Đêm sau đó là lễ Shabbat. Gabriel ngủ đến gần trưa rồi dậy tắm rửa, thay quần áo và chở Chiara đến thung lũng Jezreel. Họ dừng lại một chút ở Tel Megiddo để đón Eli Lavon, sau đó tiếp tục lái xe đến biển Galilee. Mặt trời gần lặn khi họ đến ngôi biệt thự đá vôi màu mật ong nằm cheo leo trên gờ đất nhìn ra biển. Shamron đón họ tại cổng trước. Khuôn mặt ông gầy và chảy xệ xuốngå, ông phải di chuyển với sự trợ giúp của chiếc gậy. Nó được làm bằng gỗ ôliu rất đẹp.
“Thủ tướng tặng nó cho tôi lúc sáng khi tôi rời trung tâm phục hồi ở Jerusalem. Tôi gần như muốn quất cây gậy vào người ông ta. Nhưng Gilah lại nghĩ cây gậy làm tôi trông nổi bật hơn”. Ông dẫn họ vào trong và nhìn Gabriel. “Tôi thấy cậu đang mặc chiếc áo của tôi. Bây giờ thì rõ ràng tôi sẽ còn sống rất lâu nữa vậy nên tôi muốn đòi lại nó”.
Gabriel cởi áo treo lên chiếc móc trong lối vào nhà. Anh nghe giọng Gilah vẳng ra từ biệt thư gọi họ vào ăn tối. Khi họ bước vào phòng ăn, Gilah đang thắp nến. Yonatan và vợ đang ở đó. Cả Rimona cùng chồng cô nữa. Ronit ngồi kế bên cha mình và khéo léo múc thức ăn vào đĩa của ông khi thức ăn được chuyền khắp bàn. Họ không nói chuyện về vụ bin Shafiq hay Vatican. Thay vào đó họ nói chuyện về buổi xuất hiện của Gabriel trước Quốc hội Mỹ. Theo vẻ chua chát trên gương mặt Shamron, có thể thấy ông không hài lòng về chuyện này. Ông nói rõ suy nghĩ của mình. Sau bữa tối, khi hai người lên sân thượng nói chuyện riêng, ông nói hẳn ra suy nghĩ của mình.
“Cậu làm đúng khi từ chối trát hầu toà lần đầu tiên, Gabriel. Đáng lẽ cậu không nên đổi ý. Chỉ cần suy nghĩ về việc cậu ngồi trước ủy ban Quốc hội, cho dù việc này nằm trong bí mật, cũng khiến tôi phải mất thêm để phục hồi sáu tháng”.
“Nơi bắt đầu cuộc chiến tranh Hồi giáo toàn cầu là Arập Xêút và chủ nghĩa Wahhabi”, Gabriel đáp. “Thượng viện cần biết điều này. Người dân Mỹ cũng vậy”.
“Cậu có thể cho họ biết suy nghĩ của mình bằng cách gửi điện bí mật. Cậu không phải ngồi đó trước mặt bọn họ trả lời những câu hỏi như một người bình thường khác được”.
Họ ngồi xuống ghế đối diện hàng lan can. Trăng tròn phản chiếu trên mặt biển Galilee êm ả, và ở đằng xa phía sau hồ là ngọn Golan sừng sững, đen sẫm chìm trong bóng đêm. Shamron thích ngồi trên sân thượng nhất vì nó hướng về phía Đông – phía quân thù. Ông đưa tay xuống dưới miếng lót ghế lấy ra hộp thuốc lá bằng bạc và chiếc bật lửa Zippo.
“Ông không nên hút thuốc, Ari”.
“Tôi đã không được hút thuốc kể từ khi ở Hadassah và trung tâm phục hồi. Đây là điếu đầu tiên kể từ đêm tôi bị tấn công”.
“Thật là tin tốt lành”, Gabriel nói.
“Nếu cậu hở một lời với Gilah về việc này, tôi sẽ đánh cậu đấy ”.
“Ông nghĩ mình lừa được Gilah đấy à? Bà ấy biết hết”.
Shamron đưa cuộc nói chuyện trở lại chủ đề buổi điều trần của Gabriel ở Washington.
“Có lẽ cậu có một động cơ chính đáng để quyết định như thế”. Shamron nói. “Có lẽ cậu muốn làm điều đó khác hơn là chỉ báo với người dân Mỹ sự thật về những người bạn Arập Xêút của họ”.
