Báo
DAILY MAIL
Ngày 8 tháng Hai, 1946
YALTA: HỘI NGHỊ TAM CƯỜNG
Khi Keith trở lại học năm cuối tại trường Thánh Andrew, chẳng ai ngạc nhiên khi ông hiệu trưởng không bảo cậu làm lớp trưởng.
Tuy nhiên, có một ghế khá nhiều quyền lực mà cậu rất muốn, cho dù chẳng ai trong số học sinh ở trường cho cậu một chút cơ hội để có được ghế đó.
Keith hy vọng trở thành tổng biên tập của tờ Thánh Andy, tạp chí của trường, giống như cha cậu trước đây. Địch thủ của cậu là một học sinh cùng lớp tên là Tomkins “Mọt sách”, từng là phó tổng biên tập từ năm trước và được ông hiệu trưởng coi là có “đôi tay an toàn”. Tomkins đã được vào danh sách nhận học bổng của trường Cambridge nghiên cứu về tiếng Anh, được sáu mươi ba học sinh lớp 12 có quyền bỏ phiếu coi là có năng lực nhất. Nhưng đó là trước khi có người nhận ra rằng Keith muốn ghế đó đến mức nào.
Ngay trước khi bầu cử diễn ra, Keith bàn luận vấn đề này với cha khi họ đi dạo trong khu vực của gia đình ở ngoại ô.
“Cử tri thường đổi ý vào phút cuối”, cha cậu bảo. “Họ phần lớn dễ bị mua chuộc hoặc doạ nạt. Đó là kinh nghiệm của cha, cả trong chính trị lẫn thương trường. Cha không biết tại sao học sinh lớp 12 trường con lại có thể khác”. Hầu tước Graham dừng lại khi họ tới đỉnh đồi nhìn xuống khu nhà. “Và đừng bao giờ quên con có lợi thế hơn phần lớn các ứng cử viên trong các cuộc bầu cử “.
“Sao lại thế?” Cậu thanh niên mười bảy tuổi hỏi trên đường từ đồi về nhà.
“Với một cử tri đoàn nhỏ xíu như thế, con biết hết các cử tri”.
“Nếu con được lòng mọi người hơn Tomkins thì mới có lợi thế”, Keith nói. “Nhưng lại không phải vậy”.
” Ít ai chỉ dựa vào việc được lòng dân để đắc cử đâu con ạ”, cha cậu trấn an. “Nếu thế thì nửa số lãnh đạo trên thế giới đã bị rụng từ lâu. Không ví dụ nào rõ hơn trường hợp của Churchill”.
Keith chăm chú lắng nghe lời cha trong khi họ trở về nhà.
Trở lại trường, cậu chỉ còn mười ngày để thực hiện những khuyến nghị của cha cậu trước khi cuộc bầu cử bắt đầu. Cậu thử đủ các kiểu thuyết phục mà cậu có thể nghĩ ra: vé tới xem các trận đấu ở sân vận động MCG, bia và những bao thuốc lá lậu. Thậm chí cậu còn hứa với một học sinh là sẽ đi chơi với chị gái cậu ta. Nhưng mỗi lần ngồi tính số phiếu, cậu lại càng không tin tưởng mình sẽ được đa số. Đơn giản là vì không có cách nào để biết người ta bỏ cho ai trong cuộc bầu phiếu kín. Và Keith càng không yên tâm bởi việc ông hiệu trưởng không úp mở gì về chuyện ai là người ông muốn đắc cử.
Khi chỉ còn bốn mươi tám tiếng trước khi bầu cử diễn ra, Keith bắt đầu xem xét cách thứ hai mà cha cậu bày cho là doạ dẫm. Nhưng dù suốt đêm nằm tính kỹ chuyện này, cậu vẫn không thể tìm được cách nào có khả năng thực thi nhất.
Chiều hôm sau, cậu tiếp Alexander Duncan, người mới được chỉ định làm lớp trưởng.
“Mình muốn có vé xem trận Victoria đấu với Nam Úc ở sân vận động MCG”,
“Đổi lại, tớ được gì?”, Keith vẫn ngồi cạnh bàn hỏi.
“Lá phiếu của tớ. Đó là chưa kể tớ có thể tác động những cử tri khác”.
“Trong bầu phiếu kín ư? Cậu đừng khoác lác”.
“Cậu nghi lời nói của tớ không đáng để cậu tin ư?”.
“Đại khái là như vậy”, Keith trả lời.
“Còn cậu nghĩ thế nào nếu tớ cung cấp cho cậu những chuyện bẩn thỉu của Cyril Tomkins?”
“Còn tuỳ thuộc chuyện đó có thể bôi nhọ được hắn không đã”.
