Tôi
vẫn chưa hết bàng hoàng nhìn vào cái lỗ tròn nhỏ xíu ấy, như thể vẫn chưa tin
vào những điều chính mắt mình trông thấy. Chẳng nhẽ bên trong thân cột lại ẩn dấu
một vật thể sống nuốt chửng mũi kim đó. Lão Mục khẽ khom lưng, dùng đầu ngón
tay khẽ cậy dấu tích vừa để lại, đôi lông mày chau lại tập trung suy nghĩ không
nói lời nào.
Chúng
tôi ở Bắc Kinh gần nửa tháng, theo chỉ thị của Chung Hồng Đạt, vào một buổi tối
ngày Chủ nhật, Lão Mục lái xe đưa tôi và Tiểu Đường quay trở lại Cẩm Châu.
Khi
vừa tới huyện Liêu Chung thuộc Thẩm Dương, nhiệt độ giảm xuống rõ rệt, mặt đường
vẫn còn đóng băng, hai bên đường tuyết phủ trắng xóa, xem ra ở đây vừa có một
trận tuyết lớn, do tình hình thời tiết Lão Mục phải giảm tốc độ xe rất nhiều.
Chúng
tôi qua trạm thu phí Cẩm Châu trên đoạn đường cao tốc Kinh Thẩm vào lúc sáu giờ
sáng, mặt trời cũng bắt đầu rạng. Ngồi xe đường dài suốt đêm, ngủ không được
sâu khiến đầu óc tôi nặng trịch, nhưng khi nhìn thấy hình ảnh rất đỗi quen thuộc
của quê hương mình đang bừng sáng trong ánh bình minh, tinh thần tôi bỗng hưng
phấn hẳn, tôi rất muốn được về nhà thăm bố mẹ, rất muốn tới mộ thắp hương cho cậu
tôi, cho La Viễn Chinh và Phùng Siêu. Nhưng đó chỉ là mong ước xa xỉ, ngay lúc
này tôi không thể thực hiện được.
Thấy
tôi thở dài buồn phiền, Tiểu Đường đưa tay từ đằng sau nhẹ nhàng ôm lấy vai
tôi. Lão Mục cũng quay sang an ủi tôi vài câu, hỏi rõ địa chỉ nhà tôi, rồi lái
xe một vòng quanh khu phố nhỏ.
Khi
gần tới nơi, chiếc xe chạy chậm lại, tôi hạ cửa kính xe xuống một chút, chăm
chú nhìn ô cửa sổ quen thuộc nhưng không thấy hai bóng hình quen thuộc đâu, cảm
giác nhớ nhà khiến tôi không kìm nổi lòng và nước mắt cứ thế chảy giàn giụa.
Nhưng
tôi chợt nhớ đến sự nguy hiểm rập rình nếu như chúng tôi bị theo dõi và phát hiện,
nên đã bảo Lão Mục nhanh chóng lái xe ra khỏi khu vực này.
Sau
khi đi được một đoạn khá xa, chúng tôi dừng lại tại một quán nhỏ bên đường để
ăn sáng. Do cũng chưa biết đi đâu nên Lão Mục chạy xe vòng quanh Cẩm Châu thăm
thú cảnh vật xung quanh. Tới gần trưa, Lão Mục lái xe vào bãi đỗ xe của siêu thị
Đại Nhuận Phát nằm bên cạnh công viên Cổ Tháp. Chúng tôi vào siêu thị mua đầy đủ
nước uống, bánh quy và lương khô để chuẩn bị cho chuyến thám hiểm sắp tới, sau
đó mới vào một tiệm KFC gần đó để ăn trưa. Ăn xong, không ai nói với ai câu
nào, mọi người tranh thủ chợp mắt một lúc để giữ sức, đợi đến chiều tối bắt đầu
chuyến đi.
Cửa
hàng KFC nhìn ra con phố đi bộ qua khung cửa kính lớn, bên ngoài dòng người đi
lại tấp nập, những mái hiên của dãy cửa hàng đối diện nối tiếp nhau san sát.
Lúc đó đang là giữa trưa, nên ánh sáng mặt trời chiếu thẳng vào bên trong qua lớp
cửa kính, cảm giác rất ấm áp dễ chịu. Tôi khoanh tay trước ngực, đầu hơi tựa
lên cửa kính, hai mắt khẽ nhắm lại, miên man suy nghĩ một lúc lâu sau cơn buồn
ngủ mới đến. Tôi dần chìm vào giấc ngủ mộng mị.
Trong
giấc mơ, những tấm Long Bản kích thước to nhỏ khác nhau đang lơ lửng bay lượn
trước mắt tôi, chúng có tới hàng trăm hàng nghìn tấm, dày đặc như sao trên trời.
Rồi từ những tấm Long Bản chui ra những con rồng đỏ, chúng như vừa được thoát
xác khỏi một nơi chật chội tù túng, nên ra sức bay lượn khắp nơi, chúng há to
cái miệng đỏ lòm, để lộ ra những chiếc răng nanh nhọn hoắt và trắng nhởn. Cuối
cùng, chúng quay đầu lại lao thẳng về phía tôi với tốc độ chóng mặt.
Tôi
sợ đến mức toàn thân run lẩy bẩy, miệng ú ớ nói không nên lời, vội vàng choàng
tỉnh, mồ hôi vã ra đầm đìa, giống như vừa bị ii đó dội cả gáo nước lên người. Nhìn
ra ngoài cửa sổ, trời chiều đã bắt đầu tối lại.
Lão
Mục cũng đã tỉnh dậy từ lúc nào, nhìn tôi đầy lo lắng, vỗ vỗ lên tay tôi cho tỉnh
ngủ nói:
–
Sao thế, vừa gặp ác mộng à?
Tôi
có hơi chút ngượng ngùng, khẽ mỉm cười rồi gật đầu trả lời; đưa mắt nhìn sang
Tiểu Đường, cô bé đang nghiêng đầu trên thành ghế, mắt vẫn nhắm chặt ngủ say
sưa, nước miếng chảy qua khóe mép, làm ướt cả một góc vai áo. Chúng tôi khẽ
đánh thức Tiểu Đường dậy, sau khi ăn tạm một chút đồ ăn nhẹ, chúng tôi xách đồ,
quay lại xe.
Trước
khi khởi hành, Lão Mục lấy từ trong cốp xe ra ba bộ đồ màu đen, đưa cho chúng
tôi. Nhìn bộ quần áo từ tay Lão Mục, tôi thấy nó khá giống bộ quân phục diễn tập
của cảnh sát với rất nhiều túi nhỏ có khóa kéo. Bộ quần áo được may bằng loại vải
Gore-Tex chuyên để may Jacket, nhưng rất mềm, mỏng và nhẹ. Khi cầm trên tay,
ngoài cảm giác xốp và nhẹ, bộ quần áo không gây ra tiếng sột soạt như những loại
vải pha ni-lông thông thường khác, nên khi mặt lên người không hề có cảm giác nặng
nề và vướng víu. Lão Mục nói với chúng tôi, đây là bộ quần áo thiết kế riêng
cho bộ đội đặc công, nó không những có thể giữ ấm, chống thấm nước, mà còn rất
nhẹ và thoải mái khi mặc, thích hợp với những người phải thực hiện công việc dưới
điều kiện thời tiết gian khổ.
Tiếp
theo, Lão Mục lấy ra một chiếc hộp đựng dụng cụ, xếp đầy bên trong là xẻng, cuốc,
xà beng, dây thừng, búa, thêm cả nước lọc và lương khô, nhét vào chiếc ba-lô
khoác vai rất lớn. Sau đó, anh ta đưa cho chúng tôi mỗi người một chiếc dao gấp,
một bộ đàm không dây và chiếc đèn pin mini, đó đều là những dụng cụ chuyên dụng
của cảnh sát để cho vào ba-lô của mỗi người. Nhìn những dụng cụ đó, tôi chẳng
có cảm giác sắp phải xuống lòng tháp mà giống như chuẩn bị leo núi vậy.
Sau
khi chuẩn bị xong xuôi, Lão Mục khoác chiếc ba-lô to nhất lên vai, gọi chúng
tôi xuống xe, đi ngang qua siêu thị Đại Nhuận Phát để ra phía ngoài. Lúc đó trời
cũng đã tối hẳn, những cơn gió lạnh buốt thổi tới, xộc vào mũi rồi chạy thẳng
xuống phổi, như tiếp thêm một luồng khí trong lành khiến tinh thần chúng tôi trở
nên sảng khoái lạ thường.
Công
viên Cổ Tháp được dựng trên nền kiến trúc của ngôi chùa Đại Quảng Tế, phía trên
mái còn phủ một lớp tuyết trắng xóa, bên trong ngọn tháp điểm xuyết đống tuyết
rơi xuống mà chưa kịp tan. Bốn ngọn đèn cao áp ở phía dưới chân ngọn tháp, đang
chiếu luồng ánh sáng cực mạnh ngược lên tận trên đỉnh, khiến cả ngọn tháp hiện
lên thật lung linh trong màn đêm giá lạnh.
