Titanic - Trong Vũ Trụ

Chương 17



MƯỜI BẢY

Sullivan Obie đang lái chiếc xe Harley của anh trên sao Hỏa. Vào nửa đêm, mặt trăng tròn chiếu sáng vùng đất hoang lỗ chỗ đang trải rộng trước mặt anh. Anh có thể tưởng tượng gió sao Hỏa đang thổi bay tóc anh, bụi sao Hỏa đỏ rực cuộn vào bánh xe của anh. Đây là thế giới kì ảo từ thời thơ ấu, từ ngày hai anh em Obie thông minh hơn người bắt đầu tự chế tạo tên lửa và xây dựng các bệ phóng lên mặt trăng bằng giấy bìa và làm bộ quần áo vũ trụ bằng giấy bạc nhăn. Từ những ngày đó anh và Gordie đã biết và chỉ biết rằng tương lai của họ là ở trên cao.

Và đây là nơi những giấc mơ đó kết thúc, anh nghĩ. Say rượu tê-ki-la, lăn mất một bánh xe trên sa mạc. Anh không thể nào lên sao Hỏa hay mặt trăng. Cũng không thể có khả năng rời khỏi bệ phóng chết tiệt liên tục phụt lửa. Đây là một cái chết nhanh chóng. Tệ thật! Thậm chí nó còn tệ hơn so với việc chết ở tuổi mười lăm vì bệnh ung thư.

Anh phanh gấp và dừng lại, xe anh cuộn lên một đám bụi lớn. Anh nhìn những dải cát lấp lánh gần con tàu Apogee II lấp lánh như một thỏi bạc và mũi nhìn hình chóp của nó hướng lên các vì sao. Hôm qua họ đã đưa con tàu đến khu bệ phóng. Đó là một quá trình chậm chạp và đáng nhớ, hàng chục nhân viên của Apogee huýt còi và đập vào mui xe của họ khi họ đi theo xe tải có toa phẳng đi qua sa mạc. Cuối cùng khi con tàu được đưa vào vị trí, mọi người nheo mắt vì ánh nắng và nhìn nó, họ đột nhiên im lặng hoàn toàn. Tất cả bọn họ đều biết đây là vòng lăn cuối cùng của viên xúc xắc. Trong ba tuần kể từ khi tàu Apogee II cất cánh, nó sẽ đem theo tất cả những hi vọng và giấc mơ của họ.

Và cả thi thể của con trai tôi nữa, Sullivan nói.

Một cơn ớn lạnh chạy dọc cơ thể anh khi anh nhận ra có thể anh đang nhìn vào chính quan tài của mình.

Anh rồ máy xe Harley và quay trở lại con đường, nảy lên trên các đụn cát và nhảy qua các rãnh nước. Anh phóng rất ẩu, sự cẩu thả của anh còn cộng thêm hơi rượu tê-ki-la và cộng thêm ý nghĩ chắc chắn đột ngột và rất kiên định rằng anh là người đã chết rồi. Anh tin là trong ba tuần anh sẽ lái tên lửa đó vào thế giới bị lãng quên. Cho đến khi đó, không gì có thể chạm vào anh, không ai có thể khiến anh đau đớn.

Sự đảm bảo về cái chết khiến anh thành người vô hình.

Anh tăng tốc, bay qua mặt trăng khắc nghiệt của giấc mơ thời thơ ấu. Giờ mình đã ở đây trong con tàu mặt trăng, tăng tốc qua cùng biển yên tĩnh, phóng lên đồi mặt trăng và hạ cánh êm ái xuống…

Anh cảm thấy mặt đất biến mất. Anh thấy mình bay lơ lửng suốt đêm và chiếc xe Harley gầm giữa hai đầu gối anh, mặt trăng chiếu thẳng vào mắt anh. Anh vẫn lao vút lên trên. Xa mức nào? Và cao mức nào đây?