“Chuyện này mà tung ra thì chắc chắn nó sẽ phải rút khỏi cuộc đua”.
“Nếu đúng như thế thì tớ không chỉ kiếm cho cậu hai vé ở hạng ghế dành cho hội viên, mà sẽ đích thân giới thiệu cậu với bất cứ cầu thủ nào cậu muốn gặp. Nhưng trước khi trao vé, tớ muốn cậu cho biết chuyện về Tomkins thế nào đã”.
“Sau khi tớ nhìn thấy vé”.
“Cậu nghĩ lời nói của tớ không đáng để cậu tin ư?” Keith nhăn nhở hỏi lại.
“Đại khái là như vậy”.
Keith mở ngăn kéo trên cùng, lấy ra một hộp nhỏ. Cậu tra chiếc khoá rất nhỏ vào ổ và xoay tròn. Cậu mở nắp, tìm kiếm bên trong, cuối cùng lấy ra hai cái vé mỏng dài.
Cậu giơ cao để Alexander nhìn cho rõ.
Nhìn thấy nụ cười trên mặt cậu bé, Keith bảo: “Nào, chuyện gì mà cậu dám bảo sẽ làm Tomkins ngứa ngáy?”.
“Nó là thằng đồng tính luyến ái”.
“Cái đó ai chẳng biết”, Keith nói.
“Nhưng cái chẳng ai biết là học kỳ vừa rồi suýt nữa nó bị đuổi học”.
“Tớ cũng thế mà. Vì vậy, đó đâu phải là tin đáng giá?” Cậu nhét lại hai chiếc vé vào hộp.
“Nhưng đằng này là vì bị bắt gặp trong phòng cùng với Julian Wells ở lớp dưới, cả hai đều đang chưa mặc quần”.
“Nếu đó là tội nặng, thì sao nó không bị đuổi?”.
“Bởi vì không có đủ chứng cứ. Tớ nghe nói thầy chủ nhiệm mở cửa vào hơi chậm một chút.”
“Hay là hơi quá sớm?” Keith gặng hỏi.
“Theo nguồn đáng tin cậy, tớ được biết thầy chủ nhiệm cho đó là chuyện không nên làm rùm beng ở trường vào lúc này. Nhất là khi Tomkins mới có học bổng Cambridge”.
Keith cười rạng rỡ, cho tay vào hộp lấy ra một chiếc vé.
“Cậu hứa đưa tớ hai chiếc cơ mà?”, Alexander bảo.
“Ngày mai nếu tớ thắng, cậu sẽ được nốt chiếc kia. Bằng cách đó, tớ mới thấy tin cây thánh giá của cậu đã được đặt đúng vào chiếc quan tài cần đặt”.
Alexander vồ lấy chiếc vé. “Ngày mai, tớ sẽ trở lại lấy nốt chiếc kia”.
Khi cánh cửa đã khép lại sau lưng Alexander, Keith ngồi vào bàn đánh máy như điên. Cậu mổ cò được khoảng hai trăm từ trên chiếc máy chữ Remington mà cha tặng nhân ngày Giáng sinh. Đánh xong, cậu kiểm tra lại nội dung, thay đổi một vài câu chữ, rồi lao đến xưởng in của trường.
Năm mươi phút sau cậu trở ra, tay ôm một tập giấy còn nóng. Cậu nhìn đồng hồ. Cyril Tomkins là một trong những học sinh bao giờ cũng ngồi chuẩn bị bài từ khoảng năm đến sáu giờ. Hôm nay cũng sẽ không phải ngoại lệ. Keith bước nhanh dọc hành lang, nhẹ nhàng gõ cửa.
“Mời vào”. Tomkins nói với ra.
Cậu học sinh chăm chỉ ngước nhìn Keith đang bước vào. Cậu không giấu nổi ngạc nhiên: Townsend trước đây chưa bao giờ đến thăm cậu. Trước khi cậu kịp hỏi, Keith nói ngay: “Mình nghĩ cậu có thể sẽ thích xem số báo đầu tiên của trường do tớ là tổng biên tập”.
Đôi môi dầy của Tomkins mím lại. “Mình nghĩ cậu sẽ thấy, như cách cậu thường hay nói, trong cuộc bỏ phiếu ngày mai, mình sẽ là người thắng với số phiếu áp đảo”.
“Không đâu. Một khi cậu đã có tỳ vết.”
“Làm gì có chuyện ấy”, Tomkins vừa hỏi vừa bỏ kính, kéo đuôi cravát lau mắt kính. “Chắc chắn cậu không thể hối lộ tớ theo cách mà lâu nay cậu làm với các học sinh khác trong lớp”.
