Titanic - Trong Vũ Trụ

Chương 4



BỐN

Ngày 12 tháng 7

Trạm vũ trụ quốc tế

Từ các cửa sổ quan sát của vòm nút 1, bác sĩ William Haning thấy những đám mây bay trên Đại Tây Dương phía dưới tàu hai trăm năm mươi dặm. Anh chạm vào kính. Ngón tay anh lướt trên tấm chắn bảo vệ anh với môi trường chân không bên ngoài. Đó là một trở ngại khác ngăn cách anh với gia đình, với vợ. Anh nhìn trái đất xoay bên dưới. Anh thấy Đại Tây Dương lướt qua, rồi Bắc Phi, Ấn Độ Dương từ từ quay đến, màn đêm đang buông xuống. Dù cơ thể anh ở trạng thái lơ lửng không trọng lượng nhưng nỗi buồn dường như đang thắt chặt ngực anh, khiến anh khó thở.

Vào lúc đó, tại bệnh viện Houston, vợ anh đang đấu tranh giành lại sự sống, còn anh không thể làm gì giúp cô ấy. Anh sẽ bị giữ lại đây thêm hai tuần nữa. Anh có thể nhìn xuống chính thành phố, nơi Debbie đang hấp hối nhưng không thể đến với cô, không thể chạm vào cô. Điều tốt nhất anh có thể làm là nhắm mắt lại, cố tưởng tượng anh đang ở bên cô, tay họ đan vào nhau.

Em phải chờ. Em phải chiến đấu. Anh sẽ về với em.

– Bill, anh ổn chứ?

Anh quay lại thấy Diana Estes đang lơ lửng bay từ khoang thử nghiệm Mỹ vào nút của anh. Anh ngạc nhiên khi cô hỏi thăm. Thậm chí sau một tháng sống gần gũi nhau trong những khoang nhỏ, anh đã không thể làm ấm lòng người phụ nữ Anh này. Cô quá lạnh lùng, quá lạnh nhạt. Dù cô có vẻ đẹp lạnh lùng, anh chưa bao giờ bị cô lôi cuốn và chắc chắn cô chưa bao giờ quý mến hay dành cho anh chút quan tâm nào. Nhưng sau đó, cô thường chú ý đến Michael Griggs. Sự thật Griggs đã có một cô vợ đang chờ anh dưới trái đất nhưng dường như điều đó cũng không có ý nghĩa gì với hai người bọn họ. Ở trên Trạm vũ trụ quốc tế này, Diana và Griggs giống như hai nửa của một ngôi sao đôi, quay quanh nhau và nối với nhau bằng một lực kéo trọng lực mạnh mẽ.

Đây là một trong những sự thật đáng buồn khi là một trong sáu người thuộc bốn nước bị giam trong các khoang nhỏ này. Lúc nào cũng có các ban trực tách biệt và có sự phân biệt, một cảm giác biến đổi giữa chúng tôi và họ. Áp lực khi sống quá lâu trong tình trạng giam cầm đã ảnh hưởng khác nhau đến mỗi người. Anh Nicolai Rudenko người Nga là người sống trên Trạm vũ trụ quốc tế lâu nhất gần đây trở nên ủ rũ và dễ nổi nóng.

Kenichi Hirai của Trung tâm vũ trụ Nhật Bản NASDA rất bực bội vì vốn tiếng Anh của mình còn kém, anh thường im lặng một cách khó hiểu. Chỉ có Luther Ames vẫn là bạn của mọi người. Khi trung tâm Houston thông báo tin dữ về Debbie, Luther là người theo bản năng biết cần nói gì với Bill và nói thật lòng, xuất phát từ tình nhân ái trong con người anh. Luther là một chàng trai người Alabama của một ông bộ trưởng có uy tín. Anh đã thừa hưởng tố chất của cha về khả năng an ủi người khác.