Anh va chạm mặt đất mạnh đến nỗi anh mất điều khiển và lộn sang bên, chiếc xe Harley đè lên người anh. Anh hoảng hồn nằm một lúc rồi bị mắc kẹt giữa chiếc xe và các tảng đá cứng. Ồ, đây là điểm rơi thật ngu xuẩn, anh nghĩ.

Rồi anh thấy đau. Cơn đau sâu và co thắt khiến anh cảm thấy như thể hai bên sườn của mình bị đập vỡ thành nhiều mảnh.

Anh hét lên và ngã xuống, mặt hướng lên trời. Mặt trăng chiếu xuống, giễu cợt anh.

– Khung xương chậu của anh ấy đã bị gãy ở ba chỗ. – Bridget nói. – Các bác sĩ đã nối nó lại đêm qua. Họ nói với tôi anh ấy sẽ bị nằm bẹp trên giường trong sáu tuần tới.

Casper Mulholland gần như nghe thấy tiếng giấc mơ của anh đang nhảy múa, nó to như tiếng một quả bóng bay vỡ.

– Sáu… tuần à?

– Và sau đó anh ấy sẽ phải vào phòng hồi phục chức năng trong vòng ba đến bốn tháng.

– Bốn tháng à?

– Lạy chúa, Casper. Hãy nói điều gì mới đi chứ?

– Chúng ta toi rồi. – Anh vỗ tay lên trán như thể tự trừng phạt mình đã dám mơ mộng họ có thể thành công. Đó lại là một lời nguyền cũ của Apogee, nó cắt họ khỏi đường đua khi họ sắp cán đích. Nó thổi bay các tên lửa của họ, thiêu rụi văn phòng đầu tiên của họ. Và giờ nó cướp mất phi công duy nhất của họ khỏi nhiệm vụ bay. Anh đi lại trong phòng chờ và suy nghĩ. Chẳng có chuyện gì tốt đẹp đến với chúng ta cả. Họ đã đầu tư toàn bộ tiền tiết kiệm chung, danh tiếng và mười ba năm qua. Đây là cách riêng của Chúa bảo họ phải từ bỏ và chấm dứt các thiệt hại của họ trước khi chuyện xấu thực sựxảy ra.

– Anh ấy đã say rượu. – Bridget nói.

Casper dừng lại nhìn cô. Cô đứng đó khoanh tay buồn bã, mái tóc đỏ của cô như vầng hào quang lửa của một thiên thần Báo thù.

– Các bác sĩ đã cho tôi biết. – cô nói. – Lượng cồn trong máu là một phẩy chín độ, chua như cá trích vậy. Đây không phải là sự xui xẻo chúng ta thường gặp. Đây là do anh Sully thân mến của chúng ta lại làm loạn. Điều an ủi duy nhất với tôi là trong vòng sáu tuần tới anh ra sẽ bị nhét một cái ống to vào chỗ đi vệ sinh.

Casper không nói gì và ra khỏi phòng chờ dành cho khách đến thăm. Anh đi về phía đại sảnh, đẩy cửa bước vào phòng của Sullivan.

– Anh khờ quá! – Anh nói.

Sully ngước lên nhìn anh với cặp mắt vẫn có vẻ đang ngấm mooc-phin.

– Cảm ơn đã thông cảm cho tôi.

– Dù sao anh không đáng bị như vậy. Chỉ còn ba tuần nữa là phóng tàu và anh lại lôi cái xe chết tiệt ra sa mạc à? Tại sao anh không làm xong mọi việc đi đã? Tại sao không tỉnh táo trong khi đang làm việc? Khốn nạn, chúng ta đáng lẽ phải biết sự khác biệt!

Sully nhắm mắt.

– Tôi xin lỗi.

– Lúc nào anh cũng vậy.

