Người Đàn Bà Hoang Dã

Chương 5: Truy lùng



Đại úy Haydock tiếp các vị khách mới quen với một tình cảm rất nồng hậu.

Ông ta thân tình chào hỏi viên sĩ quan hành chính Bletchley và Tommy – cử chỉ mà ông ta cho như thế mới đúng là chủ nhân.

Nơi nghỉ chân của tên buôn lậu lúc đầu chỉ là hai ngôi nhà nhỏ dùng làm
trạm gác bờ biển đứng cheo leo trên một vách đá. Nó khống chế cả một
vùng vịnh nổi tiếng vì không còn một lối nào có thể vào được ngoại trừ
những thiếu niên choai choai thích khám phá những điều mới lạ.

Sau đó, một nhà doanh nghiệp ở London được quyền sở hữu cả hai ngôi nhà này cùng với những mảnh đất xung quanh đã cải tạo nơi đây thành một khu
vườn mặc dù ông ta cũng chẳng tin tưởng gì lắm vào kế hoạch này. Chẳng
mấy khi người dân xung quanh nhìn thấy ông ta có mặt ở đây trừ một vài
ngày lưu lại vào mùa hè.

Rồi sau khi đã thu hẹp phần bất động sản để tránh phải chi phí quá nhiều, ngôi nhà này gần như bị chủ nhân lãng
quên và cho những người đi nghỉ hè thuê.

– Chẳng thế mà mấy năm
sau, ngôi nhà tồi tàn này đã được bán lại cho một người tên là Hahn –
Bằng mọt giọng vang như sấm, Haydock giải thích – Người chủ mới này là
một người Đức. Nếu các anh muốn biết suy nghĩ sâu xa của tôi thì có thể
hắn là một tên gián điệp.

– Thật thú vị, hóa ra là như vậy – Tommy bất ngờ lên tiếng và dịch cốc rượu Xeres đi như để nhấn mạnh hơn sự chú ý của mình.

– Ồ! Những tay này vô cùng tinh quái – Người thủy thủ già nhắc lại – Họ
đã lường trước được cả những gì sẽ xảy ra vào lúc này. Các anh hãy nhìn
thật kỹ ngôi nhà xây trên sườn dốc mà xem. Đó là một công trình được xây dựng hoàn hảo để phát đi những tín hiệu đến một con tàu đậu ở ngoài
khơi. Phía dưới là một cái vịnh – rất lý tưởng để đổ hàng vào đấy. Nếu
các anh nhìn đường nét của bờ biển sẽ thấy ở đây rất vắng vẻ. Cho dù các anh không nói với tôi tên Hahn này không phải là một điệp viên Đức.

– Hắn là một tên gián điệp rồi, cứ cho là như thế – Viên sĩ quan hành chính chống chế.

– Rồi hắn sẽ ra sao đây? – Tommy hỏi.

– A! Thế thì nó mới phức tạp chứ! – Haydock nói như ngựa hí – Có một
người tên là Hahn đã điên rồ bỏ ra những khoản tiền để đầu tư vào đây.
Để bắt đầu khởi công, ông ta đã cho xây một chiếc cầu bằng bê tông kéo
dài tới tận bãi biển. Thoáng nhìn chắc anh cũng thấy nó có giá trị thế
nào! Sau đó ông ta cho sắp xếp lại toàn bộ ngôi nhà. Chắc anh nghĩ rằng
ông ta đã giao công việc đó cho một tay thầu khoán biết tường tận mọi
vấn đề chứ gì? Anh nhầm to rồi đấy! Bởi vì ông ta đã giao cho một xí
nghiệp ở London! Vì phần lớn công nhân của xí nghiệp đó đều là những
người nước ngoài. Thậm chí một vài người trong số đó không nói được một
từ tiếng Anh nào. Anh cảm thấy có điều gì đó không bình thường trong
chuyện này chứ? Phải không nào?

– Ít ra chuyện này cũng có cái gì đó là lạ. – Tommy thừa nhận.

– Lúc đó tôi sống ở vùng lân cận quanh đây, trong một ngôi nhà tồi tàn.
Nhưng tôi luôn quan tâm để ý xem cái tay đó đã làm gì. Tôi thích la cà
gần khu công trường để xem những người công nhân ở đó lao động. Và tôi
có thể nói với anh một tin rất là hay như thế này: Công việc chẳng làm
cho họ thích thú, hoàn toàn không làm cho họ thích thú! Hai hay ba lần
gì đó, họ còn tỏ ra khá hung hăng. Tại sao lại tồi tệ thế? Tôi hỏi anh
đấy. Phải chăng có điều ẩn khuất gì ở đây?

Viên sĩ quan hành chính Bletchley lắc đầu:

– Anh đã báo tin cho cảnh sát biết chứ?

– Tôi đã làm như vậy, anh bạn tốt bụng của tôi ạ. Tôi đã quấy rầy những
người cảnh sát nhưng họ tỏ ra không quan tâm đến chuyện đó.

Ông ta lại tự rót cho mình một cốc rượu nữa:

– Mà cuộc chiến tranh này phục vụ cho cái gì nhỉ? Chẳng cho cái gì cả! Ở
đất nước này, người ta tin rằng cả thế giới đều đã bị mù và điếc hết cả. Một cuộc chiến tranh mới với nước Đức? Không có vấn đề gì! Hòa bình ở
châu Âu… Những mối quan hệ tốt của chúng ta với những người Đức… Một sự thông cảm qua lại giữa hai dân tộc chúng ta! Tóm lại, tôi đã trở
thành một người cổ hủ rồi, một kẻ xúi giục chiến tranh, một tên xui
nguyên giục bị. Tôi phải giải thích rõ cho họ về cái gì đây. Rằng những
người bạn bé nhỏ của họ không phải là những người đáng tin. Hay khuyên
họ không nên ngồi trên những chiếc máy bay mạnh nhất của châu Âu để biểu diễn những cú nhào lộn hoặc dẫn các cô gái bé nhỏ xinh đẹp của họ đi ăn những bữa tiệc ngoài trời?

