Địa điểm: Việt Quốc.
Thời gian không rõ…
…
…
Có sinh tất có diệt, đã sống ắt rồi sẽ phải chết, đấy là cái lẽ thường xưa nay. Nhưng thế nhân ham sống sợ chết, nào mấy ai có thể bình thản đối mặt cùng sinh tử?
Xưa cũng tốt mà nay cũng vậy, hầu hết ai nấy đều sợ hãi cái chết. Họ không biết sau khi mình chết rồi thì sẽ đi về đâu, hoá ra thành gì. Và cũng bởi chính vì là không biết, chính vì là không rõ nên từ trong tâm trí, họ bắt đầu vẽ ra những cõi vô minh, những vị thần linh, thiên đình, địa ngục…
Người này đến người khác, đời này qua đời khác, thuyết nối thuyết, những cõi vô minh cùng chư vị thần linh cứ thế mà chồng chất lên nhau, trở thành một nhận thức, cũng là tri thức chung. Từ đấy, hậu thế truyền lưu, người người tin tưởng, cho rằng trên trời có thần minh, dưới đất có âm binh, ngày đêm cúng bái, tố khổ cầu phúc…
Bắt đầu từ đây, thế nhân hướng tới trường sinh giai thoại…
Sinh, lão, bệnh, tử, chẳng ai là tránh được. Hạt giống đâm chòi, tất có ngày rồi sẽ héo úa, lá rụng cành khô, lụi tàn trong đất. Bất hoại duy chỉ thần tiên. Muốn trường sinh, ắt phải tu tiên.
Mang theo suy nghĩ ấy, thế nhân đời này qua đời khác cặm cùi tìm kiếm, truy cầu phương pháp tu tiên luyện đạo. Ngặt nỗi tiên đạo hư vô mờ mịt chẳng khác nào kim chìm đáy bể, há đâu lại dễ dàng thấy được?
“Trường sinh bất tử”, bốn chữ này vẫn còn xa vời lắm.
Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa rằng công sức bao đời của thế nhân đều đã phí công vô ích. Trong vạn loài, người là linh trưởng thông minh nhất, ngộ tính cao nhất; bằng vào tuệ căn của mình, con người dù chưa ai thực sự đạt đến cảnh giới trường sinh nhưng chí ít đã tìm ra được những con đường tiếp cận cánh cửa thần minh, sống đến một hai ngàn năm cũng là không hiếm.
Trải qua ngàn vạn năm tiền nhân dốc hết tinh lực truy cầu, đến nay phương pháp tu tiên luyện đạo đã tồn lưu vô số. Nắm giữ và truyền dạy, không đâu khác ngoài tông môn…
Thiên hạ ngày nay, môn phái tu tiên có ở khắp nơi, nhiều không kể xiết, nhưng tiếng tăm vang dội nhất thì phải kể đến sáu cái tên: Bái Nguyệt Giáo, Thiên Kiếm Môn, Âm Phong Cốc, Cửu Hoa Cung, Lam Yên Tự và Tam Tiên Đảo. Trong đó, Âm Phong Cốc và Bái Nguyệt Giáo bị xem là tà môn ngoại đạo.
Việc này xét âu chẳng lạ. Tư tưởng khác nhau, phương thức tu hành khác nhau, phân biệt vốn dĩ tất yếu. Âm Phong Cốc và Bái Nguyệt Giáo, môn hạ của hai phái này trước giờ hành sự đều thường bất chấp đạo nghĩa, lại hay dùng thủ đoạn hiểm độc đối phó người khác, bị gán cho hai chữ “tà đạo” kỳ thực không oan.
Có tà tất phải có chính. Nếu Bái Nguyệt Giáo và Âm Phong Cốc là đại diện cho lối tư tưởng tu luyện cực đoan, thực dụng thì Thiên Kiếm Môn, Cửu Hoa Cung, Lam Yên Tự và Tam Tiên Đảo, bốn đại phái này lại đi theo hướng trái ngược, chú trọng đạo nghĩa, thuận theo tự nhiên. Nhất là Thiên Kiếm Môn…
Thiên Kiếm nằm ở phía nam nước Việt, toạ lạc trên núi Ngũ Đài, được hợp thành từ năm ngọn núi nhỏ là Kim Kiếm Phong, Trúc Kiếm Phong, Mặc Kiếm Phong, Liệt Kiếm Phong và Tương Kiếm Phong, lần lượt tương ứng với năm chi mạch. Trong đó, chủ mạch thì chính thị Kim Kiếm Phong.