– Tôi đã làm hỏng mọi việc. Tôi biết…

– Anh đã hứa với họ sẽ điều hành chuyến bay. Đó không phải là ý kiến của tôi, mà là của anh. Lần cuối cùng các nhà đầu tư có hứng thú với chúng ta là khi nào? Lần này đáng lẽ đã tạo ra sự khác biệt. Nếu anh không mở các nút chai…

– Tôi đã sợ.

Sully nói khẽ đến nỗi Casper không chắc đã nghe đúng không.

– Gì cơ? – Anh hỏi.

– Về lần phóng tàu. Tôi đã có… một cảm giác tồi tệ.

Một cảm giác tồi tệ. Casper chầm chậm ngồi xuống cạnh giường. Tất cả sự bực bội của anh đột nhiên tan biến. Sự sợ hãi không phải là điều một người sẵn sàng thú nhận. Sự thật là Sullivan, người thường xuyên đối diện với hỏng hóc, lại thú nhận là anh sợ hãi. Và điều đó khiến Casper run rẩy.

Cuối cùng, Sully nói.

– Các anh không cần tôi để phóng tàu nữa.

– Họ đã mong nhìn thấy một phi công ngồi trong buồng lái đó.

– Anh hãy đặt một con khỉ chết tiệt vào chỗ ngồi của tôi và họ sẽ không biết sự khác biệt. Con tàu không cần một phi công, thưa thuyền trưởng. Anh có thể kết nối để truyền lệnh lên từ mặt đất.

Casper thở dài. Giờ họ không còn lựa chọn nào khác, đó sẽ là chuyến bay không người lái. Rõ ràng họ có lý do chính đáng để không đưa Sully lên, nhưng các nhà đầu tư có đồng ý không? Hay thay vào đó họ sẽ tin là tàu Apogee đã đứt dây thần kinh? Và nó không đủ tự tin để liều một mạng người?

– Tôi nghĩ tôi đã mất trí rồi.

– Sully nói khẽ. – Đêm qua tôi đã đi uống rượu. Tôi đã không thể dừng…

Casper hiểu nỗi sợ của bạn anh. – theo cách anh hiểu một thất bại có thể dẫn đến một thất bại chắc chắn khác và rồi một cái khác nữa cho đến khi chỉ còn một điều chắc chắn là mạng sống của một người bị cướp mất. Không ngạc nhiên khi Sully sợ hãi, anh ấy đã mất niềm tin vào giấc mơ của mình và vào tàu Apogee.

Có thể tất cả bọn họ cũng vậy.

Casper nói.

– Chúng ta vẫn có thể tiến hành phóng tàu lần này, thậm chí là không có con khỉ nào trong buồng lái.

– Đúng vậy. Anh có thể đưa Bridget lên thay thế.

– Vậy thì ai sẽ trả lời điện thoại?

– Con khỉ.

Cả hai đều cười. Họ như hai người lính già đang cười trên bờ vực thất bại.

– Vậy chúng ta sẽ làm chứ? – Sully hỏi. – Chúng ta sẽ phóng tàu chứ?

– Đó là tất cả lý do của việc chế tạo tên lửa.

– Đúng vậy. – Sully thở dài và bóng ma đa cảm lại trở về với anh. – Hãy làm thật tốt! Hãy bật hết đèn nhấp nháy. Một bà mẹ với bữa tiệc sâm banh.

– Tệ thật! Hãy mời ông anh trai thánh thần của tôi và các bạn ở NASA của anh ấy. Nếu con tàu nổ tung trên bệ phóng thì ít ra chúng ta cũng làm được một việc hợp phong cách.

– Đúng vậy. Chúng ta đã quá thừa phong cách rồi.

Họ cười lớn.

Casper đứng dậy bỏ đi.

– Mau khỏe nhé, Sully! – Anh nói với theo. – Chúng tôi cần anh cho nhiệm vụ tàu Apogee II.

Anh thấy Bridget vẫn đứng trong phòng chờ dành cho khách đến thăm.

– Giờ thì sao? – cô hỏi.

– Chúng ta sẽ phóng tàu như kế hoạch.

