Tarot Lá Bài Phán Quyết

Chương 35: Sự ngờ vực của Hoàng hậu (9)



Lý Thường Đăng bỏ ra một ngày một đêm, cuối cùng cũng san bằng được mảnh sân của Giản Chính Lương, may mà đất bùn ẩm ướt, dễ tơi, chôn đội phó Kiều xuống không tốn nhiều sức lực. Sau khi giải quyết ổn thỏa mọi chuyện, ông ta ngẩng đầu nhìn cây dương hòe, hoa trắng bên trên đã rụng quá nửa, rơi vào trong đất, từ từ mục nát cùng đám cốt khô và xác tươi. Lý Thường Đăng trước nay không hề tin chuyện chết chìm, trói xác vào đá tảng rồi vứt xuống sông tuyệt đối là một việc làm mạo hiểm, nhỡ đâu dây thừng bị mấy loài cá răng nhọn như cá chuối cắn đứt, hoặc là quấn vào bèo rong nổi lên, tội ác chẳng phải phơi bày rõ như ban ngày sao, Tề Thu Bảo chính là một minh chứng mạnh mẽ nhất. Vì vậy ông ta chung tình với đất bùn, giống như dạ dày vậy, có thế ngốn lấy mọi thứ, rồi từ từ tiêu hóa sạch sẽ.

Một vạn đồng giấy bạc cùng một hũ ăm ắp đồng đại dương khiến Lý Thường Đăng toàn thân khoan khoái, đây là thứ ông ta chuẩn bí cho tương lai, rồi sẽ có ngày, ông ta rời khỏi trấn Thanh vân, cứu cả người đàn bà ông ta yêu đem theo. Ông ta đã đợi ngày ấy rất lâu, đến tận khi Trương Diễm Bình trở thành người điên, sắp bị đưa lên bệnh viện tâm thần Thượng Hải, mới bắt đầu sốt ruột. Đối với Lý Thường Đăng, mất ngủ đã là cố tật, rượu mạnh cũng không thể đánh bại, đội khi, trong khoảnh khắc nhắm mắt ông ta sẽ trông thấy đội phó Kiều đầu đầm đìa máu đứng dưới gốc cây dương hòe, vai đầy hoa trắng như những sợi bông. Hai người cứ thế nhìn nhau cười, vì ông ta không hề tin truyền thuyết oan hồn đòi mạng, đặc biệt ở trấn Thanh vân, “báo ứng” lại càng là chuyện hão huyền, trái lại “oan tình” thì không lúc nào không chỗ nào là không xảy ra.

Dáng người Hạ Băng cao hơn Hoàng Mạc Như đôi chút, nên thể lực hao tốn cũng nhiều hơn, không uống nước, anh chắc chắn không gượng nổi hai ngày. Lý Thường Đăng thẩm vẫn anh lại càng đủng đỉnh, chỉ hỏi anh và Tề Thu Bảo lén lút qua lại đã bao lâu, hai người làm gì trong con hẻm phía Tây trấn, đã có xung đột gì. Hạ băng không có vẻ thanh cao ngạo mạn như Hoàng Mạc Như, chỉ nói hôm đó ở nhà ngủ, không hề tới con hẻm nào, càng không thể tìm mấy ả gái điếm hèn mạt ấy giao dịch gì.

Nhưng Lý Thường Đăng nào chịu buông xuôi, không những nghiêm cấm cho nước, đến đồ ăn cũng đổi thành mỗi bữa hai miếng cơm cháy cứng ngắc. Cố A Thân lần nào tới đưa cơm cũng có màn khuyên nhủ anh: “Người anh em, đàn ông ở bên ngoài phong lưu khoái hoạt là chuyện thường tình, nếu cậu sợ bị Đỗ Xuân Hiểu biết được lại phải ăn kẹp đầu, tôi sẽ đi nói hộ cậu, mau khai đi thì hơn!”

