Dương Thu Trì khom người nói: “Thái tử là người kế vị quốc gia, thiên tử tương lai, đương nhiên có bách thần phù hộ, nhất định gặp hung hóa cát, ngộ nạn vẫn an lành.”
“Hừ! Với cái thân lao bệnh của hắn, an lành cái **** gì … a…! Bổn vương biết rồi, ngươi là lo bổn vương một khi làm thái tử, những ngày tháng của ngươi sẽ chẳng tươi đẹp gì, ha ha ha, ngươi yên tâm, bổn vương tuy đã nói là muốn diệt cửu tộc của ngươi, nhưng mà hai mỹ thiếp của ngươi bổn vương vẫn lưu lại. Bổn vương sẽ tự thân chiếu cố chúng thay cho ngươi, chiếu cố chúng cho thật tốt đó…” Chu Cao Hú và Kỷ Cương đưa mắt nhìn nhau, đều lớn tiếng cười cợt.
Dương Thu Trì cảm giác lửa giận trong tâm sắp sửa bốc lên đỉnh đầu, có một thứ xung động cứ muốn rút súng ra tặng cho hai con rùa đen này mỗi tên một viên, bắn nát cái sọ chứa đầy thứ xấu xa của chúng.
Đúng lúc này, người hầu vào trong trình báo đã quay trở ra, nói với Dương Thu Trì: “Hầu gia, thái tử điện hạ thỉnh ngài vào trong.”
Dương Thu Trì chuyển thân rời khỏi phòng khách, sau lưng vẫn vang vọng tiếng cười dâm đãng đầy đắc ý của hai người.
Tống Vân Nhi vừa rồi cùng với bọn Nam Cung Hùng ở ngoài, không biết tình huống trong phòng khách, lúc này thấy Dương Thu Trì tức giận phừng phừng đi ra, vội hỏi: “Ca, thế nào rồi? Đã xảy ra chuyện gì?”
Dương Thu Trì nghiến răng nghiên lợi đáp: “Hai tên cẩu tặc đó khi người thái quá, thật là nhịn không thấu mà!”
Tống Vân Nhi còn muốn hỏi tiếp, Dương Thu Trì khoa tay, kéo nàng vào trong nội phủ của thái tử.
Thái tử phủ không nhỏ hơn bao nhiêu so với nội viện của hoàng cung. Bọn người họ dưới sự dẫn đường của bọn hộ vệ, xuyên qua các đền đài lầu các, hành lang khúc khủyu, đi cả nửa ngài mới tới tẩm cung của thái tử.
Thái tử đang nằm dựa trên giường, sắc mặt tái nhợt, hai mắt nhắm nghiền, tay phải vịn ở ngực, gian nan hô hấp.
Một đứa bé khoảng mười tuổi ngồi bên giường, kéo tay trái của thái tử, lo lắng nhìn vào mặt y. Hai vị thái y ngồi ở ghế bên giường, một người đang bắt mạch cho thái tử, Dương Thu Trì và Tống Vân Nhi không dám quấy nhiễu, tĩnh lặng đứng kế bên.
Thị nữ bước tới nhỏ giọng thưa: “Điện hạ, Dương hầu gia đến thăm ngài.”
Nghe được lời này, thái tử hơi nhướn mắt, nhìn ra Dương Thu Trì và Tống Vân Nhi, gật gật đầu, tiếp theo đó thống khổ nhắm hai mắt lại, bóp chặt áo bào phía ngoài tim.
Dương Thu Trì thấy y thống khổ như vậy, không dám gợi cho y nói, chỉ tĩnh lặng đứng hầu.
Vị thái y này bắt mạch xong, vị khác lại lên bắt mạch, lại phải chờ một hồi. Hai vị thái y sau đó thì thảo trao đổi gì đó, sau đó đưa ra hai phương thuốc, cho dược đồng mang thuốc trên vai đi theo đó bốc theo hai phương này.
Trong lúc đó, thái tử nhất mực thở phì phì, nhắm chặt hai mắt, tay dằn nơi ngực, thần tình vô cùng thống khổ.
Nhìn thấy tình cảnh này, Dương Thu Trì đoán là thái tử bị bệnh về hệ thống tim mạch, nhưng cụ thể là loại bệnh gì thì chưa kinh qua chẩn đoán, hắn không thể nói rõ.
Chính vào lúc này, bên ngoài có một thị nữ tiến nhanh vào: “Thái tử điện hạ, hoàng thượng đến thăm ngài rồi.”
Tiếp theo đó, một loạt tiếng bước chân truyền tới, vài thái giám và cung nữ tiến vào cửa, đứng ra hai bên, một thái giám lớn tiếng xướng giọng: “Thánh giá đến….! Quỳ nghênh!”
Dương Thu Trì cùng mọi người vội quỳ xuống, cậu bé ngồi bên giường cũng quỳ theo. Lát sau, Minh Thành Tổ sắc mặt âm trầm tiến vào phòng.
