Titanic - Trong Vũ Trụ

Chương 19



CHIMERA

MƯỜI CHÍN

Ngày 13 tháng 8

Họ tập trung ở nhà Jack khi đó trời đã sáng. Họ không dám họp ở Trung tâm vũ trụ Johnson, ở đó chắc chắn họ sẽ bị chú ý nhiều nhất. Tất cả bọn họ đều sửng sốt khi quyền điều hành của NASA bị chiếm đoạt và họ không biết phải làm gì tiếp theo. Đây là một vụ bê bối mà họ không dự tính đến, không có kế hoạch dự phòng. Jack chỉ mời một số người đến, tất cả bọn họ đều là nhân viên cốt cán của NASA: Todd Cutler, Gordon Obie, giám đốc điều hành bay Woody Ellis, Randy Carpenter và Liz Gianni từ Ban giám đốc các chuyến hàng.

Chuông cửa reo, tất cả đều căng thẳng.

– Anh ấy đã đến. – Jack nói và ra mở cửa.

Bác sĩ Eli Petrovitch đến từ Ban giám đốc về Khoa học sự sống của NASA bước vào, mang theo một hộp đựng máy tính xách tay. Anh là người gầy gò và yếu ớt, trong vòng hai năm qua anh đã chống chọi với bệnh máu trắng. Rõ ràng anh đã thua cuộc chiến đó. Tóc anh đã rụng gần hết và chỉ còn lại vài sợi lơ thơ. Da anh trông như giấy da đã ngả vàng, phủ lên những đốt xương lồi ra trên mặt. Nhưng trong ánh mắt anh ánh lên vẻ thích thú và nó sáng lên do sự tò mò về khoa học.

– Chúng ta lấy được nó không? – Jack hỏi.

Petrovitch gật đầu và vỗ vào va li. Trên khuôn mặt xương xẩu đó, nụ cười hiện lên trông như ma hiện hình.

– Viên nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đã đồng ý chia sẻ chút dữ liệu.

– Một chút à?

– Không phải tất cả. Phần lớn gen đã được xác định. Chúng ta chỉ được đưa một đoạn gen với các chỗ hổng lớn. Họ cho chúng ta đủ bằng chứng để chứng minh tình hình rất nguy cấp. – Anh đem máy tính đến bàn trong phòng ăn và mở nó ra. Khi mọi người đã tụ tập đông đủ xung quanh để xem, Petrovitch khởi động máy tính, rồi cho đĩa mềm vào.

Các dữ liệu bắt đầu cuộn xuống, từng dòng một như các chữ cái ngẫu nhiên chạy xuống trên màn hình. Đó không phải là văn bản, các chữ cái này không nói ra từ, mà là các mật mã. Bốn chữ cái giống nhau cứ xuất hiện lặp lại nhiều lần theo một chuỗi thay đổi: A, T, G và C. Chúng tượng trưng cho các nucleotit adenine, timin, guanine và sitonin. Đó là các viên gạch tạo nên ADN. Chuỗi các chữ cái này là bộ gen, là cấu trúc hóa học của mỗi cơ thể sống.

– Đây là Chimera của họ. – Petrovitch nói. – Đó là sinh vật đã giết chết Kenichi Hirai.

– “ky-mir-ra” mà tôi nghe từ nãy đến giờ là cái gì vậy? – Randy Carpenter hỏi. – Vì những kỹ sư ngu dốt như chúng tôi, anh có thể giải thích nó không?

– Được thôi. – Petrovitch nói. – Các bạn không cần phải cảm thấy mình ngu dốt. Đó là thuật ngữ không được dùng nhiều bên ngoài giới sinh học phân tử. Từ đó có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Chimera là một quái vật trong thần thoại, được đồn là bất bại. Đó là sinh vật hít lửa, đầu sư tử, mình dê và đuôi rắn. Cuối cùng nó bị người anh hùng tên là Bellerophon giết chết. Cuộc chiến đó không hẳn công bằng vì anh ấy đã ăn gian. Anh ấy đã cưỡi Pegasus, con ngựa có cánh và bắn tên vào Chimera từ bên trên.

– Câu chuyện thần thoại đó khá thú vị. – Carpenter nôn nóng ngắt lời. – Nhưng điều đó có liên quan gì?

– Quái vật Chimera của Hy Lạp là một sinh vật kỳ lạ được tạo thành từ ba loài vật khác nhau. Sư tử, dê và rắn, tất cả đã kết hợp thành một con. Và đó chính là điều chúng ta sắp thấy ở đây, trong nhiễm sắc thể này. Đây là con quái vật Chimera sinh học mà ADN của nó được lấy từ ít nhất ba loài vật khác không hề liên quan tới nhau.

– Anh có thể xác định các sinh vật đó không? – Carpenter sốt ruột hỏi.

Petrovitch gật đầu.

– Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học khắp thế giới đã tích lũy được một thư viện các chuỗi gen của nhiều động vật khác nhau, từ vi rút đến con voi. Nhưng việc thu thập các dữ liệu này là công việc chậm chạp và vất vả. Phải mất hàng chục năm để phân tích bộ gen của con người. Vậy các bạn có thể tưởng tượng có một số loài vẫn chưa được đưa vào chuỗi đó. Phần lớn bộ gen của Chimera này vẫn chưa được xác định, chúng không có trong thư viện đó. Nhưng đây là những gì đến nay chúng ta đã biết.