Chúng
tôi đứng ở bên ngoài, quan sát bốn phía xung quanh, Lão Mục quyết định không
vào trong chùa Đại Quảng Tế trước, mà đi thẳng vào bên trong Cổ Tháp.
Bước
vào bên trong công viên, tôi mới thấy người đi tập thể dục không đông lắm.
Chúng tôi giả vờ như đang tham quan, đi đi lại lại hai vòng, sau khi đã xác định
xong vị trí, tiện lúc không có ai để ý, chúng tôi tiến vào dãy hành lang núp dưới
bóng một cây tùng cổ thụ ở phía sau.
Đứng
dưới bóng tùng già, ánh sáng từ chiếc đèn cao áp vẫn le lói xuyên qua tán lá
hình kim, khiến mọi vật trước mắt tôi trở nên mập mờ. Lão Mục quỳ hẳn xuống dưới
đất, lôi chiếc dao gấp trong ba-lô ra, đào một hố nhỏ dưới gốc cây tùng, cẩn thận
nhét chìa khóa ô tô vào trong một cái túi bóng, rồi chôn nó xuống đất.
Tôi
không hiểu vì sao anh ta lại làm thế, nên khẽ cất tiếng hỏi:
–
Anh đang định làm gì thế?
Lão
Mục thầm thì trả lời, do tình hình phía dưới Cổ Tháp chưa rõ thế nào, phòng khi
có trường hợp xấu xảy ra, người nào đó thoát ra được vẫn có thể lấy chìa khóa
xe. Trên xe có đầy đủ giấy tờ và tiền bạc, đủ để quay lại Bắc Kinh.
Nghe
anh ta nói thế, tôi thấy thật buồn cười, cứ như chúng tôi đang đi ăn trộm vậy,
trong khi mình đường đường chính chính đi thực hiện nhiệm vụ được giao cơ mà.
Nhưng suy nghĩ lại, tôi lại thấy đó chính là kinh nghiệm đáng quý của bộ đội đặc
công, nên cũng tháo chiếc đồng hộ kỉ niệm của cậu ra, ngắm nghía vuốt ve một
lúc rồi đưa cho Lão Mục chôn xuống đất cùng với chiếc chìa khóa xe.
Sau
khi đã chôn chiếc chìa khóa xe ô-tô và chiếc đồng hồ của tôi xong xuôi, Lão Mục
đánh dấu vị trí trên thân cây tùng. Tôi hít một hơi thật sâu, rồi ngẩng đầu
nhìn lên tán lá sum suê vẫn đang bị phủ đầy tuyết trắng nặng trĩu, dưới ánh
sáng mập mờ, chúng như những tán mây trắng trắng đang trôi lững lờ trong không
trung. Không biết ngày xưa, cậu tôi đã phát hiện ra điều gì bên trong lòng tháp
kia, liệu lần này chúng tôi có thể tìm ra nó không?
Bỗng
dưng tôi thấy mình như nhân vật trong bộ phim trinh thám, đang đứng trước một
mê cung, biết chắc sẽ gặp nguy hiểm nhưng không thể tiến tới, đó là một thứ cảm
giác lo lắng và bồn chồn rất khó tả.
Trời
về đêm mỗi lúc một lạnh, những con gió rít qua tán lá, khiến lớp tuyết phủ trên
đó bay lả tả như một trận mưa tuyết. Chúng tôi ngồi xuống, dựa lưng vào gốc
cây, lắng nghe từng động tĩnh từ phía bên ngoài rồi lặng yên chờ đợi.
Cứ
như vậy cho đến khoảng mười giờ tối, người đi bộ trong công viên thưa dần rồi vắng
lặng không một bóng người, ngay sau đó là tiếng cổng sắt đóng lại, khoảng mười
phút sau, công viên trở nên yên lặng đến lạ thường. Lão Mục đứng bật dậy, khua
tay khua chân cho đỡ mỏi rồi rảo bước chân bước xung quanh, ngó nghiêng quan
sát các phía để thám thính tình hình, khi thấy không có dấu hiệu gì bất thường
anh ta mới vẫy tay gọi chúng tôi:
–
Nhanh! Chúng ta mau xuống dưới tháp.
Tôi
kéo tay Tiểu Đường, đi sát theo chân Lão Mục, chúng tôi rón rén nấp sau một tảng
đá rồi nhanh chóng di chuyển tới hàng rào trước cửa ngọn tháp. Khi tới gần, tôi
mới nhận ra ngọn tháp cao chừng năm sáu mươi mét, diện tích bề mặt cũng gần bằng
nửa sân bóng. Ánh sáng từ những ngọn đèn cao áp rọi lên thân tháp, đan xéo vào
nhau khiến cho ngọn tháp càng trở nên hùng vĩ hơn, in bóng xuống nền tuyết trắng
phau.
Cổ
Tháp Cẩm Châu được thiết kế theo kết cấu tám mặt mười ba tầng, diện tích các tầng
nhỏ dần khi lên cao, tầng dưới cùng được coi là trụ tháp, cao hơn mười mét, mỗi
mặt tháp có một cửa hang rất lớn, trên tường khắc tượng Bồ tát với dáng vẻ rất
kỳ lạ, đứng hai bên là hai vị quan nhân với vẻ mặt quắc thước, tôi không biết
tên gọi là gì. Các bức tượng khắc trên tường đều đã bị tàn phá nghiêm trọng qua
thời gian, nhưng riêng các đường nét trên khuôn mặt vẫn được thần khí, từ ánh mắt
vô định cho đến đôi lông mày đang chau, khuôn miệng hơi hé mở, chứng tỏ họ đang
hướng mắt nhìn về phía xa xa. Khuôn mặt của họ trở nên dữ tợn hơn dưới ánh đèn,
khiến tôi có phần rợn tóc gáy.
Do
trước đây thường xuyên xảy ra hiện tượng gạch đá rơi xuống, khiến người tham
quan bị thương, nên vào mùa hè năm 1993, chính quyền thành phố đã quyết định
đóng cửa toàn bộ ngôi tháp cổ này. Cả tám cổng hang dẫn xuống dưới đều bị chặn
bởi những tảng đá lớn, thậm chí còn được cố định bằng xi-măng nên không thể nào
xuống được dưới. Nhưng theo sơ đồ kết cấu của ngọn tháp, tầng cao nhất chính là
nơi cất giữ những di vật của hoàng hậu Liêu, nó được dựng bởi những tảng đá nhỏ
hơn.
Tôi
ngẩng đầu lên nhìn qua một lúc, chau mày suy nghĩ rồi khẽ nói thầm với Lão Mục:
–
Lão Mục, chỗ này sáng quá, nếu chúng ta trèo lên đó, sợ rằng sẽ có người phía
ngoài kia nhìn thấy mất.
Lão
Mục gật đầu tán thành, tay xoa xoa cằm, mắt nheo lại, tập trung suy nghĩ một
lúc lâu rồi bỗng nhiên chỉ tay lên vị trí tảng đá nằm giữa hai bóng đèn:
– Vị
trí đó bị che khuất vì hai bóng đèn đều không chiếu tới, chúng ta có thể trèo
lên đó.
Tôi
nhìn theo hướng tay anh ta thì thấy đúng là như thế, hai cạnh của ngọn tháp
giao nhau tại một đường gấp và thụt sâu vào trong, khi hai luồng ánh sáng đèn ở
hai góc giao nhau, chúng sẽ tạo nên một khoảng lý tưởng. Dọc theo đó, các tảng
đá mấp mô, bị bào mòn qua thời gian, giống như những bậc thang, nên có thể men
theo đó để leo lên.
Thân
tháp rất cao, các mỏm đá thì khá nhọn, với tôi thì không thành vấn đề gì, chỉ
lo Tiểu Đường yếu ớt không chịu được, nên quay lại hỏi cô bé:
–
Em có sợ không?
Tiểu
Đường lắc đầu quầy quậy, khuôn mặt rất hào hứng, lúc lắc vận động hai tay, nói:
–
Em không sợ đâu, thậm chí còn đang rất phấn khích đây.
Tôi
và Lão Mục quay sang nhìn nhau mỉm cười, thấy yên tâm phần nào, chúng tôi đỡ Tiểu
Đường nhảy qua hàng rào rồi cùng nhảy sang. Trước mặt là một tảng đá cao chừng
năm mét, nên chúng tôi phải hỗ trợ nhau để trèo lên, nhanh chóng nấp vào vị trí
khuất bóng.
Cả
ba chúng tôi cùng nấp trong khoảng tối quan sát, cũng may nó vừa đủ cho cả ba
người. Tiểu Đường quay đầu sang nhìn bức tượng Bồ tát khắc trên tường hang rồi
nói nhỏ với chúng tôi:
–
Khuôn mặt đúng là khắc thật, nhưng thân dưới thì không phải.
Tôi
lập tức đưa mắt nhìn về bức tượng mà Tiểu Đường đang nói tới. Khuôn mặt Bồ tát
đã bị che lấp một phần bởi lớp rêu phong thời gian, những vết sứt mẻ qua hàng
nghìn năm mưa gió khiến cho khuôn mặt trở nên thô ráp và sần sùi, giống như bị
đục đẽo bằng mũi dao.