– Thế mà chẳng có ai tin anh! – Viên
sĩ quan hành chính bật kêu lên – Toàn là một lũ u mê! “Hòa bình cho thời đại chúng ta”, rồi “Chúng ta đã nhượng bộ”. Thật là một sự phỉnh nịnh!

Nước da của người đại úy hải quân chuyển thành màu đỏ tía vì phải cố gắng kiềm chế sự tức giận:

– Đồ hiếu chiến! Chúng đã đối xử với tôi như thế đấy. Những người như tôi đều bị chúng coi là những vật cản của hòa bình. Hòa bình ư! Tôi hiểu
rất rõ cái mà những người bạn chúng ta, những người Huns [1] ấy đã chuẩn bị từ lâu! Mẹ kiếp, đó là những tên đã được đào tạo kỹ càng! Tôi tin
chắc rằng cái tên Hahn đó chẳng tử tế gì đâu. Những công nhân nước ngoài cũng không nói cho tôi biết một tin gì quan trọng. Số tiền mà ông ta đã chi phí ở đây chẳng làm cho tôi yên tâm chút nào. Vì thế tôi luôn luôn
lắng tai nghe tín hiệu báo động.

– Anh quả là một người can đảm và có nghị lực! – Viên sĩ quan hành chính khen ngợi.

– Nhưng rốt cuộc thì người ta đâu có để ý đến tôi. Một viên cảnh sát chỉ
huy đã tới đây, một sĩ quan đã về hưu. Ông ta đã để ý nghe tôi nói.
Những chàng trai của ông ta đã bắt đầu nhòm ngó vào mọi thứ. Thế là ông
bạn Hahn liền đánh bài chuồn. Vào một đêm đẹp trời, hắn đã lỉnh đi mà
không báo trước gì cả. Cảnh sát đã nhận được lệnh khám xét khắp nơi. Một chiếc đài phát tin cùng với những tài liệu tối mật đã bị họ phát hiện
trong cái tủ sắt giấu trong bức tường của phòng ăn. Dưới hầm của một nhà để xe ô-tô có chứa những téc xăng khổng lồ… Thú thật lúc đó tôi thấy
mình thật đáng tự hào như một Artaban [2]. Người ta đã quen chế nhạo tôi là người mắc chứng bệnh loạn tâm thần về những gián điệp người Đức. Sau chuyện đó, sự chế nhạo có giảm đi chút ít. Ở đất nước này, chúng tôi có một hạn chế là tin tưởng một cách ngu ngốc vào bất kỳ ai.

– Đây
là một tội ác! – Viên sĩ quan hành chính nghẹn ngào thốt lên – Những kẻ
vô trách nhiệm! Vậy là chúng ta đã trở thành những người vô trách nhiệm
rồi! Chúng ta còn phải chờ đợi gì nữa mà không nhốt tất cả những tên
trốn chạy đó lại?

– Cuối cùng, vở hài kịch đó cũng đi đến phần
kết khi ngôi nhà được đem bán. Con sói già của biển cả đó đã bị mất đi
sự khôn ngoan của mình và chính tôi là người đã mua nó. Anh sẽ đến thăm
nhé, Meadowes?

– Xin sẵn lòng. Cảm ơn anh.

Viên đại úy
chuyển sang phô trương quá khứ tuổi trẻ sôi nổi của mình. Ông ta mở cánh tủ sắt ra, bên trong có giấu một chiếc đài phát rồi dẫn Tommy đến nhà
để xe và chỉ cho anh thấy những téc xăng được cất giấu dưới mặt đất lát
xi măng. Tommy nhìn thấy hai phòng tắm sang trọng, những hệ thống chiếu
sáng nhiều màu nhấp nháy cũng như vô số vật dụng cần thiết và cả những
vật dụng vô ích chứa trong nhà bếp. Sau đó, họ men theo những bậc cầu
thang bằng bê tông ăn sâu vào vách đá dẫn đến một bãi tắm nhỏ. Tại đây
anh được chỉ cho thấy ở một điểm tổng thể nào đó, cách bài trí ở đây có
thể phục vụ được cho kẻ thù trong giai đoạn chiến tranh.

Anh cũng được đưa đi thăm cái hang nguồn gốc phát sinh tên gọi của ngôi nhà.
Haydock còn tiết lộ cái hang đó sẽ được sử dụng trong tương lai.

Viên sĩ quan hành chính Bletchley không tiếp tục hộ tống hai người đi tham
quan nữa. Ông ta trở lại phòng khách, lặng lẽ nhấm nháp cốc rượu của
mình trên thềm nhà. Tommy đoán rằng công việc săn đuổi những tên gián
điệp và lời kết luận của anh về sự thắng trận sẽ trở thành chủ đề chính
trong câu chuyện của người thủy thủ già.

Sau khi đã trở về ngôi nhà Vui Vẻ, viên sĩ quan hành chính đã xác nhận không úp mở những giả thiết của Tommy:

– Cái tay Haydock đó là một loại người can đảm đấy. Nhưng hắn cứ lải nhải kể cho chúng ta nghe về cuộc đời của hắn không biết bao nhiêu lần đến
mức vào tai này rồi lại ra tai kia ngay. Hắn cũng tự hào về ngôi nhà
cùng với tất cả những đồ vật kỳ lạ của hắn, từ con mèo cái cho tới lũ
mèo con…

Bức biếm họa về viên sĩ quan hải quân không quá phóng đại cho nên Tommy đã tiếp nhận nó bằng nụ cười đồng tình.