– Không có người lái ư?

Anh gật đầu.

– Chúng ta sẽ lái tàu từ phòng điều hành.

Anh ngạc nhiên khi cô thở phào nhẹ nhõm.

– Tạ ơn Chúa!

– Cô vui vì điều gì vậy? Anh chàng của chúng ta đang nằm bẹp trên giường bệnh đấy.

– Đúng thế. – cô vắt ví lên vai, quay đi. – Điều đó nghĩa là anh ấy sẽ không leo lên thứ chết tiệt đó.

Ngày 11 tháng 8

Nicolai Rudenko lơ lửng trong khoang chặn khí và xem Luther lắc hông cho vừa vào phần dưới của bộ quần áo đi bộ trong không gian. So với Nicolai nhỏ bé, Luther là một gã khổng lồ thật sự với đôi vai rộng và chân như hai pít-tông. Và nước da của anh! Trong khi Nicolai đã nhợt nhạt sau nhiều tháng trên Trạm vũ trụ quốc tế thì Luther vẫn có nước da nâu đậm, nó tương phản đáng ngạc nhiên với những khuôn mặt tái nhợt vì sống trong môi trường không có màu sắc. Nicolai đã mặc xong quần áo và bay đến gần Luther, sẵn sàng giúp bạn mình mặc xong bộ quần áo để bước ra ngoài không gian. Họ nói chuyện rất ít, không ai có tâm trạng nói chuyện phiếm lúc này.

Hai người đàn ông đó đã không nói chuyện gì với nhau khi ngủ trong khoang chặn khí để cơ thể họ thích nghi với áp lực không khí thấp hơn mức mười phẩy hai pao trên một in-sơ. – chỉ bằng hai phần ba áp suất trong tàu vũ trụ. Áp suất trong bộ quần áo của họ thậm chí còn thấp hơn, ở mức bốn phẩy ba. Những bộ quần áo không thể được bơm phồng hơn được, nếu không chân tay sẽ rất cứng và lóng ngóng, các khớp nối sẽ kém linh động. Việc di chuyển trực tiếp từ một tàu không gian được nén đầy áp suất sang môi trường bên ngoài không khí loãng hơn trong bộ quần áo đi bộ ngoài vũ trụ, giống hệt việc lao lên quá nhanh từ đáy biển. Phi hành gia có thể chịu đựng được bệnh ép khí. Các bóng khí ni-tơ sẽ hình thành trong máu, làm tắc nghẽn các mao dẫn và cắt đứt nguồn ô-xi quý giá truyền lên não và dây cột sống. Hậu quả sẽ rất khủng khiếp: bị bại liệt và sốc. Như các thợ lăn sâu dưới biển, các phi hành gia cần thêm thời gian để thích nghi với sự thay đổi áp suất. Đêm trước khi bước ra ngoài không gian, nhóm mặc quần áo ra ngoài vũ trụ phải làm sạch phổi bằng một trăm phần trăm khí ô-xi và nhốt mình vào phòng chặn khí để “đi cắm trại bên ngoài”. Trong nhiều giờ, họ bị nhốt trong một căn phòng chất đầy thiết bị. Đó không phải là nơi cho căn bệnh sợ giam giữ.

Tay vươn lên trên, Luther cố nhét tay vào phần trên bộ quần áo được treo trên tường trong phòng khóa khí. Đó là một vũ điệu rất mệt mỏi như thể anh đang luồn lách vào một đường hầm nhỏ không thể vào được. Cuối cùng, đầu anh thò ra khỏi chỗ chui đầu và Nicolai giúp anh đóng đai ở phần eo, gắn chặt hai phần của bộ quần áo.