Lão
Mục đưa tay phủi sạch lớp tuyết bám trên mỏm đá, lôi sợi dây thừng trong ba-lô
ra, luồn đầu dây qua khe đá, buộc lại thật chặt, rồi nắm đoạn dây còn lại leo
trước. Khi Lão Mục leo được một lúc, tôi liền kéo tay Tiểu Đường đẩy cô bé lên
trước, còn mình leo lên sau cùng.
Những
tảng đá bên ngoài ngôi tháp đang bị thời gian tàn phá, chúng đã không còn sự gắn
kết như vốn có mà bị nứt toác thành những khe lớn; từ trong khe đá, rêu phong cỏ
dại đua nhau mọc tua tủa, dưới từng đợt gió lùa, chúng lắc lư tạo ra những tiếng
rít gào khiến cho người nghe cảm thấy lạnh lẽo đến rùng mình. Có những mỏm đá
đã bị băng tuyết phủ dày, chỉ còn nhô ra một mép nhỏ khoảng ba đầu ngón tay, vậy
mà chúng tôi vẫn phải bước lên, dồn toàn bộ sức nặng của cơ thể lên mỏm đá bé
xíu đó, điều đó quả thực quá khó khăn và nguy hiểm đối với những người bình thường
đặc biệt là trong điều kiện thời tiết như thế này. Do phải gồng mình trong một
thời gian dài nên các khớp xương của tôi dần trở nên đau mỏi và tê cứng.
Nhưng
chúng tôi vẫn kiên trì và cố gắng bám chặt các mỏm đá, nhẹ nhàng và cẩn thận
leo lên từng bước một, cho tới khi đến tầng thứ chín. Những con gió lùa đến mỗi
lúc một mạnh hơn, lạnh thấu xương, khiến cho chúng tôi thật khó để đứng vững.
Khi cúi đầu nhìn xuống phía dưới, chúng tôi giờ đã cách mặt đất một khoảng khá
xa. Phía trước mặt là tòa nhà của Sở Công an thành phố với rất nhiều cửa sổ
đang sáng đèn, bên trong phòng vẫn còn thấp thoáng những bóng người đi qua đi lại.
Dưới một chút chính là phòng làm việc của tôi, nhưng giờ chỉ là một khoảng tối
đen vắng lặng.
Tôi
bỗng chạnh lòng trong giây lát, nhớ quay quắt những kỉ niệm từ khi trở thành cảnh
sát. Tôi thở dài xót xa khi nghĩ rằng không biết mình còn có thể quay trở lại
làm việc ở Sở Cảnh sát nữa hay không.
Chúng
tôi tiếp tục leo lên tầng mười hai, phía trên đỉnh tháp dần thu hẹp lại. Bỗng
nhiên, từ trên đầu, một đàn vô số những con chim màu đen bay ra rào rào, khiến
lớp băng tuyết bay tứ tung, rơi khắp đầu khắp mặt chúng tôi.
Từ
đâu xuất hiện một đàn chim lạ khiến cả ba giật thót tim, điều lo sợ hơn cả là
có thể sẽ bị người khác phát hiện ra, nên chúng tôi vội vàng núp vào bóng tối,
úp mặt sát mỏm đá rồi hít thở thật sâu lấy lại bình tĩnh, tay chân tê cứng, mặt
mũi lấm lem nhưng không ai dám cử động mạnh. Băng tuyết trên mặt tôi bắt đầu
tan chảy, khiến mặt lạnh buốt như bị kim châm.
Một
lúc sau, tôi mới khẽ ngẩng đầu nhìn lên, thì ra đó là đàn quạ bị kinh động ào
ào bay ra khỏi tổ, chúng lao thành đàn bay vút lên trời, dưới ánh trăng mờ ảo tạo
thành vô số những vệt đen li ti, và chỉ trong nháy mắt đã biến mất. Lúc đó tôi
mới nhớ ra, đỉnh tháp này từ lâu đã là nơi trú ngụ của hàng nghìn con quạ, nên
người ta còn gọi đây là tháp Quạ, một trong tám cảnh quan nổi tiếng của thành
phố Cẩm Châu.
Đợi
một lúc chờ cho không gian xung quanh trở lại yên lặng như cũ, chúng tôi mới tiếp
tục leo lên trên. Lần này, chúng tôi leo một mạch thẳng lên tới đỉnh, phía trên
đỉnh người ta cũng dựng một ngọn tháp, trên thân là mười ba hình trụ tròn nối với
nhau, có chiều cao khoảng mười mét, mũi tháp nhọn hoắt chọc thẳng lên trời.
Đỉnh
tháp được xây dựng theo hình vòng cung, diện tích không lớn lắm, bề mặt phủ tuyết
trắng xóa và vô số phân quạ.
Do
vị trí đang đứng rất cao so với mặt đất, nên chúng tôi phải cố gắng khom người
xuống thật thấp, gần như bò rạp trên nền tuyết trắng để tránh bị phát hiện. Đó
cũng là lúc nửa đêm, ánh trăng chiếu thẳng từ trên đỉnh đầu xuống mặt tuyết trắng
xóa, phản chiếu những tia sáng nhấp nháy.
Chúng
tôi dùng tay gạt lớp tuyết sang hai bên, để lộ ra một khoảng không, phía dưới
là mặt đá màu xanh thẳm hình thoi, dùng một viên đá gõ lên đó vài tiếng, từ dưới
phát ra những tiếng cộp cộp, chứng tỏ lớp đá này không dày lắm.
Lão
Mục gần như quỳ mọp xuống, đưa tay hạ chiếc ba-lô sau lưng, lấy ra bộ dụng cụ
cuốc xẻng, đưa cho tôi một chiếc rồi nói gọn lỏn:
– Cậy
lên!
Tôi
bắt chước động tác của Lão Mục, dùng mũi xẻng chọc vào một khe đá, sau giữ chắc
tay tại vị trí đó, lấy hết sức ấn mạnh cán xẻng xuống. “Rắc!” một tiếng, ngay
sau đó là tảng đá đã được bẩy lên. Chúng tôi vội vàng đỡ lấy rồi chuyển nó sang
bên cạnh. Quả đúng như dự đoán, bên dưới trống không. Chúng tôi tiếp tục chuyển
sang cậy hai tảng đá khác, khi thấy miệng hố vừa đủ cho một người chui xuống
chúng tôi dừng tay. Tôi vội vàng đặt chiếc xẻng xuống, hai tay bám chặt lên mép
tảng đám ngó đầu xuống dưới nhìn thử.
Bên
dưới là một cái động sâu hun hút, tôi cũng không rõ nó sâu bao nhiêu, chỉ thấy
một mùi ẩm mốc bốc lên, nhưng một lúc sau cũng đã giảm dần.
Thấy
vậy, chúng tôi chưa vội xuống luôn, Lão Mục ném thử một viên đá xuống dưới để
thám thính, “cạch… cạch… cạch…” tiếng va chạm của viên đá vọng lên.
Lão
Mục khẽ gật đầu, quay sang bảo với tôi:
–
Không sâu lắm đâu, chỉ chừng hai mét thôi. Để tôi xuống trước, hai người xuống
sau nhé.
Nói
rồi, anh ta bấu chặt mép tảng đá rồi thả tay tụt cả người xuống, thân hình cao lớn
của Lão Mục nhanh chóng mất hút trong lòng động.
Một
lúc sau, giọng anh ta khẽ vọng lên:
–
Không sao!
Trong
vòng mấy phút, không thấy Lão Mục nói thêm câu gì, chắc là đang tìm hiểu tình
hình phía dưới, cuối cùng anh ta cũng ra hiệu cho chúng tôi cùng xuống.
Tôi
cầm tay Tiểu Đường rồi từ từ thả cô bé xuống trước, rồi mình trèo theo sau. Lão
Mục lần lượt đỡ chúng tôi xuống, sau khi cả ba cùng yên vị, chúng tôi dựa lưng
vào nhau, lôi đèn pin cá nhân ra soi xét xung quanh.
Ánh
đèn pin trở nên quá sáng trong không gian nhỏ bé này, khiến mọi vật rõ nét đến
lạ thường. Tôi nhận thấy diện tích bên trong không lớn lắm, chỉ rộng hơn hai
mươi mét vuông, không gian ngột ngạt, xung quanh bốc mùi mốc meo giống như mùi
của thức ăn thiu, tôi lập tức đưa tay bịt mũi lại. Lớp xi-măng dưới nền nhẵn mịn
vì những vết chân đã mài mòn, lớp mái nằm ngay sát trên đầu, sau thanh xà ngang
gắn kết với nhau vững chắc, chúng đã bị tầng tầng lớp lớp mạng nhện giăng kín
mít. Hàng chục con nhện đang mải miết chăng tơ vừa thấy ánh đèn quét qua liền vội
vã chạy trốn, làm hệ thống mạng nhện rung lên bần bật.