Bàn về gốc gác, Thiên Kiếm từ khi thành lập, tính đến nay đã được ba ngàn năm có lẻ. Tổ sư khai phái danh gọi Lý Bất Tri, là một nhân vật truyền kỳ của giới tu tiên luyện đạo, hết sức thần bí. Thậm chí cho tới bây giờ, khi mà ông đã viên tịch từ hơn hai ngàn năm trước, những nghi hoặc về ông vẫn chưa có lời giải nào thoả đáng. Thế nhân chỉ biết Lý Bất Tri ông là người tộc Kinh, sáu mươi tuổi ngang trời xuất thế, một người một kiếm tung hoành Việt Quốc, trung nguyên ngoại vực, đầu nam cuối bắc không chỗ nào là chưa từng đi qua, chưa từng đánh qua.
Thiên hạ ngày ấy, bất kể là đại nhân vật nào, người thuộc tộc nào, hễ cứ nghe đến ba chữ “Lý Bất Tri” đều liền động dung, chẳng kính thì sợ.
“Tu tiên đệ nhất nhân” của hai ngàn năm trước, nếu không phải Lý Bất Tri thì không còn ai xứng.
Chuyện xưa là vậy, bằng xét ngày nay…
Lý Bất Trí thì tất nhiên đã mất. Ông dù đạo pháp thâm huyền, công tham tạo hoá, siêu phàm nhập thánh thì rốt cuộc vẫn chỉ là phàm nhân, ngàn năm dương thọ chung quy là hữu hạn, cái chết làm sao tránh khỏi? Hiện, tồn lưu có chăng là những gì ông để lại.
Thiên Kiếm Môn chính là một trong số đó.
Thời của Lý Bất Tri, với một thân đạo thuật thâm huyền của mình, việc ông khai tông lập phái, đem nó phát dương quang đại thì đã quá hiển nhiên, chả có gì đáng nói. Bằng tại hôm nay, sau khi ông đã mất được hai ngàn năm…
Cũng không rõ bởi do trời cao chiếu cố hay nhờ Lý Bất Tri thuở xưa tinh tế an bài hậu sự mà suốt hai ngàn năm qua, sau bao cuộc bể dâu, Thiên Kiếm Môn vẫn sừng sững toạ lạc trên đỉnh núi Ngũ Đài, hùng cứ một phương Việt Quốc. Năm chi mạch của nó là Kim Kiếm Phong, Trúc Kiếm Phong, Mặc Kiếm Phong, Liệt Kiếm Phong và Tương Kiếm Phong cũng ngày một hưng thịnh, môn nhân có tăng không giảm, anh tài thực chẳng hiếm…
…
…
Cách chân núi Ngũ Đài sáu mươi dặm về phía đông bắc…
Chỗ này tên gọi Đào Hoa, là một cô thôn biệt lập, cách thành trấn khá xa, dân số vừa đúng năm mươi hộ. Người dân ở đây ai nấy đều chân chất thiện lương, xưa giờ hầu như chẳng bao giờ tranh đấu, mưu mô lại càng không tưởng. Họ sống rất hiền hoà, tin cậy lẫn nhau…
Trời hiện đã vào xuân, khắp nơi hoa đào đã nở rộ. Trước hiên sau ngõ, trên từng mái nhà, cả thôn hầu như chỗ nào cũng được nhuộm bởi sắc hoa, khung cảnh đẹp mắt, nên thơ vô cùng.
Tương tự những hộ dân khác, nhà của Lăng Thành Trụ cũng có trồng hoa đào, hoa cũng đang đua nhau nở rộ. Bên dưới mái hiên, trong bộ trường y đơn sơ bình dị màu nâu đất, Lăng Thành Trụ không ngừng đi qua bước lại, dáng vẻ khá bồn chồn lo lắng.
Cũng khó trách. Phía trong nhà, thê tử hắn là Lăng Tiểu Linh đang khổ sở kêu la kia mà, Lăng Thành Trụ hắn sao có thể chẳng nóng lòng cho được? Thời gian nàng lâm bồn tính ra cũng đã quá hai canh giờ rồi…
“Tại sao lại lâu như vậy chứ? Đã quá hai canh giờ rồi…”.
Lăng Thành Trụ tay trái đan tay phải, dạ thầm lo, miệng lẩm bẩm…
“Tiểu Linh trước giờ thể chất yếu đuối, chuyển dạ lâu như vậy…”.
Mắt ngước lên thương khung, Lăng Thành Trụ chắp tay cầu khẩn: “Thần minh tại thượng, cầu xin người rủ lòng thương xót che chở cho Tiểu Linh, đừng để nàng xảy ra bất trắc gì…”.