Nhưng tại sao Haydock lại mở đầu câu chuyện của ông ta bằng sự kiện vào năm
1923 ông ta đã có thành tích lột mặt nạ một tên môi giới có hành động ám muội… Lúc này Tommy không có cách nào khám phá ra điều đó ngoài việc
quan sát những hành động của ông ta. Hơn bao giờ hết vào lúc này, Tommy
có cảm tưởng là Farguhar đã nhìn thấy chính xác trước lúc chết một ảo
giác về ngôi nhà Vui Vẻ. Ở nơi tận cùng của thế giới này, người ta đã
phó mặc cuộc đời trong một thời gian dài để làm những công việc chuẩn
bị. Sự xuất hiện của tên Hahn và những việc làm của hắn đã chứng tỏ địa
điểm này đã được chọn làm nơi tập kết và cũng là một cái hang cô hồn
dùng làm chỗ che giấu những hoạt động của kẻ thù.

Nhưng những
mánh khóe này đã bị tiêu tan trước sự cảnh giác cao độ của viên đại úy
Haydock. Nước Anh chắc là đã thắng ở hiệp đầu tiên. Nhưng hiện chúng ta
có thể cho rằng nơi nghỉ chân của tên buôn lậu chỉ là một kế hoạch đầu
tiên của một cuộc tấn công còn phức tạp hơn nhiều? Nơi nghỉ chân của tên buôn lậu đã được coi là một đầu mối của những lần truyền tin bằng đường biển… Đây là một địa điểm chỉ có thể tiếp cận được bằng một con đường duy nhất. Nhưng đó chỉ là một sự hoạt động bề nổi che giấu một núi băng trôi mà thôi.

Một phần của kế hoạch đó đã bị thất bại bởi
Haydock. Hahn đã phạm sai lầm khi không chọn giải pháp thu mình lại mà
lại thích phô trương. Những âm mưu của Hahn đã bị vạch trần cách đây
khoảng bốn năm rồi. Lúc này, Tommy đã có vài lý do để nghi ngờ việc bà
Perenna vào nước Anh và mua ngôi nhà Vui Vẻ. Một trận đấu tiếp theo trên vũ trường?

Qua mọi hiện tượng đó có thể kết luận rõ ràng rằng
Leahampton là một trong những trung tâm hoạt động của kẻ thù, rằng ngay
từ bây giờ đối phương đã có những tên tay sai và những sự bố trí nhất
định ở quanh đây.

Tommy cảm thấy trong người tràn đầy một sức
mạnh mới. Anh đã tạm quên đi cảnh phù phiếm và sự độc hại của ngôi nhà
Vui Vẻ. Khách sạn đó hiện ra trước mắt mọi người là một cái gì đấy vô
hại nhưng chỉ là bề ngoài mà thôi, thật ra nó là một chiếc mặt nạ dùng
để che giấu những âm mưu rất thâm độc.

Mà trung tâm của mọi hiện
tượng này rất có thể là bà Perenna. Do đó tình hình đã trở nên khẩn cấp. Cần phải biết rõ hơn về những kẻ tiền nhiệm của người đàn bà này, và
phải phát hiện được những điều bí ẩn đằng sau những hoạt động thường
ngày của người nữ chủ nhân khách sạn Vui Vẻ. Những thư từ trao đổi,
những mối quan hệ, sự hòa nhập của bà ta vào cuộc sống nơi đây phải
chăng là một sự nỗ lực chuẩn bị cho chiến tranh. Đây chính là điều anh
cần phải tìm hiểu rõ. Liệu bà Perenna có phải là người phụ nữ có biệt
hiệu là “M” được nhiều người biết tới nhất đang điều khiển ĐỘI QUÂN THỨ
NĂM trên toàn vương quốc Anh thống nhất. Chỉ có một số nhân vật giữ địa
vị chóp bu của nước Đức mới biết được căn cước thật sự của người phụ nữ
này. Cần phải nắm được những thông tin truyền đến cho các cấp trên của
bà ta là gì. Anh và Tuppence cần phải sớm ngăn chặn đường dây liên lạc
này.

Đúng lúc này, Tommy đã nhận thấy rõ được vấn đề, nơi nghỉ
chân của tên buôn lậu sẽ được tiếp nhận làm chỗ tấn công để hình thành
một đầu cầu. Và có một số người đã được lựa chọn để tiến hành chiến dịch bắt đầu từ ngôi nhà Vui Vẻ.

Khi những người Đức chiếm giữ được
các hải cảng của eo biển ở Pháp và ở Bỉ thì chúng sẽ có thể tập trung
mọi sức lực để xâm lược và xâm chiếm nước Anh. Mà tình hình ở Pháp vào
thời điểm này quả thực là rất xấu.

Hiển nhiên là hải quân Hoàng
gia vẫn tiếp tục kiểm soát được các vùng biển. Cho nên cuộc tấn công của quân đội Đức sẽ đến từ trên không và được sự hỗ trợ của những tên tay
sai trong nội địa. Nếu bà Perenna nắm rõ những tin tức về những kẻ phản
bội thì anh sẽ không phải mất thời gian ở đây.

