Lễ giáng sinh năm 1940 là lễ giáng sinh ngột ngạt nhất trong trí nhớ Harry, lúc ấy hầu như không có bất kỳ lời chúc mừng nào.
Điều lệ hạn chế lại khẩu phần ăn vào đầu năm vẫn còn tiếp diễn, bơ thực vật đã biến mất hẳn luôn, đường còn khó để mua được, nói chi đến sô cô la.
May là những nông trại gần đây vẫn còn nuôi đủ bò và gia súc, bọn họ chưa bao giờ thiếu thịt, khoai tây và trứng gà, thỉnh thoảng còn có thể mua được một ít sữa bò và bột mì quý giá.
Thế nhưng khi mùa đông đến, những mặt hàng khan hiếm ấy cũng đều bị cắt giảm.
Đồ trang trí vào năm ngoái được sử dụng lại: Những sợi ruy băng nhạt màu cùng hoa giấy nhăn nhúm tô điểm cho lò sưởi và bàn ăn, chúng chính là nguồn gốc của toàn bộ không khí trong ngày lễ.
Hai đứa bé trai lén chạy vào nhà kho vẫn thường hay bị khóa, khám phá những kho báu bị phủ đầy bụi.
Harry tìm thấy chú vẹt bị mất tích ở trên một cái giá cạnh tường, bên cạnh còn có một vài hình chữ nhật được phủ bằng vải sợi.
Cậu kéo tấm vải chống bụi ra, phía dưới là những bức tranh, chúng được vẽ bằng màu nước, hình vẽ là vườn hoa và đài phun nước, một bức khác vẽ nhà thờ nhỏ, ở góc còn có chồi non xanh biếc giúp người ta nhận ra đây là một ngày mùa xuân sáng ngời.
Phía dưới góc phải có một chữ E được ký bằng màu trắng.
Alex nhón chân, nhìn những bức tranh qua bả vai Harry.
“Đây là tranh do mẹ tớ vẽ.”
“Bà ấy đâu rồi?”
“Viện điều dưỡng.”
truyện đam mỹ
“Bà ấy bị ốm à?”
“Bị bệnh phổi, bà ấy bắt đầu sống trong viện điều dưỡng từ khi tớ còn rất nhỏ.
George nói cho tớ biết đó, tớ không nhớ rõ bà ấy lắm…!Nhìn kìa, vòng đánh dấu khăn ăn ở đó.” Alex lôi một cái hộp gỗ nhỏ rồi mở ra, hắn cầm lấy một chiếc vòng bằng bạc trong rất nhiều những chiếc khác được khắc thành hình bông tuyết và lá sồi, quơ trước mặt Harry.
Hai đứa mang chiếc hộp với đầy những chiếc vòng được làm bằng kim loại đến phòng bếp, Martha lơ đãng nói cảm ơn.
Bà đang chuẩn bị phần bột để nướng chiếc bánh táo, trên tay dính đầy lòng trắng trứng.
Buổi sáng trước lễ giáng sinh, tất cả mọi người sẽ chen chúc nhau đến rạp chiếu phim tồi tàn trong thị trấn để xem bộ phim thời sự đầu tiên sau nửa năm.
Harry ngồi giữa George và Alex, mê mẩn nhìn những hình ảnh trắng đen trên màn hình.
Mở đầu là bài phát biểu của Thủ tướng tại Hạ nghị viện, bọn họ đã nghe bài phát biểu này trên đài phát thanh không dưới một lần nhưng khi xem cùng với hình ảnh biết nhúc nhích, mọi người cảm thấy phấn chấn hơn nhiều; sau đó là cảnh tượng trong chiến tranh, những chiếc tàu trục hạm bao vây bến tàu, tòa thị chính sụp đổ, các công binh hoàng gia chuyên chở vật liệu, còn có những chiếc máy bay chiến đấu đang lao đi trên đường băng.
Xem tới đây, George đứng dậy rời khỏi rạp chiếu phim.
Alex cũng đứng lên, muốn đi ra ngoài với anh, người xem phía sau không nhịn được cằn nhằn.
Nam tước Loiseau kéo đứa con trai út lại, kêu hắn ngồi xuống.
“Để anh con đi đi.” Nam tước nhỏ giọng nói: “George chỉ cần chút không khí trong lành thôi.”