– Đừng băn khoăn về chuyện đó, Bill. – Luther nói. – Anh phải về nhà với vợ. Anh hãy thông báo với trung tâm NASA rằng họ nên gửi tàu đến đón anh. Nếu không, họ sẽ phải đối phó với tôi đấy.

Thật khác với cách xử sự của Diana. Vẫn lô-gíc như mọi khi, cô ta bình tĩnh phân tích rằng Bill không thể làm gì để giúp vợ anh hồi phục nhanh hơn. Debbie đang bị hôn mê, cô ấy thậm chí là sẽ không biết là anh có ở đó. Lạnh lùng, cứng rắn như bình thủy tinh trong phòng thí nghiệm, nơi cô ta đã lớn lên, đó là điều Bill nghĩ về Diana.

Đó là lý do tại sao lúc này anh ngạc nhiên khi cô hỏi thăm anh. Cô ta lùi xa về phía nút tàu, xa cách như mọi khi. Mái tóc dài vàng óng ôm lấy khuôn mặt như những cây rong đang dạt trên biển.

Anh quay đi và lại nhìn về phía cửa sổ.

– Tôi đang chờ để nhìn thấy trung tâm Houston. – Anh nói.

– Anh có một đợt thư điện tử mới từ thiết bị vệ tinh.

Anh không nói gì. Anh chỉ nhìn các ánh đèn lấp lánh ở thành phố Tokyo. Lúc này chúng đang mờ dần khi vừng đông đang lên.

– Bill, có vài chuyện anh cần tập trung chú ý. Nếu anh không quan tâm đến nó thì chúng tôi buộc phải tách các nhiệm vụ của anh ra khỏi nhóm.

Những nhiệm vụ. Vậy đó chính là điều cô ta đến đây để bàn bạc. Anh không cảm thấy đau đớn mà anh đang nghĩ về việc cô ta có tin tưởng anh sẽ thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao trong phòng thí nghiệm hay không. Mỗi ngày trên Trạm vũ trụ quốc tế được lên lịch chặt chẽ và không có thời gian để nhớ lại hay đau buồn. Nếu một thành viên trong phi hành đoàn không có khả năng thì các thành viên khác sẽ bị chùng xuống hoặc các cuộc thử nghiệm sẽ không được quan tâm.

– Đôi khi. – Diana nói. – Công việc là cách tốt nhất để quên đi mọi chuyện không vui.

Anh đặt ngón tay lên đốm sáng lờ mờ. Đó là Tokyo.

– Đừng ra vẻ cô có trái tim, Diana. Cô không gạt được ai đâu.

Diana không nói gì một lúc. Anh chỉ nghe thấy tiếng rì rầm không ngớt của Trạm vũ trụ, một âm thanh quen thuộc đến mức giờ anh mới để ý đến nó.

Cô ta điềm tĩnh nói.

– Tôi hiểu anh đang gặp thời điểm khó khăn. Tôi biết thật không thoải mái gì khi bị nhốt ở đây và không có cách nào trở về. Nhưng anh không thể làm gì được. Anh chỉ có thể đợi tàu con thoi đến.

Anh cười cay đắng.

– Tại sao lại phải chờ, trong khi tôi có thể trở về trong bốn tiếng nữa?

– Thôi nào, Bill. Anh nghiêm túc đi!

– Tôi đang rất nghiêm túc. Lẽ ra tôi phải lên phương tiện di dời khẩn cấp và lên đường.

– Và bỏ chúng tôi lại không có thuyền cứu hộ à? Anh suy nghĩ không sáng suốt nữa. – cô ta dừng lại. – Anh biết không, anh có thể cảm thấy khá hơn nếu dùng thuốc. Nó sẽ giúp anh qua giai đoạn khó khăn này.

Anh quay lại nhìn cô ta. Toàn bộ nỗi đau, sự buồn bã biến thành nỗi tức giận.