Như để hưởng ứng cho những điều suy ngẫm của Tommy, viên sĩ quan hành chính Bletchley kịp thời phát biểu:

– Anh thấy đấy, tôi đã hiểu ra ngay lập tức mà. Cho nên tôi đã cho Abdul – một tùy tùng của tôi đi theo. Còn ai tốt hơn anh ta nữa đâu.

Câu chuyện diễn ra cứ ào ào như vậy.

“Tại sao lại là Leahampton? – Tommy tự hỏi mình như vậy. Vì đây là một nơi
hẻo lánh, nhỏ bé, gần giống như một lỗ hổng bị bỏ quên? Một trò chơi đã
lỗi thời rồi. Hay còn vì những lý do nào khác?”

Vùng nội địa bao
gồm những cánh đồng bát ngát dành cho nông nghiệp. Rất nhiều bãi chăn
thả súc vật. Một địa điểm lý tưởng cho quân nhảy dù đổ bộ xuống hoặc để
máy bay hạ cánh. Nhưng còn nhiều noi khác nữa cũng có thể thực hiện được những khả năng tương tự như thế. Chỉ có điều đáng phải lưu ý là ở đây
còn có những nhà máy hóa học. Karl Von Deinim đã được tuyển dụng vào một trong số những nhà máy đó.

Có đúng là Karl Von Deinim không giữ
một nhiệm vụ nào đó trong suốt chiến dịch này? Chắc là như vậy. Grant đã từng nhấn mạnh rằng Karl Von Deinim không thể trở thành người chỉ huy
thực sự được. Tất nhiên anh ta là người đứng đầu danh sách những người
đáng ngờ, nhưng anh ta chỉ là một bánh xe nhỏ của cỗ máy mà thôi. Nhưng
sau mọi diễn biến đã xảy ra thì điều gì chứng thực rằng anh ta đã không
hoàn thành một nhiệm vụ nào đó mà người ta giao phó? Anh ta từng kể cho
Tuppence biết là mình đã có những công trình nghiến cứu về vấn đề khử
nhiễm chất độc. Riêng chuyện này cũng đã hé mở những triển vọng làm cho
mọi người phải run sợ.

Karl đã phần nào bị lôi kéo vào âm mưu này rồi – Tommy khẳng định như vậy. Thật đáng tiếc cho Karl vì anh ta còn
trẻ và được mọi người có cảm tình. Dù sao thì anh ta cũng đang liều mạng phục vụ cho đất nước của mình. Đối với một đối thủ như vậy, Tommy thấy
kính trọng. Chắc chắn anh sẽ làm tất cả những gì có thể để tóm cổ được
Karl… Khi người ta dấn thân vào nghề này thì đã hiểu rằng mình có thể
không còn con đường nào khác.

Nhưng những ai phản bội lại đất
nước của mình, khi hoạt động ở quê hương thì chính họ đã thắp lên ở đó
lò lửa của sự căm thù. Xin Chúa phù hộ cho những con người như vậy!

-… Cuối cùng chúng ta đã biết đến một con người – Bằng giọng chiến
thắng, viên sĩ quan hành chính kết luận – Đó là một công việc thú vị đấy chứ, phải không nào?

– Ngài sĩ quan ơi – Tommy không ngượng ngùng trả lời – chưa bao giờ tôi được nghe một lời nào rộng lượng như vậy.

Bà Blenkensop đang say sưa đọc thư. Độ mỏng và độ mịn màng của tờ giấy
chứng tỏ nó có nguồn gốc từ nước ngoài. Dấu kiểm duyệt đóng trên phong
bì.

Tiện đây phải nói luôn bức thư đó là sự gợi ý của Tuppence với “ông Faraday”.

– Raymond thân yêu… – Chị lầm bầm – Nó đang ở Ai Cập, nhưng hình như
sắp có một sự thay đổi rất lớn trong việc bổ nhiệm nó. Những chuyện như
vậy đều là tối mật, chắc chắn là như thế rồi, nên nó không thể nói được
điều gì chính xác với tôi… Tất cả đều được sắp xếp một cách tuyệt vời, vì vậy tôi bắt buộc phải chờ đợi một sự kiện rất bất ngờ sắp xảy đến.
Tôi sẽ rất hạnh phúc khi được biết họ đã phái nó đến đâu, nhưng tôi
không hiểu tại sao…

– Chắc chắn là anh ấy không được phép tiết lộ chuyện đó. – Viên sĩ quan hành chính càu nhàu.

Tuppence hơi mỉm cười coi thường, đảo mắt một vòng quanh bàn và gấp bức thư quý giá lại.

– Chúng ta có những phương pháp nhỏ của mình – Chị nói – Raymond của tôi
thường khuyên tôi không cần phải lo lắng về việc nó đang ở đâu hoặc sẽ
được cử đến chỗ nào. Các anh biết đấy, đây không phải là một vấn đề quá
khó khăn. Chúng ta đã nhận được bức thư thứ nhất này, với mỗi từ theo
một sự ước định thì anh sẽ có những thắc mắc về địa điểm. Hiển nhiên đôi khi có những câu viết hơi lạ lùng. Nhưng Raymond là người có nhiều trí
tưởng tượng. Tôi bảo đảm là không một người nào có thể phát hiện được
điều gì.

Trong số những khách ăn nổi lên tiếng vỗ tay khe khẽ.
Tuppence đã chọn đúng thời điểm bởi vì tất cả những người khách trọ chỉ
tập trung có một lần để ăn sáng.

Khuôn mặt của viên sĩ quan hành chính bừng đỏ:

– Hãy tha lỗi cho tôi, thưa chị Blenkensop, nhưng những gì chị làm thật
là điên rồ. Những hoạt động của các nhóm, những sự di chuyển của các đơn vị không quân là những tin tức rất quý mà bọn Đức muốn biết.