Họ đội mũ bảo hiểm lên. Khi Nicolai nhìn xuống để đội mũ bảo hiểm, anh để ý thấy thứ gì đó lấp lánh ở mép vòng cổ bộ quần áo của mình. Chỉ là một giọt nước, anh nghĩ rồi đóng khóa lại. Họ đeo găng tay. Khi đã mặc xong bộ quần áo, họ mở cánh cửa khóa phòng thiết bị và bay vào phòng bên cạnh, đóng cánh cửa phía sau lại. Giờ họ ở trong một khoang thậm chí còn nhỏ hơn và hầu như không đủ để chứa hai người cùng gói đồ trên lưng rất to của họ.

Tiếp theo sẽ là ba mươi phút “trước khi thở”. Trong khi được hít khí ô-xi nguyên chất và đẩy hết khí ni-tơ ra khỏi máu, Nicolai nhắm mắt và lơ lửng, chuẩn bị tinh thần cho việc đi bộ ngoài vũ trụ sắp đến. Nếu họ không thể lấy khớp các-đăng để mở khóa, nếu họ không thể xoay lại các tấm năng lượng về phía mặt trời thì họ sẽ cạn năng lượng và bị tê liệt. Việc mà Nicolai và Luther sắp thực hiện trong vòng sáu giờ tới sẽ quyết định sống còn đến số phận của Trạm vũ trụ.

Mặc dù nhiệm vụ đè nặng lên đôi vai đã rã rời nhưng Nicolai rất nóng lòng muốn mở cánh cửa và bay ra khỏi phòng khóa khí. Mặc bộ quần áo đi ngoài vũ trụ như thể được tái sinh, bào thai xuất hiện từ cánh cửa nhỏ và chật chội, đường dây rốn kéo dài khi họ bơi ra ngoài không gian mênh mông. Nếu tình hình không quá ảm đạm, anh sẽ mong đợi điều đó, sẽ khao khát sự tự do được bay ra ngoài vũ trụ không có những bức tường và trái đất kỳ diệu màu xanh dương đang xoay bên dưới anh.

Nhưng khi anh nhắm mắt chờ ba mươi phút nữa trôi qua, những hình ảnh xuất hiện trong tâm trí anh không phải là các hình ảnh về việc đi trong vũ trụ. Thay vào đó, những gì anh nhìn thấy là khuôn mặt của những người đã chết. Anh tưởng tượng ra tàu Discovery khi nó lộn trong không trung. Anh thấy cả phi hành đoàn bị buộc chặt trong ghế của họ, cơ thể họ bị lắc như những con búp bê, xương cột sống bị gãy gập, tim nổ tung. Mặc dù phòng điều hành bay không cho họ biết chi tiết của thảm họa nhưng các hình ảnh ác mộng đầy trong đầu anh, nó khiến tim anh đập mạnh và miệng khô rát.

– Ba mươi phút cho các bạn đã hết. – Emma nói qua điện đàm. – Đã đến lúc hạ áp.

Tay nhớp mồ hôi, Nicolai mở mắt và thấy Luther đã bắt đầu bơm giảm áp suất. Không khí bị hút ra ngoài, áp suất trong phòng hạ đột ngột. Nếu có chỗ rách trên bộ quần áo của họ thì họ sẽ phát hiện ra.

– Được chứ? – Luther kiểm tra khóa đóng trên dây nối vào bụng của họ.

– Tôi đã sẵn sàng!

Luther mở khóa phòng thông ra vũ trụ rồi thả tay cầm và mở cánh cửa.

Luồng không khí cuối cùng thoát ra.

Họ dừng lại một lúc, bám chặt lấy một mặt của cánh cửa và kinh ngạc nhìn ra ngoài. Rồi Nicolai bay vào màn đêm mênh mông của vũ trụ.

– Giờ họ đang ra ngoài. – Emma nói và nhìn màn hình khép kín khi hai người đàn ông ra khỏi phòng khóa khí, dây buộc bụng lơ lửng ngay sau họ. Họ tháo các dụng cụ khỏi hộp chứa bên ngoài phòng khóa khí. Sau đó họ di chuyển từ tay cầm này sang tay cầm khác và di chuyển về phía mái dàn chính. Khi họ đi qua máy quay được đặt ngay dưới giàn chính, Luther vẫy tay.

