho tớ biết.”
“Cha tớ cũng đầu quân.”
“Ở đâu?”
“Tớ không biết.” Cũng có khi đã chết rồi, nhưng cậu không nói tiếp vế sau của câu này.
Mũi chú ngựa thở phì phò, lỗ tai lắc lư.

Harry lùi về sau một bước.

Gió nhẹ thổi qua mang theo mùi bùn đất và cỏ dại, một chú chim sơn ca bỗng hót vang, lỗ tai của Mercury lập tức dựng thẳng.

Alex vỗ vào cái cổ phủ lông bờm của chú ngựa, nở nụ cười với Harry: “Chúng ta dẫn nó đi dạo nhé?”
– —
“Chúng tôi xuyên qua đồng ruộng, đến tận biển khơi.” Prudence nhắm mắt lại, day day huyệt thái dương: “Cậu ấy đã viết như vậy, đúng không? Trong quyển sách kia ấy?”
“Truyện ngắn, thưa ngài.” Người phóng viên trả lời: “Truyện Anh túc trắng, nếu tôi nhớ không lầm, Chúng tôi xuyên qua đồng ruộng, đến tận biển khơi, sóng biển không ngừng phát ra âm thanh huyên náo, hai cậu bé vẫn cứ im lặng.

Mặc dù bọn chúng không thể hiểu được vết thương của đất nước nhưng lại có thể cảm nhận được mọi nỗi đau đớn.”
“Thật ra thì chúng tôi không thể đến tận biển khơi, cậu Rivers ạ.

Bờ biển ở Cornwall đầy những tháp canh được trang bị súng máy đầy đủ, dưới bãi cát lại có chôn mìn.

Nơi xa nhất mà chúng tôi có thể đến chính là một ngọn đồi nhỏ bao xung quanh bởi dây thép, từ đó cậu có thể nhìn thấy máy bay chiến đấu cất cánh, căn cứ không quân ở cách đó không xa.

Cũng có lúc…” Prudence dừng lại một chút, ông nhíu mày trước màn mưa đã che kín biển khơi bên ngoài cửa sổ: “Cũng có lúc cậu sẽ thấy phi cơ của bọn họ bị bắn hạ.”
Người phóng viên đưa tay sờ bình trà, vẫn còn ấm.

Anh rót cho Prudence một ly trà.
“Sau đó…” Prudence nói tiếp, hoàn toàn không để ý đến động tác của người phóng viên: “Vào ngày mà chúng tôi phát hiện ra thi thể, máy bay của nước Đức tới.”
– —
*Mã cầu: là một môn thể thao đồng đội.

Trong môn này, người chơi ngồi trên lưng ngựa và có nhiệm vụ ghi bàn để giành chiến thắng trước đội đối phương..


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.