“Thế ông nghĩ động cơ chính đáng của tôi là gì?”
“Sau lần hoạt động tại Vatican, cậu đã trở thành nhân viên tình báo nổi tiếng nhất trên thế giới. Còn bây giờ…” Shamron nhún vai. “Ngành của chúng ta không ưa chuộng sự nổi tiếng. Cậu đã khiến chúng tôi gần như không thể sử dụng lại cậu trong vỏ bọc ngụy trang được nữa”.
“Tôi không nhận công việc tại Lực lượng Đặc nhiệm nữa, Ari. Thêm nữa, họ đã trao công việc đó cho Uzi”.
“Uzi là một sỹ quan giỏi, nhưng cậu ta không phải là cậu”.
“Uzi là nguyên nhân giúp Sarah Bancroft còn sống. Cậu ta đúng là người cần thiết để lãnh đạo Lực lượng Đặc nhiệm.
“Đáng lẽ cậu không nên sử dụng một cô gái Mỹ”.
“Tôi ước chúng ta có thêm hai người nữa giống cô ấy”.
Shamron dường như không còn thích thú với điếu thuốc lá. Ông bỏ điếu thuốc vào hộp và hỏi Gabriel về kế hoạch của anh.
“Tôi còn một số công việc chưa hoàn thành, bắt đầu là bức Van Gogh. Tôi đã hứa với Hannah Weinberg sẽ đem bức tranh trả lại cho cô ấy. Đây là lời hứa tôi nhất định phải giữ, cho dù bây giờ tôi đã trở thành người được nhiều người biết đến”.
“Cậu biết bức tranh đó ở đâu không?”
Gabriel gật đầu. “Tôi đã gài máy phát tín hiệu vào khung tranh khi phục chế”, anh đáp. “Bức họa đang ở trong dinh thự của Zizi tại Ile de la Cite”.
“Sau những việc đã xảy ra với cậu tại Pháp, cậu lại dự định ăn cắp một bức tranh ở Paris sao?”. Shamron lắc đầu. “Cậu lọt vào nhà anh bạn Tổng thống Mỹ của cậu còn dễ hơn là vào một trong những dinh thự của Zizi”.
Gabriel bác bỏ những lo lắng của Shamron bằng cái phẩy tay giống y như của ông.
“Sau đó thì sao?”
Gabriel im lặng.
“Ronit đã quyết định về nhà”, Shamron nói, “nhưng tôi có cảm giác cậu sẽ rời khỏi chúng tôi một lần nữa”.
“Tôi vẫn chưa quyết định”.
“Tôi hi vọng cậu đã quyết định xong việc với Chiara”.
“Chúng tôi sẽ cưới nhau ngay khi có thể”.
“Cậu sẽ thông báo tin này với Leah khi nào?”
Gabriel trả lời ông.
“Hãy đưa Gilah đi cùng cậu”, Shamron nói. “Bà ấy đã đến thăm Leah nhiều lần khi cậu đang hoạt động. Leah cần một người mẹ trong những lúc như thế này. Và Gilah là người mẹ tuyệt vời nhất”.
Gabriel và Chiara qua đêm trong căn phòng đối diện hồ. Lúc ban mai, tất cả cùng nhau ăn sáng trên sân thượng tràn ngập ánh nắng, sau đó mỗi người đi một ngả. Yonatan đi về hướng nam để gia nhập đơn vị của mình; Rimona, đã quay trở lại làm việc tại Aman, đi về hướng nam để trở về đơn vị của cô. Gilah đi cùng Gabriel và Chiara. Họ thả Lavon xuống chỗ khai quật tại Tel Megiddo, sau đó tiếp tục đến Jerusalem.
Khi họ đến bệnh viện tâm thần trên núi Herzl, trời đã gần trưa. Giáo sư Bar-Zvi, trông thuần Do Thái với bộ râu dài, đang chờ họ tại hành lang. Họ đi tới văn phòng của ông và mất một giờ thảo luận để tìm cách tốt nhất để báo tin cho Leah. Sự nắm bắt thực tại của cô rất mơ hồ. Trong nhiều năm qua, những hình ảnh tại Viên cứ chiếu đi chiếu lại trong trí nhớ của cô, giống như đoạn video được tua đi tua lại vậy. Bây giờ cô đang bị lẫn lộn giữa quá khứ và hiện tại, có những khoảnh khắc cô được trở về với thực tại. Nhưng rồi cô lại mau chóng chìm vào những hình ảnh của quá khứ. Gabriel cảm thấy có bổn phận phải nói cho cô biết sự thật, nhưng anh muốn làm việc này theo cách ít đau đớn nhất.