Minh Thành Tổ xua xua tay, cho bọn họ bình thân, bước tới trước mắt cậu bé, tự thân đỡ cậu bé dậy. Cậu bé khóc như mưa: “Hoàng gia gia, cha cháu… hu hu hu.”
Minh Thành Tổ yêu thương vuốt ve đầu của cậu bé: “Cơ nhi, đừng có lo, có hoàng gia gia ở đây, cha cháu không có chuyện gì đâu.”
Dương Thu Trì bấy giờ mới minh bạch cậu bé này chính là con trai lớn Chu Chiêm Cơ của thái tử điện hạ. Xem ra thì Minh Thành Tổ vô cùng yêu thích đứa cháu này.
Minh Thành Tổ gật gật đầu với Dương Thu Trì, coi như là chào hỏi, tiếp theo đó đến bên giường. Chu Cao Sí đã biết phụ hoàng tới, cố gượng ngồi dậy, nhưng Minh Thành Tổ án tay lên vai y, ra ý cho nằm xuống, nhỏ nhẹ hỏi: “Cao Sí, cảm giác thế nào?”
Chu Cao Sí ôm ngực, gian nan đáp: “Đa tạ phụ hoàng quan tâm, thần nhi cảm thấy tim đau nhói, rất khó chịu.”
Minh Thành Tổ gật đầu, ngoắc tay gọi hai thái y đó đến bên cạnh, thấp giọng hỏi: “Bệnh tình thái tử thế nào?”
Hai thái y đưa mắt nhìn nhau, một vị khom người: “Hồi bẩm hoàng thượng, thái tử bị bệnh ‘Tâm Tý’, giống y như những lần phát bệnh trước, đều là tâm tì khí huyết suy hư, chính khí không đủ, các tà thuộc phong, hàn, thấp, nhiệt từ ngoài da xâm phạm huyết mạch, tì vị thấp khốn không thể vận chuyển thủy khí khiến cho tim dần bị phế, cho nên ngực buồn buồn, tâm hoảng, khí suyễn, chân dưới phù thủng…”
Một thái y khác cũng khom người thưa: ‘Không sai, bệnh của thái tử cần phải tu bổ tim và tì, hóa khí hành thủy, khu phong hoạt huyết thông kinh lạc. Thần cũng đã dùng đương quy, bạch thược, quế chi, đơn sâm, khương hoạt, độc hoạt, phục thần….”
“Đơợc rồi được rồi, không cần nói kỹ như vậy, các ngươi cứ nói bệnh của thái tử của khẩn cấp hay không là được.”
“Phục dược xong tính mệnh xem ra vô phương, chỉ có điều bệnh này của thái tử sẽ thường phát đột nhiên giống như những lần trước, bệnh tình sẽ ngày càng nghiêm trọng, bọn thần tuy đã hạ dược đối với bệnh chứng, làm giảm bệnh tình, chỉ có điều…”
Minh Thành Tổ nhíu mày: “Chỉ có điều gì?”
“Vi thần không dám nói!” Hai vị thái y sợ hãi quỳ xuống dập đầu.
“Thứ cho các ngươi vô tội, đứng dậy nói đi.”
“Tạ hoàng thượng.” Hai vị thái y đứng dậy, vị thái y nói bệnh chứng đầu tiên nhìn người còn lại, thấy
người kia gật đầu, bấy giờ mới thưa: “Hồi bẩm hoàng thượng, nhưng năm này bệnh tim của thái tử đã phát mười mấy lần, lần sau nghiêm trọng hơn lần trước, trước khi phát bệnh không có triệu chứng gì, đột nhiên mà phát, khiến người không thể đề phòng, cũng không có cách gì đoán trước. Những năm nay, để chẩn trị cho bệnh của thái tử, mọi thái y trong thái y viện đã nhiều lần hội chân, đều không tìm được biện pháp hữu hiệu nào có thể trị dứt căn. Do đó, bọn vi thần đều e rằng, một ngày nào đó trong tương lai, bệnh tình của thái tử cuối cùng sẽ ác hóa, đến lúc đó…”
Minh Thành Tổ trầm trọng hỏi: “Theo như các ngươi chuẩn đoán, thì thái tử còn bao nhiêu thời gian nữa?”
“Cái này không dễ phán đoán, nhiều thì ba đến năm năm, ít thì ba tháng, tất cả đều có khả nang. Đương nhiên, không bài trừ có kỳ tích phát sinh, thái tử tặng thêm tuổi thọ…”
Minh Thành Tổ cũng hi vọng vào kỳ tích, nhưng đấu tranh chính trị tàn khốc cho ông ta biết, không thể đem hi vọng ký thác vào kỳ tích từ trên trời rơi xuống, cần phải có mọi chuẩn bị mới được. Ông ta gật gật đầu, khẽ suy tư quay trở lại giường.
