Lục Tiệm nhịn không được nói: “Chẳng lẽ không có nghĩa quân tốt sao?”
Ngư hoà thượng nói: “Nghĩa quân tốt không phải không có. Nhưng trong loạn thế, thuật pháp gian lận lừa dối còn có tác dụng hơn nhân nghĩa đạo đức. Nếu không có thực lực hơn người, chỉ dựa vào đức hạnh, thì không thể sinh tồn được. Đám thủ lĩnh nghĩa quân có nhân có đức, không chết trong tay quân Nguyên, thì cũng chết trong tay đồng bào, bộ tướng, thực làm cho người ta đau lòng. Cứ như vậy, qua mấy lần chinh chiến, đồ thán ngàn vạn sinh linh, chung quy đổi được chút biến chuyển”.
Ngư hoà thượng dừng lại, hỏi: “Lục Tiệm, còn nhớ hòn đảo ở biển đông trong câu chuyện thứ nhất không?”.
Lục Tiệm nói: “Nhớ”.
Ngư hoà thượng nói: “Dân đại Tống sống sót sau khi Tống bị vong trên đảo đó, không lúc nào không mưu toan khôi phục Hán thất. Mạt Nguyên đại loạn, đệ tử trên đảo bèn khởi binh ở đông nam, công phá châu huyện, cát cứ một phương, nổi danh thì có Trương Sĩ Thành và Phương Quốc Trân. Nhưng trải qua nhiều đời, hậu duệ của đám dân sống sót này, sớm đã quên đi ý niệm ban đầu của tiền nhân, một mực tham đồ quyền thế, tự cho là đúng, không những không nghĩ đến cơ đồ xã tắc, giải thoát dân khỏi vòng nguy khốn, ngược lại chạy theo dục vọng riệng, tự đánh lẫn nhau, cứ thế bị quân Nguyên đập tan từng cái một. Cuối cùng, đại thừa tướng Nguyên triều Thoát Thoát đích thân suất lĩnh trăm vạn đại quân, vây chặt Trương Sĩ Thành ở Cao Bưu Thành, chuẩn bị một trận bình định tây nam, triệt để quét sạch nghĩa quân phía nam”.
“Lúc đó sinh tử tuyệt cảnh, cao sĩ trí giả trên biển đông bị bức gạt bỏ hiềm khích, kết thành một khối. Tất cả đệ tử Đông Đảo, bất luận thân sơ quý tiện, tới tấp kéo về Cao Bưu. Trận chiến đó, có thể nói là kinh thiên động địa, nhật nguyệt vô quang. Quân Nguyên người đông thế mạnh, ngoài thành Cao Bưu gần như bị dẹp yên, trong thành cũng hết sức nguy ngập. Ai ngờ đệ tử Đông Đảo không chỉ xem nhẹ cái chết, mà còn chế tạo ra nhiều vũ khí đáng sợ, nhiều lần gây thiệt hại nặng cho quân Nguyên. Song phương giằng co khổ chiến, được mấy tháng, đại quân Nguyên triều chung quy bị đánh tan. Thoát Thoát cũng bị miễn chức. Từ đó về sau, triều đình nhà Nguyên không còn sức tụ tập trọng binh, bị bức phải vứt bỏ đông nam, lùi lại thủ phía bắc”.
“Giả sử lúc đó, đệ tử Đông Đảo vẫn có thể đồng tâm hiệp lực, có thể thừa thắng bắc phạt. Nào ngờ, cường địch mới rút, trong đảo lại bởi vì công thưởng bất nhất, sinh ra bất đồng. Trong chớp mắt, phương nam lại một lần nữa chìm vào hỗn chiến, bá tánh lại rơi vào trong nước sôi lửa bỏng. Cũng tại lúc này, một thanh niên trẻ tuổi, một mình một thuyền, từ hải ngoại quay về, đặt chân lên vùng đất Giang Nam…”.
Lục Tiệm buột miệng nói: “Là vị đại toán gia kia sao?”.
Ngư hoà thượng cười nói: “Nếu tính niên kỷ, vị đại toán gia kia đã hơn trăm tuổi, làm sao có thể gọi là thanh niên?”.
Lục Tiệm hơi cảm thấy thẹn thùng, ngượng ngùng nói: “Vậy là hậu nhân của vị đại toán gia kia?”.
Ngư hoà thượng nói: “Rất nhiều người đều cho rằng như vậy. Nhưng bởi vì nhiều nguyên nhân, thân thế của người này từ đầu đến cuối vẫn là một câu đố, cho dù nhiều năm sau đó, y đối với sự việc cũ trước khi đến trung thổ cũng không mở miệng nhắc đến, thậm chí danh tánh của y, cũng không có mấy người biết đến. Năm đó hoà thượng trẻ tuổi hiếu sự, nghe sư phụ nói đến người này, lấy làm ngưỡng mộ, đi khắp nơi sưu tầm thân thế của y, thậm chí lén vào hoàng cung đại nội, lật xem tư liệu”.
“Lén vào hoàng cung đại nội?”, Lục Tiệm thất thanh nói: “Đại sư thật can đảm a!”.
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Hoàng cung đại nội cũng không phải là long đàm hổ huyệt gì. Nói đến gan dạ, hoà thượng so sánh với người thanh niên kia thì còn kém xa. Vì điều tra rõ thân thế của y, hoà thượng trước sau ra vào đại nội bảy lần, chung quy cũng có phát hiện, trong một tấu chương cũ rách, khi nhắc đến y, gọi là ‘Lương nghịch’, đủ thấy y và vị đại toán gia kia cùng họ; ngoài ra, lại có một tờ tấu gọi y là ‘Tặc Tư Cầm’, đủ thấy y họ Lương tên Tư Cầm”.
Lục Tiệm lầm rầm nói: “Lương Tư Cầm sao?”.
Ngư hoà thượng gật đầu nói: “Lại nói vị Tư Cầm tiên sinh quay về trung thổ, mắt thấy chiến loạn thê thảm, trong lòng như dao cắt, liền động ý định cứu vớt thiên hạ. Nhưng tính tình của y lạnh nhạt, hoàn toàn không có dã tâm vương bá, nhìn chung quần hùng phương nam, phần lớn tham lam bạo ngược, duy chỉ có Thái Tổ bản triều, Hồng Võ đế Chu Nguyên Chương ôm ấp chí lớn, đối đãi lương thiện với bá tánh, chỉ khổ là địa thế bất lợi, bị quần hùng Đông Đảo bao vây, đầu đuôi không chăm lo được cho nhau, tình thế thập phần bất lợi.