– Ồ! Nhưng tôi chẳng bao giờ thổ lộ một lời nào với bất cứ ai! – Bà Blenkensop kêu lên – Tôi hành động rất cẩn thận…

– Chuyện đó đâu có nghĩa lý gì. Đó là một việc làm cực kỳ khinh xuất. Con trai của chị đang có nguy cơ gặp phải những rắc rối lớn vì hành động đó của mẹ nó đấy.

– Tôi rất hy vọng là sẽ không đến mức như thế. Tôi là mẹ nó, tôi có quyền được biết nó đang ở đâu chứ!

– Tôi sẽ cung cấp cho chị hàng nghìn lý do! – Bà O’Rourke nói oang oang – Ngay cả nỗi dằn vặt cũng sẽ không thể làm giảm bớt sự lộ liễu đó của
chị đâu. Chúng tôi biết hết mà!

– Người khác có thể đọc được bức thư đó lắm chứ – Viên sĩ quan hành chính nhấn mạnh.

– Tôi rất cẩn thận, không bao giờ mang thư đi theo – Tuppence trả lời
bằng giọng trang nghiêm – Lúc nào tôi cũng cất nó trong ngăn kéo có
khóa.

Viên sĩ quan hành chính lắc đầu tỏ vẻ hoài nghi.

Buổi sáng hôm nay, bầu trời nhuộm màu xám xịt. Cơn gió mang theo vị chua từ
biển cả. Tuppence đứng cô đơn ở điểm tận cùng của bãi biển.

Chị
rút từ trong chiếc túi xách tay của mình ra hai bức thư mà chị vừa nhận
từ một quầy bán báo nhỏ trong thành phố. Chị đến đấy vài lần và đã hai
lần nhận được thư. Lần thứ hai trên phong bì có đề địa chỉ của một bà
Opender nào đó. Những người con của chị tin rằng mẹ chúng đang ở
Cornonailles [3], sống với một trong những bà dì đã có tuổi.

Chị giở bức thư thứ nhất ra đọc:

Mẹ yêu quý,

Con có vô khối chuyện kỳ cục để kể cho mẹ nghe nhưng không thể được. Con
tin rằng chúng ta đang hành động đúng. Ngày hôm nay trong khi chúng con
đang thực hiện những đường bay của mình trước bữa ăn sáng thì người ta
đã gửi đến đây năm chiếc máy bay của Đức để khảo sát. Đây là một công
việc khá phức tạp vào thời điểm này, nhưng con cũng sẽ thu xếp được
thôi.

Điều mà con không chịu đựng được là cách chúng cứ xả những
tràng súng liên thanh vào những con người khốn khổ đi lại trên các đường phố. Quả thực, chuyện này làm chúng con phát điên lên được. Gus và
Trundles sẽ kể cho mẹ những kỷ niệm đẹp nhất của mình. Họ lúc nào cũng
là những người rất cừ.

Mẹ đừng lo lắng gì cho con cả. Mọi sự đều
tốt đẹp. Con không muốn thiếu một ngày hội nho nhỏ dành cho vương quốc
này. Hãy ôm hôn ông già có mái tóc màu hung hộ con nhé. Cuối cùng có
phải Bộ trưởng Chiến tranh đã tìm thấy một việc làm bỏ dở, phải không
mẹ?

Cho con được ôm hôn mẹ

Derek.

Đôi mắt của Tuppence long lanh những giọt lệ, chị đọc đi đọc lại bức thư rồi mới chuyển sang bức thư thứ hai:

Mẹ thân yêu,

Dì Gracie có khỏe không mẹ? Rất khỏe chứ? Con tin chắc là mẹ sẽ giúp đỡ
được dì rất nhiều. Còn con, lúc này con không thể làm thế được.

Con không có chuyện gì quan trọng để kể cho mẹ nghe đâu. Công việc của con
rất thú vị, nhưng vì đó là công việc rất bí mật cho nên con không thể
tâm sự với mẹ một lời nào. Lúc nào cũng vậy, con luôn nghĩ là những gì
con đang làm ở đây thực sự là xứng đáng. Mẹ không lo lắng bồn chồn vì
không được tham gia vào cuộc chiến tranh này chứ… Tất cả những người
phụ nữ già cả, tốt bụng đang muốn tận dụng hết sức lực để làm một việc
gì đó thì họ quả là những người kỳ cục. Người ta chỉ cần đến những người trẻ tuổi và làm việc có hiệu quả thôi. Con thường tự hỏi tại sao ông
già có mái tóc hung lại khéo xoay sở với công việc của ông ở Ecosse đến
thế. Con hình dung thấy ông đang sử dụng thời gian để điền vào cho đầy
đủ những tập công thức của mình. Có lẽ ông đã rất hài lòng vì thấy mình
là một người có ích.

Rất yêu quý mẹ

Deborah.

Tuppence mỉm cười.

Chị gấp cả hai bức thư lại, cẩn thận vuốt lại cho phẳng. Sau đó chị quẹt
một que diêm và đốt hai bức thư đó tại một chỗ kín đáo ở con đê chắn
sóng. Chị chờ cho tới khi cả hai bức thư cháy hết hoàn toàn.

Sau đó chị cầm lấy chiếc bút máy và một cuốn sổ tay có giấy viết thư cỡ nhỏ rồi bắt đầu viết rất nhanh:

Deb thân yêu của mẹ,

Ở đây mọi người đều cảm thấy rất khác xa với những gì mà họ tưởng tượng
là khó khăn trong khi chúng ta đang sống trong chiến tranh. Mẹ rất hạnh
phúc khi nhận được thư của con và biết công việc đã đem lại niềm vui cho con.