Lời nói chuyện giữa Minh Thành Tổ và thái y tuy nhỏ, cách thái tử tuy xa, nhưng cự li khá gần Dương Thu Trì. Hơn nữa, đoạn thời gian này hắn theo Liễu Nhược Băng khổ luyện võ công, tai từ từ thính hơn hẳn, cho nên âm thanh tuy nhỏ, nhưng hắn vẫn miễn cưỡng nghe ra. Sau khi nghe xong lời hai vị thái y, hắn không khỏi cả kinh.
Thái tử bệnh tình nghiêm trọng, chỉ sợ phải thay vị thái tử này rồi. Minh Thành Tổ yêu thích nhị hoàng tử Chu Cao Hú như vậy, chín phần mười ngôi vị thái tử này sẽ truyền lại cho nhị hoàng tử, và như thế thì Dương Thu Trì hắn xui xẻo gặp đại họa tới nơi rồi. Xem ra, chức quan của hắn đã đến lúc phải treo, suốt ngày phải lo ngay ngái, cũng nên treo ấn từ quan cho xong. Thậm chí hắn còn phải sớm nghĩ đường lui, nhân lúc nhị hoàng tử chưa kế vị, đối với hắnvà gia đình còn chưa làm được chuyện gì, nhanh chóng tìm biện pháp bỏ trốn.
Rời khỏi thái tử phủ về nha, Dương Thu Trì triệu tập chúng nữ, nói về chuyện này, và đem nỗi lo trong lòng nói ra luôn.
Chúng nữ đều mang tâm tình trầm trọng, trước mắt cuộc tranh đấu giữa Dương Thu Trì và Kỷ Cương bắt đầu nghiêng về phần hắn, thì lại xảy ra sự tình thái tử bệnh nặng. Nếu như thật sự phải đổi thái tử, đổi thành nhị hoàng tử Chu Cao Hú, thì trừ khi Dương gia họ tạo phản, nếu không thì phải rời khỏi đây sớm, mới còn có một con đường sống.
Chúng nữ thương lượng một hồi, cuối cùng đề ra chủ ý: xem tình thế như vậy, hoàng thượng nhất định sẽ sớm có bước đi kế tiếp trong thời gian rất gần, và ra quyết định mới về vị trí thái tử này. Một khi hoàng thượng quyết định đem vị trí thái tử truyền cho nhị hoàng tử Chu Cao Hú, thì không cần phải đấu tranh với Kỷ Cương nữa, lập tức chuẩn bị bán hết gia sản, bí mật chạy ra hải ngoại, sống tiêu diêu những ngày tháng êm đềm.
Có được chủ ý này, mọi người cũng an tâm hơn.
Sáng hôm sau, trời còn chưa sáng, Dương Thu Trì án theo trống canh mà đến phòng cửu khanh ở hoàng cung, chờ lên chầu sớm. Người cổ đại có hoạt động vui chơi ban đêm rất ít, cho nên quen với việc ngủ sớm dậy sớm, thường là canh 1 đã lên giường, canh 3 (tức 12 giờ khuya) thì người cổ đã ngủ được một giấc rồi, trong khi đó người hiện đại còn tiêu sái thong dong đi lại ngoài đường.
Tiết Lộc nhìn thấy Dương Thu Trì, nồng nhiệt vô cùng, kéo tay hắn ngồi xuống trò chuyện. Dương Thu Trì mấy ngày nay đại náo Bắc Trấn Phủ Ti, pháp trường và ngọ môn, ở trước mặt hoàng thượng tiến hành nghiệm thây lật ngược án oan của Vân Lăng… Những chuyện này đã lan truyền khắp kinh thành. Lúc đó không có quá nhiều tin tức đáng quan tâm như thời hiện đại , do đó, mọi sự kiện đều được rất nhiều người để ý, gây chấn động khắp nơi. Rất nhiều quan viên cũng biết về việc này, người có cốt khí thì bội phục Dương Thu Trì, đua nhau đến bái kiến. Người không dám chọc giận Kỷ Cương nhưng bội phục trong lòng thì đứng xa xa mỉm cười với hắn. Còn bè đảng của Kỷ Cương thì âm trầm mặt mũi, nhìn xem tên nào không sợ chết dám chọc giận Kỷ Cương.
Tiết đô đốc đã nói rõ là cùng tiến thối với Dương Thu Trì, hai ngày nay biết Dương Thu Trì giao phong quyết liệt với Kỷ Cương, đã dần chiếm thế thượng phong, cho nên từ đó cũng tràn đầy lòng tin, cười nói vui vẻ với hắn.
Vào lúc này, Kỷ Cương chống quài trượng bước tới, các quan đua nhau tránh. Kỷ Cương thấy Tiết đô đốc đang ngồi cười nói với Dương Thu Trì, mặt sầm xuống, mũi hừ mạnh. Tiết đô đốc có phần bối rối, đứng dậy cung tay chào y: “Kỷ đại nhân, tới sớm a!”