“Đúng thế “, Keith nói. “Nhưng mình vẫn có cảm giác là cậu sẽ tự động rút sau khi đọc cái này”. Cậu chìa trang báo ra.
Tomkins đeo lại kính, nhưng mới đọc hết đề báo và một vài câu trong bài đó cậu ta đã gục mặt trên bài tập đang làm.
Keith phải thừa nhận phản ứng đó vượt quá mức cậu hy vọng. Cậu có cảm giác cha cậu cũng sẽ đồng ý là chỉ với cái tít như thế cậu đã thu hút được sự chú ý của người đọc.
“Học sinh lớp 12 bị bắt gặp trong phòng với một học sinh mới. Cả hai chưa kịp mặc quần. Tin đồn bị bác bỏ”
Keith thu lại trang báo, bắt đầu xé nhỏ trong khi Tomkins mặt trắng bệch đang cố lấy lại tinh thần. Cậu ném những mảnh giấy vụn vào sọt rác bên cạnh Tomkins và bảo: “Tất nhiên mình sẽ rất mừng nếu cậu là phó cho mình, nếu cậu chịu rút tên khỏi cuộc bầu ngày mai”.
Chủ nghĩa xã hội là một tít lớn trên số báo đầu tiên của tờ Thánh Andy dưới quyền của tổng biên tập mới.
“Theo chỗ tôi nhớ lại, chất lượng giấy và in ấn tốt hơn trước rất nhiều”, ông hiệu trưởng nhận xét trong cuộc họp giáo viên sáng hôm sau. “Tuy nhiên, về nội dung thì lại không nói được như thế. Tôi nghĩ chúng ta đội ơn Chúa là chỉ phải chịu đựng có hai số báo một học kỳ”. Các giáo viên khác gật đầu tán thành.
Sau đó, ông Clarke báo cáo rằng Cyril Tomkins đã từ chức phó tổng biên tập vài giờ sau khi số báo đầu tiên được phát hành. “Đáng tiếc là cậu ta không phải là tổng biên tập”, ông hiệu trưởng nói. “À, có ai biết tại sao cậu ta lại rút vào phút chót không?”.
Chiều hôm sau, Keith cười phá lên khi nghe tin này từ một người nghe lỏm được câu chuyện tại bàn ăn sáng.
“Nhưng bố em có nói sẽ làm gì về việc đó không?” Keith hỏi trong khi cô bé kéo lại khoá quần.
“Bố em không nói gì thêm về chuyện đó, ngoài việc ông bảo đội ơn Chúa anh đã không kêu gọi Úc trở thành nước cộng hoà”.
“A, bây giờ thì có đấy”, Keith bảo.
“Đúng giờ này thứ Bảy tuần sau, anh tới đây được không?” Penny hỏi trong khi chui đầu qua chiếc áo pun cổ rộng.
“Anh sẽ cố gắng”, Keith bảo. “Nhưng tuần sau thì không thể vào phòng này được vì người ta đã dùng cho cuộc đấu bốc rồi. Tất nhiên là trừ khi em muốn chúng mình làm chuyện đó giữa đấu trường, xung quanh là khán giả cổ vũ nhiệt liệt”.
“Em nghĩ nên để cho họ đấm đá nhau ngã ngửa ra sàn thì hơn”, Penny nói. “Anh có gợi ý gì khác không?”.
“Anh cho em chọn nhé. Hoặc chỗ tập bắn, hoặc sân cricket”.
“Sân cricket”, Penny nói ngay.
“Nhưng chỗ tập bắn thì có sao đâu?”, Keith hỏi.
“Ở đó tối và lạnh lắm”.
“À ra thế”. Keith ngừng lại. “Vậy thì phải ở sân cricket rồi”.
“Nhưng làm sao vào được?” Penny hỏi.
“Có chìa chứ “, Keith đáp.
“Bằng cách nào”, cô ta hỏi, cắn câu ngay. “Mỗi khi đội đi, sân lại khoá mà”.
“Nhưng sẽ không bị khoá khi con trai ông gác sân lại làm cho tờ Courier, đúng không?”
Penny ôm cậu ngay khi cậu vừa kéo lại khoá quần. “Anh có yêu em không, Keith?”
Keith cố nghĩ ra một câu trả lời có tính thuyết phục nhất mà lại không phải cam kết gì. “Chẳng phải anh đã hy sinh cả buổi chiều ở trường đua để đến với em đó sao?”
Penny nhíu mày khi cậu cố gỡ mình ra khỏi vòng tay cô. Cô vừa định áp sát vào lần nữa thì cậu nói thêm: “Tuần sau gặp lại nhé”. Cậu mở chốt cửa, thò đầu nhìn dọc hành lang. Cậu quay vào, mỉm cười bảo: “Em ở đây thêm năm phút rồi hãy ra”.