Dì Gracie của con mỗi ngày một yếu đi và đã suy sụp rất
nhiều về mặt trí tuệ. Mẹ tin rằng dì hài lòng vì có mẹ ở bên cạnh. Dì
nhắc nhiều tới những kỷ niệm quá khứ đã qua nên mẹ có ấn tượng là đôi
khi dì muốn mẹ coi dì như một người mẹ đẻ của mẹ. Năm nay, ai cũng gieo
nhiều hạt rau giống hơn mọi năm… Ngay cả những cánh đồng trồng hoa
hồng cũng được cải tạo thành đất trồng khoai tây. Mẹ đã giúp Sikes già
cả một tay. Làm được như vậy ít ra mẹ cũng nghĩ rằng mình đã tích cực
góp phần vào cuộc chiến tranh rồi đấy. Cha con có vẻ khá dữ tợn, nhưng
mẹ nghĩ rằng cũng giống như con, ông ấy rất vui khỉ thấy mình là người
có ích.

Rất yêu con.

Mẹ.

Chị chuyển sang viết lá thư thứ hai:

Derek thân yêu,

Thư của con làm mẹ vui lắm. Nếu con bận không viết thư cho mẹ được thì hãy thường xuyên gửi bưu thiếp cho mẹ.

Mẹ định sẽ sống với dì Gracie một thời gian. Sức khỏe của dì đã yếu đi rất nhiều. Dì nói chuyện với mẹ về con như một đứa bé mới lên bảy. Có hôm
dì còn đưa cho mẹ mười si-linh và bảo gửi cho con để con tiêu vặt.

Lúc này mẹ như sống ẩn dật. Chẳng ai cần tinh thần sẵn sàng phục vụ đáng
quý của mẹ!… Thật không thể tin được… Như mẹ đã kể cho con nghe ở
thư trước, cha của con đã tìm được một việc làm ở Sở Trưng dụng. Ông
đang ở một nơi nào đó rất xa ở miền Bắc của Tổ quốc. Có được một việc để làm là tốt lắm rồi, hơn là chẳng có việc gì, nhưng rõ ràng đây không
phải là một việc mà ông già tóc hung này mong muốn. Cuối cùng mẹ chấp
nhận là chúng ta phải làm từ những việc làm rất nhỏ, phải ngồi ở một chỗ thật kín đáo trong phòng và để cuộc chiến tranh này cho những thanh
niên trẻ ngốc nghếch ở tuổi con lo lắng.

Mẹ sẽ không cần phải dặn dò con phải hết sức cẩn thận vì mẹ tin chắc rằng con sẽ hành động một
cách chính xác để khắc phục được. Dù thế nào thì con cũng phải hoàn
thành nhiệm vụ. Không được làm những điều ngu ngốc đâu đấy.

Rất, rất yêu con

Mẹ.

Tuppence gập cả hai bức thư lại và cho vào các phong bì mà chị đã dán tem sẵn rồi thả vào một hòm thư.

Khi chị bước tới chân vách đá thì bất ngờ nhận thấy có hai nhân vật đang
nói chuyện với nhau rất sôi nổi, người ít tuổi hơn có vóc người cao hơn
người kia một chút.

Chị đứng sững lại. Một trong hai người đó
chính là người phụ nữ mà chị đã gặp hôm trước, còn người kia cũng không
phải ai xa lạ mà là Karl Von Deinim.

Tuppence không còn cách nào khác là phải tiến đến để khỏi bị phát hiện và đồng thời cũng để nghe xem họ đang nói chuyện gì.

Hơn nữa, vào đúng thời điểm đó, Karl Von Deinim cũng đã nhận ra chị. Hai
người bọn họ đột ngột chia tay nhau rất nhanh. Người đàn bà nhanh nhẹn
men theo con đường sườn đồi đi xuống. Để tránh gặp phải chị ta, Tuppence đi sang một vỉa hè khác.

Karl Von Deinim đứng chờ cho tới khi chị đi tới nơi. Anh ta trịnh trọng chào và chúc chị một ngày tốt lành.

– Anh đã nói chuyện với một phụ nữ có vẻ rất lạ lùng đấy, anh Von Deinim ạ. – Tuppence vội vã nói.

– Vâng ạ, chị ấy là người Trung Âu. Một người Ba Lan mà.

– À ra thế! Đấy là một… một trong số bạn gái của anh à?

Tuppence cố gắng nói với giọng tò mò hà khắc mà ngày xưa dì Gracie của chị thường thể hiện.

– Không hẳn là như vậy – Karl Von Deinim cắt ngang – Trước đây tôi chưa bao giờ gặp người đàn bà này.

– Thật ư? Thế mà tôi cứ tưởng rằng…

– Chị ta chỉ hỏi thăm đường thôi. Tôi đã trả lời chị ta bằng tiếng Đức vì người này không biết tiếng Anh nhiều lắm.

– Tôi hiểu rồi. Chị ấy muốn gì nhỉ, một sự chỉ dẫn phải không?

– Chị ta hỏi tôi có biết một phụ nữ nào tên là Gottlieb ở gần đây không?
Tôi trả lời là không biết và chị ấy nói rằng hình như không hiểu gì mấy
về tên gọi của một ngôi nhà.

– Tôi hiểu rồi… – Tuppence thở phào, nét mặt trở nên đăm chiêu.

Ông Rosenstein… Bà Gottlieb…

Chị lén liếc nhìn Karl Von Deinim đi bên cạnh. Nét mặt của anh ta cứng đờ.