Tiết đô đốc tính tình cẩn thận, bận tâm nhiều chuyện, không dám đấu với Kỷ Cương. Kỳ thật ông ta thân là ngũ quân đô đốc, cũng siêu phẩm hầu gia, trong tay nắm trọng binh, là trọng thần của Minh Thành Tổ, nếu đấu với Kỷ Cương thật thì chưa biết hươu chết về tay ai. Nhưng mà, ông ta tuy có chủ ý cùng tiến thối với Dương Thu Trì, vẫn không dám đắc tội thẳng với Kỷ Cương, cho nên mới khách sáo làm lễ chào với Kỷ Cương.
Kỷ Cương dường như không thấy ông ta vậy, bước tới trước mặt Dương Thu Trì, mặt âm trầm, chấp tay xá xa: “Dương đại nhân, dậy sớm a?”
Dương Thu Trì đáp lễ: “Kỷ đại nhân dậy sớm!” Rồi không nói gì nữa.
Kỷ Cương liếc xéo Tiết đô đốc bên cạnh một cái, nói tiếp: “Dương đại nhân, bổn quan nguyên có hộ vệ là Lâm Viễn gian sát ái thiếp của Tiết đô đốc và hai nha hoàn, hoàng thượng mệnh lệnh ngài xử tử hắn, vậy định khi nào hành hình vậy a? Bổn quan còn chờ thu thây cho hắn đây.”
Tiết đô đốc vừa kinh vừa mừng, hỏi: “Dương đại nhân, thì ra là án này đã phá rồi, quá tốt a, ta vừa rồi sao không nghe ngài nói vậy?”
Dương Thu Trì nhất thời không biết nói sao cho phải, bản thân đã thả Lâm Viễn vô tội đi rồi, nhưng chuyện đó không thể nói ra, tránh đánh cỏ động rắn, không những khiến cho Kỷ Cương truy sát Lâm Viễn còn chưa chạy xa, mà còn khiến y đề cao cảnh giác, sẽ gây hỏng việc.
Dương Thu Trì đáp: “Hoàng thượng đích xác là có thánh mệnh, nhưng mà, không hề hạn định bổn quan hành hình vào lúc nào. Hơn nữa, đây là sự tình của bổn quan, không cần phiền Kỷ đại nhân phải phí tâm.”
Kỷ Cương nhíu mày: “Dương đại nhân, hoàng thượng tuy không hạn định thời gian hành hình, nhưng dù sao Tiết đại nhân vẫn còn chờ báo thù rửa hận cho ái thiếp của ông ấy làm chi.” Y quay sang Tiết đô đốc: “Bổn quan nói có phải không, Tiết đại nhân?”
Tiết đô đốc cười cầu tài: “Phải. Nếu như tra ra chân hung, bổn quan đương nhiên hi vọng sớm đưa hung thủ ra thực hiện chính pháp, để an ủi cho vong linh của ái thiếp của bổn quan ở chín suối.”
Dương Thu Trì bất đác dĩ phải nói với Tiết Lộc: “Tiết đại nhân, án này còn một số chi tiết còn chưa tra rõ, do đó ta chưa báo cho ông biết, chờ khi tra ra rõ ràng, nhất định sẽ bẩm báo với Tiết đại nhân.”
Kỷ Cương cười lạnh: “Dương đại nhân đừng có ở đó mà giả bộ ngớ ngẩn để lừa chúng ta nữa. Ngươi đã tự thả Lâm Viễn rồi, bổn quan nói không sai chứ?”
Lòng Dương Thu Trì trầm xuống, tên Kỷ Cương này quả là tin tức có phần linh thông. Lúc thả Lâm Viễn, chỉ có Tống Vân Nhi, Nam CUng Hùng, Từ Thạch Lăng và Thạch Thu Giản ở đó. Bốn người này hắn đều tin tưởng, không thể tiết lộ tin tức. Khẳng định là Lâm Viễn bị đưa khỏi đại lao, nhưng lại không bị đưa trở về, cho nên tai mắt của Kỷ Cương báo cáo điều này, Kỷ Cương lập tức đoán là hắn đã thả Lâm Viễn.
Xem ra, trong đại ngục của Nam Trấn Phủ ti hay những chỗ khác còn có tai mắt của Kỷ Cương. Cái này cũng khó trách, vì Kỷ Cương thống lĩnh cẩm y vệ nhiều năm, tuy hắn đã nỗ lực cải tạo Nam trấn phủ ti, nhưng vẫn chưa hoàn toàn tiêu trừ tai mắt của Kỷ Cương. Những tên mật thám này nhiều như lông trâu, lại ẩn tàng rất sâu, muốn thanh trừ triệt để chỉ còn có một biện pháp, đó là trừ luôn Kỷ Cương, hắn lên làm chỉ huy sứ!