Chẳng biết có phải thượng thiên đã nghe thấy hay không mà sau khi Lăng Thành Trụ cầu khẩn xong thì từ bên trong nhà, một tiếng khóc truyền ra: “Oa… oa… oa…”.
Vậy là đã rõ, đó là thanh âm của hài nhi. Lăng Tiểu Linh, nàng đã vừa hạ sinh.
“Sinh rồi… Sinh rồi… Sinh rồi!”.
Lăng Thành Trụ mừng đến rướm nước mắt, vội vàng quay đầu đưa tay mở cửa chạy thẳng vào trong nhà.
“Đại ca, chúc mừng huynh!”.
Vừa trông thấy Lăng Thành Trụ chạy vào, muội muội của hắn là Lăng Ngọc Yến liền đưa đứa bé trong tay qua.
“Là bé trai đó ca!”.
“Con trai ta…”.
Lăng Thành Trụ sau khi bế lấy hài nhi liền ngồi xuống giường, một tay vươn ra giúp thê tử vén mấy sợi tóc rối sớm đã ướt nhẹp, quan tâm hỏi: “Tiểu Linh, nàng cảm thấy trong người thế nào?”.
“Thiếp… không sao đâu.” – Lăng Tiểu Linh yếu ớt hồi âm – “Con đâu… Để thiếp nhìn”.
“Con đây”.
Lăng Thành Trụ nhanh chóng đem đứa bé trong tay đặt xuống giường, sát bên thê tử.
Bàn tay gầy chuyển di, Lăng Tiểu Linh nhẹ nhàng chạm lên má con trai mình, khẽ thốt: “Con của mẫu thân…”.
Kế đấy, nàng mỉm cười hạnh phúc…
Nhưng…
Nụ cười nọ, nó đã rất nhanh liền héo úa. Cùng với cánh tay đang buông lỏng, trong mắt nàng, hai hàng lệ cũng chậm rãi chảy ra.
Cảm giác có gì đó không ổn, Lăng Thành Trụ thần tình đại biến, ngay lập tức hô gọi: “Tiểu Linh… Tiểu Linh… Tiểu Linh!”.
“Không… Tiểu Linh…”.
Quay phắt người lại, Lăng Thanh Trụ nắm tay muội muội mình là Lăng Ngọc Yến kéo tới.
“Ngọc Yến, xem nàng. Mau xem nàng!”.
Thực ra chẳng cần Lăng Thành Trụ bảo thì Lăng Ngọc Yến cũng đang định làm như vậy rồi. Biểu hiện buông xuôi của đại tẩu, Lăng Ngọc Yến nàng đã thấy được.
Một giây cũng không dám chần chừ thêm nữa, Lăng Ngọc Yến lập tức kiểm tra…
Một lúc sau…
Lăng Ngọc Yến thu tay, mắt không dám quay nhìn đại ca mình. Nàng không dám nói.
Thấy muội muội mình như vậy, một tia hy vọng sau cùng của Lăng Thành Trụ cũng tan thành mây khói. Hắn lặng người đi, mất một đỗi mới mở miệng được.
“Ngọc Yến… Tiểu Linh… nàng ấy…”.
Tới đó thì Lăng Thành Trụ không nói được nữa. Dường như có cái gì đó đang chặn lấy cổ họng hắn.
Thê tử hắn, nàng đi rồi. Nàng đã đi rồi…
“Hức ức…”.
Những giọt nước mắt đau xót bắt đầu tuôn chảy. Lăng Thành Trụ khóc, Lăng Ngọc Yến khóc, và đứa bé vừa sinh trên giường, nó cũng đang khóc.
Một kiếp người thế là xong. Lăng Tiểu Linh đã rời xa dương thế, bỏ lại con thơ mắt còn chưa kịp hé mở.
“Ông trời…” – Lăng Thành Trụ nhắm nghiền hai mắt, nghẹn ngào cất tiếng – “Tại sao lại vô tình như vậy?”.
“Tiểu Linh nàng năm nay chỉ vừa tròn mười chín, tại sao lại bắt nàng phải đi?”.
“… Tiểu Linh nàng có tội tình gì chứ…”.
“Đại ca…” Bên cạnh, Lăng Ngọc Yến nhìn đại ca mình thương tâm lệ cũng tuôn theo. Nàng muốn nói gì đó để an ủi, nhưng rồi rốt cuộc cũng chỉ đành cúi đầu sụt sùi.
Nói? Nàng biết nói gì đây? Sự mất mát, nỗi đau chia ly này… thật là quá lớn rồi.
Hoan hỉ hoá bi. Trong nhà người đẫm lệ, ngoài hiên hoa nhẹ rơi. Trời không gợn sóng…