“Tư Cầm tiên sinh thấy tình hình như vậy, bèn đầu nhập dưới trướng Hồng Võ đế, giúp Hồng Võ đế trị quân chỉnh võ, kiến tạo lợi khí công thủ, liên tiếp đả bại đệ tử Đông Đảo. Quần hùng Đông Đảo cảm thấy bất diệu, lại một lần nữa liên hợp với nhau, vây giết Hồng Võ đế. Trong nhất thời, hai bên đều kiến tạo vũ khí đáng sợ đồ sộ, huy động hàng chục vạn đại quân, đánh đến khó phân thắng bại, nhưng rốt cuộc Tư Cầm tiên sinh trí cao hơn một bậc, vô luận Đông Đảo vận dụng bất kỳ mưu kế cơ quan nào, đều bị phá giải, lại thêm Hồng Võ đế hùng tài vĩ lược, trải qua vài trận đại chiến, cuối cùng bức được quần hùng Đông Đảo vào tuyệt cảnh. Lúc này người trong Đông Đảo mới biết là Tư Cầm tiên sinh ngấm ngầm gây khó khăn, liền đoán ra lai lịch của y, song phương trăm năm thù cũ, lại thêm hận mới, lập tức theo quy cũ võ lâm, ký đao lưu giản, hẹn mười năm tháng tám, trên đảo Linh Ngao, tỉ võ luận đạo, nhất chiến sinh tử”.
Ngư hoà thượng nói đến đây, bất giác thở dài một tiếng, nói: “Nói đến Đông Đảo nhất mạch, vốn là trí tuệ uyên thâm, võ công thông huyền, nếu như dùng vào chính đạo, chính là phúc của cõi đời. Nhưng bọn họ nhập thế quá sâu, một khi có liên quan đến quyền lực tài phú, liền không thể khắc chế được dục vọng riêng, dần dần hủ hoá mà tự mình không biết, tất cả tài trí võ công, ngược lại thành lợi khí gây hoạ cho thiên hạ. Thậm chí đến tình cảnh ấy, còn muốn nhờ vào võ lực, gắn chặt lấy quyền thế của Đông Đảo, có thể gọi là tẩu hoả nhập ma, đến chết vẫn không tỉnh ngộ”.
Lục Tiệm cũng cho là đúng, liên tiếp kêu phải.
“Trận chiến Linh Ngao đảo, không chỉ quan hệ đến hưng suy của thiên hạ, mà còn có liên quan đến vận thế của võ lâm. Tổ sư Đại Khổ phái ta cũng từng có vinh hạnh quan chiến. Nghe nói lúc đó, tuyệt đỉnh cao thủ của Đông Đảo dốc toàn lực mà ra, tiến hành bày bố thế trận trước, chuẩn bị để Tư Cầm tiên sinh có đến mà không có về. Cho đến khi đêm khuya sắp tàn, trăng tròn lặn phía tây, Tư Cầm tiên sinh cũng chưa lộ diện, các đại cao thủ của Đông Đảo đều cho rằng Tư Cầm tiên sinh không dám đến, đang xôn xao nghị luận, chợt nghe trên biển truyền lại tiếng tiêu, Tư Cầm tiên sinh một người một tiêu, chân đạp một chiếc thuyền lá mảnh mai, ung dung lướt đến”.
Lục Tiệm cả kinh nói: “Một mình Tư Cầm tiên sinh sao?”.
Ngư hoà thượng nói: “Tư Cầm tiên sinh ở trung thổ không có bằng hữu thân thích, dẫu cho có bà con họ hàng xa thì cũng ở Đông Đảo. Chỉ là, Đông Đảo tuy rằng người đông thế mạnh, nhưng cũng không ngờ đến một việc”.
Lục Tiệm vội nói: “Việc gì?”.
“Đó chính là ‘Chu Lưu Lục Hư Công’!”. Ngư hoà thượng nói: “Môn võ học này, trên Linh Ngao đảo, lần đầu tiên hoành không xuất thế, làm cho người của Đông Đảo trở tay không kịp. Võ công tầm thường bất qaú nhờ vào lưỡi đao quyền cước, nhưng Chu Lưu Lục Hư Công này lại có thể chế ngự các loại năng lượng lớn trong thiên hạ, thiên địa sơn trạch, phong lôi thuỷ hoả, không gì không thành lợi khí, có thể nói đã không phải là võ công của nhân gian. Trận chiến này, Đông Đảo đối với Chu Lưu Lục Hư Công không có cách nào có thể thi triển, bị Tư Cầm tiên sinh liên tiếp đả bại chín đại cao thủ, cuối cùng tất cả đều lên công kích, vẫn thất bại thảm hại, Tư Cầm tiên sinh trên thạch nhai bên bờ đảo rạch đá viết: ‘Hữu bất hài giả ngô kích chi’. Từ đó về sau, bảy chữ này uy chấn võ lâm, còn Đông Đảo thì lại ngã gục không gượng dậy được, không còn sức tranh đoạt thiên hạ nữa.
Sau đó Hồng Võ đế không còn địch thủ nữa, lần lượt bình định phía nam, đồng thời dựa vào thế như chẻ tre, xuất quân bắc phạt, diệt vong Nguyên triều, khôi phục Đại Hán. Nhưng đến lúc này, giữa Hồng Võ đế và Tư Cầm tiên sinh lại có sự chia rẽ vô cùng lớn, cuối cùng trở mặt thành thù”.
Lục Tiệm kinh ngạc nói: “Tư Cầm tiên sinh giúp Hồng Võ đế nhiều như vậy, giao tình nhất định rất tốt, tại sao lại sinh ra sự chia rẽ chứ?”.
Ngư hoà thượng than: “Đối với đế vương mà nói, giao tình có sâu đậm thêm nữa, cũng không quan trọng bằng quyền thế. Khi đó, Tư Cầm tiên sinh có nói hai câu, phạm đến đại kỵ của Hồng Võ đế”.
Lục Tiệm hỏi: “Hai câu gì?”.
Ngư hoà thượng nói: “Câu thứ nhất gọi là ‘Ức Nho thuật’, câu thứ hai chính là ‘Hạn hoàng quyền'”.
Lục Tiệm nghe vậy, cũng không thấy có gì đặc biệt, ngờ nghệch không biết vì sao hai câu nói cỏn con này, có thể làm cho bằng hữu trước kia trở mặt thành thù.