Nghe mấy lời này, Hạ Băng thấy ấm lòng vô cùng, xem ra Cố A Thân hoàn toàn không nghi ngờ anh là hung thủ, chỉ nghĩ anh sợ Đỗ Xuân Hiểu biết được chuyện đi chơi gái sẽ khó sống nên mới cứng mồm như vậy. Anh đành nói: “Đừng có ngốc, tôi đâu sợ cái bà điên Xuân Hiểu ấy? Chỉ là làm đàn ông nhất ngôn cửu đỉnh, đã nhận lời chuyện không thể nói thì quyết không nói. Thay vì khuyên tôi, chỉ bằng cậu nghĩ cách cho tôi ít nước uống, kẻo đến lúc tôi chết trước mặt cậu thì khó coi đấy.”

Cố A Thân vừa cười gian, vừa chìa ra hai quả lê giấu trong ống tay áo, đặt vào tay Hạ Băng: “Cậu nghĩ bao năm nay làm anh em là công cốc chắc?”

“Phía Tây trấn… tiệm dầu muối…”

Tuy vẫn chưa đến thu phân nhưng con sông trấn đã đổi sang màu lục sẫm lạnh lẽo, ánh mặt trời chiếu xuống tường vàng ngói xanh, soi sáng một bóng dáng ám muội. Hoàng Mạc Như cầm một chiếc ô giấy dầu, trên cán ô chạm bức “Hồ sen ánh trăng”, quang cảnh khác ca tiểu trấn đang ngập nắng hoàng hôn trước mặt. Lúc này, vốn nên đi về hướng có làn khói bếp trắng bốc lên, dọc đường ngửi mùi trứng xào hẹ ngào ngạt cùng vị ngọt của cơm mới nóng hổi, lòng cũng mềm đi, nhũn ra, bị chưng trong hơi ẩm bốc lên từ dòng sông.

Có điều bước chân hắn giẫm lên phiến đá xanh lại chần chừ đến lạ, quả phụ trong tiệm phấn son bến đò Tây đang ăn một bát hoành thánh nhỏ, trên mặt quầy đặt hai miếng màn thầy cắt sẵn và một đĩa dưa chuột muối, vẻ mặt chị ta thỏa mãn như thể đang ngồi trên núi vàng núi bạc vậy. Hắn không khỏi thầm ngưỡng mộ, trong khoang mũi đầy mùi phấn son ngọt dính, tình cảnh này, dường như không thể quen thuộc hơn được nữa, nhưng cũng lại không cách nào xâu chuỗi nổi. Một lọn tóc trên trán quả phụ rơi vào bát hoảnh thánh, trông không thấy bẩn, trái lại càng tăng thêm phần thướt tha. Chị ta tự nhiên nhấc tay trai, vén lọn tóc kia ra sau tai, vừa định cúi đầu ăn tiếp thì thấy Hoàng Mạc như đứng trước cửa nhìn mình, hơi ngạc nhiên cất giọng hói: “Cậu chắc đến mua son phấn cho người trong mộng?”

Hắn như bị thứ gì nện trúng tim, không nói nên lời, chỉ cảm thấy lồng ngực đau đơn. Hình như cũng từng có một câu nói dịu dàng nhường ấy, trốn trong linh hồn hắn mà gặm nhấm, khiến hắn thà chết không quên. Mặt hắn thoáng ửng đỏ, cổ họng ran rát cất tiếng hỏi: “Gần đây có tiệm dầu muối nào không?”

Vẻ ngạc nhiên trong mắt quả phụ càng rõ hơn, nhưng chị vẫn chỉ đường cho hắn, than thở: “Đi về đều phải cẩn thận, không là lạc đấy.” Như đùa, nhưng nghe lại vô cùng thành thực.

Trên hàng cột gỗ hoàng dương mái hiên khắc kín những ký ức lồi lõm, hắn có chút ngưỡng mộ, bởi ít ra những trải nghiệm của chúng đều là vết tích rõ ràng, không dễ lu mờ vì đả kích. Hắn lại mơ hồ, kìm nén, trong đầu có vài đốm sáng vụn vặt, có thể mang máng trông ra vài cảnh quan trọng, nhưng không nhìn thấy được toàn bộ, vậy nên mới cần tìm kiếm.

“Tiệm dầu muối…”

Hắn dừng lại trước một cửa tiệm có biểu hiệu phủ vải gai, bởi bắt đước thứ mùi mằn mặn từ bên trong tỏa ta. Là đây ư? Bước chân hắn đầy nghi hoặc, tâm thần bất an, vừa đặt bước đầu tiên tim chợt đập thình thịch, đốm sáng nào đó trong đầu bỗng mở rộng. Qua mảnh sáng ấy, có thể thấy một bóng hình nhìn nghiêng xinh đẹp tựa pho Quan Âm bằng ngọc đẽo, ngồi sau quầy tính tiền phủ đầy bụi, nghiêng nghiêng đầu, mi tâm chất chứa buồng thương, như đang ca thán năm tháng như nước chảy mây trôi.