Anh gõ lên biểu tượng “khớp với các loài”.

Màn hình hiện lên dòng chữ:

Mus musculis ( một loại chuột phổ biến)

Rana pipiens (loài ếch đốm phía bắc)

Homo sapiens

– Cơ thể sống này một phần là chuột, một phần là loài lưỡng cư. Và một phần là con người. – Anh dừng lại. – Nói tóm lại. – Anh nói tiếp. – đây là kẻ thù của chính chúng ta.

Cả căn phòng đột nhiên im lặng.

– Mẫu gen của chúng ta là cái nào trong chuỗi nhiễm sắc thể đó? – Jack khẽ hỏi. – Phần nào của Chimera là của con người?

– Đó là câu hỏi rất hay. – Petrovitch nói và gật đầu tán thành. – Nó xứng đáng với một câu trả lời thú vị. Anh và bác sĩ Cutler sẽ nhận ra ý nghĩa của chuỗi gen này. – Anh gõ lên bàn phím.

Màn hình hiện lên dòng chữ:

Amylase

Lipase

Phospholipase A

Trypsin

Chymotrysin

Elastase

Enterokinase

– Lạy Chúa! – Todd Cutler lẩm bẩm.

– Đây là các enzim tiêu hóa.

Các cơ thể này ưu tiên trước hết cho việc tiêu diệt động vật chủ, Jack nghĩ. Nó sử dụng các enzim này để tiêu hóa chúng ta từ bên trong, làm tiêu hao các cơ bắp, nội tạng và các mô liên kết, khiến chúng không khác gì món súp.

– Jill Hewitt. – cô ấy đã nói với chúng tôi là cơ thể của Hirai đã bị phân hủy. – Randy Carpenter nói. – Tôi nghĩ lúc đó cô ấy bị ảo giác.

Jack đột ngột nói.

– Đây chắc chắn là sinh vật được thiết kế về mặt sinh học! Ai đó đã tạo ra nó trong phòng thí nghiệm, lấy vi khuẩn hay vi rút, rồi cấy nó vào gen của các động vật khác để tạo nên cỗ máy giết người hiệu quả hơn.

– Nhưng vi khuẩn nào? Loại virut nào? – Petrovitch nói. – Đó là một bí mật. Nếu không có thêm đoạn gen để kiểm tra, chúng ta sẽ không thể xác định chúng bắt nguồn từ loài nào. Viên nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm không chịu đưa cho chúng ta các phần quan trọng của nhiễm sắc thể này, phần xác định được sinh vật giết người này. – Anh nhìn Jack. – Anh là người duy nhất đã nhìn thấy việc nghiên cứu căn bệnh này trong lúc khám nghiệm tử thi.

– Tôi chỉ được nhìn thoáng qua. Họ lôi tôi ra khỏi phòng nhanh đến mức tôi không nhìn thấy gì. Thứ tôi thấy là một loại chất nhầy. Nó to bằng các viên ngọc trai, được bọc một lớp màu xanh lơ, pha xanh lá cây. Chúng ở trong ngực và bụng của Mercer, trong đầu của Jill Hewitt. Tôi chưa từng thấy thứ nào như vậy.

– Đó có thể là bọc sán không? – Petrovitch hỏi.

– Đó là cái gì vậy? – Woody cũng nóng lòng muốn biết.

– Đó là một căn bệnh gây ra ở giai đoạn ấu trùng của một loại giun ký sinh tên là echinococcus. Nó gây ra các bọc nước trong gan và phổi, hay bất cứ cơ quan nội tạng nào.

– Anh nghĩ đó có thể là một sinh vật ký sinh à?

Jack lắc đầu.

– Các bọc sán cần một thời gian rất lâu để phát triển, mất hàng năm, chứ không phải mấy ngày. Tôi nghĩ đó không phải là sinh vật ký sinh.

– Có thể đó không phải là bọc trứng. – Todd nhận định. – Có thể chúng là các bào tử, các cục nấm Aspergillus hayCruptococcus.

Liz Gianni đến từ ban quản lý các chuyến hàng cắt ngang.

– Cả phi hành đoàn đã báo cáo có vấn đề về nấm bị nhiễm bẩn. Một trong các mẻ thí nghiệm đã bị hủy vì chúng phát triển quá nhanh.

– Mẻ thí nghiệm nào? – Todd hỏi.

– Tôi đã phải tìm nó. Tôi nhớ đó là một trong các mẻ tế bào.

– Nhưng việc nhiễm khuẩn nấm đơn giản sẽ không gây ra những cái chết đó. – Petrovitch phân tích. – Hãy nhớ lại các tế bào nấm lơ lửng trong con tàu Mir và không ai chết vì nó. – Anh nhìn màn hình máy tính. – Bộ gen này cho chúng ta thấy ta đang đối mặt với một dạng sống hoàn toàn mới. Tôi đồng ý với Jack. Chắc chắn nó đã được nhân tạo.

– Vậy đây là vụ khủng bố sinh học. – Woody Ellis nói. – Ai đó đã ngầm phá hoại trạm của chúng ta. Chắc chắn họ đã gửi nó lên trên các chuyến hàng.