Cậu vòng về, vào phòng ngủ qua cửa sổ nhà ăn.
Khi vào phòng học, cậu thấy mấy chữ ông hiệu trưởng để lại trên bàn yêu cầu tới gặp ông lúc tám giờ. Cậu nhìn đồng hồ. Đã tám giờ kém mười. Cậu lấy làm mừng vì đã không bị Penny cám dỗ mà ở lại thêm chút nữa. Cậu bắt đầu tự hỏi không biết lần này ông hiệu trưởng sẽ phàn nàn cái gì, nhưng nghĩ có thể Penny đã chỉ cho cậu đúng hướng.
Cậu soi gương trên bồn tắm để chắc chắn không còn dấu vết gì của những hoạt động ngoại khoá trong hai tiếng vừa rồi. Cậu sửa lại cravát, lau sạch vết son hồng trên má.
Trên con đường lổn nhổn đá sỏi tới nhà ông hiệu trưởng, cậu bắt đầu ôn lại những lời bào chữa của mình trước lời khiển trách của ông ta mà trong mấy ngày qua cậu mường tượng ra. Cậu cố sắp xếp lại các suy nghĩ và càng thấy tin tưởng là có thể trả lời bất cứ lời buộc tội nào. Tự do báo chí, thực hiện quyền dân chủ của công dân, những điều xấu xa của kiểm duyệt…, và nếu ông hiệu trưởng xạc cậu về tất cả những chuyện đó, cậu sẽ nhắc lại những lời ông ta nói với các bậc phụ huynh trong ngày kỷ niệm thành lập trường năm trước, khi ông ta lên án Hitler tiến hành những trò bịt miệng báo chí Đức. Hầu hết những lập luận này đều nhặt ở bàn ăn sáng với cha cậu từ khi ông ở Yalta về.
Keith đến cửa nhà ông hiệu trưởng đúng khi đồng hồ trên nóc nhà nguyện điểm tám tiếng. Nghe tiếng gõ cửa, một người giúp việc ra mở và nói: “Chào ông Townsend”. Đây là lần đầu tiên có người gọi cậu là “ông”. Chị ta đưa cậu vào thẳng phòng làm việc của hiệu trưởng. Ông Jessop từ sau chiếc bàn bừa bộn sách vở ngước nhìn cậu.
“Chào Townsend”, ông nói, không giống thói quen của ông chào học sinh năm cuối cùng bằng tên thánh. Rõ ràng Keith sắp gặp rắc rối to.
“Chào thầy”, cậu đáp, tiếng “thầy” nghe rất nhỏ.
“Ngồi xuống đi”, ông Jessop vẫy tay về phía ghế kê trước bàn.
Keith ngạc nhiên. Nếu được mời ngồi, điều đó thường có nghĩa là không gặp rắc rối. Chả lẽ ông ta sắp bảo cậu làm gì chăng?
“Cậu có dùng một chút rượu ngọt không, Townsend?”.
“Dạ thôi, cám ơn thầy”, Keith đáp mà vẫn không tin điều vừa nghe. Rượu ngọt thông thường chỉ mời lớp trưởng.
A, có lẽ đây là lối mua chuộc, Keith nghĩ thầm. Ông ta sẽ bảo mình tới đây nên khôn ngoan hơn, ít bộc lộ khuynh hướng khiêu khích của mình bằng cách…vân vân và vân vân. Được rồi, mình đã có sẵn câu trả lời cho việc đó. Xin ông cứ việc giở trò.
“Townsend này! Tất nhiên tôi biết cậu phải làm việc vất vả như thế nào để vừa chuẩn bị cho việc theo học ở Cambridge, vừa là tổng biên tập của tạp chí nhà trường”.
Ra là vậy! Ông ta muốn mình từ chức tổng biên tập. Đừng hòng! ông ta phải đuổi mình trước đã. Và nếu ông ta làm thế, mình sẽ cho xuất bản một tạp chí bí mật ra trước tạp chí chính thức một tuần.
“Tuy nhiên, tôi hy vọng cậu cảm thấy có thể đảm nhận thêm trọng trách”.
Ông ta định đưa mình làm lớp trưởng chăng? Mình không tin điều đó.
“Cậu có thể ngạc nhiên khi biết rằng tôi coi sân cricket hiện nay là không thích hợp…”, ông hiệu trưởng nói tiếp. Keith tái mặt.
“Thưa thầy, không thích hợp?” Cậu lắp bắp.