Sau khi bộ phim kết thúc, bọn họ tìm được George ở bến tàu, anh đang ngồi một mình trên bờ đê chắn sóng, ngắm nhìn bến tàu.
Trước kia, nơi này từng là chỗ cập bến cho những chiếc thuyền đánh cá nhỏ và những chiếc du thuyền treo đầy cờ màu sắc, ngoài ra còn có cả những chuyến tàu đến Portsmouth.
Nhưng những chiếc thuyền bè của nhân dân đã dần bị thay thế bởi những chiếc tàu chiến hạm, một số đã được trùng tu làm mới, phần lớn vẫn còn vết lõm do bom đạn gây ra nên tàu cũng nghiêng ít nghiêng nhiều.
Cạnh bờ biển có một chiếc xe đẩy nhỏ bị ném đó, đó là loại xe đẩy thường hay bán kẹo bông gòn và những món quà vặt khác, màu sơn rất tươi đẹp nhưng bên trong chất đầy rác rưởi, không biết ai đã tháo mất bánh xe.
Lúc hai đứa bé trai chạy đến bên cạnh, George vẫn nở nụ cười thường thấy, anh khoác áo khoác trên tay, mặc cho Alex kéo tay anh quay về xe hơi.
Trên đường về không ai nói chuyện.
Bữa tối hôm giáng sinh chẳng khác gì một bữa tối bình thường, chẳng qua là có thêm một món tráng miệng khó khăn lắm mới làm được, đổi một bộ chén đĩa khác và có thêm khăn ăn trắng tinh được buộc lại bằng chiếc vòng đánh dấu khăn ăn có hình bông tuyết.
Hai đứa bé trai bị cảnh cáo rằng không được để văng nước sốt lên trên khăn bởi vì “Nhờ ơn Chúa, họ không thể mua xà bông ở đâu cả”.
Đèn đuốc vẫn bị kiểm soát, rèm cửa sổ bị kéo chặt, bốn góc cẩn thận đóng kín để tránh ánh sáng lộ ra ngoài, dẫu sao thì cũng chẳng ai có thể đảm bảo rằng đêm giáng sinh sẽ không có không tập.
Năm ngọn nến chính là toàn bộ nguồn sáng, chúng chỉ chiếu được đến một phần ba bàn ăn, hơn phân nửa phòng còn lại chìm ngập trong bóng tối.
Dưới sự thúc giục của Alex, George ngồi vào chiếc dương cầm bên cạnh cửa sổ, đánh bài “Hark! The Herald Angels Sing”, sau đó là bài “Silent Night”, thậm chí còn đệm cho hai đứa bé trai một đoạn của bài “Run, Rabbit Run”, cuối cùng anh đóng nắp đàn lại, tuyên bố những bài khác đã vượt ngoài năng lực của anh.
Hai đứa bé trai bị đưa về phòng ngủ trước khi món eggnog được dọn lên bàn, bởi vì đồng hồ để bàn đã điểm mười một giờ, vượt xa giờ ngủ bình thường nên phản đối cũng vô dụng.
Bếp lò kiểu cũ ở trong phòng đã được đốt lên nhưng sau khi Harry thay quần áo ngủ, cậu vẫn cảm thấy lạnh đến run người.
Cậu bò vào trong chăn, mò lấy khăn tay của mẹ từ phía dưới gối.
Mùi hoa hồng không thể ngửi thấy cũng giống như thần chú đã biến mất, chiếc khăn tay biến thành món đồ tầm thường, không thể phân biệt giữa những món đồ khác.
Harry nắm chặt chiếc khăn trong tay, co lại thành một đống nho nhỏ ở dưới chăn, cố gắng làm cơ thể ấm lên nhanh nhất có thể.
– —
“Lần cuối cùng tôi đón lễ giáng sinh với người nhà là vào năm 1938.
Cha của tôi đã mua một cây nhựa ruồi, nó rất nhỏ, tôi nhớ ông ấy đã kẹp cái cây dưới nách rồi mang về, trông cứ như một cây chổi được phủ đầy lá.
Chúng tôi dời những chiếc ghế bành sang chỗ khác rồi đặt cái cây vào cạnh cửa sổ.
Mẹ và tôi đã tốn cả một buổi chiều để treo đủ loại đồ trang trí lên đó…!Khi đó vẫn chưa có những dây bóng đèn nho nhỏ đâu, chúng tôi đã dùng ruy băng và giấy màu.