Người phụ nữ lạ đó thực sự đã làm thức dậy ở Tuppence những nghi ngờ. Chị tin chắc rằng mình vừa nhìn thấy Karl Von Deinim và người lạ mặt kia tranh
cãi với nhau về một chuyện gì đó.

Karl Von Deinim?

Chị nhớ lại: Karl Von Deinim và Sheila vào buổi sáng hôm trước: “Phải chú ý cẩn thận…”.

Miễn là hai đứa nhỏ đó không làm sao trong cuộc chiến này – Chị tự an ủi –
Mình đã mềm yếu và già mất rồi! Bọn Quốc xã có một quan điểm là: tuổi
trẻ. Tuỳ theo khả năng có thể, thì những điệp viên trước hết phải trẻ
đã. Karl và Sheila… Theo Tommy, Sheila không bị lôi kéo vào âm mưu
này. Nhưng Tommy là một người đàn ông còn Sheila thì rực rỡ một sắc đẹp
kỳ lạ như thế.

Karl và Sheila… Và đằng sau họ là một người đàn
bà bí ẩn – bà Perenna. Bà Perenna này là người có thể dần dà xuất hiện
như một bà chủ khách sạn nhạt nhẽo tầm thường, có tài ăn nói trôi chảy
và trong những lúc căng thẳng bà ta giống như một người phụ nữ sẵn sàng
tỏ ra thô bạo…

Với vẻ mặt trầm tư, Tuppence chậm chạp leo lên căn phòng của chị.

Tối hôm qua trước khi đi ngủ chị đã mở ngăn kéo lớn của cái bàn viết. Ở tít tận cùng có một cái hộp bằng kim loại tráng men có ổ khóa loại rẻ tiền.

Chị đeo găng tay vào rồi bắt đầu mở chiếc hộp bên trong đựng một tập thư,
và bức thư của “Raymond” được để ở trên cùng. Chị hết sức thận trọng cởi dây buộc.

Mặt chị nhăn lại và mím chặt môi. Sáng nay chị đã cài một chiếc lông mi vào chồng giấy cơ mà. Giờ đây nó đã biến đi đâu.

Chị chạy vào trong buồng rửa mặt. Trên chiếc giá đỡ vẫn còn nguyên lọ bột
xoa của hăng Grey, kèm theo những chỉ dẫn về cách dùng.

Bằng một
động tác rất cẩn thận, chị rải một lớp bột lên bức thư và lên bề mặt
nhẵn nhụi của chiếc hộp kim loại. Chị không tìm thấy một dấu tay nào.

Tuppence lắc đầu với nụ cười cay đắng thỏa mãn.

Bởi vì bắt buộc phải có những dấu tay chứ, ít nhất thì cũng là một số dấu tay của chị…

Rõ ràng là có người đã đọc trộm những bức thư… Nhưng làm chuyện này không dễ vì chiếc hộp được khóa rất cẩn thận.

Và sau đó, người ấy còn tính tới chuyện xóa bỏ những dấu tay.

Bà Perenna? Sheila? Hay người nào khác nữa?…

Dù là ai thì đã có người nào đó quan tâm sâu sát đến những hoạt động của lực lượng vũ trang của nước Anh.

*

Tuppence chia kế hoạch của chị ra làm ba bước. Trước hết chị đánh giá toàn diện
những tình huống và khả năng có thể xảy ra. Tiếp theo là miệt mài tiến
hành những khảo sát nhỏ để xác định xem trong số những người ở ngôi nhà
Vui Vẻ ai là người bí mật quan tâm đến những hoạt động của các lực lượng vũ trang. Và cuối cùng chị phải phát hiện được họ làm như vậy vì mục
đích gì.

Buổi sáng hôm sau, Tuppence nằm trên giường suy ngẫm
mãi. Dòng suy tư của chị hơi bị rối loạn một chút vì cô bé Betty sprot.
Ngay từ sáng sớm tinh mơ, thậm chí còn trước cả giờ người ta mang đến
cho chị một cốc nước sền sệt khó có thể gọi đó là cốc nước chè dùng vào
buổi sáng, Betty đã làm động tác nhông nhông cưỡi ngựa chạy vào trong
phòng chị.

Betty là cô bé hiếu động và hay chuyện. Đối với
Tuppence, nó luôn tỏ ra trìu mến. Nó tới sát bên giường rồi leo lên, dí
vào mũi chị một quyển truyện tranh đã rách bươm và bằng giọng không đối
đáp lại được, nó ra lệnh:

– Đọc đi.

Tuppence ngoan ngoãn đọc:

– “Mày sẽ bay tới tận đâu vậy, hả ngỗng đực con, ngỗng cái con? Lên cao rồi lại xuống thấp, và chui vào hõm mái nhà”.

Betty vừa phấn khởi lăn lộn trên chiếc chăn lông vừa nhắc đi nhắc lại.

– Lên cao nữa… lên cao nữa đi… cao nữa đi… – Rồi giọng buồn buồn nó nói – Xuống thấp…

Không hiểu sao nó nặng nề lăn từ trên giường xuống.

Trò chơi này được lặp đi lặp lại làm nhiều lần cho tới khi cô bé chán. Rồi ở tư thế bò, nó ôm lấy đôi giầy của chị và bắt đầu bài nói chuyện bằng
ngôn ngữ đặc biệt của nó:

– Aguedo… bahpite… souh… souh dah… poutche…

Tuppence không để ý tới đứa trẻ mà trở lại với những thắc mắc chưa giải đáp
được. Bên tai chị hình như văng vẳng một giọng nói châm biếm của những
lời xướng nu na nu nống của trẻ con:

“Mày sẽ bay tới tận đâu, hả ngỗng đực con, ngỗng cái con?”.