Ngư hoà thượng nhìn ra tâm tư của y, nói: “Hai câu này tuy chỉ vỏn vẹn sáu chữ, lại liên can đến hai hủ tục lớn của Hoa Hạ ta tự cổ đến nay. Từ ‘Bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật’ triều Hán đến nay, kiểm tra đánh giá nhân tài, đều dựa vào Nho học làm tiêu chuẩn. Mà Tư Cầm tiên sinh lại cho rằng, Nho học bảo cổ biếm kim (ca ngợi người xưa, chê bai hiện nay), ngu dân tâm trí, lẽ nên phải tiến hành ức chế, thừa dịp tân triều vừa mới thành lập, khi chế độ còn chưa thành, đề xuất khoa cử tuyển sĩ không thể chỉ dựa vào Nho học làm khuôn mẫu, cần phải lập cửu khoa, toán khoa, cách vật khoa, thiên văn khoa, y khoa, nhạc khoa, hoạ khoa, thương khoa, tề dân khoa, bách công khoa các loại, phân biệt môn loại, kén chọn nhân tài”.
Lục Tiệm hớn hở nói: “Như thế rất tốt a, tỉ như ra biển đánh cá, thì có rất nhiều cách, theo lý mà nói, còn phải lập một ‘Xuất hải đả ngư khoa'”.
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Nếu phân chia như vậy, thì cũng quá tường tận. Chỉ cửu khoa đó thôi, thì đã gây chấn động trong triều ngoài nội. Không chỉ Hồng Võ đế tức giận, nho sinh trong triều càng nhao nhao nổi lên công kích, cho đến khai quốc danh thần như Từ Đạt, Lý Thiện Trường, Lưu Bá Ôn cũng gia nhập vào hàng ngũ phản đối. Hai bên trước triều biện luận nhiều lần, đều không có kết quả. Tư Cầm tiên sinh tính tình cô ngạo, trong lúc phẫn khích, rốt cuộc tự ý một mình mở quán thu đồ đệ, đồng thời thiết lập chín khoa trong quán. Cứ như thế, càng rước lấy oán hận của nho sinh. Như vậy cũng không nói, thật sự chọc tức Hồng Võ đế chính là câu sau ‘Hạn hoàng quyền'”.
“Nên biết, tự cổ đến nay, quân quyền là trời cho, thiên hạ này chính là đồ vật của một nhà một họ. Cha làm hoàng đế, tất nhiên con cũng là hoàng đế. Làm hoàng đế, tự nhiên cũng là muốn gì làm nấy. Khai quốc chi chủ, gọi là anh minh có lẽ hợp lý, còn con cháu đời sau thường thường người thông minh đảm đang lại ít, người bạo ngược vô đạo lại nhiều. Tỉ như Tần Nhị Thế, Tuỳ Dượng Đế đều là thiên cổ bạo quân, tự ý làm xằng làm bậy, không thương xót sức dân. Tư Cầm tiên sinh xét thấy như vậy, cho rằng nếu như không hạn chế quyền lực của hoàng đế, tất yếu là tai hoạ của quốc gia, do đó đề ra ‘Pháp tự dân xuất, quân quyền pháp thụ’, cũng tức là nói, từ trong tứ dân ‘Sĩ, nông, công, thương’ chọn ra người đức cao vọng trọng, ký kết luật pháp, luật pháp một khi định thành, cho quyền quý như đế vương, cũng phải tuân theo, nếu không tuân theo, có thể theo pháp chế truất phế”.
Lục Tiệm nghe vậy trợn mắt líu lưỡi, lầm rầm nói: “Vậy thì không hay rồi”.
Ngư hoà thượng lấy làm lạ hỏi: “Vậy ngươi nói xem, không hay ra sao?”.
Lục Tiệm nói: “Nếu là như vậy, Hồng Võ đế không cẩn thận phạm phải luật pháp, há không phải cũng bị phế truất!”.
Ngư hoà thượng than: “Lời này vừa khéo cắt trúng chỗ cốt lõi. Lục Tiệm, là ngươi tự nghĩ ra sao?”.
Lục Tiệm lắc đầu nói: “Đấy là Ninh Bất Không nói, y thường nói với Tín Trường, làm Hoàng đế không thể buông lơi nhất chính là quyền lực, một khi mất quyền lực, tất nhiên cũng mất mạng”.
Ngư hoà thượng than: “Ninh Bất Không nói hoàn toàn không phải không có lý. Hơn nữa vị Hồng Võ đại đế này, tuy nói hùng tài đại lược, nhưng lại là vị hoàng đế đầu tiên từ xưa đến nay coi quyền lực như tính mạng, vừa thấy tấu chương của Tư Cầm tiên sinh, long nhan chấn nộ, bác bỏ ngay tại chỗ. Nếu đổi lại là người khác, tự nhiên biết khó mà lùi, ai ngờ vị Tư Cầm tiên sinh này lại có chút khí ngốc khác với phàm tục, lại viết tấu chương một lần nữa, còn thỉnh cầu quần thần định nghị. Như vậy, Hồng Võ đế đem lòng nghi ngờ, hoài nghi Tư Cầm tiên sinh muốn mượn vào luật pháp này, đoạt đi quyền lực của y. Nhưng Hồng Võ đế lo sợ bản lĩnh cao cường của Tư Cầm tiên sinh, bề ngoài không lộ thanh sắc, ngược lại còn bày tửu yến trong cung, mời tiên sinh dự tiệc. Tư Cầm tiên sinh không nghi ngờ gì, vui vẻ phó yến, không ngờ Hồng Võ đế đã cho mai phục ba ngàn giáp binh trong cung, đồng thời trong rượu tiên sinh uống, hạ tuyệt độc kiến huyết phong hầu”.
Lục Tiệm thất thanh nói: “Có lý nào lại như vậy?”.
Ngư hoà thượng cười khổ nói: “Đây cũng chưa là gì, lòng nghi ngờ của Hồng Võ đế lúc cuối đời càng nặng, gần như đem công thần ngày trước tàn sát hết, chỉ hai vụ nghịch án Hồ Duy Dung và Lam Ngọc, đã liên quan giết hại hơn bốn vạn người. Ừ, chuyện phiếm không bàn nữa, lại nói Tư Cầm tiên sinh nhận lời vào cung, Tư Cầm tiên sinh vốn dĩ uống rượu giỏi, rượu rót vào chén, hoàn toàn không từ chối, nửa buổi liên tiếp uống cạn ba bình…”
“Không đúng”. Lục Tiệm vội nói, “Đại sư không phải nói là trong rượu có độc sao? Tư Cầm tiên sinh sao có thể uống hết ba bình rượu?”.