Liz Gianni giận dữ lắc đầu. Là người mạnh mẽ và luôn căng thẳng, bà luôn hiện diện rõ rệt trong các cuộc họp và giờ bà lên tiếng với thái độ chắc chắn.

– Mỗi chuyến hàng đã được kiểm tra an ninh. Chúng tôi có các báo cáo nguy hiểm và phân tích ba giai đoạn toàn bộ các thiết bị chứa. Hãy tin tôi! Chúng tôi sẽ không bỏ qua bất cứ thứ gì nguy hiểm như thế này.

– Giả sử bà biết nó nguy hiểm thì sao! – Ellis nói.

– Tất nhiên chúng tôi sẽ biết!

– Nếu an ninh bị rò rỉ thì sao? – Jack nhận định. – Nhiều chuyến thí nghiệm đến trực tiếp từ các nhà điều tra – bản thân họ cũng là các nhà khoa học. Chúng ta không biết sự an toàn của họ đạt tiêu chuẩn mức nào. Chúng ta không biết liệu họ có khủng bố trong phòng thí nghiệm của họ không. Nếu họ thay đổi mẫu thí nghiệm vào phút cuối thì chúng ta có biết được hay không?

Lần đầu tiên Liz trông có vẻ lưỡng lự.

– Điều đó… điều đó không thể nào.

– Nhưng nó có thể xảy ra.

Mặc dù không thừa nhận khả năng đó nhưng trong mắt bà lộ rõ vẻ băn khoăn.

– Chúng tôi sẽ điều tra từng nhà khoa học. – Bà nói. – Từng người đã gửi thí nghiệm nên Trạm vũ trụ. Nếu họ có sơ suất trong việc đảm bảo an ninh, tôi chắc chắn sẽ không bỏ qua chuyện này

Bà ấy rất có thể sẽ làm như vậy, Jack nghĩ. Như những người đàn ông khác trong phòng, anh sợ Liz Gianni.

– Còn một câu hỏi nữa chúng ta chưa đề cập đến. – Gordon Obie lên tiếng lần đầu tiên. Như mọi khi, ông là con Nhân sư, chỉ im lặng lắng nghe, lặng lẽ phân tích thông tin. – Câu hỏi là tại sao? Tại sao ai đó lại muốn ngầm phá hoại Trạm vũ trụ quốc tế? Đó có phải là kẻ có mối thâm thù với chúng ta hay không? Hay một kẻ điên rồ căm ghét các công nghệ hiện đại?

– Đó là thuật ngữ sinh học tương đương với từ “đánh bom công nghệ”. – Todd Cutler nói.

– Vậy thì tại sao hắn không cho sinh vật đó vào Trung tâm vũ trụ Johnson và phá hủy hoàn toàn các cơ sở vật chất của chúng ta? Điều đó sẽ dễ dàng hơn và có lý hơn.

– Ông không thể áp dụng điều đó với một kẻ điên. – Cutler phân tích.

– Anh có thể áp dụng điều đó với mọi loài người, kể cả những kẻ điên. – Gordon trả lời. – Miễn là anh biết cơ chế hoạt động của chúng. Đó chính là điều khiến tôi băn khoăn. Đó chính là lý do tôi tự hỏi chúng ta có thật sự đối đầu với phá hoại ngầm không.

– Vậy nó có thể là gì khác. – Jack hỏi. – nếu không phải là phá hoại ngầm?

– Có khả năng khác. Nó có thể là điều đáng sợ không kém. – Gordon nói và nhìn về phía Jack. – Một sai sót.

Bác sĩ Isaac Roman chạy dọc hành lang. Máy nhắn tin cảnh báo của anh ở thắt lưng kêu chói tai và cảnh báo trước điều anh sắp đối diện. Anh tắt nó đi, mở cửa dẫn vào phòng cách ly cấp độ bốn. Anh không vào phòng bệnh nhân và đứng an toàn ở bên ngoài, nhìn vào cảnh tượng hãi hùng mở ra sau cánh cửa phòng bệnh.

Máu bắn tung lên tường và đọng thành vũng trên sàn, chỗ bác sĩ Nathan Helsinger đang nằm. Hai y tá và một bác sĩ mặc bộ quần áo vũ trụ đang cố ngăn anh không tự làm thương mình. Nhưng cơn co giật của anh mạnh đến nỗi họ không thể giữ chặt anh được. Chân anh đá văng ra ngoài, một y tá đang bò và trượt trên sàn bê tông dính đầy máu.

Roman ấn nút bộ đàm.

– Áo của cô! Có bị rách không?

Cô y tá từ từ đứng lên và anh thấy cô ta hoảng sợ cực độ. Cô nhìn găng tay, tay áo rồi lỗ luồn ống bơm không khí vào trong bộ quần áo.

– Không. – cô nói như sắp khóc vì nhẹ nhõm. – Không có vết rách nào.

Máu bắn lên cửa sổ. Roman nhảy bật về phía sau khi một giọt máu tươi chảy trên mặt kính. Giờ Helsinger đang đập đầu xuống sàn, đốt sống của anh thả lỏng, rồi cứng đơ. Mặt anh sưng lên. Roman mới thấy tư thế kỳ lạ này một lần trước đây, khi một nạn nhân bị trúng độc stricnin, cơ thể anh ta gập cong về phía sau như bị đấm rất mạnh. Helsinger lại lên cơn co giật, đầu anh đập mạnh vào bê tông phía sau. Máu phụt lên kính che mặt của hai cô y tá.