“Không thích hợp đối với đội có tiếng như của trường ta. Bây giờ tôi mới nhận thấy cậu chưa để lại dấu ấn ở trường với tư cách là một nhà thể thao. Tuy nhiên, hội đồng nhà trường đã quyết định năm nay sẽ kêu gọi đóng góp để xây sân vận động mới”.
Hừ, họ không cần hy vọng mình sẽ giúp một tay, Keith nghĩ. Nhưng cứ để cho ông ta nói thêm chút nữa rồi mình sẽ từ chối.
“Tôi biết cậu sẽ vui mừng khi biết mẹ cậu đồng ý là chủ tịch của ban kêu gọi đóng góp này”, ông dừng lại, rồi tiếp. “Vì thế tôi hy vọng cậu sẽ đồng ý là chủ tịch của tiểu ban đóng góp học sinh”.
Keith tỏ ý không muốn trả lời. Cậu thừa biết một khi ông già đã vào cuộc thì đừng hòng có ai ngắt lời ông ta.
“Và vì cậu không phải đảm đương trách nhiệm lớp trưởng đầy cực nhọc, lại không tham gia trong một đội thể thao nào của trường, tôi cảm thấy cậu có thể quan tâm đến việc đương đầu với thách thức này…”
Keith vẫn không nói gì.
“Số tiền mà hội đồng nhà trường nghĩ cần kêu gọi đóng góp là năm ngàn bảng, và nếu cậu thành công trong việc gây quỹ được ngần ấy, tôi có thể thông báo với trường để cậu nộp đơn vào học Oxford vì những nỗ lực to lớn của cậu”. Ông ta dừng lại nhìn mấy tờ giấy để trước mặt. “Nếu tôi nhớ chính xác thì là trường Worcester. Tôi cảm thấy có thể nói một cách chắc chắn là, nếu đơn xin học của cậu có lời giới thiệu của tôi, thì nhất định cậu sẽ được nhận”.
Và đây lại chính là người sáng chủ nhật nào cũng chui vào phòng rửa tội để xám hối về những tội mua chuộc và tham nhũng, Keith nghĩ.
“Vì vậy tôi nghĩ, cậu sẽ xem xét đề nghị này một cách nghiêm túc, Townsend ạ”.
Vì sự im lặng kéo dài đến ba giây, Keith cho rằng ông hiệu trưỏng đã dứt lời. Phản ứng đầu tiên của cậu là bảo ông ta hãy nghĩ lại, tìm một cậu nào đó dễ ăn phải bả của ông ta hơn, chứ cậu thì chẳng quan tâm gì đến chuyện đội cricket hay theo học tại Oxford. Cậu đã quyết định ngay sau khi học xong trường này, là làm cho tờ Courier, với tư cách là phóng viên tập sự. Tuy nhiên, cậu công nhận vào lúc này mẹ cậu vẫn muốn cậu phải theo học ở đó, nhưng nếu cậu cố ý rớt trong kỳ thi tuyển thì bà sẽ chẳng còn có thể làm gì được hơn.
Mặc dù vậy, Keith có thể nghĩ ra vài lý do xác đáng để thoả mãn mong muốn của ông hiệu trưởng. Số tiền quyên góp không phải là lớn lắm, việc quyên góp cho trường sẽ giúp mở một số cửa mà trước nay vẫn đóng đối với cậu. Và rồi còn mẹ cậu nữa. Bà cần được an ủi nếu cậu rớt không vào được Oxford.
“Mọi khi cậu đâu cần nhiều thời gian đến thế trước khi quyết định làm việc gì”, ông hiệu trưởng cắt ngang dòng suy nghĩ của cậu.
“Thưa thầy, em đang xem xét một cách nghiêm túc lời đề nghị của thầy’, Keith nghiêm trang đáp. Cậu không hề có ý định cho phép ông già tin rằng cậu dễ dàng bị phỉnh phờ. Lần này, đến lượt ông hiệu trưởng im lặng. Keith đếm đủ ba giây trước khi nói tiếp. “Thưa thầy, em sẽ trở lại vấn đề này nếu có thể được”, cậu nói, hy vọng mình giống như giám đốc ngân hàng đang nói với một khách hàng xin vay tiền.
“Nhưng khi nào cậu trả lời, Townsend?” ông hiệu trưởng hỏi, có vẻ cáu.
“Nhiều nhất là hai hoặc ba ngày, thưa thầy”.
“Cám ơn. Townsend”, ông ta nói, đứng dậy, ra ý cuộc nói chuyện đến đó là kết thúc. Keith xoay người đi ra, nhưng khi vừa tới cửa, cậu nghe ông hiệu trưởng nói thêm : “Hãy nói chuyện với mẹ cậu trước khi quyết định”.