Ngư hoà thượng mỉm cười: “Câu hỏi này của ngươi, vừa vặn cũng là nghi hoặc của Chu Nguyên Chương lúc đó. Y chỉ sợ thái giám của mình hồ đồ lỡ việc, lấy nhầm rượu, bèn lệnh mang thêm rượu độc. Cứ thế, chúng nhân từ giờ Mùi uống đến giờ Hợi, rượu độc cất giấu bí mật trong cung đều đã dùng hết, bình rượu rỗng trên bàn của Tư Cầm tiên sinh cũng hơn mười mấy cái, nhưng Tư Cầm tiên sinh từ đầu đến cuối vẫn nói cười như không, chỉ là ngoại trừ tiên sinh, những người khác không ai không biến sắc, Hồng Võ đế càng giống như ngồi trên lửa”.
“Tư Cầm tiên sinh vẫn thong dong không vội, uống xong bình rượu cuối cùng, chợt nhiên cười hỏi: ‘Chu Quốc Thuỵ, còn rượu không? Nếu như còn rượu, có thể uống thêm’. Quốc Thuỵ là tên của Hồng Võ đế, Tư Cầm tiên sinh gọi thẳng họ tên của Hồng Võ đế, đủ thấy không còn lòng kính trọng. Hồng Võ đế thông minh ra sao, vừa nghe liền biết âm mưu bị vạch trần, lập tức im lặng không nói. Lúc này, Tư Cầm tiên sinh mới chầm chậm đứng dậy, nói: “Chu Quốc Thuỵ, ta muốn giết ngươi dễ như trở bàn tay. Ngươi tuy rằng ích kỷ độc ác, nhưng vẫn có thể được coi là cái thế kiêu hùng. Như hiện giờ thiên hạ mới định, một khi ngươi chết, thiên hạ này chỉ sợ lại rơi vào chiến loạn, nhưng nếu ngươi còn sống một ngày, bá tánh thiên hạ có thể hưởng thêm một ngày thái bình. Ngươi đã không chịu trao quyền cho dân, vậy mong học theo thánh vương ngày trước, tự xét tự kiểm, tự mình làm cho đúng’. Nói xong quăng chén, ung dung bước đi”.
“Hồng Võ đế bị những lời đó của Tư Cầm tiên sinh nói đến nỗi vừa thẹn vừa giận, thấy tiên sinh đi xa, quăng chén làm hiệu, ba ngàn giáp binh nhất thời cùng xông ra, nhưng Chu Lưu Lục Hư Công của Tư Cầm tiên sinh xuất thần nhập hoá, lên trời xuống đất, gặp nước hoá rồng, giáp binh tuy đông, nhưng cũng không chạm được bóng của Tư Cầm tiên sinh”.
“Tư Cầm tiên sinh chạy ra khỏi cung, triệu tập người trong chín khoa tình nguyện theo mình, đánh phá ra ngoài Nam Kinh. Hồng Võ đế phái binh truy đuổi, Tư Cầm tiên sinh vừa đánh vừa chạy một mạch về hướng tây, tuy có thiên quân vạn mã vây đuổi chặn đường, vẫn bị Tư Cầm tiên sinh chạy thoát. Hồng Võ đế nghe tin đại nộ, y đối với toán học và cơ quan học của Tư Cầm tiên sinh hết sức lo sợ, biết rõ tài trí của tiên sinh đến từ chín khoa, nếu người người trong thiên hạ đều như tiên sinh, giang sơn họ Chu của y há có thể vững vàng? Lập tức hạ chiếu, bắt giết những người của chín khoa chưa kịp rời khỏi, những người đã tháo chạy thì giết hết cả nhà, đồng thời cấm tuyệt chín khoa, đến toán khoa đã có từ đời Tuỷ Đường cũng đồng thời bị phế, dùng bát cổ để tuyển chọn nhân sĩ. Từ đó về sau, người đọc sách trong thiên hạ đều chìm đắm trong tứ thư ngũ kinh, không còn đột phá kiến thức mới, phần lớn trở thành hủ nho không biết quyền biến”. Nói xong, Ngư hoà thượng thong thả than dài, lộ ra vẻ đáng tiếc.
“Sau đó thì sao?”. Lục Tiệm nhịn không được hỏi: “Tư Cầm tiên sinh thế nào rồi?”.
Ngư hoà thượng nói: “Tư Cầm tiên sinh trải qua mấy trận huyết chiến liên tục, khi chạy đến Tây Vực, ngoại trừ bảy người đệ tử, chỉ còn lại một nàng tiểu tì kè kè bên người. Tư Cầm tiên sinh thấy tình cảnh như vậy, thương tâm đau khổ, bất giác chảy nước mắt, thế là đem Chu Lưu Lục Hư Công, một phân thành tám, biến hoá thành ‘Thiên, Địa, Phong, Lôi, Sơn, Trạch, Thủy, Hoả’ tám loại thần thông, phân biệt ban cho tám người, đồng người sáng lập bát bộ, lệnh cho tám người mỗi người thống lĩnh một bộ, dùng thần thông của bát bộ, xây dựng một toà thành rộng lớn khoáng đạt trên núi Côn Lôn. Ngày thành trì hoàn thành, tiên sinh lấy tên là ‘Để Chi Hạ Đô’, ý tức là đô thành ở hạ giới của thiên đế, còn người trong võ lâm, lại so sánh nó với Đông Đảo, gọi là Tây Thành”.
“Từ đó về sau, Tư Cầm tiên sinh ẩn cư trong thành, không dẫm chân vào thế tục nữa, cả ngày nghiên cứu toán đạo, truy cứu vật tính, thanh nhàn trải qua thời gian ba mươi năm. Ngày hôm đó, tiên sinh gọi người trong bát bộ vào trong đường nói: ‘Ta lúc đầu tuổi trẻ bốc đồng, từ hải ngoại quay về trung thổ, muốn dùng tài học của mình tạo phúc cho bá tánh, đúng lúc mạt Nguyên tang tóc loạn lạc, thương sinh đau khổ, do đó phản lại tổ huấn, lạm dụng trí tuệ, tạo thành giết chóc vô biên. Tuy rằng về sau thống nhất thiên hạ, nhưng cũng chỉ lấp đầy lòng tham của kẻ thống trị tàn bạo, đại đạo của ‘Ức Nho thuật’ và ‘Hạn hoàng quyền’ rốt cuộc không thể thi hành”.