– Lui ra! – Roman ra lệnh qua bộ đàm.

– Anh ấy đang hành hạ mình! – bác sĩ hét lên.

– Tôi không muốn có thêm người bị bệnh.

– Nếu chúng ta có thể kiểm soát cơn co giật đó…

– Các bạn không thể làm gì cứu anh ấy. Tôi muốn các bạn ra ngoài ngay lập tức, trước khi các bạn bị thương.

Hai y tá lưỡng lự lùi lại. Sau khi do dự một chút, vị bác sĩ cũng vậy. Họ đứng im lặng khi cảnh tượng hãi hùng đó tiếp tục ngay dưới chân họ.

Cơn co giật mới khiến đầu Helsinger giật mạnh về phía sau. Da đầu rách toạc như mảnh vải. Vũng máu giờ loang rộng ra như một vũng nước.

– Ôi, lạy Chúa, nhìn mắt anh ấy kìa! – một trong các y tá hét lên.

Hai con ngươi lồi ra ngoài như hai hòn bi khổng lồ sắp nhảy ra khỏi hốc. Chứng nổ cầu mắt, Roman nghĩ. Cầu mắt đẩy mạnh ra ngoài do áp lực bên trong, mí mắt bị phanh rộng và anh trợn trừng mắt.

Các cơn co giật vẫn tiếp tục, chúng rất khủng khiếp và đầu anh đập xuống sàn. Các mảnh xương văng lên và bám vào cửa sổ. Như thể anh đang cố đập tung hộp sọ của mình, thả hết những gì bị nhốt bên trong.

Lại một vết nứt khác. Lại có máu và xương bay vọt ra.

Đáng lẽ anh phải chết rồi. Tại sao anh vẫn sống?

Nhưng ngay cả một con gà bị chặt đầu vẫn tiếp tục co giật, giãy giụa và sự đau đớn quằn quại trước khi chết của Helsinger vẫn chưa hết. Đầu anh ngóc lên khỏi sàn nhà, xương sống uốn cong về phía trước như một chiếc lò xo uốn lại trước lực tác động quá mạnh trước khi bị bật mạnh lên. Cổ anh gãy gập về phía sau. Có tiếng rắc rồi hộp sọ vỡ đôi như quả trứng. Các mảnh xương vụn bay ra. Một khối chất màu xám bắn lên cửa sổ.

Roman há hốc miệng và lui về phía sau, cơn buồn nôn đã dâng lên cổ họng anh. Anh gục đầu xuống, cố kìm nén, vật lộn với bóng tối đang chực ập lên mắt anh.

Anh vã mồ hôi, run lẩy bẩy và cố nâng đầu lên để nhìn lại về phía cửa sổ.

Nathan Helsinger cuối cùng nằm im. Những gì còn lại trên đầu anh giờ ngập trong vũng máu. Có quá nhiều máu lúc đó nên Roman không tập thể tập trung vào thứ gì khác ngoài một vũng máu đỏ tươi. Rồi ánh mắt anh dừng lại trên mặt người chết, trên khối màu xanh lơ pha xanh lá cây đang bám vào, cựa quậy bò lên trán anh. Đó là các bọc nước.

Chimera.

Ngày 14 tháng 8

– Nicolai! Nicolai, xin hãy trả lời!

– Tai tôi, nó ở trong tai tôi.

– Anh đau à? Tai anh đau à? Nhìn tôi đi!

– Nó đang vào sâu hơn đấy! Lấy nó ra! Lấy….

Cố vấn khoa học thuộc Ủy ban An ninh Nhà Trắng Jared Profitt ấn nút tắt trên máy thu âm và nhìn những người đàn ông và phụ nữ đang ngồi quanh bàn. Tất cả bọn họ đều hoảng sợ.

– Chuyện xảy ra với Nicolai Rudenko không chỉ là tai nạn do hạ áp suất. – ông nói. – Điều đó giải thích các hành động của chúng tôi. Đó là lý do tôi đề nghị các vị dừng lại. Có quá nhiều nguy hiểm. Cho đến khi chúng ta hiểu được về sinh vật này. – nó sinh sản thế nào, nó có ảnh hưởng thế nào. – chúng ta không thể để các phi hành gia trở về trái đất.

Câu trả lời đó khiến tất cả đều im lặng. Ngay cả người quản lý của NASA Leroy Cornell, người chủ trì cuộc họp và giận dữ phản đối việc tiếp quản công ty của mình cũng ngồi im.

Chủ tịch là người đặt câu hỏi đầu tiên.

– Chúng ta biết gì về sinh vật này?

– Bác sĩ Isaac Roman từ Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm có thể trả lời rõ ràng hơn tôi. – Profitt nói và hất đầu về phía Roman, người lúc này không ngồi ở bàn, mà ở bên ngoài. Ở đó anh hầu như không được ai chú ý đến. Giờ anh đứng lên để mọi người nhìn rõ mình. Đó là người đàn ông cao lớn, nước da bánh mật và ánh mắt có vẻ mệt mỏi.