Quầy tính tiền đó, giờ nhất định đang ở sau cánh cửa dán giấy niêm phong này.

Hắn xé mảnh giấy niêm phong, cửa “kèn kẹt” mở ra, như chỉ đợi hắn “phá kén”, có điều bên trong không có bướm nào bay ra, trái lại chỉ có bụi đất ập vào mặt. Ánh sáng lọt qua khe ván gỗ, khiến các hạt bụi đang xoay mình trên không chẳng còn nơi nào lánh mình. Quầy tính tiền kia cách hắn trong gang tấc, trống không, tựa hồ đã bị vét sạch từ lâu, hệt như quá khứ của hắn.

Vòng ra sau quầy, vẫn không có người, mặt đất ẩm ướt dinh dính, trong góc là một chum tương đã vỡ đôi, mùi khắm xộc vào mũi, mấy chục con ruồi vo ve trên vùng nước đặc sệt chảy ra. Hắn không khỏi bưng mũi, vừa định bỏ ra ngoài thì chợt nghe một tiếng “meo”, cánh cửa ngầm sau quầy hé một khe hở, từ trong khe ló ra một con mèo tam thể, lười nhác nhảy lên mặt quầy, liếm lưỡi nhìn hắn, rồi cuộn tròn mình, nhắm mắt không để ý gì nữa.

“Hôm nay sẽ chơi với mình kiểu mới.” Giọng nàng thấm đầy sắc dục.

Hắn đẩy cánh cửa ngầm, cùng nàng bước vào, mặt bếp hun đen, bàn ăn dính mỡ, đi sâu hơn nữa là đến phòng ngủ… Hắn vô thức cương lên, như trong giấc mơ hôn lên mắt cá chân quấn trong sợi tơ tằm của nàng.

Đèn dầu được đặt ở góc bàn, trên chiếc giường lớn kiểu rương treo một chùm bưởi phơi khô. Trước mắt hắn hiện lên hình ảnh người đó nằm trên giường, mắt nhắm nghiền, từng thớ thịt trên mặt đang co rút, nhưng vẫn không chịu chứng kiến hiện thực đang xảy ra trước mắt. Nàng vẫn ngồi trên góc bàn, mười ngón tay bấu chặt lấy lưng hắn, răng cắn ngập vào vai hắn, ban cho hắn cơn co giật xuyên xương thấu cốt đảo điên hồn phách…

“Hừ!”

Tiếng cười khẩy ấy băng lạnh như mũi khoan, làm đông cứng bó đuốc hừng hực trong nội thể hắn.

Chiếc giường rương trống không, nhưng vì tấm ván thành giường vẽ rồng khác phượng nên không hề thấy thê lương, trái lại còn toát lên vẻ phồng hoa. Hắn rờ lên mép giường lồi lõm, vì tay nghề cẩu thả, nhìn kỹ còn phát hiện ra không ít chỗ tróc sơn, cả những dầm gỗ chưa được bào phẳng, hắc ín cũng không được quét cho đều, sờ vào rất ráp. Nhưng bức tranh gốm vẽ “Uyên ương giỡn nước” lại rất bắt mắt, nét vẽ đặc biệt tinh tế, từng sợi lông trên đôi cánh ngũ sắc của cặp uyên ương đều được vẽ tỉ mỉ.

Khi ngón tay vuốt qua tròng mắt uyên ương rỗng, miếng gốm liền “lách cách” long ra, tiếp đó vang lên tiếng “kẽo kẹt” kỳ quái, ván giường chầm chậm nứt làm đôi, rơi xuống, để lộ ra một động sâu hun hút.