“Tư Cầm tiên sinh nói xong, lấy ra bản thảo ghi chép nghiên cứu toán học, vật tính mà mình soạn, nói: ‘Hiện nay dùng bát cổ lựa chọn nhân sĩ, ngu lộng vạn dân. Song dân trí một khi bị phong bế, muốn khai mở lại khó biết chừng nào. Tiên tổ nói rất đúng, trí tuệ chỉ có thể dùng đúng lúc thích hợp, đúng chỗ thích hợp. Nhược bằng không, thì giống như xuân khai thu cúc, đông phòng đào lý, trở thành yêu hồng không đúng thời tiết. Hiện nay dân trí không khai mở, còn chưa đủ để vận dụng trí tuệ của ta, nếu như rơi vào tay kẻ bất lương, chỉ thêm hậu hoạ vô cùng. Kẻ nghịch lại trời bất tường, hiện giờ ta đã biết, thiên cơ nhất mạch, cắt đứt tại hôm nay”. Nói xong đem bản thảo tâm huyết cả đời đốt hết. Nhìn theo ánh lửa rừng rực, Tư Cầm tiên sinh chợ vỗ tay cười lớn, liên tục nói: ‘Yêu Hồng đã rụng, thiên hạ thái bình, Yêu Hồng đã rụng, thiên hạ thái bình….”.
“Đốt xong bản thảo ghi chép, Tư Cầm tiên sinh lại lấy ra tám bức hoạ tượng, phân ra ban cho tám tên đệ tử, nói: ‘Tám bức hoạ tượng tổ sư này, các bộ phải giữ gìn cẩn thận, không được để mất. Nếu không phải bất đắc dĩ, quyết không được để bát đồ hợp nhất, bởi vì bát đồ hợp nhất, thiên hạ vô địch. Hãy nhớ, hãy nhớ!’. Nói đến đây, Tư Cầm tiên sinh chợt vỗ giường thở dài: “Tích hồ hậu thế chi nhân, bất phục tri ngã dã; tích hồ hậu thế chi nhân, bất phục tri ngã dã…’. Kêu liên tiếp ba tiếng như vậy, bỗng nhiên tóm lấy gối mềm bên cạnh người, ném mạnh xuống đất, lại có ánh lửa toé ra, tiếng vang như sấm. Sau ánh lửa tiếng sấm, vị nhất đại kỳ nhân này bàn toạ quy tiên”.
Ngư hoà thượng nói đến đây, im lặng không nói rất lâu. Lục Tiệm cũng đắm chìm trong câu chuyện, quên cả lời nói.
Qua nửa buổi, Ngư hoà thượng mới nói: “Lục Tiệm, ngươi nghe câu chuyện này, có cảm tưởng gì?”. Lục Tiệm nghĩ ngợi rồi nói: “Cách làm của vị Tư Cầm tiên sinh này rất kỳ lạ, làm cho người ta không thể hiểu được, nói ví dụ, y tại sao lại đem tâm huyết cả đời mình đốt đi, còn vỗ tay cười lớn?”.
Ngư hoà thượng nói: “Cái vỗ tay cười lớn này, lại so với gào thét khóc nức nở kia còn tuyệt vọng gấp mười lần. Khi Tư Cầm tiên sinh phát giác, đại đạo ‘Ức nho thuật, hạn hoàng quyền’ tôn sùng cả đời của mình trên cái thế gian này rốt cuộc không có biện pháp gì thi hành, mà đại đạo không thể thi hành, trí tuệ đi cùng với đại đạo đó không những khó mà thực hiện rộng rãi, ngược lại có thể thành công cụ của đế vương tham lam tàn bạo. Thà huỷ nó dưới ngọn lửa còn hơn di hại cho thế nhân. Y ngoài mặt tuy cười, nhưng trong lòng đau khổ có ai hay, do đó trước khi lâm chung kêu lớn ‘Tích hồ hậu thế chi nhân, bất phục tri ngã dã’. Câu nói này, mới là lời tận đáy tim y”.
Lục Tiệm nghe vậy, vẫn không hiểu hết, chực hỏi nữa, chợt sinh lòng cảnh giác, vươn tay vịn vào một cây tre xanh, trúc xanh trong rỗng, rễ cây gắn liền mặt đất, đem động tĩnh trong hai dặm xung quanh truyền lại không sót, chỉ thấy có vài người ẩn nấp trên thân tre, thoắt xa thoắt gần, di động qua lại bất định.
Lục Tiệm trầm tư một chút, vung đao chặt vài cành tre, vót thành trúc tiễn, hướng về phía một người ẩn thân, ra sức ném, nhưng chỉ ném được hai chục bước chân, thì rơi xuống đất.
Ngư hoà thượng đoán ra tâm tư của y, nói: “Ngươi dùng ‘Ngã Tướng’ thử xem”. Lục Tiệm lại lấy một mũi trúc tiễn, chiếu theo ‘Ngã Tướng’ xoay chuyển thân hình, dồn lực đã xong, bất thình lình ném đi.
Tiếng vang sắc nhọn phá không, trúc tiễn đó phóng đi như chớp giật, loé lên trong rừng trúc, liền nghe một tiếng kêu thảm, trên cây tre xanh rơi xuống một người áo đen bịt mặt, tứ chi cong queo, trên trán còn thấy đuôi của trúc tiễn.
Lục Tiệm vốn chỉ muốn người đến kinh chạy, nào ngờ lại bắn chết một người, lập tức ngây người ra. Ta nghe thấy rừng tre xào xạc, đám nhẫn giả còn lại bị trúc tiễn làm khiếp sợ, chớp mắt đã chạy xa.
Ngư hoà thượng cũng rất kinh ngạc, than: “Việc này ngoài ý muốn, hoà thượng cũng không ngờ đến”.
Lục Tiệm trong một ngày giết ba người liên tiếp, trong lòng rất đau buồn, ngây người ra một lúc, mới chọn một cây tre thô to và chắc chắn, giơ đao chém vót.
Ngư hoà thượng lấy làm lạ nói: “Ngươi làm cái gì?”.
Lục Tiệm nói: “Gia gia từng nói, sông lớn hồ lớn, tất thông ra biển, Lục Tiệm làm một cái bè trúc trước, đợi đến tối khuya, chúng ta lặng lẽ xuôi dòng mà đi, đến bờ biễn. Đám nhẫn giả đó nhất định không ngờ được”.