– Tôi e là tin tức không được tốt lắm. – Anh nói. – Chúng tôi đã tiêm Chimera vào một vài loài động vật có vú khác nhau bao gồm chó và khỉ nhện. Trong vòng chín mươi sáu giờ, tất cả đều chết. Tỷ lệ tử vong là một trăm phần trăm.

– Không có biện pháp điều trị sao? Không có cách nào có tác dụng sao? – Thư ký ủy ban an ninh hỏi.

– Không có cách nào. Điều đó đã đủ đáng sợ. Nhưng còn có tin đáng sợ hơn.

Cả căn phòng im phăng phắc và nỗi sợ hiện rõ trên mặt họ. Điều này có thể tồi tệ hơn thế nào?

– Chúng tôi đã phân tích lại chuỗi ADN của loạt trứng mới nhất được lấy từ một con khỉ đã chết. Chimera vẫn còn tiếp tục nhận thêm gen, đặc biệt là Ateles geoffroy, loài khỉ nhện.

Ngài tổng thống tái mặt. Ông nhìn Profitt.

– Điều này có đúng là điều tôi nghĩ không?

– Nó có sức tàn phá rất lớn. – Profitt nói. – Mỗi khi dạng sống này chuyển sang một cơ thể khác, mỗi khi nó tạo ra một thế hệ mới, dường như nó sẽ nhận thêm ADN. Nó có khả năng đi trước chúng ta mấy bước trong việc nhận thêm ADN và các khả năng mà trước đó nó không có.

– Tại sao nó có thể làm việc quái quỷ đó? – Tổng thư ký Moral của Hội đồng liên hiệp các thư ký nói. – Một sinh vật nhận thêm gen và không ngừng làm mới mình ư? Điều đó nghe thật vô lý!

Roman nói.

– Điều đó không hề vô lý, thưa ngài! Thực tế, có một quá trình tương tự cũng xảy ra trong tự nhiên. Các vi khuẩn thường dùng gen chung với nhau và trao đổi gen bằng cách sử dụng vi rút như những người đưa thư. Đó là cách chúng phát triển khả năng kháng vi khuẩn và bổ sung thêm ADN cho các nhiễm sắc thể. Như mọi vật khác trong tự nhiên, chúng sẽ sử dụng mọi vũ khí để tồn tại, để duy trì nòi giống. Đó chính là điều sinh vật này đang thực hiện. – Anh lại gần đầu bàn, ở đó có một bức ảnh phóng to của một electron soi bằng kính hiển vi đang được chiếu lên. – Các vị có thể thấy ở đây, trong bức ảnh chụp tế bào này, trông nó như các hạt nhỏ. Chúng là các khối vi rút trợ giúp. Đó là những tế bào vận chuyển đi vào cơ thể động vật chủ và lấy ADN của nó và mang các mảnh, các mẩu gen về cho Chimera. Khi nhận thêm gen mới, các vũ khí mới được chất thêm vào kho đạn dược của nó. – Roman nhìn ngài tổng thống. – Cơ thể này được trang bị các thiết bị mới để tồn tại trong bất cứ điều kiện môi trường nào. Tất cả những gì nó cần là lấy mất ADN của động vật chủ.

Ngài Tổng thống có vẻ không khỏe.

– Vậy nó vẫn đang thay đổi, đang tiến hóa.

Có những tiếng xì xào ở khắp bàn, những ánh mắt sợ hãi và ghế kêu cót két.

– Còn bác sĩ bị nhiễm bệnh thì sao? – một phụ nữ đến từ Lầu Năm Góc hỏi. – Nhân viên của Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đã bị cách ly cấp độ 4 đó? Anh ta còn sống chứ?

Roman ngừng lại và mắt anh lộ vẻ đau đớn.

– Bác sĩ Helsinger đã chết đêm qua. Tôi đã tận mắt thấy những phút cuối cùng và đó là… một cái chết đáng sợ. Anh ấy bắt đầu tự hành hạ mình mạnh đến nỗi chúng tôi không dám ngăn anh ấy lại vì sợ áo bảo vệ của ai đó sẽ bị rách và sẽ bị nhiễm bệnh. Đó là những cơn co giật tôi chưa từng thấy. Như thể mỗi tế bào não của anh ấy bị đốt cháy cùng một lúc trong một luồng điện cực mạnh. Anh ấy giật tung thanh chắn giường, giật tung nó khỏi khung giường, cuộn tròn đống nệm lại và bắt đầu đập đầu xuống sàn nhà. Anh ấy đập quá mạnh, chúng tôi…. – Roman nuốt nước bọt. – Chúng tôi còn nghe thấy tiếng hộp sọ anh ấy vỡ. Khi đó máu bắn tung tóe khắp nơi. Anh ấy liên tục đập đầu xuống sàn, như thể cố đập cho nó nổ tung, cố giải phóng hết áp suất bên trong. Vết thương đó chỉ khiến mọi việc tồi tệ hơn vì anh ấy bắt đầu bị chảy máu trong não. Cuối cùng, khí áp bên trong quá lớn, nó làm mắt anh ấy lồi khỏi tròng mắt, như một bệnh nhân trong phim hoạt hình, như một con vật các vị thấy bị nghiến trên đường. – Anh hít một hơi dài và nói khẽ. – Đó là sự việc cuối cùng.