Ngay
ở vị trí chính giữa là một cột trụ bằng gỗ rất lớn, bề mặt khá nhẵn nhụi, thân
cột phải chừng ba người ôm mới hết, đỉnh cột đỡ những thanh xà ngang phía trên,
còn chân cột chôn chặt dưới nền đất. Trên bức tường phía đông là một giá gỗ hai
tầng, có cấu tạo rất đặc biệt, giống như tủ thờ, nhưng cũng đã bị hư hỏng nặng
nề, bề mặt phủ kín mạng nhện và lớp bụi dày. Các bức tường còn lại cũng không
khá khẩm hơn, tất cả đều đã bị ố vàng hay rêu mốc gần hết, hầu như không thể
nhìn thấy rõ những bức họa trên bức tường vẽ những gì.
Lão
Mục tiến lên phía trước, một tay cầm chiếc đèn pin soi thật kỹ, tay kia đặt lên
cằm, hơi chau mày lại. Quan sát thật kỹ từng bước tường rồi bỗng dưng nói khẽ:
– Không
đúng! – Rồi quay lưng lại, ngón tay chỉ quanh lòng tháp, giọng hết sức ngạc
nhiên – Tại sao lại chỉ có sáu cạnh mà không phải là tám cạnh?
Tôi
lúc này cũng ngỡ ngàng, vội vàng quay đầu nhìn khắp bốn phía xung quanh, phát
hiện ra một điều hết sức khó hiểu, thì ra bên trong lòng tháp là kết cấu sáu cạnh
chứ không phải là tám cạnh như nhìn từ bên ngoài. Như vậy mặt bên trong ít hơn
mặt bên ngoài hai cạnh, không hề giống với bản thiết kế mà Chung Hồng Đạt đưa
cho chúng tôi xem.
Đúng
lúc cả ba chúng tôi chưa hết ngỡ ngàng, thì bên ngoài một trận gió lớn bỗng lùa
vào miệng hang, cuốn theo cả những bông tuyết trắng tinh, dưới ánh trăng chúng
lả tả rơi xuống trông như những hạt vàng lấp lánh đang thảnh thơi phiêu mình
trong gió. Cảnh tượng này mới thật nên thơ và lãng mạn làm sao.
Tôi
giũ giũ tóc để những hạt tuyết rơi xuống, rồi bước tới bên bức tường trước mặt,
bỗng tôi chợt thấy toàn thân Tiểu Đường run rẩy, liền hỏi:
–
Em bị làm sao thế? Em sợ à?
Tiểu
Đường lập tức quay sang nhìn tôi, khuôn mặt nhợt nhạt, hai hàm răng lập cập va
vào nhau. Tiểu Đường đưa hai tay kéo cao cổ áo lên, rồi nhẹ nhàng trả lời tôi:
–
Em… không… không sao, chỉ là hơi lạnh thôi!
Thấy
Tiểu Đường nói thế, tôi cũng nghĩ là cô bé lạnh thật, nên nắm chặt tay để ủ ấm.
Sau
đó, cả ba chúng tôi cũng đi một vòng quanh lòng tháp để quan sát kĩ hơn, ngoài
việc mặt bên trong ít hơn mặt bên ngoài hai cạnh ra, chúng tôi chưa phát hiện
ra thêm điều gì khác lạ.
Trên
cạnh phía Tây Bắc, có một chiếc cầu thang xoắn bằng gỗ chạy xuống dưới, các bậc
thang phủ dày một lớp đất đá nên không còn nhìn rõ màu gì, thậm chí còn bị mục
gần hết. Thử soi đèn pin xuyên qua lớp mạng nhện, tôi chỉ thấy một khoảng sáng
mờ mờ, còn xung quanh vẫn tối đen như mực.
Lão
Mục đưa tay thử lay chiếc cầu thang, những tiếng kẽo kẹt vang lên trong mỗi lần
rung, lớp đất cát rơi xuống bụi mù. Lão Mục gật gật đầu nói:
– Mọi
di vật của hoàng hậu nhà Liêu đã được trưng bày ở viện bảo tàng rồi, chẳng còn
gì ở đây nữa, theo tôi thấy cầu thang này vẫn còn dùng được, chúng ta thử xuống
đó xem sao.
Tôi
khẽ gật đầu đồng ý, quay lại định gọi Tiểu Đường thì thấy cô bé đang đứng quay
lưng về phía chúng tôi, quỳ gối trước bức tường, hai tay chống xuống đất, đầu
hơi nghiêng sang trái, cả người bất động tập trung quan sát thứ gì đó.
Tôi
nhẹ nhàng bước tới, ánh trăng từ trên miệng hang chiếu xuống thành một đường thẳng,
rồi hắt sáng lên góc tường. Nửa người Tiểu Đường dưới ánh trăng đúng cỗ khuất tầm
mắt tôi.
Tôi
nhẹ nhàng quỳ xuống sau lưng Tiểu Đường, đưa mắt nhìn theo hướng quan sát củ cô
bé. Bức bích họa đã bị hư hỏng nặng, lại còn phủ đầy bụi đất, nên không thể nào
nhìn thấy gì. Thế nhưng vẫn còn một góc được giữ nguyên vẹn, thậm chí tôi còn
nhận ra hình người trong bức họa, đó là Quan Thế Âm Bồ Tát trong bộ áo màu trắng,
chân đứng trên đài sen, hai tay giơ cao qua đầu, tay áo trượt xuống để lộ cả khủy
tay, bàn tay cầm một vật dẹt dẹt nghiêng một góc 45 độ, khung cảnh đằng sau là
những ngọn núi trùng trùng điệp điệp, là những đám mây đang lơ lửng lưng chừng,
giống như đang ở chốn bồng lai vậy.
Thấy
Tiểu Đường vẫn đang chăm chú quan sát, tôi liền tò mò vỗ nhẹ lên vai cô bé, hỏi
nhỏ:
–
Em đang nhìn gì thế?
Tiểu
Đường giật nảy mình, hốt hoảng quay đầu, tay vỗ vỗ ngực:
– Ối
giời, làm em hết cả hồn! Em đang mải nhập tâm suy nghĩ.
Tôi
cũng ngỡ ngàng không kém, liền hỏi lại:
–
Sao thế?
Tiểu
Đường đưa ngón tay chỉ về bức họa Quan Âm Bồ Tát, nói:
–
Chị Tiêu Vi, chị nhìn xem, tay Bồ Tát có phải đang cầm tấm Long Bản không?
Nghe
đến tấm Long Bản, tôi giật mình vội vàng nhìn xem thực hư thế nào. Mặc dù bức họa
không còn rõ nét nữa, nhưng đúng là vật mà Bồ Tát đang cầm càng nhìn càng thấy
giống, đặc biệt là dáng hình dẹt dẹt, màu đỏ sậm, trông rất giống tấm Long Bản.
Thấy
hết sức kỳ lạ, tôi liền hỏi Tiểu Đường:
–
Đây cũng là khắc hình sao?
Tiểu
Đường miết nhẹ ngón ta lên bề mặt bức họa, một lúc lâu sau mới lên tiếng:
–
Không phải, em sờ mãi vẫn không phát hiện ra, nó bị hư hỏng nặng quá.
Tôi
vội vàng gọi Lão Mục tới, anh ta cũng bất ngờ không kém khi nhìn thấy hình ảnh
tấm Long Bản. Suy nghĩ một lúc, anh ta bỗng thốt lên:
–
Trong lòng Cổ Tháp chỉ có sáu cạnh, ta thử xem năm cạnh còn lại xem sao.
Nghe
Lão Mục nói vậy, chúng tôi mới sực nhớ ra, liền đứng dậy đi vòng quanh tìm kiếm,
thậm chí còn nhấc cả chiếc giá gỗ ra để xem xét. Quả nhiên, đúng như dự đoán,
năm cạnh còn lại đều vẽ những bức họa giống nhau, trên tay Quan Thế Âm Bồ Tát đều
cầm một vật dẹt dẹt, màu đỏ thẫm.
Riêng
bức họa trên vách tường phía Đông, nhờ có chiếc giá gỗ nên vẫn giữ được gần như
nguyên vẹn hình dạng, vật trong tay Bồ Tát có hình vuông dẹt, xung quanh là những
hoa văn uốn lượn, giống y hệt với tấm Long Bản tôi đang giữ, nhưng do vết sơn
trên bề mặt đã bị bong tróc phần nào, nên Tiểu Đường không thể đoán được hình vẽ
đó có phải là được khắc hay không.
Lão
Mục xoa cằm suy tư một lúc trước khi lùi bước ra sau, quay đầu nhìn theo hướng
tấm Long Bản trên tường. Đó chính là vị trí của chiếc cột trụ gỗ lớn màu đen
bóng, nằm ở giữa lòng tháp. Anh ta nhẹ nhàng bước lại gần, giơ chiếc đèn pin
soi ngược lên đỉnh cột trụ.