“Bố em muốn anh đại diện cho đám học sinh trong tiểu ban quyên góp”, Keith vừa nói vừa rờ rẫm tìm quần.
“Lần này họ muốn xây cái gì?”, Penny hỏi, vẫn nằm ngửa nhìn lên trần.
“Sân crickét mới”.
“Em không hiểu. Sân này có sao đâu?”.
“Người ta biết nó còn được dùng vào những mục đích khác”, Keith nói trong khi mặc quần.
“Em vẫn không hiểu tại sao”. Cô bé kéo ống quần của Keith. Cậu nhìn xuống thân thể trần truồng của cô ta. “Thế anh định trả lời bố em thế nào?”
“Anh sẽ trả lời đồng ý”.
“Nhưng tại sao ? Việc đó sẽ choán hết thời gian của anh”.
“Anh biết. Nhưng nó sẽ làm ông thôi không chọc ngoáy anh nữa. Và dầu sao nó cũng giống như mua bảo hiểm”.
“Mua bảo hiểm ư?” Penny hỏi.
“ừ. Nếu người ta thấy anh ở trường đua, hoặc tệ hơn nữa…”. Cậu lại nhìn cô ta.
“Thấy nằm với con gái ông hiệu trưởng trong phòng thay đồ chứ gì?” Cô ta nhỏm dậy, lại bắt đầu hôn cậu.
“Mình còn thời gian không?” Cậu hỏi.
“Đi đâu mà vội, Keith. Nếu hôm nay đội chơi ở Wesley và mãi sáu giờ mới kết thúc trận đấu, thì chín giờ họ mới về tới đây. Chúng mình còn ối thời gian”. Cô ta quỳ xuống và lại bắt đầu kéo khoá quần của cậu.
“Nhưng ngộ trời mưa”, Keith bảo.
Penny là cô gái đầu tiên Keith làm tình. Cô ta đã dụ được cậu vào cái đêm cậu đi dự buổi hoà nhạc của một ban nhạc đến thăm thành phố. Cậu không bao giờ nghĩ trong nhà vệ sinh nữ lại có đủ chỗ để làm việc đó. Cậu biết chắc với Penny đó không phải là lần đầu, vì cho đến lúc này, cậu vẫn chưa dạy nổi cô ta điều gì trong chuyện ân ái.
Nhưng đó là những chuyện xảy ra từ đầu học kỳ, còn bây giờ cậu đang để mắt tới một cô gái khác có tên là Betsy làm ở bưu điện địa phương. Thực tế là gần đây mẹ cậu rất ngạc nhiên trước việc cậu rất chăm viết thư về nhà.
Keith nằm trên cái đệm ghép từ những miếng nịt che gối được xếp ngay ngắn trong phòng thay đồ, bắt đầu tự hỏi khi Betsy trần truồng thì trông cô thế nào. Cậu quyết định đây phải là lần cuối cùng.
Vừa mặc lại áo lót, Penny vừa hỏi: “Tuần sau lại giờ này chứ?”.
“Rất tiếc tuần sau không được”, Keith bảo. “Anh có hẹn ở Melbourne”.
“Với ai?”, Penny hỏi. “Anh đâu có chơi cho đội bóng?”.
“Ừ, họ cũng chưa tuyệt vọng đến mức cần có anh”, Keith cười bảo. “Nhưng anh phải có mặt trong cuộc phỏng vấn để vào trường Oxford”.
“Vậy thì việc quái gì phải lo? Nếu chẳng may phải vào đó học, nó càng khẳng định nỗi sợ tồi tệ nhất của người ta về người Anh”.
“Anh biết thế, nhưng…”, cậu vừa nói vừa mặc lại quần lần thứ hai.
“Nhưng em nghe bố em bảo với ông Clarke là ông đưa tên anh vào danh sách chẳng qua chỉ để làm vừa lòng mẹ anh thôi”.
Penny hối tiếc ngay là đã buột miệng nói ra câu đó.
Keith nheo mắt nhìn cô gái lúc đó đang nằm, mặt không hề đỏ.
Keith dùng số báo thứ hai để bày tỏ quan điểm của mình về giáo dục tư thục.
“Trong khi chúng ta sắp bước vào nửa sau của thế kỷ XX, tiền bạc không còn có thể đảm bảo cho một nền giáo dục tốt”, bài bình luận tuyên bố. “Những trường tốt nhất cần phải được mở cửa cho bất cứ học sinh nào tỏ ra có khả năng, chứ không phải chỉ cho những người sinh ra trong những gia đình khá giả”.