– Giờ các vị đã hiểu dịch bệnh có thể chúng ta đang đối mặt. – Profitt nói. – Đây là lý do tại sao chúng ta không thể mềm lòng, bất cẩn hay động lòng.

Cả phòng im lặng rất lâu: Ai cũng nhìn Tổng thống. Họ đang chờ, đang hy vọng một quyết định dứt khoát.

Nhưng ngài Tổng thống quay ghế về phía cửa sổ và nhìn ra ngoài.

– Tôi đã từng muốn là một nhà du hành vũ trụ. – ông buồn bã nói.

Không phải tất cả chúng ta đều muốn sao? Profitt nghĩ. Bất kỳ đứa trẻ ở đất nước nào mà không mơ được lái tên lửa bay vào vũ trụ?

– Tôi đã có mặt ở đó khi họ đưa John Glenn lên tàu con thoi. – Tổng thống nói. – Và tôi đã khóc. Như mọi người khác, thật nực cười, nhưng tôi đã khóc như một đứa trẻ. Vì tôi tự hào về anh ấy, về đất nước này, và vì tôi là một phần của loài người. – ông dừng lại, hít thật sâu, rồi lấy tay lau nước mắt. – Làm sao tôi có thể để những người đó chết được?

Profitt và Roman nhìn nhau buồn bã.

– Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác, thưa ngài. – Profitt nói. – Đó là năm mạng sống mà Chúa đã để họ đối chọi với không biết bao nhiêu người trên trái đất.

– Họ là những anh hùng. Với Chúa họ là những anh hùng thực sự. Và chúng ta sẽ để họ chết trên đó.

– Có nhiều khả năng như vậy, thưa Tổng thống, dù sao thì chúng ta cũng không thể cứu họ. – Roman nói. – Tất cả bọn họ có lẽ đã bị nhiễm bệnh, hoặc họ sẽ sớm bị nhiễm bệnh.

– Vậy thì vài người trong số họ có thể không bị nhiễm bệnh thì sao?

– Chúng ta không biết. Chúng ta biết Rudenko chắc chắn đã bị. Chúng tôi tin anh ấy đã tiếp xúc bệnh khi mặc bộ đồ đi bộ ngoài vũ trụ. Nếu ngài còn nhớ thì phi hành gia Hirai đã được tìm thấy khi đang lên cơn co giật trong khoang đựng thiết bị cách đây mười ngày. Điều đó giải thích tại sao bộ quần áo đó đã bị ô nhiễm.

– Tại sao những người khác không bị bệnh? Tại sao chỉ có Rudenko?

– Các nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sinh vật này cần có thời gian ủ bệnh trước khi nó đạt đến giai đoạn phát tác. Chúng tôi nghĩ đó là giai đoạn dễ lây nhất cho đến khi con chủ chết, hoặc sau đó, nó sẽ được giải phóng ra khỏi cái xác. Nhưng chúng ta vẫn chưa chắc chắn. Chúng ta không thể phạm sai lầm. Chúng ta phải cho rằng tất cả bọn họ đều đã mang mầm bệnh.

– Vậy thì hãy cách ly họ cấp độ bốn cho tới khi các vị biết. Nhưng ít ra thì hãy đưa họ trở về trái đất.

– Thưa ngài, đó chính là nguồn gốc của mọi hiểm họa. – Profitt nói. – Nếu chúng ta chỉ cần đưa họ trở về. Phương tiện di dời khẩn cấp không giống tàu con thoi mà chúng ta thường điều khiển nó hạ cánh xuống một địa điểm nhất định. Họ sẽ trở về trong một phương tiện mất kiểm soát hơn nhiều lần. – đó chỉ là một cái kén được gắn thêm mấy cái dù. Nếu có chuyện rắc rối thì sao? Nếu phương tiện di dời khẩn cấp nổ tung trên không hay đâm vào đâu đó khi hạ cánh thì sao? Sinh vật này sẽ bị phát tán vào không khí. Gió sẽ mang nó đi khắp nơi! Khi đó, nó sẽ lấy được quá nhiều gen của con người trong nhiễm sắc thể của nó và chúng ta không thể nào tiêu diệt nổi nó nữa. Nó sẽ quá giống chúng ta. Ta dùng thuốc nào để chống lại chúng thì loại thuốc đó sẽ giết chính chúng ta. – Profitt dừng lại, để cho những lời của ông ngấm dần. – Chúng ta không thể để tình cảm xen vào quyết định lần này, khi có quá nhiều rủi ro.

– Thưa tổng thống. – Leroy Cornell lên tiếng. – Với tất cả lòng tôn kính, tôi xin chỉ ra rằng đây là một động thái đe dọa to lớn về mặt chính trị. Công chúng sẽ không cho phép năm người hùng của chúng ta chết trong vũ trụ.

– Chính trị là mối quan tâm thứ yếu của chúng ta ny lúc này! – Profitt nói. – Ưu tiên hàng đầu của chúng ta là sức khỏe cộng đồng!

– Vậy thì tại sao lại phải bí mật! Tại sao các vị lại không cho NASA biết mọi thông tin? Các vị chỉ cho chúng tôi thấy một phần trong đoạn gen của sinh vật đó. Các nhà khoa học sinh vật của chúng tôi đã sẵn sàng và sẵn lòng đóng góp một phần hiểu biết của họ. Chúng tôi muốn tìm ra phương pháp điều trị không kém gì các vị. Nếu Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm chia sẻ thông tin thì chúng ta có thể hợp tác.