Tôi
cũng ngẩng đầu nhìn lên, dưới ánh đèn pin, bề mặt của chiếc cột trụ được phủ một
lớp sơn đen bóng loáng, nhưng trên đỉnh thì nhìn không rõ lắm, hình như trên đó
có khắc một vài bức họa thì phải.
Để
nhìn rõ hơn, Tiểu Đường trèo lên vai Lão Mục. tận tay miết nhẹ lên bề mặt cột
trụ. Trong giây lát, cô bé reo lên mừng rỡ:
–
Là khắc hình! Đây mới chính là khắc hình, một vòng tròn khá to nhé!
Tôi
và Lão Mục đều hết sức ngỡ ngàng, đồng thanh hỏi lại:
–
Vòng tròn gì?
Lão Mục vẫn để Tiểu Đường đứng trên vai và từ từ đi quanh một vòng, để cô bé kiểm tra kĩ càng hơn.
Lần này, Tiểu Đường đã phát hiện thêm một điều rất quan trọng, trên
bề mặt cột trụ khắc sáu hình tròn có đường kính khoảng 40 cen-ti-mét nối liền với nhau, cân xứng với nhau và đều lõm vào trong, xung quanh là
những đường hoa văn giống như những đám mây, lần lượt hướng về sáu tấm
Long Bản đang nằm trong tay sáu vị Bồ Tát trên các cạnh tháp.
Sau khi Lão Mục hạ Tiểu Đường xuống, chúng tôi lập tức cùng nhau phân tích lại những chi tiết vừa khám phá. Dựa vào những phán đoán về hình
dạng và vị trí của những vòng tròn kia, chúng tôi đều cho rằng nó tượng
trưng cho mặt trời, Bồ Tát dùng tấm Long Bản để hứng lấy tia nắng. Mặc
dù chưa rõ mục đích của việc này, nhưng nghĩ đến việc ngọn tháp này được xây dựng theo kiến trúc Phật Giáo, nên tôi đoán hành động đó tượng
trưng cho một nghi thức đặc biệt nào đó trong Phật Giáo.
Thế nhưng, nghĩ kĩ lại thì cũng thật khó hiểu, vì sao họ lại chỉ khắc lên đó sáu hình mặt trời, trong khi truyền thuyết kể lại rằng trên bầu
trời có tới mười mặt trời. Lẽ nào đây chỉ là một dụ ý trong kiến trúc
sáu cạnh của ngọn tháp cổ này?
Những hình rồng trên tấm Long Bản mà cậu tôi giữ chính là khắc hình,
những mặt trời trên thân cột kia cũng là khắc hình, dựa vào lí thuyết
này, tôi đoán hoa văn trong những bức bích họa cũng có thể là khắc hình
hoặc là một loại ám hiệu gì đó.
Nghĩ tới đây, tôi liền nhận ra những bức họa kì lạ trong lòng tháp
dường như đều có liên quan tới tấm Long Bản, kết hợp với những phán đoán ban đầu, tôi đoán chắc cậu tôi đã lấy hai tấm Long Bản từ trong lòng
tháp này.
Tôi liền nói với Lão Mục và Tiểu Đường về những phán đoán này, Lão Mục cũng khẽ gật đầu tỏ ý tán thành, nói:
– Đầu tiên ta chỉ có tấm Long Bản của cậu Tiêu Vi, sau khi gặp Từ Văn Uyên mới phát hiện ra tấm thứ hai, nếu như giả thuyết cậu Tiêu Vi lấy
hai tấm Long Bản từ trong lòng tháp là đúng thì dựa vào số lượng những
bức bích họa ta có thể đoán rằng tổng cộng có đến sáu tấm Long Bản. Nếu
phán đoán của ta là đúng, thì không biết bốn tấm Long Bản còn lại đã bị
người khác lấy đi mất, hay vẫn còn nằm tại đây?
Tôi cũng suy nghĩ một lúc, cảm thấy những suy luận của Lão Mục khá
lô-gic, nhưng thực ra tôi vẫn còn một thắc mắc, cậu tôi đã kể với Từ Văn Uyên rằng mua lại hai tấm Long Bản từ tay một người lính không quân
Liên Xô cũ, vậy điều này nên giải thích thế nào đây?
Chúng tôi cứ đoán già đoán non nhưng vẫn không tìm ra đáp án hợp lý,
nên đành gác lại nghi vấn này tại đây và tiếp tục bước tới chiếc cầu
thang xoắn, phủi hết lớp đất cát và mạng nhện phía trên rồi thận trọng
bước xuống.
Chiếc cầu thang dài và rất hẹp, tổng cộng gồm bốn mươi bậc thang,
những tiếng kẽo kẹt vang lên sau mỗi bước chân, cảm giác như các bậc
thang có thể gẫy bất cứ lúc nào. Chúng tôi lấy hết can đảm, nhắm mắt đưa chân lần theo cầu thang bước xuống dưới. Phải rất khó khăn và mất nhiều thời gian chúng tôi mới xuống được tới nơi, Lão Mục lập tức dùng đèn
pin soi bốn phía xung quanh.
Do kết cấu của ngọn tháp giống hình kim tự tháp, tầng trên luôn nhỏ
và hẹp hơn tầng dưới nên khi bước xuống dưới này, diện tích có phần rộng hơn chút ít, ngoài đám mạng nhện dầy mỏng lớn bé giăng khắp nơi ra, hầu như không có gì ở dưới này. Quan sát kỹ sáu cạnh tường thì thấy chúng
đều được ghép từ những tảng đá lớn, không có bức họa nào trên đó mà chỉ
chằng chịt những vết nứt lớn nhỏ, gió từ bên ngoài cũng có thể lọt xuống dưới này, thậm chí tôi còn nhìn thấy cả ánh trăng mờ ảo xuyên qua những khe nứt đó. Tiểu Đường miết ngón tay lên mặt tường hồi lâu, thậm chí
còn lấy một mũi kim ra cào cào kiểm tra, nhưng vẫn không phát hiện ra
điều gì đặc biệt.
Cứ như vậy, chúng tôi chầm chậm tiến xuống từng tầng một, trừ việc
diện tích của những tầng bên dưới luôn lớn hơn tầng trên ra thì chúng
tôi không phát hiện thêm dấu hiệu gì khác thường, cho tới khi xuống đến
tầng cuối cùng của ngọn tháp. Không gian của tầng tháp cuối cùng rất
cao, rộng và thoáng đãng, ngoài chiếc cột trụ ở chính giữa ngọn tháp ra, tôi không nhìn thấy bất cứ thanh xà ngang nào bắc ngang trên đỉnh đầu,
cảm giác như đang đi vào một điện thờ rộng mênh mông mà ở đó con người
ta trở nên nhỏ bé vô cùng. Đứng ở đây, cho dù chúng tôi có nói thầm thì
từ bốn phía âm thanh cũng lập tức vọng lại liên hồi.
Bước tới trước cột trụ ở chính giữa, chúng tôi lau sạch lớp bụi phía
dưới chân cột thì phát hiện ra dưới đó không còn là mặt gỗ nữa, mà thay
vào đó là một tảng đá lớn ghép thành, bề mặt không được phẳng cho lắm,
thậm chí còn để lại nhiều dấu vết đục đẽo thô kệch. Dưới ánh đèn pin,
những tinh thể đá còn phản chiếu lấp lánh như đá thạch anh.
Quan sát khắp mọi nơi nhưng vẫn không tìm thấy gì, tôi bắt đầu sốt ruột, liền quay sang hỏi Lão Mục:
– Bây giờ chúng ta phải làm gì?
Không để cho Lão Mục kịp trả lời, Tiểu Đường liền tiến lên trước,
phủi qua lớp bụi dày trên sàn rồi lập tức quỳ gối xuống, tay không ngừng dò dẫm.
Thấy hành động khác thường của Tiểu Đường, tôi biết ngay cô bé đã nhận ra điều gì đó, liền vội hỏi:
– Sao đấy?
Tiểu Đường ngẩng đầu nhìn lên tôi, đôi mắt hơi nheo lại, ra hiệu cho
tôi không được nói gì, rồi lại cúi đầu xuống, các ngón tay miết kỹ lên
mặt sàn dưới chân, sau đó khẽ ngẩng đầu lên, đôi mắt mở to, giọng khẽ
run rẩy:
– Trời ơi! Là khắc hình… lớn lắm, toàn bộ mặt sàn đều là khắc hình.
Tôi cũng vô cùng ngỡ ngàng khi nghe thấy điều đó, liền ngồi sụp
xuống, hai tay phủi sạch đất cát trên nền, lấy đèn pin soi từng ngóc
ngách, nhưng nhìn đi nhìn lại vẫn không thấy gì ngoài lớp xi-măng và
những đường nứt trên tảng đá, càng không thấy những đường hoa văn chạm
khắc trên đó. Vậy thì khắc hình ở đâu ra chứ? Lão Mục cũng quay sang khẽ chau mày nói:
– Chỉ là đá tảng thôi, loại này rất phổ biến mà.
Tiểu Đường khẽ lắc đầu, đầu ngón tay gõ gõ lên mặt đá, khẽ nói:
– Đúng là không có hoa văn, nhưng chắc chắn là khắc hình.