– Các bạn có xem màn trình diễn không? – Anh nói trên hệ thống sóng đài UHF.

– Chúng tôi thấy các bạn rất rõ ở máy quay phụ. – Griggs nói. – Nhưng các máy quay trên bộ quần áo của các bạn không truyền về.

– Của Nicolai cũng vậy à?

– Không cái nào cả. Chúng tôi sẽ cố tìm sự cố.

– Được, chúng tôi sẽ đi tới giàn chính để kiểm tra thiệt hại.

Hai người ra khỏi phạm vi máy quay đầu tiên. Họ biến mất khỏi màn hình một lúc. Rồi Griggs nói.

– Họ kia rồi! – Anh chỉ lên màn hình mới, trong đó hai người đàn ông đang đi về phía máy quay số hai, họ nắm tay nhau đi đến đỉnh giàn chính. Họ lại ra khỏi phạm vi máy quay. Giờ họ đã vào khu vực mù, tức là máy quay đã bị hỏng và không ai nhìn thấy họ nữa.

– Sắp đến chưa, các bạn? – Emma hỏi.

– Sắp đến rồi. – Luther nói. Có vẻ anh bị hết hơi. Chậm lại, cô nghĩ. Hãy giữ đúng tốc độ.

Đó dường như là thời gian chờ đợi vô tận, đội ra ngoài không gian hoàn toàn im lặng, Emma thấy mạch cô đập nhanh hơn, sự lo lắng tăng lên. Trạm đã bị tê liệt và thiếu năng lượng. Các việc sửa chữa này không được phép sai sót. Giá như Jack có ở đây, cô nghĩ. Anh là một thợ hàn tài năng và có thể tái tạo lại bất cứ máy móc nào trên tàu hay tập hợp lại các sóng đài ngắn từ các mẩu thừa. Khi bay quanh quỹ đạo, các công cụ đáng quý nhất là đôi bàn tay khéo léo.

– Luther! – Griggs gọi.

Không ai trả lời.

– Nicolai! Luther! Hãy trả lời!

– Tệ thật! – Luther nói.

– Có chuyện gì! Anh thấy gì? – Griggs hỏi dồn.

– Ngay lúc này tôi đang nhìn thấy chỗ hỏng. Toàn bộ mảng số sáu của giàn chính đã bị méo. Tàu Discovery chắc chắn đã va vào tấm số hai và bẻ cong phẩn cuối bên phải. Sau đó nó văng ra và làm gẫy các ăng ten ở dải băng S.

– Anh nghĩ sao? Anh sửa được chứ?

– Dải băng S thì không thành vấn đề. Chúng ta có bộ phận thay thế dùng trên quỹ đạo cho các ăng ten nên chúng ta sẽ thay thế chúng. Nhưng các tấm mặt trời ở bên trái thì phải bỏ đi. Chúng ta cần một giàn mới ở phần cuối.

– Được rồi. – Griggs xoa mặt khó chịu. – Được rồi, vậy thì chắc chắn chúng ta đã mất một máy ảo chạy đồng hành. Tôi nghĩ chúng ta có thể xử lý việc đó. Nhưng chúng ta cần chỉnh lại giàn P-4, nếu không chúng ta sẽ gặp rắc rối to.

Họ dừng lại khi Luther và Nicolai đi về cuối tấm bảng năng lượng chính. Rồi họ đột ngột xuất hiện trên màn hình, Emma thấy họ di chuyển chậm trong bộ quần áo phồng to và ba lô rất nặng. Trông họ như những thợ lặn đang đi dưới nước. Họ dừng lại ở dàn P-4. Một người đi sang bên dàn chính và xem kỹ cơ chế gắn các tấm mặt trời khổng lồ vào khung chính của giàn mặt trời.