Ngư hoà thượng im lặng gật đầu, ngẫm nghĩ trên đất liền tiến đến đâu nguy cơ đến đấy, nơi nơi đều là cạm bẫy của nhẫn giả, nếu như đổi đi đường sông, có thể thu được hiệu quả bất ngờ. Mắt thấy cây tre thô to vững chắc dẻo dai, Lục Tiệm tốn sức chặt phá, cơ hồ bị cần tre bật trở lại, làm trường đao xiêu vẹo, bèn nói: “Ngươi dùng ‘Thọ Giả Tướng’ xuất thủ, đao đến thân tre lại dùng ‘Hầu Vương Tướng'”.
Lục Tiệm theo cách đó thi triển, nơi lưỡi đao đi đến, tre gãy tựa như cắt cỏ, biến thành thập phần dễ dàng, chỉ là thân hình vặn đi vặn lại, rất là kỳ cục.
Ngư hoà thượng nói: “Mới tập ‘Tam thập nhị tướng’, cần phải mượn các loại tướng thái, kích phát kình lực. Về sau luyện lâu rồi, tướng thái đều bị hoá đi, chỉ còn thần ý, thần ý nhất động, kình lực tự sinh, cho dù ngồi ngay ngắn cũng có thể đả thương người, đến lúc đó, sẽ không kỳ quặc như vậy”.
Lục Tiệm chặt được mười mấy cây tre lớn, vót đi cành lá, đồng thời chẻ một cây trong đó, tước dứt thành sợi, bện thành chão tre. Ngư hoà thượng bèn dạy y “Chư Thiên Tướng” kết chão, dùng “Đa Đầu Xà Tướng” để buộc bè tre, quả nhiên làm ít lợi nhiều. Lục Tiệm chốc chốc cảm biết tình hình xung quanh, đoán là đám nhẫn giả kia tổn binh hại tướng, nhất thời không có người đến nữa.
Đêm đã vào khuya, Lục Tiệm kéo bè trúc xuống nước, đỡ Ngư hoà thượng ngồi ở đầu bè, chống sào xuôi dòng mà đi.
Khi ấy không ánh trăng sao, tiếng nước như tiếng người nỉ non, thấp nhỏ thê lương, mõm đá sườn dốc hai bên bờ sông, phác hoạ ra hình bóng mơ hồ rất nhỏ ở chân trời, hoặc như ngựa khát, hoặc như lân chạy, hoặc như sư tử, hoặc như hổ đói, thiên hình vạn trạng, khó mà miêu tả được.
Lục Tiệm trước sau thấp thỏm, chỉ sợ bõm một tiếng, lại có người từ trong nước ra. May mà hơn nửa đêm trải qua không có động tĩnh, mắt thấy sắc trời sắp sáng, mới tin chắc mưu kế thành công, bèn ngồi xuống bè, chực đánh một giấc, đột nhiên nghe Ngư hoà thượng ho một tiếng, dùng Oa ngữ cao giọng nói: “Lục Tiệm, ngươi có biết nhẫn giả giết người rất có kiến thức, nếu như không nắm chắc nhất định giết được, quyết không khinh cử vọng động, hiện giờ nguy hiểm mới bắt đầu, ngươi ngàn vạn lần không được sơ ý”.
Lục Tiệm đứng bật đậy, buộc miệng hỏi: “Có địch nhân sao?”
Ngư hoà thượng cao giọng: “Yếu chỉ của nhẫn thuật chỉ ở tám chữ ‘Xuất kỳ bất ý, công kỳ bất bị’. Y động thủ lúc nào, xuất thủ khi nào, mà bị ngươi đoán được, thì không được tính là cao minh. Còn như thời cơ, tất ở lúc ngươi không đề phòng nhất. Mà lúc người bình thường lơ là nhất, chính là khi trời sáng”.
Âm thanh chưa dứt, chợt nghe bờ trái truyền lại một tiếng tiêu thấp, mấy đạo hắc ảnh thong thả vọt lên, như khói nhẹ mờ nhạt, chập chờn biến mất. Lục Tiệm bất giác toát mồ hôi lạnh. Y tự cho rằng đắc kế, nào ngờ đám nhẫn giả này sớm đã theo đuôi, đoán là định động thủ lúc trời sáng, nhưng bị một lời của Ngư hoà thượng phá giải, chỉ còn biết tạm thời từ bỏ.
Lục Tiệm ngay tức khắc phấn chấn tinh thần, gắng sức chống sào mấy cái, đẩy bè tre lướt nhanh đi, lại nghe Ngư hoà thượng than nói: “Ngươi tạm thời ngồi xuống, ta có lời muốn nói”. Lục Tiệm chỉ còn cách vứt sào trúc ra, ngồi xuống.
Ngư hoà thượng nói: “Hiện giờ tạm thời không có nguy hiểm, chúng ta nói đến câu chuyện thứ tư. Câu chuyện này, chính là nói về bản thân hoà thượng”. Lục Tiệm chấn động trong lòng, ngưng thần lắng nghe.
Lại nghe Ngư hoà thượng thong thả nói: “Hoà thượng ta thuộc về Thiền Tông. Người trong phái ta vân du tứ hải, trước nay không đại khai sơn môn, cũng không thuộc Thiền Môn Ngũ Tông là Lâm Tế, Vân Môn, Vị Ngưỡng, Tào Động, Pháp Nhãn, tự thành một phái, tiêu diêu tự tại”.
“Từ lúc Cửu Như tổ sư mở ra tông môn, Hoa Sinh đại sĩ phát dương quang đại đến nay, trong ba trăm năm, đã truyền sáu đời. Mỗi đời đều là một sư một đồ, đơn mạch độc truyền. Tại sao như vậy? Chỉ bởi vì sau khi luyện thành ‘Đại Kim Cương Thần Lực’, được như đại lực của Bồ Tát, siêu việt tam giới, nếu như truyền phải kẻ bất lương, tất nhiên tạo thành tội nghiệt vô biên. Đến đời này của hoà thượng, đại thể võ lâm biến đổi mạnh mẽ, Đông Đảo Tây Thành đối đầu giằng co, thế như nước với lửa”.
“Nhớ năm xưa, sau khi Tư Cầm tiên sinh toạ hoá, bởi vì cả đời tiên sinh không vợ, tuyệt không có con. Cho nên chiếu theo di pháp của tiên sinh, thành chủ Tây Thành do Bát Bộ công khai tuyển chọn, mười năm đổi một lần, luân lưu thống lĩnh Tây Thành…”.