Thấy chúng tôi vẫn còn bán tín bán nghi, Tiểu Đường liền giải thích:
Khắc hình phân thành hai loại là khắc cục bộ và khắc toàn bộ. Loại đầu
tiên dùng để khắc những hoa văn lên bề mặt vật dụng hay đồ dùng, ví dụ
như hình rồng lên tấm Long Bản, hoa mai trên mặt gương. Loại thứ hai khó hơn gấp bội, cần phải có tay nghề điêu luyện mới thực hiện được vì đó
là một kỹ thuật rất phức tạp, giống như thay cho vật dụng một khuôn mặt
mới, ví dụ như từ một hòn ngọc Kê Huyết khắc thành hình con dấu, hay từ
một viên ngọc xanh biếc khắc thành một chiếc nhẫn.
Tôi không dám tin vào tai mình sau khi nghe Tiểu Đường nói như thế,
liền đưa mắt nhìn sang hai bên, nếu đúng như lời cô bé nói thì dùng từng mũi kim để khắc lên cả mặt sàn rộng hàng trăm mét vuông như thế này thì phải mất bao lâu mới hoàn thành? Tôi vẫn thấy mơ hồ về cái gọi là nghệ
thuật khắc hình này, nó giống như nghệ thuật điêu khắc mà chúng ta vẫn
thường nhắc đến, nhưng lại phức tạp hơn rất nhiều.
Thấy vẻ mặt tôi vẫn còn đang ngơ ngác, Tiểu Đường gật đầu, rồi lãnh đạm nói:
– Không sai, điêu khắc chính là một bộ phận của khắc hình. Chỉ có
điều sau này, do nghệ thuật Thích Châm không thực sự phát triển nên họ
mới chuyển sang nghệ thuật Chạm Khắc. Thế nhưng loại này chỉ sử dụng cho những sản phẩm đơn giản, còn với những sản phẩm có giá trị cao thì cần
phải sử dụng đến Thích Châm.
Nghe những điều Tiểu Đường nói, tôi và Lão Mục mắt tròn mắt dẹt nhìn
nhau, không nói được lời nào. Chúng tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc
nhiên khác, chỉ biết cúi đầu hoang mang nhìn tảng đá ở dưới chân, thì ra nghệ thuật chạm khắc bắt nguồn từ chính những hình xăm trên cơ thể,
điều này đúng là nằm ngoài sức tưởng tượng.
Tiểu Đường không để ý đến thái độ của hai chúng tôi nữa, cô bé lấy ra một mũi kim, cạo nhẹ trên bề mặt tảng đá, phát ra những tiếng rít ghê
tai, sau đó tự lẩm bẩm một mình:
– Tảng đá lớn như vậy, một người không thể hoàn thành nổi, đến cả nhà Lão Trương làm chắc cũng không xong.
Tôi tò mò hỏi nhà Lão Trương nào, thì Tiểu Đường cười đáp:
– Là Nê Nhân Trương[1], chị tin không?
[1] Là một nhân vật có tài năng phi phàm trong tác phẩm Tiền chiến hậu chiến của Cổ Long.
Tôi ngạc nhiên, vẫn không hiểu cô bé đang nói gì. Tiểu Đường liền
cười khúc khích, không giải thích gì thêm, chỉ ngồi sụp người xuống,
dùng đầu mũi kim cắm vào khe đá, rồi lồm cồm lần theo. Tôi và Lão Mục
nhìn nhau, không nói năng gì chỉ biết đi theo sau.
Mũi kim miết mạnh lên rãnh đá khẽ rít lên chói lói, trong khoảng
không vắng lặng, nó gần giống tiếng chim hót mãi không dứt. Tiểu Đường
đang tập trung cao độ. Cuối cùng, bề mặt tảng đá cũng được cào qua một
lượt, cô bé đứng dậy, hai tay bóp lưng, khẽ thở dài:
– Không ổn rồi, không tìm thấy một kẽ hở nào, xem ra tảng đá này rất dày.
Lão Mục ồ lên một tiếng, rồi nói anh ta cũng đã tìm hiểu qua về Cổ
Tháp. Truyền thuyết kể rằng người ta chôn sống một con rồng ngay dưới
chân Cổ Tháp, và cả những bức tượng Bồ Tát trên tay cầm tấm gỗ Long Bản. Rất có thể phía dưới tảng đá này có cất giấu một cỗ máy khổng lồ hoặc
là chúng có liên quan đến sự tồn tại của Cố Cung ở Thẩm Dương. Chắc chắn bên dưới có một căn hầm hoặc cất giữ một bí mật nào đó, nếu không người ta không bao giờ đặt ở đây một tảng đá khắc hình công phu như thế này
chỉ để làm cảnh.
Suy luận của tôi cũng giống của Tiểu Đường và Lão Mục, thậm chí tôi
còn nghĩ rằng, trước đây, cậu tôi cũng đã vô tình phát hiện ra bí mật
này nên sau này mới xảy ra nhiều chuyện kỳ lạ đến thế. Nhưng tất cả chỉ
là giả thuyết, vấn đề trước mắt hiện nay vẫn là làm thế nào để mở được
tảng đá dưới chân ngọn tháp này. Chúng tôi chỉ có ba người, trong tay
lại không có thiết bị gì khác ngoài xẻng và cuốc, mà tảng đá này thì dày như thế, chắc phải dùng đến thuốc nổ thì mới có thể phá được nó, xem ra để xuống được dưới đó là cả một công cuộc đầy khó khăn.
Tiểu Đường không đưa ra ý kiến gì, chỉ cầm đèn pin soi khắp nơi, hình như cô bé đang cố tìm thứ gì đó. Bỗng nhiên, cô bé thốt lên một tiếng,
rồi vội chạy tới chiếc cột trụ, vỗ vỗ tay lên đó, “cộp… cộp… cộp”, tiếng động chứng tỏ phía bên trong lõi là rỗng.
Tôi và Lão Mục cũng vội vàng chạy tới, hỏi xem có phát hiện gì không. Tiểu Đường khẽ sờ tay lên cột trụ, ngập ngừng trả lời:
– Chiếc cột này hình như có vấn đề gì đó, để em thử xem sao.
Nói rồi, Tiểu Đường lôi một chiếc kim dài bằng ngón tay ra, khẽ cắm
lên bề mặt cột trụ, hai đầu ngón tay khẽ xoay nhẹ, mũi kim từ từ tụt vào trong. Mũi kim đâm vào khoảng vài cen-ti-mét, tôi thấy vai cô bé khẽ
rung lên, rồi vội vàng đưa tay trái lên nắm lấy mũi kim, hai chân ghì
chặt xuống đất, lấy hết sức kéo mũi kim ra.
Tôi và Lão Mục chưa kịp hiểu Tiểu Đường đang làm gì, nên chỉ biết
đứng một bên quan sát. Nước da cô bé trắng nhợt đi nhanh chóng, thần sắc hoảng sợ, hét lớn:
– Nhanh… giúp em… kéo nó ra!
Lão Mục phản ứng rất nhanh, đưa tay nắm chặt lấy hai tay Tiểu Đường.
Tôi cũng không kịp suy nghĩ gì, vội vàng lao tới giúp một tay, nín thở,
cố gắng dồn hết sức lực để kéo thật mạnh. Cho dù không trực tiếp cầm vào mũi kim, nhưng tôi vẫn cảm nhận rất rõ mũi kim đó như đang tụt mạnh vào thân cột, giống như bị một lực rất mạnh hút vào bên trong.
Mũi kim nhỏ và rất trơn nên cực kỳ khó kéo, mặc dù chúng tôi đã cố
gắng hết sức mình, nhưng nó vẫn từ từ lặn vào bên trong thân cột, chỉ để lại trên bề mặt chiếc cột một lỗ tròn bé xíu.
Tôi vẫn chưa hết bàng hoàng nhìn vào cái lỗ tròn bé xíu ấy, như thể
vẫn chưa tin vào những điều chính mắt mình trông thấy. Chẳng nhẽ bên
trong thân cột lại ẩn giấu một vật thể sống nuốt chửng mũi kim đó. Lão
Mục khẽ khom lưng, dùng đầu ngón tay khẽ cậy cậy dấu tích vừa để lại,
đôi lông mày chau lại tập trung suy nghĩ không nói lời nào. Tiểu Đường
đá hai chân vào thân cột chửi bới:
– Mẹ kiếp! Đáng chết! Đáng chết!
Cô bé ngẩng đầu lên nhìn khắp thân cột một lượt, thở dài ngao ngán
rồi nói với chúng tôi, xăm thân và khắc hình là hai loại nghệ thuật mang tính hư hoại thân thể con người hay các chất liệu khác. Mỗi một chất
liệu mang lại một đặc tính khác nhau, trong đó khó nhất phải kể đến loại gỗ Sinh Tức Mộc hay còn gọi là cây Bất Tử.