Kỷ Cương cười lạnh, không nói gì nữa.
Dương Thu Trì lập tức biết, lát nữa đây trong buổi triều sớm, Kỷ Cương ắt sẽ gây phiền phức cho hắn, hắn bắt đầu tính toán làm sao để đối phó.
Tiết đô đốc không hiểu nhìn Dương Thu Trì hỏi: “Dương đại nhân, ngài vì sao thả chân hung đi?”
Kỷ Cương quả là thập phần giảo hoạt, toan tính dùng chuyện này phân hóa liên minh của hắn và Tiết đô đốc. Chuyện đến thế này, Dương Thu Trì chỉ có thể lời thật nói với Tiết Lộc, nếu không sẽ mất đi minh hữu trọng yếu này. Hơn nữa, hiện giờ có ẩn giấu cũng không được, bỡi vì lát nữa đây khi thượng triều, Kỷ Cương khẳng định sẽ đem chuyện này trình tấu, lúc đó hắn buộc phải nói rõ nguyên do, chi bằng nói luôn ngay bây giờ.
Nghĩ thế, Dương Thu Trì kéo Tiết Lộ ra xa, nhỏ giọng nói: “Tiết đại nhân, Lâm Viễn không phải là chân hung, chân hung là một kẻ khác, ta đang tiếp tục điều tra. Kỷ Cương tính dùng chuyện này phân hóa chúng ta, chúng ta đừng mắc mưu của hắn.
Tiết Lộc nghe thế chợt tỉnh người hiểu ra: “Thì ra là thế, ta nói rồi mà, nếu như Dương đại nhân ngài tìm ra được chân hung, không cần phải giấu diếm với ta làm gì.”
Dương Thu Trì cười cười: “Hoàng thượng lệnh cho ta giết Lâm Viễn, để cấp cho ngài một lời giải đáp. Nhưng Lâm Viễn không phải là chân hung, ta không thể sát hại vô cớ. Chờ một lát thượng triều, Kỷ Cương khẳng định sẽ dùng chuyện này làm khó ta.”
Tiết Lộc cả kinh: “Vậy làm sao bây giờ?”
“Yên tâm, ta đã nghĩ kỹ sách lược đối ứng, chỉ là một lát nữa chỉ sợ phải cần Tiết đô đốc nói giúp ta vài tiếng mới được.”
Tiết Lộc khom người chấp tay: “Dương đại nhân vì sự tình của Tiết mỗ mà bị tên khốn Kỷ Cương đó kiếm cớ hãm hại, Tiết mỗ cảm thấy rất áy náy. Dương đại nhân yên tâm, chờ một lúc thượng triều, Tiết mỗ nhất định cố sức tranh lý, không để cho tên khốn đó đạt mục đích.”
Vừa lúc đó, thời gian lên chầu sớm đã đến. Các quan án chiếu theo phẩm trật lớn nhỏ mà xếp hàng tiến vào Cẩn Thân điện, y theo bài hiệu mà quỳ nghênh hoàng thượng ra chầu. Sau khi hoàng thượng lên ngự ở long tọa, ba lần hô vạn tuế xong, họ bới bình thân, nhỏm người đứng hai bên.
Tư lễ thái giám lớn tiếng hô: “Có việt hãy tấu, không việc thối triều…!”
Kỷ Cương chậm bước tiến lên, khom người thừa: “Vạn tuế, nguyên thuộc hạ của vi thần là Lâm Viễn mắc tội gian sát ái thiếp của Tiết đô đốc và hai nha hoàn, thánh mệnh cho chém đầu. Lâm Viễn tuy là bề dưới của vi thần, nhưng với vi thần tình như huynh đệ, nghe tin dữ đau xót vô cùng. Vi thần niệm chút tình huynh đệ, muốn thu thi hậu táng cho hắn, chỉ có điều không biết xử trảm khi nào, đặc biệt khởi tấu hoàng thượng, khẩn thỉnh long ân định ra ngày cho chết, để vi thần tiện đến thu thây.”
Minh Thành Tổ gật gật đầu: “Kỷ ái khanh đối với thuộc hạ khoan hậu nhân ai, đáng tiếc và đáng khen thay.” Ông ta quay sang Dương Thu Trì: “Dương ai khanh, đem tên Lâm Viễn đó ra xử trảm hôm nay vậy, trước khi xử trảm thông tri cho Kỷ ái khanh, để hắn phái người thu thây.”
Tim Dương Thu Trì bắt đầu đập rộn, cố làm gan chậm bước ra, chấp tay khom người thưa: “Vạn tuế, không thể chém Lâm Viễn.”
Minh Thành Tổ nhíu mày: “Vậy là thế nào?”
“Vi thần đã tra rõ ràng là Lâm Viễn không phải là chân hung gian sát ái thiếp của Tiết đô đốc, là người vô can, cho nên không thể chém được.”