Lục Tiệm lấy làm lạ hỏi: “Tư Cầm tiên sinh tại sao lại không có con?”
Ngư hoà thượng nói: “Việc này cũng khá kỳ lạ, có lẽ bởi vì y ghét thói xấu phụ tử tương truyền, cố ý cả đời không lấy vợ, cũng chưa biết được. Nhưng Đông Đảo sau khi thất bại, trước sau vẫn ôm hận, khi Tư Cầm tiên sinh còn tại thế, bọn họ không có biện pháp gì, tiên sinh vừa quy tiên, liền dấy lên tiến công Tây Thành. Tuy nói Tư Cầm tiên sinh đem Chu Lưu Lục Hư Công một phân thành tám, nhưng vẫn không phải vừa, mấy lần giao chiến, Đông Đảo đều không chiếm được thượng phong. Nhưng mối tranh chấp này một khi khai mở, Đông Đảo Tây Thành giao chiến là kéo dài hai trăm nay, bởi vì giành thắng, không từ một thủ đoạn nào. Một trăm năm trước, Tây Thành không biết từ đâu có được Hắc Thiên Thư, vì đối kháng với Đông Đảo, bắt đầu đi ngược lại thiên lý, bắt đầu tích trữ và nuôi dưỡng kiếp nô…”.
Lục Tiệm buộc miệng hỏi: “Từ một trăm năm trước đã bắt đầu nuôi dưỡng, kiếp nô há không phải là rất nhiều?”.
Ngư hoà thượng rầu rĩ gật đầu, tiếp tục nói: “Trải qua nhiều năm tranh đấu, Đông Đảo cũng vậy, Tây Thành cũng vậy, đều thương vong cực nặng, cừu hận đời đời tự nhiên cũng càng kết càng sâu. Không ngờ bốn mươi năm trước, trong Tây Thành xuất hiện một đệ tử của Thiên Bộ gọi là Vạn Quy Tàng, chỉ bởi vì người này thiên tư trác tuyệt, cơ duyên xảo hợp, y lại từ trong tuyệt học của bát bộ, phát hiện ra bí mật của Chu Lưu Lục Hư Công, từ đó quán thông tuyệt học của bát bộ, Chu Lưu Lục Hư, pháp dụng vạn vật, đạt đến cảnh giới của Tư Cầm tiên sinh. Nhưng y không chỉ ngộ tính siêu phàm, mà dã tâm cũng bất phàm, trước tiên dựa vào võ lực phế đi Thành chủ công khai tuyển chọn là Tả Mộng Trần, đăng lên ngôi Thành chủ, sau đó lại toàn lực công đả Đông Đảo. Đệ tử Đông Đảo gần như bị tuyệt diệt, những người may mắn sống sót đều lần lượt chạy ra hải ngoại tránh nạn. Hoà thượng tuy là người thế ngoại, cũng thấy không thể khoanh tay đứng nhìn, suy cho cùng Đông Đảo Tây Thành ba trăm năm trước vốn là một nhà, đuổi tận giết tuyệt như vậy là trái với tình lý, do đó hẹn Vạn Quy Tàng, tương hợp trên Thiên Trụ Sơn, khuyên y dừng tay”.
Lục Tiệm lo lắng nói: “Người này tàn nhẫn độc ác như vậy, đại sư gặp y há không phải là rất nguy hiểm sao?”.
Ngư hoà thượng than: “Trước khi gặp Vạn thành chủ, hoà thượng cũng cho rằng y hẳn là kẻ kiêu ngạo tự đại, hung hãn tàn ác, nhưng thực sự gặp rồi thì hoàn toàn không phải vậy. Vạn Quy Tàng không chỉ tiêu sái như thần, phong độ siêu dật, mà tài trí tuyệt cao, lời nói dễ gần, so đi sánh lại thì giống như Thuần Nhưỡng ngàn năm, không uống cũng say. Hoà thượng tuy là đệ tử Không môn, nhưng mới gặp cũng đã thập phần ngưỡng mộ, trò chuyện vui vẻ hợp ý. Cũng có thể nói, hoà thượng chưa giao chiến mà trên khí độ đã thua cho y rồi”.
“Đã vui vẻ trò chuyện, hoà thượng bèn khuyên y bỏ qua cho bộ hạ còn sót lại của Đông Đảo, không ngờ lại bị một mực cự tuyệt. Khuyên bảo đã lâu, cuối cùng không tránh khỏi đại động can qua; nhưng Chu Lưu Lục Hư Công đã phá thiên đạo, hoà thượng dùng hết toàn lực, cũng chỉ tiếp được ba chiêu. Từ đó về sau, không những công lực chỉ còn lại một nửa, mà thương thế trước sau cũng không cách gì hồi phục”.
Lục Tiệm trong lòng đại chấn: “Vết thương cũ của đại sư lại là do Vạn Quy Tàng gây nên? Hiện giờ công lực của đại sư giảm đi một nửa, vẫn lợi hại như vậy, năm xưa khi toàn thịnh thì không biết còn lợi hại ra sao? Cho dù như vậy, cũng chỉ tiếp được ba chiêu. Vạn Quy Tàng kia thật không biết là nhân vật như thế nào?”.
Trong khi nghĩ thầm, lại nghe Ngư hoà thượng than: “Hoà thượng đã bại, tự nhiên là thúc thủ chờ chết. Nhưng không ngờ Vạn Quy Tàng nói: ‘Huynh ta hai phái, uyên nguyên thâmm sâu. Kim Cương nhất môn lại là nhất mạch đơn truyền, tên tiểu đồ đệ này của huynh thần công chưa thành, đạo huynh mà chết, hương khói của Hoa Sinh đại sĩ đoạn tuyệt, tiểu đệ ở dưới cửu tuyền không có mặt mũi nào gặp tổ sư bản phái. Đông Đảo thì khác, tranh đấu với phái của đệ hai trăm năm, thù sâu như biển, nếu không phải một phái diệt tuyệt, không bao giờ dừng lại, do đó chỉ có thể dùng giết để ngăn giết. Đạo huynh nếu như nhìn không quen, có thể rời xa trung thổ, hoặc là thần công tinh tiến, có thể thắng được tiểu đệ, bằng không ngày nào còn tiểu đệ, xin đừng quay về”.