– Lo ngại của chúng tôi là vấn đề an ninh. – Tổng thư ký Moral nói. – Một nước thù địch có thể biến thứ này thành vũ khí hủy diệt đáng sợ. Cung cấp mã gen của Chimera là giao cấu trúc của một loại vũ khí.

– Điều đó nghĩa là ông không tin tưởng NASA sẽ bảo mật thông tin đó?

Tổng thư ký Moray nhìn thẳng vào mắt Cornell.

– Tôi e là phương châm mới của NASA về việc chia sẻ công nghệ với hai nước khác cùng chung ánh nắng sẽ khiến cơ quan của các vị không mang tính an ninh tuyệt đối nữa.

Cornell đỏ mặt tức giận nhưng không nói gì.

Profitt nhìn tổng thống.

– Thưa ngài, thật sự là một thảm kịch khi phải bỏ năm phi hành gia chết trên đó. Nhưng chúng ta phải nhìn xa trông rộng, tới khả năng sẽ có một thảm họa khác lớn hơn. Đó là một dịch bệnh toàn cầu do một tế bào mà chúng ta chỉ mới biết sơ qua về nó. Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đang chạy đua cùng thời gian để tìm ra cách trị nó. Cho đến khi đó, tôi đề nghị mọi người hành động đúng mực. NASA không có các thiết bị để xử lý thảm họa sinh học. Họ chỉ có một nhân viên bảo vệ hành tinh. Chỉ có một. Đội phản ứng sinh học nhanh của Quân đội luôn sẵn sàng cho tình huống này. Về các hoạt động của NASA, hãy để họ nằm dưới tầm kiểm soát của Quyền chỉ huy Vũ trụ của Mỹ, được hỗ trợ bởi Lực lượng Không quân thứ 14. NASA có quá nhiều mối liên hệ cá nhân và tình cảm với các phi hành gia. Chúng ta phải bao vây chặt chẽ. Chúng ta cần thiết quân luật hoàn hảo. – Profitt chầm chậm lướt qua gương mặt của những người đàn ông và phụ nữ ngồi quanh bàn. Chỉ có vài người trong số này được ông tôn trọng thật sự. Vài kẻ chỉ quan tâm đến danh tiếng và quyền lực. Những kẻ khác ngồi ở đây vì các ràng buộc về mặt chính trị. Vẫn có những kẻ dễ bị làn sóng dư luận làm lung lay. Chỉ có mấy người có động cơ đơn giản như ông.

Số ít những người này chịu chung cơn ác mộng như ông đã tỉnh ngộ và đổ mồ hôi, họ run rẩy khi nghĩ đến viễn cảnh đáng sợ của việc họ có thể sắp đối đầu.

– Vậy là ông nói các phi hành gia sẽ không bao giờ trở về được. – Cornell nói.

Profitt nhìn khuôn mặt tối sầm lại của nhân viên quản lý NASA và cảm thấy cảm thông một cách tội lỗi.

– Khi chúng tôi tìm ra cách chữa trị nó, khi chúng tôi biết có thể tiêu diệt nó, chúng tôi sẽ thông báo cho các vị đưa họ về trái đất.

– Nếu họ vẫn còn sống. – ngài Tổng thống lẩm bẩm.

Profitt và Roman nhìn nhau nhưng không ai trả lời. Họ đã hiểu sự thật rõ ràng đó. Họ sẽ không thể kịp tìm ra cách chữa trị. Các phi hành gia sẽ không thể trở về và sống sót.

Jared Profitt mặc áo khoác và đeo cà vạt trong khi hôm đó rất nóng, nhưng ông hầu như không để ý đến cái nóng. Những người khác có thể phàn nàn về sự khó chịu của mùa hè ở New York. Ông không ngại khi nhiệt độ tăng cao. Ông sợ mùa đông vì ông rất nhạy cảm với cái lạnh, vào những ngày lạnh cóng, môi ông sẽ tím tái và ông run rẩy dưới các lớp khăn choàng và áo len. Ny cả trong mùa hè, ông vẫn giữ để một chiếc áo len ở văn phòng để chống lại tác động của điều hòa nhiệt độ. Hôm nay nhiệt độ là ba mươi hai độ, mồ hôi lấp lánh trên khuôn mặt của những người ông gặp trên đường, nhưng ông không cởi áo khoác hay nới lỏng cà vạt.

Cuộc họp khiến ông thấy lạnh toát cả thân thể lẫn tâm hồn.

Ông mang theo bữa trưa được gói trong một túi giấy màu nâu, đó là bữa trưa quen thuộc ông đã gói mỗi sáng trước khi đi làm. Đường ông đi không bao giờ thay đổi, về phía tây đến sông Potomac, qua khu Hồ Phản Quang bên tay trái. Ông thấy thoải mái khi làm những việc thường ngày quen thuộc. Có rất ít việc trong cuộc sống hàng ngày mang lại điều chắc chắn như dạo này. Khi ngày càng già đi, ông thấy mình có xu hướng thích những nghi lễ nhất định, rất giống một thầy tu tuân theo trật tự tôn giáo gần giống nhịp làm việc hàng ngày của những người cầu nguyện và ngồi thiền. Xét về nhiều khía cạnh thì ông rất giống một thầy tu khổ hạnh thời cổ, một người chỉ ăn để nạp năng lượng cho cơ thể và mặc com lê chỉ vì ông cần làm vậy, một người đàn ông mà sự giàu có không hề có ý nghĩa gì.