Keith chờ đợi cơn thịnh nộ của ông hiệu trưởng, nhưng phía nhà trường lại hoàn toàn im lặng. Ông Jessop không đáp lại lời thách thức ấy. Có thể ông bị tác động bởi việc Keith đã gây quỹ được 1.470 bảng trong số 5.000 bảng cần cho việc xây sân vận động mới. Cũng phải thừa nhận rằng phần lớn số tiền đó là trích từ những người ký hợp đồng với bố cậu, những người mà Keith ngờ rằng họ đóng góp với hy vọng tên tuổi của họ trong tương lai sẽ không bị nêu trên trang nhất của các báo.
Thực ra cậu viết không phải để phàn nàn, mà vì tờ Melbourne Age sẵn sàng trả 10 bảng cho việc đăng bài đó. Nó là đối thủ chính của Hầu tước Graham, muốn đăng lại bài báo dài 500 từ này. Keith vui vẻ chấp nhận số tiền nhuận bút đầu tay, nhưng chỉ để thứ Tư sau lại thua sạch trong cá cược, để cuối cùng cho cậu thấy hệ thống của Joe May Mắn không phải là không thể sai.
Tuy nhiên, Keith mong đợi cơ hội gây ấn tượng với cha mình bằng cái cú nho nhỏ đó. Ngày thứ Bảy, cậu đọc lại toàn bộ áng văn của mình được đăng lại trên tờ Melbourne Age. Họ không thay đổi một chữ nào, nhưng đã cho nó một cái tít khác hẳn: “Người thừa kế của Hầu tước Graham đòi học bổng cho thổ dân”.
Một nửa trang báo dành cho quan điểm cấp tiến của Keith, nửa trang còn lại là bài của phóng viên chính phụ trách mảng giáo dục của tờ báo. Người này lập luận rất thuyết phục cho giáo dục tư thục. Độc giả được mời phát biểu quan điểm của mình và thứ Bảy sau đó là một ngày rất tai hại cho Hầu tước Graham.
Keith rất mừng cha cậu không bao giờ nói đến vấn đề này, mặc dù cậu nghe thấy ông nói với mẹ cậu:
“Thằng bé sẽ học được nhiều điều trong chuyện này. Nhưng dù sao tôi cũng tán thành hầu hết những điều nó viết”.
Nhưng mẹ cậu thì ngược lại.
Trong những ngày nghỉ, Keith dành các buổi sáng để cô Steadman phụ đạo thêm, chuẩn bị cho kỳ thi cuối khoá.
“Học hành cũng là một hành động bạo ngược dưới hình thức khác”, cậu tuyên bố sau một buổi học căng thẳng.
“Thế cũng chưa thấm gì so với cái bạo ngược là ngu dốt suốt quãng đời còn lại của cậu”, cô ta trấn an.
Sau khi cô Steadman cho cậu một số chủ đề để ôn, Keith đến toà báo Courier làm việc suốt ngày hôm đó. Giống như cha, cậu thấy dễ hoà nhập với các phóng viên hơn là với đám con cái nhà giàu, quyền thế ở trường Thánh Andrew, những đứa mà cậu vẫn phải lấy lòng để quyên tiền xây sân vận động.
Việc đầu tiên cậu được giao ở toà báo là làm việc với một phóng viên tên là Barry Evans phụ trách mục hình sự; anh này chiều nào cũng phái cậu đến toà án để theo dõi các vụ án, nào là móc túi, đục tường khoét vách, nào là ăn cắp trong cửa hàng và đôi khi cả chuyện đa thê. “Hãy tìm những tên tuổi mà mọi người có thể nhận ra “, Evans bảo cậu. “Hoặc tốt hơn nữa là tên những người có liên quan đến những nhân vật nổi tiếng. Tốt nhất là những người nổi tiếng”. Keith làm việc cần mẫn, nhưng kết quả không phải hoàn toàn tương xứng với những cố gắng của cậu. Mỗi khi có bài được đăng trên báo, cậu thường thấy nó đã bị sửa chữa không thương xót.
“Tôi không muốn biết ý kiến của cậu”, tay phóng viên hình sự nhắc đi nhắc lại. “Tôi chỉ muốn sự thực”. Evans đã được tập sự ở toà báo Manchester Guardian, nên không bao giờ mệt mỏi nhắc lại câu nói của C.P. Scott: “Bình luận thì tự do, nhưng sự thực mới là thiêng liêng”. Keith quyết định nếu cậu là chủ bút một tờ báo, cậu sẽ không bao giờ thuê mướn ai đã từng làm cho tờ Manchester Guardian.
Cậu trở lại trường để vào học kỳ hai và dùng bài bình luận trong số báo đầu tiên của trường để gợi ý đã đến lúc nước Úc cắt các mối liên hệ với Anh. Bài báo tuyên bố rằng Churchill đã bỏ rơi Úc, chỉ tập trung vào cuộc chiến ở châu Âu.