Sinh Tức Mộc là loại gỗ chỉ tồn tại ở khu vực Đông Bắc, bình thường
rất hiếm gặp, nghe nói đó chính là một loại biến thể kỳ lạ của cây ngô
đồng. Chúng có khả năng chịu rét chịu hạn cực tốt, khi trưởng thành thân cây có thể cao hơn mười mét, rất dài, thẳng và cứng như thép, đặc biệt
nhất là khả năng tái sinh vô cùng mạnh mẽ, chỉ cần cắm một cành cây
xuống đất cũng có thể sinh sôi nảy nở, chính vì thế tuổi thọ của nó có
thể lên đến hàng nghìn năm. Thành ngữ có câu “Sinh sinh bất tức” (sinh sôi không ngừng) cũng từ đây mà ra. Cột trụ trước mắt chúng tôi thực ra chính là gốc cây Sinh Tức Mộc, vừa xong khi Tiểu Đường cầm mũi kim thăm dò đã động vào tế bào bên trong, khiến thân cây lập tức nảy sinh phản
ứng chữa trị vết thương,hút luôn cả mũi kim vào bên trong.
Nghe tới đó, tôi không kìm được, liền cắt lời Tiểu Đường:
– Em vừa nói cây này là một vật thể sống á? Vậy thì… kinh khủng quá. Trên đời này có loại thực vật như vậy sao?
Tiểu Đường thở hắt ra, chán chường trả lời:
– Chỉ cần thử lại lần nữa là sẽ biết ngay!
Nói rồi, cô bé thò tay vào trong ba-lô lôi ra chon dao nhíp mà Lão
Mục lúc trước đưa cho, dùng mũi dao khoét một lỗ sâu ở đúng vị trí cây
kim bị hút vào. Mạt gỗ rơi lả tả thành lớp trên nền đất, vết lõm trên
thân cột để lộ ra một mảng đen tuyền.
Tiểu Đường gật đầu rồi bặm môi cầm mũi dao cứa thật mạnh vào thân
cây. Một vài mảnh vỏ khô màu nâu đen rơi xuống, để lộ ra một khoảng trơn nhẵn màu nâu đậm to gần bằng miệng bát, trông qua hơi giống mảnh kính
tối màu, bóng loáng đền độ có thể soi gương, nhưng không nhìn thấy mũi
kim đâu nữa.
Tôi nhặt mảnh vỏ khô vừa rơi xuống lên, lật qua lật lại quan sát thật kỹ. Nó dày khoảng một cen-ti-mét, tôi thử gập đôi lại, thấy dẻo khác
thường, đưa lên mũi ngửi thì nhận ra đó là lớp sơn dầu rất dày trên bề
mặt chiếc cột. Vừa xong, do chưa nắm bắt được điều này, nên đã sơ suất
làm mũi kim của Tiểu Đường bị hút vào trong.
Tôi nhìn lên thân cây cột khổng lồ, trong lòng vẫn chưa dám tin vì
quá thần kỳ. Loại cây này đúng là có một không hai trên đời, nhưng tại
sao từ trước đến nay tôi chưa từng nghe thấy? Bỗng nhiên, tôi cảm giác
như có điều gì không ổn, nếu như Cổ Tháp Cẩm Châu được xây dựng trên một thân cây còn sống, thì chưa tính đến việc ngọn tháp được xây dựng cách
đây hàng ngàn năm, chỉ riêng việc thân cây vẫn không ngừng phát triển,
tại sao lại không đâm thủng ngọn tháp?
Nghe thắc mắc của tôi, Tiểu Đường cũng đồng tình:
– Đúng thế, điều này em cũng không hiểu – Cô bé cúi đầu, dùng mũi
chân cào nhẹ lên mặt đất, rồi lưỡng lự nói – Hoặc là… vấn đề nằm ở tảng
đá này. Em đoán rằng lúc trước, khi dựng ngọn tháp này người ta đã đốn
thân cây, đẽo đục nhẵn mịn rồi đặt vào trong tảng đá, lợi dụng sức ép và độ khít của tảng đá và thân cây để khống chế khả năng tiếp tục sinh
trưởng của nó.
Lời giải thích của cô bé cũng khá hợp lý, nhưng tôi vẫn chưa thực sự
được thuyết phục. Khả năng tái sinh của loại cây này vô cùng thần kỳ, nó thừa sức bật tung bất kể mọi thứ đang đè nén bên trên, dù đó có là vật
mang trọng lượng lớn hơn gấp nhiều lần. Huống chi một thân cây lớn như
vậy thì chẳng cần đến hàng nghìn năm, chỉ trong nháy mắt là có thể chọc
thủng cả tòa tháp đồ sộ.
Tiểu Đường trầm tư suy nghĩ một lúc rồi bỗng hứng khởi đưa tay vỗ vỗ
lên trán nói đã hiểu ra rồi. Cô bé giải thích, thực vật thuộc hành Mộc
còn đất đá thuộc hành Thổ, thực vật có thể sống trên đất đá, điều này
hoàn toàn phù hợp với thuyết Mộc khắc Thổ trong mối tương quan Ngũ hành. Nhưng có khi Thổ lại phản khắc Mộc, dẫn đến việc thực vật sẽ ngừng sinh trưởng và giữ mãi một hình dáng cố định. Tảng đá trước mặt vô cùng
nặng, đại diện cho sự lớn mạnh của hành Thổ, ngoài ra nó còn được khắc
hình nên càng phát huy đặc tính của Thổ sinh, nên chẳng trách đến cả
Sinh Tức Mộc cũng bị khống chế.
Tôi nghe thêm mông lung, thực sự không thể nắm rõ thế nào là chính
khắc thế nào là phản khắc, nhưng nghe Tiểu Đường giải thích trơn tru và
chắc như đinh đóng cột tôi cũng không thể không tin. Tôi đưa tay vỗ vỗ
lên thân Sinh Tức Mộc, ngó nghiêng một vòng, rồi nói:
– Thân cây này cao vài chục mét, tảng đá khổng lồ bên dưới cũng phải
rộng đến vài trăm mét vuông, xét về tổng thể thì đây là một công trình
cực kỳ quy mô, nếu không dùng dến các loại máy móc nâng kéo như bây giờ
thì làm sao làm nổi. Vậy những người xây dựng tòa tháp này đã phải làm
như thế nào? Điều này có hơi xa vời thực tế.
Lão Mục khẽ gật đầu, tay xoa xoa cằm, tiếp nối câu chuyện:
– Có thể là… còn một giả thuyết khác. Có thể tảng đá vốn nằm sẵn ở
đây, còn thân cây được vận chuyển từ nơi khác đến trồng lên trên.
Nếu theo giả thuyết của Lão Mục, thì vẫn là tách rời thân cây. Với kỹ thuật của hàng nghìn năm trước, việc vận chuyển một thân cây khổng lồ
như thế này quả thật là quá sức tưởng tượng.
Tiểu Đường quay sang nhìn Lão Mục, khẽ gật đầu nói:
– Lão Mục nói phải, điều đó rất có khả năng – Lão Mục mỉm cười, tay
vẫn tiếp tục vân vê cằm, không nói gì thêm. Tiểu Đường bèn nói tiếp –
Trước đây đã có người từng nói, Sinh Tức Mộc được mọi người hết mực sùng bái, vốn là loại gỗ hiếm có nên chúng hầu hết được sử dụng làm cột trụ
trong chùa chiềng hay Phật tháp, thấm đẫm sắc màu linh thiêng và vĩnh
cửu. Đúng rồi! Hai người biết không, theo truyền thuyết, Sinh Tức Mộc là loại gỗ đóng quan tài tốt nhất đấy, vì người chết sau khi chôn bao
nhiêu năm cũng không bị thối rữa.
Mặc dù thấy những lời này của Tiểu Đường hơi quá, nhưng tôi cũng
không muốn phản bác lại mà chỉ im lặng lắng nghe. Nhớ lại hồi bé, chúng
tôi thường xuyên tới đây nô đùa dưới thân Cổ Tháp, lúc bấy giờ chỉ nghĩ
ngọn tháp này thật hùng vĩ, nào biết rằng nó được dựng lên từ một thân
cây khổng lồ. Hồi ấy, những người già thường bảo Cổ Tháp chính là một
ngọn tháp sống, quả nhiên, nó đúng là “sống” thật.
Tôi chợt nghĩ người Liêu dùng loại gỗ cực hiếm này để xây tháp, lại
còn thêm một tảng đá khổng lồ làm nền, chắc chắn là có mục đích cất giữ
một thứ vô cùng quan trọng bên dưới.
Tôi đang miên man chìm trong dòng suy nghĩ, thì nghe thấy tiếng của Tiểu Đường nói khẽ:
– “Phụng Hi Ngô Đồng, Long Yết Sinh Tức”. Lão Mục, chị Tiêu Vi, em nghĩ mình đã đoán ra phần nào hàm ý trong bức bích họa kia rồi.