“Vậy hung thủ thật sự là ai?”
“Vi thần đang tiến hành điều tra thêm bước nữa, trước mắt chưa thể phá an.”
Minh Thành Tổ hừ một tiếng lạnh lùng: “Ngươi trước đó nói Lâm Viễn là chân hung, hiện giờ lại nói là không phải, đạo lý ở đâu ra thế?”
“Vi thần trước đó chỉ nói Lâm Viễn có hiềm nghi phạm tội trọng đại. Nhưng phàm là tội án hình danh, có ba bốn kẻ hiềm nghi là chuyện thường, công tác của bọn vi thần là từ số hiềm nghi phạm tội này bài trừ người vô can oan uổng, lôi chân hung ra ánh sáng.”
“Nếu như Lâm Viễn đã không phải là chân hung, và hiện giờ ngươi có manh mối gì về chân hung hay không, án này dự định phán xử và kết thúc thế nào?”
Dương Thu Trì cung tay làm lễ thật sâu: “Tuy chân hung chưa lộ tung tích, nhưng lưới trời lồng lộng mà một mãi lông cũng không lọt, tất có một ngày sẽ đền tội mà thôi. Vi thần sẽ tận tâm kiệt lực, trinh phá án này.”
“Nếu không tìm ra được chân hung thì sao?”
“Vi thần cho rằng, cho dù không tìm được chân hung, cũng không thể giết uổng người vô tội để làm cho xong án!”
“To gan!” Kỷ Cương nạt ngang: “Dương đại nhân, ngươi không ngờ dám ở trong triều chỉ trích hoàng thượng giết oan người vô tội, nên khép vào tội gì?”
“Bổn quan thân là Ứng Thiên phủ phủ doãn, chuyên hỏi về hình danh, chính là y theo khâm định của thái tổ trong “Đại minh luật”, rằng khi hỏi án nếu có tội phải trừng, nếu biết rõ là vô tội thì tuyệt không phán bừa, nếu không, đó là tội trạng cố ý khép tội cho người. Bổn quan đương không nổi đâu!”
Kỷ Cương chỉ vào Dương Thu Trì cười nói: “Ha ha, ngươi không chịu nổi tội cố ý khép tội bừa cho người, thì phải chịu tội kháng chỉ khi quân!”
“Kỷ đại nhân nói lời này sai rồi!” Tiết đô đốc bước ra khỏi hàng, khom người thưa với Minh Thành Tổ: “Ái thiếp của vi thần bị giết, tất nhiên hy vọng bắt được chân hung quy án, báo cừu cho ái thiếp. Nhưng mà, nếu như lạm dụng người khác định tội thế cho xong, kết luôn án này, thì không phải là điều vi thần mong mỏi.”
Kỷ Cương quát: “Ngươi… ngươi sao biết hoàng thượng lạm dụng người khác định tội thay? Án này là hoàng thượng khâm định, ngươi nói như vậy, rõ ràng là coi thường thánh thượng! Thật đúng là đại nghịch bất đạo!”
Dương Thu Trì cười lạnh: “Chúng ta đại nghịch bất đạo? Có ngươi rõ ràng biết là Lâm Viễn không phải là chân hung của án, thật chất là vô tội, thế mà muốn đưa cho bổn quan chém đầu, đó có thể coi là có đạo hay không?”
Sắc mặt Kỷ Cương biết hẳn: “Ngươi nói cái gì? Ngươi dám phỉ bán bổn quan?”
“Ta đâu có chỉ mặt nói tên, ngươi sao lại biết là ta nói ngươi? Ngươi rõ ràng là làm giặc nên giật mình thon thót, giấu đầu lòi đuôi.”
Sắc mặt của Kỷ Cương vô cùng khó coi, giơ tay chỉ Dương Thu Trì: “Ngươi… ngươi kháng chỉ bất tuân, tự tiện thả khâm phạm, còn dám cứng miệng…”
“Được rồi!” Minh Thành Tổ ngồi trên ngai rồng quát lên một tiếng, “Trẫm đã cảnh cáo hai ngươi không được người nhà đấu nhau nữa, nếu không sẽ lấy tội kháng chỉ mà luận, sao lại nói qua nói lại là cãi vã đụng độ nhau rồi? Chẳng lẽ muốn bức trẫm dùng đình trượng đối đãi với hai ngươi thật?”
Kỷ Cương và Dương Thu Trì vội quỳ xuống dập đầu, luôn miệng nói không dám.
Minh Thành Tổ hừ lạnh một tiếng, dừng lại một lúc, hỏi Dương Thu Trì: “Dương ái khanh, ngươi thật sự thả Lâm Viễn rồi?”
Dương Thu Trì thưa: “Vi thần đã bài trừ hiềm nghi y là chân hung gian sát ái thiếp của Tiết đô đốc, hiện giờ không có chứng cứ chứng minh y có tội, cho nên đã thả ra.”