Hắn căng thẳng, lòng bàn tay đổ mồ hôi, sau lưng lại có vật gì trường qua gót chân, ra sức kìm lại tiếng thét thất thanh, hắn quay người lại, bắt gặp đôi mắt như mã não vàng của con mèo tam thế đang nhìn mình. Hắn tức tối đá cho nó một cú, nó bèn “meo” một tiếng oán trách rồi quay ngoắt chạy ra ngoài. Hắn lại quay người, cái động tối om vẫn đang lồ lộ mở ra đó, tựa hồ lời nguyền dụ dỗ, kêu gọi hắn.

“Hiểu Mãn…”

Hắn khe khẽ gọi tên nàng, cầm lấy cây đèn dầu nơi góc bàn…

Đỗ Xuân Hiểu nhìn Lý Thường Đăng, cười gian giảo khiến ông ta bất giác thấy chờn chợn, huống hồ hôm nay đi theo cô còn có Đỗ Lượng.

“Đội trưởng Lý, hay để cháu thẩm vấn tên tiểu tử đó cho, còn nhanh gọn hơn ngài nhiều đấy. Cứ không cho cậu ta uống nước mãi sao được, khát khô cả họng, ngày cũng đâu hỏi được gì. Để cháu ra tay, đảm bảo chưa đầy nửa tiếng đồng hồ cậu ta sẽ khai tuốt luốt!” Đỗ Xuân Hiểu vỗ ngực bồm bộp, còn Đỗ Lượng vẫn đanh mặt, trong tay cầm chắc một bọc bạc đại dương.

Lý Thường Đăng thong thả nhấp một ngụm rượu, cười nói: “Xuân Hiểu à, ta nhìn cháu và Hạ Băng lớn lên, lẽ nào không biết tình cảm giữa hai đứa? Tên tiểu tư này rơi vào bước đường ngày hôm nay, lòng ta cũng không dễ chịu hơn cháu đâu. Ta cũng không tin cái chết của Tề Thu Bảo có liên quan đến nó, nhưng nó rõ ràng đang giấu giếm chuyện gì đấy quan trọng, không nói ra, ta biết làm sao ăn nói với người dân trong trấn.”

“Thế mới nói!” Đỗ Xuân Hiểu vội lấy bọc tiền trên tay Đỗ Lượng, tức tốc ụp vào tay Lý Thường Đăng, “Chuyện này cháu cũng muốn giúp mà, ngài cứ thế cho cháu cơ hội lập công đi, để cháu đi thẩm vẫn, thế nào ạ?”

“Xuân Hiểu à, trong lòng cháu mưu mô điều gì, cháu cho rằng ta không biết sao? Đàn bà con gái, bát nháo học cái trò này, còn kéo cả chú cháu theo, hồ đồ!” Dứt lời, Lý Thường Đăng dằn mạnh bọc tiền kia vào lòng bàn tay Đỗ Xuân Hiểu, không đếm xỉa gì nữa.

Lúc này Đỗ Lượng ở bên cạnh cũng lên tiếng: “Xuân Hiểu, hết hy vọng rồi nhé? Ta đã bảo đội trưởng Lý cứng nhắc lắm, lại còn không tin, mau về thôi, đừng gây chuyện nữa.”

Nào ngờ Đỗ Xuân Hiểu lại càng cười ngọt hơn, quay đầu nói với Đỗ Lượng: “Chú ơi, chú nhìn thấy rồi nhé, tiền chúng ta cũng đưa rồi, đội trưởng Lý nếu còn không thả người, cháu sẽ tố cáo lên trấn trưởng!”

Lý Thường Đăng đập ly rượu xuống bàn, quát: “Nói linh tinh gì thế? Ta đâu nhận tiền của cháu? Lại còn định đi tìm trấn trưởng tố cáo?”

“Vừa rồi chính ngài nhận tiền của cháu, cháu có nhân chứng đây.” Đỗ Xuân Hiểu khảng khái hùng hồn chỉ Đỗ Lượng phía sau, Đỗ Lương vội cúi gằm mặt, vẻ chột dạ.

“Đỗ Xuân Hiểu, chái ăn gan hùm từ lúc nào thế hả, lại dám giở trò vu cáo hãm hại ấy ép ta? Tưởng cái chức đội trưởng này ta làm chơi chắc? Mau cút về, nằng không đừng trách ta bắt luôn cả cháu!”