Tiểu Đường kể, Sinh Tức Mộc là loại cây mà cành lá phân bổ theo một
quy luật nhất định, chúng mọc đều ra sáu hướng xung quanh, đến cả khoảng cách giữa các nhánh cây cũng theo tỉ lệ nhất định. Dựa vào những phân
tích về hình dáng và kết cấu của Cổ Tháp Cẩm Châu thì chiếc cột trụ
trong tháp là thân cây, ở mỗi tầng tháp đều có sáu thanh xà ngang chính
là sáu nhánh mọc ra từ thân cây. Hơn nữa, sáu nhánh cây này có tên khoa
học là Yết Long chi, được cho là thế đứng của con rồng khi nghỉ ngơi.
Sáu bức tượng Bồ Tát trên tay cầm tấm Long Bản hướng về sáu vòng tròn
tượng trưng cho sáu mặt trời, điều này chắc chắn tượng trưng cho một
nghi thức thờ cúng rất đặc biệt nào đó. Trong đó, sáu vòng tròn ở tầng
trên cùng chính là sản phẩm của nghệ thuật khắc hình.
Sau khi nghe Tiểu Đường đưa ra những phân tích đó, tôi càng thêm phấn khích, cảm giác mình cách chân tướng sự thật không còn xa nữa. Nhưng
quay về với thắc mắc ban đầu, tảng đá dưới chân khổng lồ như thế, làm
sao để xử lý nó đây? Điều đó lại khiến chúng tôi thở dài chán nản.
Lão Mục đi quanh chiếc cột một vòng rồi quỳ xuống, xoa xoa tay lên bề mặt tảng đá và chỗ giao cắt giữa tảng đá với thân cây một lúc rồi quay
đầu nói với chúng tôi:
– Cột trụ này chôn sâu dưới đất, thử xem chúng ta có tìm được gì ở thân cây không nào?
Nói rồi, Lão Mục lấy cán dao gõ khắp thân cây “cộp… cộp… cộp…”, âm
thanh trầm đục vang lên chứng tỏ bên trong đó là rỗng, dội vào bức tường rồi kéo theo rất nhiều tiếng vang vọng.
Tiểu Đường lập tức chạy tới, nhanh nhảu giải thích thêm với vẻ phấn
khích: Mũi kim lúc nãy bị hút vào, chứng tỏ thân cây rỗng, không khéo đó chính là huyệt đạo bí mật để ta xuống dưới cũng nên. Thế nhưng Mặc ngôn có câu: “Văn thân khắc hình, lậu thân xuyên thể, bất cụ kim thạch, duy khủng sinh tức”, tức là trong thế giới nghệ thuật xăm thân khắc hình, thợ xăm thân khắc
hình có thể ứng dụng trên mọi chất liệu, nhưng kỵ nhất là xăm khắc trên
Sinh Tức Mộc. Như vậy, ta không thể sử dụng thuật khắc hình để mở nó, mà chỉ còn cách dùng ngoại lực tác động lên.
Nhưng nếu dùng ngoại lực thì sẽ làm hỏng kết cấu ban đầu. Do vậy,
chúng tôi quyết định mỗi người dùng con dao cá nhân của mình cào mạnh
lên thân cây, để làm sạch lớp sơn dầu sơn màu đen phía bên ngoài, khai
lộ ra lớp thân cây thật.
Lớp thân cây Sinh Tức Mộc có màu nâu đậm, trơn bóng, không hề có
đường vân, trông như vừa được mài sáng bóng, thậm chí còn phản chiếu cả
hình ảnh của chúng tôi lên đó. Do thân cây to lớn, khum hình vòng cung,
khiến cho hình ảnh phản chiếu trong đó cũng bị méo mó đi, giống như
chúng tôi đang đứng trong nhà gương.
Tiểu Đường chậm rãi quỳ xuống, gí sát đầu vào thân cây, ngón tay khẽ
chạm lên bề mặt, mắt mở to quan sát thật kỹ. Hai khuôn mặt đang đối diện với nhau, một sáng một tối, nhưng khuôn mặt phản chiếu lại méo mó dị
dạng, đôi mắt mở to, biểu cảm kì quái, giống như bên trong đang có một
người nhìn trộm ra bên ngoài vậy.
Tôi đứng sau lưng Tiểu Đường, ngỡ ngàng dõi theo từng cử động, nhớ
ngay đến một buổi tối trước đây, cô bé cũng đứng trước gương khắc khuôn
mặt mình lên đó. Tôi bắt đầu hơi hoang mang nghi ngờ.
Nhưng một lúc sau, Tiểu Đường đứng dậy nói với Lão Mục, lớp vỏ của
Sinh Tức Mộc rất cứng, cần phải xác định rõ vị trí của đường vân cực
hiếm của nó, rồi mới dùng mũi dao tách ra được. Nhưng nhất định không
được cưa đứt hoàn toàn mà phải để lại một đoạn để thân cây có thể hồi
phục, nếu không sẽ bị coi là bất kính, thậm chí còn là bị trừng phạt.
Sau đó, Tiểu Đường chỉ tay lên một vị trí để cho Lão Mục dùng mũi dao rạch một đường; nhưng trước khi rạch, cô bé còn cẩn thận dặn dò: Chú ý
sao cho lực mũi dao vừa phải, chỉ chọc vào đúng một cen-ti-mét. Nếu mũi
dao nhẹ quá thì sẽ không tách được lớp thân cây, nhưng nếu sâu quá thì
mũi dao sẽ lập tức bị hút vào bên trong.
Lão Mục gật đầu đồng ý, hai tay cầm chắc đằng chuôi, chĩa mũi dao
thẳng về phía thân cây, nhẹ nhàng chạm vào vị trí đã điểm, rồi dứt khoát chọc sâu mũi dao xuống. Một tiếng “tách!” vang lên, chứng tỏ mũi dao đã chọc vào bên trong thân cây. Lão Mục hết sức tập trung làm sao cho mũi
dao chỉ chọc sâu một cen-ti-mét, vừa đúng với tiêu chuẩn mà Tiểu Đường
yêu cầu.
Tiểu Đường hơi nghiêng đầu ngó sang, nhướn đôi lông mày rồi khẽ reo lên tán thưởng:
– Nếu để chú thi viết thư pháp thì chắc chắn không thể thua Vương Hựu Quân.
Nghe Tiểu Đường nói thế, tôi lại có một liên tưởng kì lạ: Một
cen-ti-mét bây giờ tương đương với ba phân trong đơn vị đo lường thời cổ đại, và Vương Hựu Quân không phải là Vương Hi Chi hay sao, lẽ nào điển
tích “nhập mộc tam phân”[2] là từ đây mà ra? Từ khi
quen biết Tiểu Đường, tôi nhiều lần được nghe cách suy luận kì lạ của cô bé. Tiểu Đường bình thường rất thích vẽ người, đặc biệt là phụ nữ, hơn
nữa cô bé còn mang họ Đường, lẽ nào… Trong đầu tôi bỗng nhiên lóe lên
một ý nghĩ, lập tức thốt lên:
– Tiểu Đường, em có phải là Đường Bá…
– Chị Tiêu Vi!
[2] Tục truyền rằng một lần hoàng để đưa một tấm ván cho Vương Hi Chi bảo viết chữ để đem đi khắc, ai ngờ bút lực của Vương Hi Chi mạnh
mẽ đến nỗi nét chữ khắc sâu vào tấm ván đến ba phân.
Tiểu Đường vội vàng trừng mắt phẩy tay, ra hiệu cho tôi không được
nói tiếp, thế nhưng nhìn sắc mặt biểu cảm của cô bé, tôi biết suy luận
của mình là đúng.
Tôi lập tức nín thinh, lặng lẽ nhìn cô bé nhưng trong lòng thì đang
như lửa đốt. Đệ nhất phong lưu Đường Bá Hổ lại chính là bậc thầy xăm
hình, điều này thực quá sức tưởng tượng. Nhưng với một người rất đỗi
bình thường như tôi mà được kết giao với hậu duệ đích truyền của ông ấy, đúng là có nằm mơ cũng không dám nghĩ tới, nếu tôi nói ra thì chắc
chẳng có ai tin đó là sự thật.
Lão Mục phần nào đoán ra tôi đang nói về điều gì, nên cũng buông một câu:
– Văn hóa Trung Hoa là một mạch đạo nối truyền không ngừng nghỉ, xem ra đạo lý này thật đúng đắn.
Tôi buông một tiếng thở dài, lặng lẽ gật đầu, trong lòng quả thực rối như tơ vò. Cứ cho là đám văn nhân tài tử nổi tiếng như Vương Hi Chi[3], Đường Bá Hổ là thợ xăm thân khắc hình đi chăng nữa, thế còn những người khác thì sao, những Diêm Lập Bản[4], Trương Thạch Đoan[5], thậm chí là cả Mễ Phế[6] …
[3] Danh họa kiêm thư pháp gia nổi tiếng thời Đông Tấn.
[4] Danh họa đời Đường, nổi tiếng với bức tranh Cố Đế Vương đồ.
[5] Danh họa đời Tống, nổi tiếng với bức tranh Thanh minh thượng hà đồ.
[6] Danh họa đời Tống, nổi tiếng với dòng tranh Hoa điểu.