– Các khớp các-đăng đã bị bẻ cong hàng loạt. – Nicolai nói. – Nó không xoay được.

– Anh tháo nó ra được không? – Griggs nói.

Họ nghe thấy Luther và Nicolai trao đổi gì đó rất nhanh. Rồi Luther nói.

– Anh muốn việc sửa chữa này cẩn thận mức nào?

– Bằng bất cứ giá nào. Chúng ta cần năng lượng gấp, nếu không chúng ta sẽ rắc rối to đấy các bạn.

– Tôi nghĩ chúng ta có thể thử phương án tiếp cận phần thân.

Emma nhìn Griggs.

– Đó có đúng là điều tôi đang nghĩ không?

Luther trả lời.

– Chúng ta sẽ dùng búa đập cho phần này về hình dạng cũ.

Anh ấy còn sống.

Qua ô cửa, bác sĩ Isaac Roman quan sát người đồng nghiệp không may của mình. Anh vẫn ngồi trên giường bệnh xem ti-vi. Thật khó tin đó là anh ấy xem phim hoạt hình trên kênh Nickelodeon. Anh chăm chú nhìn màn hình một cách vô vọng. Anh còn không thèm nhìn cô y tá mặc đồ vũ trụ đang vào phòng để thay khăn ăn trưa mà anh chưa động đến.

Roman ấn nút điện đàm.

– Hôm nay anh thế nào, Nathan?

Bác sĩ Nathan Helsinger ngạc nhiên quay về phía ô cửa. Lần đầu tiên anh để ý thấy bác sĩ Roman đứng bên kia ô cửa.

– Tôi ổn. Tôi thấy hoàn toàn khỏe mạnh.

– Anh không có bất cứ biểu hiện gì sao?

– Tôi đã nói với anh rồi. Tôi ổn!

Roman nhìn anh một lúc. Trông anh ấy vẫn khỏe nhưng mặt anh tái xanh và căng thẳng, thậm chí có vẻ sợ hãi.

– Khi nào tôi không bị cách ly nữa? – Helsinger hỏi.

– Mới được ba mươi sáu tiếng.

– Các phi hành gia có biểu hiện chỉ trong mười tám tiếng.

– Đó là trong môi trường trọng lực siêu nhỏ. Chúng ta không biết sẽ có chuyện gì khi ở đây và chúng ta không thể bất cẩn. Anh biết điều đó mà.

Helsinger lập tức lại quay về phía ti-vi, nhưng trước đó Roman đã nhìn thấy anh khóc.

– Hôm nay là sinh nhật con gái tôi.

– Chúng tôi đã gửi một món quà đề tên anh. Vợ anh đã được thông báo là anh không thể về được và anh đang trên chuyến bay đến Kenya.

Helsinger cười cay đắng.

– Anh buộc các nút thắt rất tài đúng không? Nếu tôi chết thì sao? Anh sẽ nói gì với cô ấy?

– Rằng việc đó xảy ra ở Kenya.

– Tôi nghĩ đó là nơi tốt nhất. – Anh thở dài. – Vậy anh đưa cho nó cái gì?

– Con gái anh à? Tôi tin đó là một búp bê Barbie.

– Đó chính là thứ nó muốn. Sao anh biết?

Điện thoại của Roman reo.

– Tôi sẽ quay lại kiểm tra anh sau. – Anh ta nói rồi quay về phía cửa trả lời điện thoại.

– Bác sĩ Roman, Carlos đây. Chúng tôi đã có kết quả ADN. Anh nên đến xem.

– Tôi sẽ đến ngay.

Anh thấy bác sĩ Carlos Mixtal ngồi trước máy tính phòng thí nghiệm. Các dữ liệu đang liên tục chạy dọc màn hình.