Dương Thu Trì hơi e ngại là Minh Thành Tổ sẽ hỏi hắn căn cứ vào đâu mà chứng minh Lâm Viễn vô tội. Những chứng cứ này liên quan đến giám định nhóm máu thuộc thời hiện đại, cho nên sẽ thật là phiền phức nếu phải nói ra. Rất may lần trước Dương Thu Trì ở ngọ môn nghiêm thây hai lần, đã chứng tỏ bản lĩnh thật sâu, và cũng khiến cho Minh Thành Tổ như đi trong mây mù, biết là hỏi cũng như không, lời đáp không nằm ngoài một loạt tự ngữ mà ông ta không thông, cho nên chẳng hỏi cho xong.
Minh Thành Tổ nhìn chằm chằm Dương Thu Trì, lòng nghĩ, trên đời này quả thật là còn có người ngu si như vậy. Án này rõ ràng là vô cùng phức tạp, ông ta đã cấp cho hắn một cơ hội hạ đài, hắn thế mà không chịu xuống, còn kháng chỉ thả nhân phạm, quả thật là không có chút quyền biến linh hoạt gì. Nếu cứ khăng khăng công bình chấp pháp như vậy, thì làm sao có thể len lỏi chốn quan trường a?
Minh Thành Tổ thở dài bất lực, nói: “Dương ái khanh, cái đạo làm quan này, ngươi… ngươi là thật không biết hay giả vờ không biết a?”
Dương Thu Trì dập đầu thưa: “Thứ mà vạn tuế gia xem trọng chính là khả năng phá án của vi thần, là bản lãnh tìm ra hung thủ chủ mưu của vi thần, chứ không phải là chỉ biết ù ù cạc cạc từ không nói có hãm hại người vô tội. Vi thần nhờ có thánh ân, chấp chưởng chức phủ doãn của Ứng Thiên phủ, tự nhiên phải chí công vô tư, không được tha một tội phạm nào, cũng không oan uổng người vô tội nào. Vi thần hiểu thánh ý như vậy, cho nên mới làm như thế.”
Minh Thành Tổ gật gật đầu, lại thở dài một hơi, nói với Tiết đô đốc: “Tiết ái khanh nói rất có lý, báo thù thì phải tìm thấy chân hung, không thể kéo loạn một người vào cho đủ số, như vậy không thể gọi là báo thù được nữa.”
Ông ta quay sang nói với Dương Thu Trì: “Được rồi, Dương ai khanh, án này là do ngươi điều tra, nếu như ngươi cho rằng Lâm Viễn không phải là chân hung, đích xác là không thể chém đầu, trẫm chuẩn cho ngươi tiếp tục tra, sớm ngày bắt chân hung quy án.”
Dương Thu Trì dập đầu thưa: “Vi thần lĩnh chỉ, tạ chủ long ân!” Xong đưa mắt nhìn Kỷ Cương, thấy thần tình của y ủ rũ, lòng vô cùng đắc ý, vì trận này lại thắng rồi. Tiếp theo sự thấu hiếu ngày càng sâu của hoàng thượng đối với hắn, Dương Thu Trì càng lúc càng có tự tin là bản thân sẽ thắng trong trường tranh đấu này.
Minh Thành Tổ nói: “Dương ái khanh, Kỷ ái khanh, Tiết ai khanh và các đô đốc ngũ quân, thượng thư lục bộ, Đại lý tự, Thông chánh ti, cửu khanh của Đốc sát viện, cùng Nội các thủ phụ học sĩ Hồ Quảng, nội các học sĩ Dương Vinh, Dương Sĩ Kỳ, theo trẫm đến Văn Uyên các nghị sự. Thối triều đi!” Nói xong ông ta đứng dậy bỏ đi.
Sau khi thái tổ hoàng đế Chu Nguyên Chương cử tử thừa tướng Hồ Duy Dung xong, triệt tiêu luôn chức thừa tướng tồn tại từ nghìn năm nay, đồng thời cũng phế trừ luôn các chức Trung thư tỉnh và các tỉnh khác, chỉ giữ lại Thượng thư tỉnh, nhưng lại không thiết lập quan đứng đầu là thượng thư lệnh, thậm chí ngay cả tả hữu phó xa đều không thiết lập. Như vậy, dưới hoàng đế chỉ có thượng thư sáu bộ. Đồng thời, hoàng đế đặt thêm Đốc sát viện, Thông chính ti, Đại lý tự, cả thảy chín bộ môn, cộng xưng là “Cửu khanh”, quyền lực ngang nhau.