Mẹ nướng bánh ngọt và bánh quy gừng với đủ loại lớn nhỏ, chủ yếu là để chia cho hàng xóm, khoe khoang tay nghề của bà.
Nhiệm vụ chủ yếu của tôi là quậy phá phòng khách và phòng bếp, ăn trộm tất cả những thứ có thể ăn.
Chúng tôi đã đưa một miếng bánh ngọt rất to cho nhà Butler ở cửa đối diện.
Năm 38 con trai họ vẫn chưa đầu quân, nếu tôi nhớ không lầm, anh ấy làm ở một công ty buôn bán chuyên xuất khẩu trà, là một nhân viên văn phòng bình thường.”
“Còn kẹo nữa, kẹo là một cột mốc vô cùng quan trọng, cậu Rivers à, nó đã chia thế giới của tôi thành hai nửa trước và sau.
Trước, chỉ cần cậu muốn ăn, cậu sẽ có, nỗi phiền não lớn nhất chính là làm thế nào để tiết kiệm vài đồng tiền lẻ, không xài bậy bạ.
Tôi không thể tưởng tượng cảnh bảy năm sau những thứ tốt đẹp ấy sẽ không còn tồn tại nữa, nhưng nói đi cũng phải nói lại, chẳng ai có thể tưởng tượng ra viễn cảnh ấy, với cái đầu nhỏ cằn cỗi của chúng ta, dự đoán tương lai là một chuyện quá không công bằng.” Prudence gõ ngón tay vào huyệt thái dương bên phải của mình.
Người phóng viên lễ phép cười một tiếng.
“George rời đi vào sáng hôm sau, khoảng sáu giờ.
Nếu không phải do đồng hồ để bàn đã đánh thức tôi dậy, tôi cũng không biết đâu.
Chiếc xe đậu trên con đường đá vụn ở trước cửa nhà, tôi chỉ có thể nhìn thấy nửa sau xe từ cửa sổ phòng tôi.
George đã đổi lại bộ đồng phục, trông anh ấy già hơn tuổi thật của mình.
Tôi nhìn anh ấy nói lời từ biệt với Martha rồi chui vào ngồi chỗ phó lái, xe lái dọc theo con đường đá vụn.
Qua rất nhiều năm sau, tôi mới có dịp gặp lại George.”
“Trừ chuyện đó, hôm ấy là một buổi sáng bình thường.
Trong phòng bếp không có ai, cũng không có bánh mì tươi bởi vì người đầu bếp đã về nhà.
Tôi ăn một ít thịt đông lạnh còn dư lại hôm qua rồi đến phòng hứng nắng như mọi ngày, nhưng mà trong phòng quá lạnh, vì vậy tôi lên thư phòng ở trên lầu.
Cầu thang ở phía tây thường rất âm u, vào sáng mùa đông còn đáng sợ hơn rất nhiều, tôi luôn có cảm giác sau lưng mình có tiếng bước chân nên phải chạy như điên, chừng nào đến trước lò sưởi trong thư phòng mới dừng lại.”
“Kế hoạch ban đầu của tôi là đọc sách, tôi đã đọc gần xong quyển Immensee, bây giờ nhìn lại mới thấy quyển tiểu thuyết ấy có chút chẳng lành: Tôi biết loại hoa súng này, nhưng đó đã là chuyện từ rất lâu trước kia rồi, nghe như một lời tiên tri đầy đau buồn được sắp đặt trước nhỉ…!Tôi có thể thấy cậu không tin vào những lời tiên đoán điên khùng, cậu Rivers, hồi còn trẻ tôi cũng không tin.
Nói tóm lại, tôi không thể tìm được quyển sách của tôi nhưng đã tìm thấy quyển sổ tay của Alex, nó nằm phía dưới quyển sách tiếng Pháp.”
“Tôi biết tôi nên để quyển sổ tay ở yên chỗ cũ, giả bộ như chưa từng phát hiện ra nó nhưng tôi rất tò mò, hơn nữa cả nhà đều yên tĩnh, giống như không có ai ở bên trong nên nó đã cho tôi một ít dũng khí mà tôi không nên có.
Tôi rút quyển sổ tay ra rồi lật mở.”