Đỗ Xuân Hiểu lập tức xáp khuôn mặt không son phấn, lỗ chân lông to thô của mình lại gần Lý Thường Đăng, hạ giọng nói: “Vậy đội trưởng Lý dựa vào đâu nói mình không cầm số tiền này? Hiện giờ… đội phó Kiều cũng đã về quê rồi, còn có thật là về quê hay không thì chỉ có trời mới biết. Thế nên ngài cũng đừng vội kêu oan, đâu có chứng cớ đâu.

Lý Thường Đăng quả nhiên bị khích nổi cơn điên, cười gằn nói: “Lý Thường Đăng ta còn cần gì chứng cớ? Ta đây chính là chứng cớ. Năm kia đất trồng dâu bị người ta cắt mất một miếng lớn, chẳng phải ta ra mặt đi đòi bồi thường thì là ai? Trấn trưởng làm được gì? Cô nghĩ người ta đều là lũ đần chắc, tin nổi mấy lời bịa đặt của bà cô già không gả nổi chồng như cô? Đi đi, cứ đi đi, đi mà nói khắp trấn này, chân trước hét xong thì chân sau cũng xác định đi theo Hạ Băng vào ngồi nhà lao, cô có tin không?”

Đỗ Xuân Hiểu không buồn đôi co mà rút từ trong túi ra một lá bài tarot, giơ cao lên, là lá Ác quỷ.

“Không phiền ngài tống giam, nhà lao cháu đây tự vào. Có điều lá bài này là rút riêng cho đội trưởng Lý ngài, có những chuyện đằng sau, ngài và cháu trong lòng đều biết tỏng, nói ra chỉ tổ mọi người mất hứng, giờ còn có chú cháu ở đây, nếu ngài thật sự không sợ hỏng tiền đồ, cháu càng chẳng có gì phải ngại.” Dứt lời, bèn giơ lá bài tới trước mặt Lý Thường Đăng, như rút “Thượng Phương Bảo Kiếm” ra khỏi bao, gặp Phật giết Phật.

Lúc này Đỗ Lượng đã siết chặt hai tay đầm đìa mồ hôi lạnh, hận không thể vứt bỏ đứa cháu gái gan to bằng trời này mà co giò bỏ chay, song lại nghĩ lời dặn của Đỗ Xuân Hiểu trước đó: “Bất luận gặp phải tình huống nào, chỉ cần đứng đó bất động đã coi như giúp đỡ rồi.”

Hiện giờ đối với Đỗ Lượng, bất động còn khó hơn cả động, nhưng quân tử nhất ngôn, khoái mã nhất tiên, không thể để sau này lại bị vãn bối cười nhạo là kẻ nuốt lời, ông đành ép mình đứng yên tại chỗ.

Không khí xung quanh như đông cứng lại, hít vào một hơ cũng khó khăn, đặc biết ánh hung quang trong mắt Lý Thường Đăng đã chảy khắp người Đỗ Xuân Hiểu, cô như không hề phát giác nguy hiểm, vẫn tiếp tục nhìn chòng chọc ông ta, không ngừng tự ám thị: “Không được trốn tránh, không được bỏ chạy!”

Chỉ một khoảnh khắc ngắn ngủi, mà như dài hơn cả đất trời. Lý Thường Đăng cuối cùng cũng bật ra mấy tiếng cười khan, đập rầm một cái xuống bàn, gần như đập vụn thần kinh Đỗ Xuân Hiểu, Đỗ Xuân Hiểu vẫn giơ lá bài Ác quỷ, vẻ mặt uy nghiêm, tựa hồ đang thực thi một hành động vĩ đại bằng trời nào đó.

Lúc ra ngoài, Đỗ Lượng mới phát hiện cả bộ áo lụa đã dính nhép vào người, ẩm ướt khó chịu, nhưng cũng không buồn màng đến, chỉ khẽ hỏi Đỗ Xuân Hiểu: “Lý Thường Đăng rốt cuộc bị cháu nắm chuôi dao nào trong tay? Mới dọa một tí mà đã chịu thả người rồi?”

Đỗ Xuân Hiểu hít sâu một hơi, thều thào: “Cháu nào nắm được chuôi gì của ông ta? Chẳng qua cháu đoán những kẻ càng ra vẻ đạo mạo uy nghiêm thì càng dễ làm ra những chuyện xấu xa vụng trộm, nên cái cháu đặt cược chính là quả tim đen của ông ta thôi.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.