Đúng thế, tới đâu đây? Con ngỗng cái con là chị và Tommy là con ngỗng đực
con mà. Cho dù thế nào, nhưng ít ra cũng đã có sự hiện diện của hai
người. Theo cách nhìn của bà Blenkensop thì Tuppence bị mọi người rất
coi thường. Và ông Meadowes cũng chẳng tốt hơn gì: một người Anh điển
hình, điềm tĩnh, thiếu óc tưởng tượng, thậm chí ngốc nghếch nữa là đằng
khác. Bà hy vọng cả hai con người này sẽ thấy dễ chịu trong ngôi nhà Vui Vẻ, vì cả hai trong vai diễn của mình lúc này đã có đủ những lý do để
tìm gặp nhau ở đây.

Đồng thời, không được để mất cảnh giác bất cứ lúc nào. Đến một ngày nào đó rất có thể chị sẽ phạm phải một sai lầm
như thế. Chưa xảy ra chuyện gì trầm trọng nhưng chị phải tỏ ra thận
trọng gấp đôi vì đã có sự cảnh báo rõ ràng. Dẫu sao chị cũng đã cố gắng
tạo dựng những mối quan hệ tốt đẹp với mọi người ở đây. Hãy cứ sống như
một người đàn bà đan len buồn tẻ và xin một lời khuyên của người nào có
kinh nghiệm hơn. Nhưng chị đã không được mọi người nhớ tới. Cho nên vào
một buổi tối nọ, chị đã để cho những ngón tay của mình tìm lại được cái
thói quen nhịp nhàng xưa kia. Những chiếc kim đan của chị lấy lại được
tiếng lách cách đều đặn cho thấy sự khéo tay của chủ nhân. Và bà
O’Rourke đã nhận ngay ra điều đó. Nhưng chị vẫn giữ ý, không thể hiện
hết khả năng của mình.

– Cô-ô có nhìn thấy nó không? – Betty hỏi chị – Cô-ô có nhìn thấy nó không?

– Rất hay, cháu yêu – Tuppence lơ đễnh trả lời- Đúng là nó đã quyến rũ cô.

Với vẻ thỏa mãn, Betty lại tiếp tục ba hoa câu chuyện của nó.

Không cần mất nhiều thời gian Tuppence cũng tính toán được những hành động
tiếp theo là gì. Hiển nhiên là chị cần tới sự cộng tác của Tommy. Và chị đã biết chính xác mình sẽ phải tiến hành như thế nào…

Mải bận
rộn tính toán đến những kế hoạch hành động, Tuppence đã không để ý tới
thời gian trôi đi rất nhanh. Bà Sprot hốt hoảng chạy vào phòng chị để
tìm đứa con gái nhỏ của mình:

– Ôi, đây rồi!… Mẹ không biết là con đã chạy tới một chỗ an toàn như thế này. Ôi, lạy Chúa!… Chị
Blenkensop, tôi buồn phiền quá.

Lúc này Tuppence đang ngồi trên
giường. Betty cười rất tươi ngắm nhìn tác phẩm của nó. Nó đã gỡ những
sợi dây giầy của Tuppence ra rồi nhúng vào một cốc nước đầy. Rồi dùng
tay khuấy tất cả lên.

– Thật nhộn quá! – Tuppence kêu lên, cắt
ngang những lời than phiền của bà Sprot – Buồn phiền mà làm gì hả chị.
Chúng sẽ khô ngay mà. Vả lại cũng do lỗi của tôi cả thôi. Đáng lẽ ra tôi phải để ý xem nó loay hoay làm gì mới phải. Betty không làm ồn lắm
đâu…

– Tôi biết – Bà Sprot thở dài – nếu những đứa trẻ mà không nghịch ngợm gì cả thì đấy lại là một điềm xấu. Lát nữa tôi sẽ mua đền
chị đôi giầy khác, chị Blenkensop ạ.

– Chị không cần phải làm thế đâu – Tuppence đáp lại – Chúng sẽ khô lại ngay thôi.

Bà Sprot ẵm đứa con gái lên rồi bước ra khỏi phòng. Tuppence cũng đứng dậy luôn để tiến hành kế hoạch.

Chú thích:

[1] Một dân tộc du mục xa xưa sinh ra và lớn lên trên những thảo nguyên ở
miền Nam Siberia. Đến cuối thế kỷ thứ IV, họ xâm nhập vào châu Âu và
Đông Á. Cho tới năm 370, những người Huns đã giữ một vai trò quyết định
cho sự mở rộng những cuộc xâm lược lớn. Người Huns hợp thành một nhà
nước Hitns đóng trên đồng bằng Danube, bị tan rã sau cái chết của Altila (năm 435). Lịch sử của họ ở châu Âu đã biến mất vào cuối thế kỷ thứ V.
Một nhánh khác của dân tộc này gọi là những người Huns Trắng hay còn gọi là người Hephthaliter đi về phương Đông và làm cho cả những đế quốc lớn như Iran và Ấn Độ cũng phải rung chuyển vào những thế kỳ thứ V và thứ
VI.

[2] Vua của nước Armeni vĩ đại năm 31 trước công nguyên,
người đã tiến hành cuộc đấu tranh trường kỳ chống lợi những người La Mã. Ông bị Mark Antoni bắt được và bị đem đi hành hình.

[3] Tiếng Anh là Cornwall – một miền ở cực Tây nam của nước Anh. Đây là một bán đảo lớn và dài có những bờ biển bị chia cắt.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.