“Chữ của Alex luôn rất ngay ngắn, trông gọn gàng hơn của tôi nhiều, cậu ấy hay kéo dài chữ h và f nên nếu viết quá vội, chúng sẽ nhìn như những sợi kẽm nhỏ, đến bây giờ tôi vẫn không đọc hiểu những tờ ghi chép được cậu ấy viết ẩu rồi dán ở trên tủ đầu giường, mỗi khi tôi oán trách cậu ấy, cậu ấy sẽ nói Harry, lần sau tớ sẽ viết lên mặt cậu đó.” Prudence khẽ gật đầu, mỉm cười về phía cửa sổ, vết chân chim ở quanh mắt càng trở nên rõ ràng hơn: “Tôi lạc đề rồi đúng không? Đúng vậy.
Trong quyển sổ tay của Alex có viết một câu chuyện, tôi nghĩ đây là tác phẩm đầu tiên của cậu ấy, ít nhất là tác phẩm đầu tiên được viết một cách nghiêm túc.
Cậu ấy tả về một căn nhà được xây giữa vùng hoang dã, xung quanh trồng đầy hoa hồng và cây sồi.
Sống trong đó là một nhà Mayweed, mỗi ngày bọn họ chăm sóc hoa hồng, gieo trồng giống mới, tất cả mọi chuyện đều rất tốt, chỉ trừ một chuyện lạ.”
“Vào một ngày bão táp, cửa sổ ở phòng khách bỗng bật mở, nước mưa thấm ướt tấm thảm, trong lúc dọn dẹp, ông Mayweed phát hiện ra vài chiếc lông chim có màu xám tro: Có lẽ là của những chú chim trú khỏi cơn mưa, ông nghĩ, không để ý gì nhiều.
Nhưng vài ngày sau, trong phòng bắt đầu vang lên những âm thanh kỳ lạ, nghe giống như là có con vật với móng vuốt sắc nhọn nào đó đang lao đi trên sàn gỗ.
Mới đầu, âm thanh này chỉ xuất hiện vào những ngày mưa nhưng càng về sau, chúng xuất hiện bất chấp thời tiết, có một lần con gái của nhà Mayweed còn bắt gặp một cái bóng đen chợt lóe lên.”
“Người trong nhà tìm tòi khắp nhà một lần, không bỏ qua dù chỉ là một xó xỉnh nhỏ nhất nhưng vẫn không thu hoạch được gì.
Tiếng móng vuốt cào trên mặt đất xuất hiện vào một tối nọ nhưng khi bọn họ cầm giá cắm nến chạy lên lầu để kiểm tra, họ lại chẳng nghe thấy gì nữa.
Dần dà, không người nào dám bàn luận về con quái vật chưa bao giờ xuất hiện này nữa, càng không có người nào có thể bắt được nó, nó đã trở thành bóng ma trong lòng tất cả mọi người.”
“Buổi sáng nọ, con trai cả nhà Mayweed biến mất.
Không hề báo trước, không có dấu vết.”
“Tôi xem quá chăm chú, căn bản không nghe thấy Alex vào phòng từ lúc nào, cậu ấy cướp lấy quyển sổ tay từ trong tay tôi, dùng sức đẩy tôi một chút, thiếu chút nữa tôi đã té xuống mặt đất.
Cậu ấy nắm chặt quyển sổ tay, tôi còn chưa kịp nói lời nào, cậu ấy đã sải bước đến bên cạnh lò sưởi sát tường, ném quyển sổ vào trong đống lửa.”
“Cả nhà Mayweed và quái vật móng vuốt cũng biến mất mãi mãi.”
“Cậu ấy đi mất, từ đó không thèm nói chuyện với tôi nữa, cho dù có ngồi trên cùng một bàn ăn cũng làm bộ như không nhìn thấy tôi.
Cậu ấy không đến phòng của tôi nữa, cũng không xuất hiện ở phòng hứng nắng nốt.
Có lúc tôi trông thấy cậu ấy dắt Mercury đi dạo trong vườn hoa, cậu ấy không hề ngẩng đầu lên, tôi cũng không biết cậu ấy có để ý thấy tôi đang nhìn cậu ấy không nữa.”
Prudence hít một hơi thật sâu, nhìn mu bàn tay của mình.
“Những ngày cuối cùng của tháng mười hai, trời đổ mưa kèm tuyết, năm 1940 đến đây là chấm dứt.”.