GTGATTAAAGTGGTTAAAGTTGCTCATGGTGATTAAGTGGTTAAAGTTTACTCATGGATTAAGTGGTTAAAGTTTACTCATGGGTGATTAAGTGGTTAAAGTTTACTCATGGGTGATTAAGTGGTTAAAGTTTACTCATGGCTCTCT…

Các dữ liệu chỉ có bốn chữ cái: G, T, A và C. Đó là chuỗi nucleotit. Mỗi chữ cái tượng trưng cho các đơn vị cấu tạo nên ADN, đó là sơ đồ của mỗi cơ thể sống.

Carlos quay lại khi nghe thấy bước chân của Roman và khuôn mặt anh lộ rõ vẻ sợ hãi. Giống hệt Helsinger, Roman nghĩ. Mọi người đều sợ hãi.

Roman ngồi xuống cạnh anh.

– Cái gì vậy? – Anh hỏi và chỉ lên màn hình.

– Nó được trích từ cơ thể đã tấn công Kenichi Hirai. Chúng tôi đã lấy nó từ những gì còn lại mà chúng tôi… cạo được từ các vách ngăn trên tàu Discovery.

Những gì còn lại là một từ rất phù hợp cho những gì còn sót lại của thi thể Hirai. Các búi cơ rối tung bắn tung tóe khắp các bức vách trên tàu.

– Phần lớn các ADN vẫn chưa xác định được. Chúng tôi không biết nó biểu hiện loại động vật nào. Nhưng từ chuỗi trên màn hình có thể xác định được. Đó là mẫu gen của coenzim số F420.

– Nó là cái gì vậy?

– Đó là loại enzim đặc trưng từ thời cổ đại.

Roman ngồi lui về phía sau và thấy hơi chóng mặt.

– Vậy điều đó đã được khẳng định. – Anh lẩm bẩm.

– Đúng vậy. Cơ thể này chắc chắn thuộc loại vi khuẩn thời cổ đại. – Carlos dừng lại. – Tôi e là tôi có tin xấu.

– Anh nói gì? “tin xấu” à? Như vậy chưa đủ tồi tệ hay sao?

Carlos gõ lên bàn phím và chuỗi nucleotit hiện lên thành từng đoạn khác nhau.

– Đây là chuỗi gen khác mà chúng tôi phát hiện được. Đầu tiên tôi nghĩ có sự nhầm lẫn nào đó nhưng tôi đã xác định được điều đó.

– Gì cơ?

– Đúng vậy! Chúa mới biết làm cách nào nó đã lấy được gen của loài ếch đó. Giờ mới đến điểm khiến mọi chuyện thực sự đáng sợ. – Carlos cuộn xuống một đoạn gen khác. – Đây là một chuỗi gen khác đã được xác định.

Roman thấy lạnh sống lưng.

– Đó là mẫu gen gì?

– Mẫu ADN này chỉ có ở giống Mus musculis. Đó là một loại chuột phổ biến.

Roman nhìn anh chằm chằm.

– Không thể có chuyện đó!

– Tôi đã xác minh điều đó. Dạng sống này đã bằng cách nào đó kết hợp mẫu ADN của động vật có vú vào mẫu gen của nó. Nó đã được bổ sung các khả năng enzim mới. Nó đang thay đổi và đang tiến hóa.

Thành cái gì? Roman tự hỏi.

– Còn nữa. – Carlos lại gõ bàn phím và một chuỗi nucleotit mới hiện lên màn hình.

– Chuỗi này cũng không xuất hiện từ thời cổ đại.

– Vậy nó là gì? Không phải là ADN của chuột à?

– Không. Đoạn ADN này là của người.

Roman thấy lạnh toàn thân và dựng tóc gáy. Anh run rẩy nhấc điện thoại.

– Hãy nối cho tôi số Nhà Trắng. – Anh nói. – Tôi cần nói chuyện với ông Jared Profitt.

Điện thoại của anh được trả lời ngay khi gọi lần hai.

– Profitt đây.

– Chúng tôi đã phân tích mẫu ADN. – Roman nói.

– Và?

– Tình hình còn tệ hơn chúng ta nghĩ.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.