“Hình như cô ấy có phản ứng với Gilah”, bác sỹ nói. “Có lẽ chúng tôi nên nói chuyện với cô ấy trước anh”. Ông nhìn đồng hồ. “Bây giờ cô ấy đang ở ngoài vườn. Đó là nơi ưa thích nhất của cô ấy. Tại sao chúng ta không nói chuyện ở đó”.
o O o
Leah đang ngồi trên xe lăn, dưới bóng râm của cây thông đá. Đôi bàn tay cô, đầy sẹo và bị biến dạng, cầm một cành ôliu. Mái tóc cô, từng có thời rất dài và đen huyền, bây giờ cắt ngắn và gần như bạc hết. Đôi mắt cô vẫn nhìn xa vắng khi nghe Gilah và bác sỹ nói. Mười phút sau họ rời đi. Gabriel bước dọc lối đi trong vườn và quỳ trước xe lăn, nắm lấy những gì còn sót lại của bàn tay. Chính Leah là người cất tiếng.
“Anh có yêu cô gái ấy không?”
“Có, Leah, anh rất yêu cô ấy”.
“Anh sẽ đối xử tốt với cô ấy chứ?”
Những giọt nước mắt rơi trên má anh. “Có, Leah, anh sẽ đối xử tốt với cô ấy”.
Cô ngoảnh mặt đi. “Nhìn tuyết kìa, Gabriel. Tuyết rơi thật đẹp”.
“Em nói đúng, Leah, tuyết đẹp lắm”.
“Chúa ơi, em ghét thành phố này làm sao, nhưng tuyết khiến nó trở nên xinh đẹp. Tuyết xoá sạch tội lỗi khỏi Viên. Tuyết rơi trên Viên trong khi bom đạn rơi trên Tel Aviv”. Cô quay lại nhìn anh. “Anh sẽ vẫn đến thăm em chứ?”
“Có, Leah, anh sẽ vẫn đến thăm em”.
Sau đó cô lại ngoảnh mặt quay đi. “Anh nhớ cài chặt giây an toàn cho Dani. Đường đi trơn lắm”.
“Con khỏe, em ạ. Lái xe về nhà cẩn thận nhé”.
“Em sẽ cẩn thận, Gabriel. Anh hôn em đi”.
Gabriel ghé môi hôn vết sẹo trên gò má bị tàn phá của cô và nhắm mắt lại.
Leah thì thầm. “Nụ hôn cuối”.
Những bức tường trong phòng ngủ của Gabriel treo đầy tranh. Có ba bức là do ông ngoại anh vẽ, đó cũng là những tác phẩm cuối cùng còn sót lại mà Gabriel có thể tìm được – và hơn một tá do mẹ anh vẽ. Cũng có một bức chân dung tự họa, vẽ theo phong cách của Egon Schiele nhưng không có chữ ký. Bức tranh vẽ một thanh niên có mái tóc bạc trước tuổi và gương mặt hốc hác bị ám ảnh bởi bóng dáng tử thần. Gabriel luôn nói với Chiara bức tranh là tác phẩm tự họa. Giờ đây, khi nàng nằm cạnh anh, anh nói với nàng sự thật, rằng đó là bức vẽ của Leah.
“Chị ấy vẽ bức tranh khi nào?”. Chiara hỏi.
“Ngay sau khi anh trở về từ vụ Tháng Chín Đen”.
“Tài năng của chị ấy thật đáng kinh ngạc”.
“Đúng vậy”, Gabriel nói, nhìn bức vẽ. “Cô ấy giỏi hơn anh nhiều”.
Chiara im lặng một lúc. Sau đó nàng hỏi. “Chúng ta sẽ ở đây bao lâu?”
“Có lẽ một tháng. Có lẽ một năm. Em biết những việc như thế này diễn ra như thế nào mà, Chiara”.
“Em nghĩ mình cần thêm đồ đạc”.
“Tại sao?”
“Vì chúng ta không thể chỉ sống bằng phòng vẽ và một cái giường”.
“Chúng ta có thể mà”, anh đáp. “Chúng ta còn cần gì khác nữa?”