Cái tên Profitt không nói lên điều gì về người đàn ông này.

Ông đi chậm lại khi đi qua sườn dốc đầy cỏ ở Khu tưởng niệm Chiến tranh ở Việt Nam. Ông nhìn dòng người lặng lẽ đi qua bức tường được khắc tên của những người đã chết. Ông biết tất cả bọn họ đang nghĩ gì khi họ đối diện với các phiến đá granit màu đen đó, khi họ coi đó là điều đáng sợ của chiến tranh: Có quá nhiều tên, quá nhiều người chết.

Và ông nghĩ, bọn họ chẳng hiểu gì cả.

Ông thấy một ghế đá còn trống ở chỗ râm và ngồi xuống ăn. Ông lấy từ chiếc túi nâu một quả táo, một khoanh pho mát dầy và một chai nước. Đó không phải là nước uống của hãng Evian hay Perrier, mà là nước ông lấy trực tiếp từ vòi. Ông ăn chậm rãi, nhìn các du khách đi quanh khu tưởng niệm này sang khu tưởng niệm khác. Vậy là chúng ta tưởng nhớ các vị anh hùng, ông nghĩ. Xã hội dựng lên các tượng đài, khắc tên vào đá hoa cương, dựng những lá cờ. Nó làm người còn sống rùng mình khi bị lạc trong lò giết người của chiến tranh. Hai triệu lính và dân thường đã chết trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Năm mươi triệu người chết trong Đại chiến thế giới lần hai. Hai mươi mốt triệu người chết trong Đại chiến thế giới lần một. Đó là những con số giật mình. Người ta có thể băn khoăn: Con người có thể có kẻ thù nào đáng sợ hơn chính họ không?

Câu trả lời là có.

Dù loài người không thể nhìn thấy nhưng kẻ thù của họ ở xung quanh họ, ở ny trong họ, trong không khí họ thở, trong thức ăn họ nuốt. Trong suốt lịch sử loài người, chúng luôn là kẻ thù đáng sợ nhất của họ, nó sẽ tồn tại rất lâu sau khi họ đã biến mất trên bề mặt trái đất. Kẻ thù đó là thế giới vi khuẩn, và trong nhiều thế kỷ qua, nó đã giết chết nhiều người hơn tất cả các cuộc chiến tranh cộng lại.

Từ năm 542 đến năm 767 trước công nguyên, bốn mươi triệu người chết do bệnh dịch đậu mùa.

Vào thập niên ba mươi của thế kỷ hai mươi, hai mươi lăm triệu người chết khi bệnh đậu mùa quay trở lại.

Từ năm 1918 đến năm 1919, ba mươi triệu người chết vì bệnh cúm.

Và vào năm 1997, bà Amy Sorensen Profitt, bốn mươi ba tuổi đã chết vì bệnh viêm phổi.

Ông ăn hết quả táo, cho lõi táo vào túi và cẩn thận cuộn rác của mình thành một gói chặt. Dù bữa trưa rất đạm bạc nhưng ông tỏ ra hài lòng. Ông vẫn ngồi trên ghế một lúc và uống ngụm nước cuối cùng.

Một du khách đi qua, đó là một phụ nữ tóc màu hạt dẻ. Khi bà ta quay lại và ánh nắng chiếu nghiêng nghiêng trên mặt, trông bà ta rất giống Amy. Bà ta có cảm giác ông đang nhìn mình nên nhìn theo ông. Họ nhìn nhau một lúc, bà ta thì cảnh giác, còn ông thì im lặng một cách tội lỗi. Rồi bà ta bỏ đi và ông thấy bà ta trông không hề giống người vợ đã khuất của mình. Không ai giống và không ai có thể giống vợ ông.

Ông đứng lên, ném rác vào thùng và bắt đầu đi theo lối mà ông đã đến, đi qua bức tường, qua các cựu chiến binh mặc đồng phục màu xám đã nhàu nát để tưởng nhớ những người đã chết.

Nhưng ny cả những kỷ niệm cũng mờ dần, ông nghĩ. Hình ảnh của vợ ông bên bàn bếp, tiếng cười của bà. – tất cả đều đã lùi dần khi thời gian trôi qua. Chỉ những kỷ niệm đau buồn còn sót lại. Đó là một phòng ở khách sạn San Francisco. Một cú điện thoại vào đêm muộn. Những hình ảnh lộn nhào của sân bay, những chiếc taxi và trạm điện thoại khi ông chạy nhanh hết tốc độ để đến bệnh viện Bethesda kịp lúc.

Nhưng các vi khuẩn cầu chuỗi phá hoại đã lên lịch cho chúng và có thời điểm giết người nhất định. Giống hệt Chimera.

Ông hít dài một hơi và tự hỏi có bao nhiêu vi rút, bao nhiêu vi khuẩn, bao nhiêu loại nấm đã luồn lách vào phổi ông. Và tất cả những con vật đó có thể giết chết ông.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.