Một lần nữa tờ Melbourne Age lại gạ Keith quảng bá ý kiến của mình đến số lượng độc giả rộng hơn, nhưng lần này cậu từ chối, mặc dù số tiền được trả khá hấp dẫn là 20 bảng, tức là gấp bốn lần số tiền cậu kiếm được trong hai tuần với tư cách phóng viên tập sự tại tờ Courier. Cậu quyết định chuyển bài đó cho tờ Adelaide Gazette, một trong những tờ báo của cha cậu, nhưng ông tổng biên tập gạch chéo bài báo trước khi đọc đến đoạn hai.
Vào tuần thứ hai của học kỳ, Keith nhận thấy vấn đề khó khăn nhất của cậu là làm sao thoát được Penny, đến lúc này đã không còn tin vào các lí do cậu đưa ra để giải thích tại sao không chịu gặp cô ta, ngay cả lúc cậu nói thật. Cậu đã mời Betsy đi xem phim vào chiều thứ Bảy tuần sau. Tuy nhiên, vẫn còn vấn đề chưa được giải quyết là, làm sao đi chơi với cô này trước khi rũ bỏ được cô kia.
Trong lần gặp gần đây nhất ở phòng thể thao, khi cậu gợi ý có lẽ đã đến lúc hai đứa phải chia tay…, Penny bóng gió rằng sẽ kể với bố về những chuyện hai người thường làm chiều thứ Bảy. Keith không ngại việc cô kể với ai, nhưng cậu rất không muốn làm mẹ cậu buồn. Suốt cả tuần cậu ở lỳ trong phòng, học bài miệt mài đển mức không ngờ, tránh đi bất cứ chỗ nào có thể chạm trán với Penny.
Chiều thứ Bảy, Keith luồn vào thành phố gặp Betsy ở ngoài rạp Roxy. Không gì giống như ba lần vi phạm nội quy trong một ngày, cậu nghĩ. Cậu mua hai vé có dự thưởng xem bộ phim “Những con chuột của Tobruk”, dẫn Betsy vào một ghế đôi hàng cuối cùng. Tới khi dòng chữ “hết phim” hiện trên màn ảnh, cậu chẳng biết phim nói gì, còn lưỡi thì đau rát. Keith nóng lòng chờ thứ Bảy sau, khi đội bóng sang đấu ở sân khách, cậu có thể giới thiệu Betsy những lạc thú trong sân vận động.
Cậu mừng là Penny không tìm cách liên hệ với cậu trong mấy tuần tiếp theo. Vì thế thứ Năm, khi đến bưu điện gửi thư cho mẹ, cậu hẹn gặp Betsy vào chiều thứ Bảy. Cậu hứa sẽ đưa cô tới một nơi mà cô chưa từng bao giờ đặt chân.
Ngay khi chiếc xe chở đội bóng vừa khuất, Keith quanh quẩn sau những hàng cây ở phía bắc sân vận động chờ Betsy. Sau khoảng nửa giờ chờ đợi, cậu bắt đầu tự hỏi không biết cô có tới không, nhưng chỉ một lát sau cậu nhìn thấy cô đang đi qua cánh đồng, và lập tức hết sốt ruột. Mái tóc vàng dài của cô buộc bằng sợi cao su vổng lên như đuôi ngựa. Cô mặc chiếc áo thun bó sát người, làm cậu nhớ đến Lara Turner (1), chiếc váy đen ngắn đến nỗi khi đi, cô không còn cách nào khác là bước những bước rất ngắn.
Keith đợi cô đến chỗ cậu sau hàng cây, rồi khoác tay, nhanh chóng dẫn cô về phía sân vận động. Cứ vài bước cậu lại dừng để hôn cô, và khi còn cách sân khoảng hai chục mét thì lần ra được chỗ khoá váy của cô.
Khi họ đến cửa sau, Keith lấy từ túi ra một chìa khoá to cho vào ổ. Cậu từ từ xoay, rồi đẩy cho cửa mở, sờ soạng tìm công tắc đèn. Cậu bật đèn, chợt nghe tiếng rên. Keith không tin vào những gì cậu thấy. Bốn con mắt đang chớp chớp nhìn cậu. Cô gái lấy tay che mặt dưới ánh đèn, nhưng Keith nhận ra cặp đùi ấy, cho dù không nhìn rõ mặt. Cậu chăm chú nhìn cậu con trai đang nằm đè lên người cô gái.
Duncan Alexander chắc chắn sẽ không bao giờ quên cái ngày cậu tập tễnh vào đời.
(1)Lara Turner: tài tử điện ảnh luôn luôn mặc áo thun bó sát người