– Hãy uống một liều thuốc và mọi việc sẽ được giải quyết. Có phải thế không?

– Nó có thể có tác dụng, Bill. Tôi chỉ muốn đảm bảo là anh không làm điều gì mất trí.

– Cô thật khốn nạn, Diana! – Anh đẩy người khỏi khu mái vòm, lướt qua chỗ cô đến cánh cửa phòng thí nghiệm.

– Bill!

– Như cô đã tốt bụng nói cho tôi thấy, tôi có nhiều việc cần làm.

– Tôi đã nói với anh rồi, chúng tôi có thể chia sẻ phần việc của anh. Nếu anh cảm thấy có tâm trí vào việc đó thì…

– Tôi sẽ làm phần việc khốn nạn của tôi!

Anh bay về phía phòng thí nghiệm của Mỹ. Anh thấy nhẹ nhõm khi cô ta không đi theo anh. Khi quay lại nhìn, anh thấy cô ta bay về khoang sinh hoạt, chắc là để kiểm tra tình hình của phương tiện quay trở lại trái đất. Nó có thể di tản toàn bộ sáu thành viên phi hành đoàn và là thuyền cứu hộ duy nhất phòng khi thảm họa rơi xuống đầu phi hành đoàn. Anh đã khiến cô ta hoảng sợ khi lỡ miệng nói về việc sẽ cướp phương tiện trở về trái đất và giờ anh thấy hối hận về điều đó. Giờ cô ta sẽ theo dõi các dấu hiệu khiến anh mềm yếu.

Thật đau đớn khi bị nhốt trong cái hộp đựng cá mòi được trang trí chỉ cách trái đất hai trăm hai mươi dặm này. Cũng thật đau đớn khi bị người ta xem xét với thái độ nghi ngờ rằng anh sẽ khiến thử thách của họ trở nên tồi tệ hơn. Có thể anh nóng lòng được về nhà nhưng anh không dao động. Tất cả những năm rèn luyện, những bài kiểm tra tâm lý trên màn hình máy tính đã khẳng định một điều rằng Bill Haning là một chuyên gia. – chắc chắn anh không phải kiểu người sẽ gây nguy hiểm cho các đồng nghiệp của mình.

Anh tự đẩy mình bằng một động tác đẩy tường đã thực hành nhiều lần. Anh bay qua khoang thí nghiệm, đến trạm làm việc của mình. Ở đó, anh kiểm tra gói thư điện tử gần nhất. Diana đã nói đúng một điều: công việc sẽ khiến anh tạm thời không nghĩ về Debbie.

Phần lớn các bức thư điện tử được gửi từ Trung tâm Nghiên cứu sinh học Mỹ của NASA tại California. Các dòng tin chỉ là những yêu cầu xác nhận thông tin như mọi khi. Hầu hết các cuộc thí nghiệm được giám sát từ dưới mặt đất và đôi khi các nhà khoa học thắc mắc về các dữ liệu họ nhận được. Anh cuộn con chuột xem hộp thư và nhăn mặt khi thấy một yêu cầu khác đòi các mẫu nước tiểu và phân. Anh cuộn tiếp rồi dừng lại khi thấy tin nhắn mới nhất.

Bức thư này khác hẳn. Đó không phải của Mỹ mà của một trung tâm tư nhân điều hành các con tàu. Các trung tâm tư nhân đã trả tiền cho một số cuộc thí nghiệm của các trạm trên vũ trụ và anh thường nhận được các bức thư điện tử từ các nhà khoa học không thuộc NASA.

Bức thư này là của Trung tâm khoa học biển tại La Jolla, bang California.

Gửi: Bác sĩ William Haning. Chuyên ngành Khoa học sinh học trên Trạm vũ trụ quốc tế.

Người gửi: Helen Koenig, trưởng nhóm điều tra.

Trả lời về việc: Cuộc thử nghiệm CCU số 23 (Mẻ tế bào Archaeon).