Trong cơ cấu chính vụ của Minh triều, Chu Nguyên Chương từng đặt các chức thái sư, thái phó, thái bảo (Tam công) và thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo (Tam cô) làm quan phụ tá cho hoàng đế, phụ trách quản lý chính sách. Sau khi Minh Thành Tổ lên ngôi, phế trừ tam công tam cô, cải thành nội các, đặt các chức nội các học sĩ, quan giai ngũ phẩm, trợ giúp hoàng đế xử lý triều chính. Trong lúc này, nội các vẫn còn là cơ cấu tư vấn về quốc sự. Đến trung và hậu kỳ của Minh triều, nội các dần dần biến thành lực lượng trong yếu đề ra quyết sách quốc gia.
Minh Thành Tổ thành lập nội các xong, đêm quyền quyết định chính sách vốn của tể tướng nắm chắc vào trong tay, phân cấp quyền nghị chính cho nội các, quyền hành chính cho sáu bộ (Trong đó Hình bộ thực hiện quyền tư pháp, Binh hộ thực hiện một phần quyền quân sự), một phần quyền tư pháp được phân cho Đốc sát viện và Đại lí tự. Trong khi đó, binh quyền được Minh Thành Tổ nắm chắc trong tay. Đốc Sát viên tuy quản lý các vệ sở trong quân đội, nhưng không có quyền điều động binh lực. Trong khi đó Binh bộ chỉ phụ trách huấn luyện quân đội và trang bị vũ khí cũng như các sự vụ hành chánh. Tuy nhiên, ngũ quân đô đốc phủ có thể coi là những công thần theo Minh Thành Tổ tranh đoạt giang sơn trong chiến dịch Tĩnh Nạn, cho nên tất cả đều có chức quốc công hoặc hầu gia.
Vừa rồi Minh Thành Tổ điểm danh những người đó, có thể nói là các quyền thần có quyền lực tối cao thời kỳ của ông ta. Tối hôm qua thái tử Chu Cao Sí bệnh nặng, thái y nói y nhiều lắm có thể sống thêm ba đến năm năm, còn sớm thì chỉ vài tháng. Trong buổi triều sớm hôm nay, Minh Thành Tổ cho dời các quan phụ tá có quyền lực cao nhất tụ tập Văn Uyên các nghị sự, chỉ sợ là có liên quan đến sự tình của thái tử.
Không ngờ, tiến vào Văn Uyên các xong, chuyện đầu tiên Minh Thành Tổ nói không phải là chuyện trên, mà là sầm hẳn nét mặt quát hỏi Kỷ Cương: “Kỷ ái khanh, ở trên triều có những lời trẫm không tiện nói ra, hiện giờ trẫm hỏi ngươi, có phải là ngươi biết Lâm Viễn bị Dương ái khanh phán vô tội thả ra, mới cố ý mượn ý thu thây, muốn trẫm chú ý chuyện này, để trị cho hắn tội kháng chỉ, đúng không?”
Kỷ Cương sợ hãi ú ớ quỳ sụp xuống, dập đầu lia lịa.
Minh Thành Tổ hừ lạnh, tiếp: “Trẫm nhiều lần đã nói quá là không cho phép hai ngươi chó mèo đấu nhau, ngươi coi lời nói của trẫm là gió thoảng mây trôi hay sap? Tâm địa gian giảo của ngươi thế nào bộ trẫm không biết hay sao? Bàng vào điểm ngươi quanh co toan tính chỉnh Dương ái khanh lần này nữa, chính là khánh chỉ bất tuân, đáng phải chém đầu!”
Kỷ Cương chưa bao giờ nghe Minh Thành Tổ dùng những lời nghiêm khắc như vậy đối với y, sợ đến tái hẳn mặt, ngoại trừ dập đầu, không dám nói gì khác.
Đối với những chuyện vu cáo hãm hại của Kỷ Cương đối với các đại thần khác, Minh Thành Tổ đều nhất nhất nghe lời, thuận buồm xuôi gió, nhưng từ khi Dương Thu Trì tiến vào kinh thành xong, Kỷ Cương phát giác bản thân chỗ nào cũng bị khống chế, và hoàng thượng không còn nghe gì y mấy nữa. Hiện giờ, hoàng thượng còn nói rõ chủ ý quỷ quyệt của y, thậm chí còn trực tiếp định tội là kháng chỉ bất tuân, là trọng tội chém đầu, không khỏi kinh tâm đảm phách.
Minh Thành Tổ lại nói: “Kỷ ái khanh. Ngươi nến nhớ rằng, hạ bất vi lệ (không có lần sau)! Từ giờ trở đi, hai người chẳng cần biết là trực tiếp đấu nhau hay là đi đường vòng nhờ người khác giúp các ngươi chỉnh nhau, trẫm chỉ cần tra ra, nhất định sẽ trị tội kháng chỉ. Nghe rõ hay chưa?”
Kỷ Cương dập đầu thưa: “Vi thần… vi thần khắc cốt ghi tâm! Sau này không dám nữa.”
Dương Thu Trì cũng khom người thưa: “Vi thần minh bạch.”