“Y nói rất khách khí, thực ra đã đày hoà thượng. Nhưng theo thủ đoạn nhổ cỏ tận gốc của y, có thể tha hoà thượng một con đường sống, quả thực là nhìn vào giao tình của Hoa Sinh đại sĩ và sư tổ của y. Đủ thấy người này tuy là nhất đại kiêu hùng, nhưng cũng không phải hoàn toàn là kẻ vô tình”.
Lục Tiệm thấy Ngư hoà thượng bị Vạn Quy Tàng đả thường, đày đi, mà nơi nơi trong lời nói vẫn gỡ tội cho y, trong lòng lấy làm khó hiểu vô cùng.
Lại nghe Ngư hoà thượng than nói: “Hoà thượng nghe những lời này, không còn lời nào để nói, chỉ còn biết dắt tiểu đồ Bất Năng đi đến Đông Đảo. Khi đến nơi, thì phát hiện ra tiểu quốc này khói lửa liên miên, đang lúc loạn thế. Vậy cũng bỏ qua. Chưa bao giờ nghĩ Phật pháp của Đông Đảo trong lúc loạn thế lại cũng hủa hoá sa đoạ hết chỗ nói. Tăng nhân xuất gia không chịu tu hành, ngược lại ỷ trượng tín đồ đông, xa hoa dâm loạn, lấy vợ sinh con, tích trữ nuôi dưỡng loan đồng; thậm chí cưỡng đoạt ruộng của dân, bóp nặn tàn tệ. Phật pháp vốn là tế thế chi pháp, lại thành mánh khoé lừa đảo để bọn gian đồ lừa phỉnh thế nhân, mưu cầu tư lợi”.
“Hoà thượng mắt thấy các loại tội ác, nhịn không thể nhịn, cùng tiểu đồ đi lên Bỉ Duệ Sơn, lý luận với tăng nhân của Đông Đảo. Bỉ Duệ Sơn hiệu xưng là vương thành Phật pháp của Đông Đảo, cư trú rất nhiều kẻ gọi là cao tăng. Hoà thượng bèn trên Bỉ Duệ Sơn cùng chúng tăng biện luận Phật pháp, tranh luận đúng ba ngày ba đêm. Đám tăng nhân đó chìm đắm trong hưởng lạc, Phật pháp thô thiển, sao có thể đương nổi hoà thượng, trong lúc đuối lý không nói vào đâu được, hổ thẹn quá thành tức giận, lại tuyên bố hoà thượng là ‘Phật Địch’, phái xuất tăng quân truy sát”.
“Việc đã như vậy, tuy hoà thượng không để tâm, nhưng trong lòng tiểu đồ Bất Năng lại có biến hoá vô cùng lớn. Tâm địa y vốn thuần tịnh, căn tính mạnh mẽ sắc bén, nhưng không tốt là ở chỗ tôn sùng võ học, thấy hoà thượng bại cho Vạn Quy Tàng, liền đối với Phật pháp sinh ra dao động to lớn. Đến Đông Đảo, y mắt thấy chiến loạn, tính xấu tàn nhẫn háo sát của Oa nhân lại hợp với lòng sùng võ của y, lại thấy chúng tăng của Đông Đảo say sưa hưởng lạc, y không những không lấy làm nhục, ngược lại còn thầm ngưỡng mộ”.
“Năm đó, sư đồ ta bị tăng binh của Nhất Hướng Tông truy sát, khi chạy đến Bắc Y Thế, vết thương cũ của hoà thượng phát tác, không còn sức tháo chạy, bị tăng binh chặn ở bên bờ Mộc Tằng. Thủ lĩnh của đám tăng binh là một tên lực sĩ, dùng một thanh trường đao chín thước được gọi là ‘Nhật Bản đệ nhất đại đao’, diễu võ dương uy, nhìn sư đồ ta như cá nằm trên thớt. Bất Năng bị y sỉ nhục, chung quy không thể nhịn được, khi đó thần thông của y đã thành, chỉ một chiêu liền đánh chết tên thủ lĩnh đó, đoạt lấy trường đao, sau đó không nghe hoà thượng quát dừng, xông vào trong trận. Trận chiến đó ma tính của y đại phát, đem hơn nghìn tăng binh giết không sót một người, đến cả nước sông Mộc Tằng cũng bị nhuộm đỏ. Sau đó y giắt đao mà đi, tự xưng Thiên Thần Tông, hoành hành Nhật Bản, không việc ác nào không làm”.
“Hoà thượng đợi cho thương thế hơi lành, liền đi tìm y. Tên nghiệt chướng đó tự biết không địch được hoà thượng, ẩn náu khắp nơi, thậm chí trong mười năm, cũng không dám công nhiên tác ác. Đáng hận là khi đó hoà thượng cũng gặp nhiều rắc rối, sau trận Bắc Y Thế, Bỉ Duệ Sơn tuy không phái xuất tăng binh, nhưng lại mua nhẫn giả Y Hạ, treo giải thưởng lớn, thích sát hoà thượng. Đám nhẫn giả này thủ pháp nguỵ dị, lại vô cùng kiên nhẫn, mười năm nay cũng không chịu từ bỏ, hoà thượng mấy độ ngộ hiểm, cũng nhiều lần chế ngự được bọn chúng, nhưng rốt cuộc không nhẫn tâm giết hại. Nào ngờ bọn chúng biết hoà thượng không giết, càng không lo sợ, hoà thượng bị quấy rối không chịu nổi, do đó không cách gì rảnh tay để tìm nghiệt đồ kia, để cho y tạo thành càng nhiều tột nghiệt…”.
Nói đến đây, khí huyết của Ngư hoà thượng tuôn lên, ho vài tiếng, thở dốc nói: “Lục Tiệm, ngươi cần phải hiểu, võ lực không phải là con đường nhờ cậy lâu dài, kẻ lạm dụng võ lực tất chết vì võ. Vạn Quy Tàng như vậy, Bất Không như vậy. Đám nhẫn giả này tuy rằng độc ác, nhưng đều là cha mẹ sinh ra, trời đất nuôi dưỡng, ngươi và bọn chúng giao thủ, cần phải có lòng từ bi, vạn lần không nên giống như Bất Không, chỉ vì nhất thời tức giận, rơi vào ma đạo bất phục”.
Trong tiếng nói của Ngư hoà thượng, Lục Tiệm chợt thấy một tay của Ngư hoà thượng ấn trên đỉnh đầu, trong sát na, một luồng nhiệt mạnh mẽ chạy mau xuống, Lục Tiệm không kịp kêu hét, trong đầu vang lừng một tiếng lớn, liền mất tri giác.