Tin nhắn: Các dữ liệu được truyền về gần đây nhất của chúng tôi cho thấy các mẻ tế bào tăng nhanh bất ngờ. Hãy sử dụng thiết bị đo các khối cực nhỏ trên tàu của anh để xác nhận việc này.

Lại là một yêu cầu dễ như trở bàn tay khác, anh mệt mỏi nghĩ. Nhiều cuộc thử nghiệm trên quỹ đạo được điều khiển bằng mệnh lệnh dưới trái đất. Các dữ liệu được ghi lại trong các khu phòng thí nghiệm khác nhau bằng cách sử dụng các thiết bị mẫu video hay thiết bị mẫu tự động. Các kết quả được truyền trực tiếp về cho các nhà nghiên cứu trên trái đất. Với các thiết bị phức tạp trên Trạm vũ trụ không gian, có rất nhiều khả năng khiến máy thường xuyên chạy không đều. Đó là lý do thực sự tại sao cần con người trên đây. – để khắc phục các thiết bị điện tử không ổn định.

Anh yêu cầu tập về CCU số 23 trong dữ liệu máy tính và xem xét lại các bản báo cáo đầu tiên. Các tế bào trong mẻ cấy là Archaeon. Đó là chất hữu cơ biển giống tế bào được lấy từ các lò nhiệt nằm sâu dưới đáy biển. Chúng vô hại với con người.

Anh bay sang đầu bên kia phòng thí nghiệm, đến bộ phận cấy tế bào và đặt đôi chân đeo tất vào bàn đạp để giữ nguyên vị trí. Bộ phận này là một thiết bị hình hộp. Nó có hệ thống xử lý các chất lỏng riêng biệt và liên tục cấp nước cho hàng chục mẻ tế bào và mẫu mô. Phần lớn các thí nghiệm này sẽ tự thân vận động và không cần sự can thiệp của con người. Trong bốn tuần trên Trạm vũ trụ quốc tế, Bill chỉ quan sát ống nghiệm số 23 một lần.

Anh lôi khay đựng mẫu tế bào ra. Bên trong có hai mươi bốn ống mẻ tế bào được xếp quanh rìa. Anh tìm ống số 23 rồi lấy nó ra khỏi khay.

Anh bỗng giật mình. Nắp ống đang phình lên như thể bên trong có áp suất rất lớn. Thay vì chất lỏng hơi đục mà anh nghĩ mình sẽ thấy, thì phần bên trong có màu xanh dương pha xanh lá cây trong suốt. Anh dốc ngược ống nghiệm nhưng mẻ thí nghiệm không suy chuyển. Nó không còn là chất lỏng nữa, mà sền sệt và rất dính.

Anh kiểm tra thiết bị đo khối chất cực nhỏ và nhúng ống nghiệm vào khe. Một lúc sau, anh thấy các dữ liệu xuất hiện trên màn hình.

Có chuyện gì đó, anh nghĩ. Chắc chắn mẫu này đã bị nhiễm bẩn. Cả mẫu tế bào gốc cũng không còn tinh khiết. Một loại sinh vật nào đó đã tìm cách xâm nhập vào ống nghiệm và phá hủy mẫu tế bào gốc.

Anh gửi câu trả lời cho bác sĩ Koenig:

… Các dữ liệu được chuyển lên của cô đã được xác nhận. Mẻ tế bào có vẻ đã thay đổi hoàn toàn. Nó không còn là chất lỏng nữa mà là một khối sền sệt, sáng màu và có màu xanh dương pha xanh lá cây như đèn nê-ông. Chắc chắn cô phải tính đến khả năng nó đã bị nhiễm bẩn.

Anh dừng lại. Có một khả năng khác: đó là do ảnh hưởng của môi trường trọng lực siêu nhỏ. Ở trái đất, các mẫu mô này thường phát triển trên mặt phẳng và phát triển theo hai chiều trên bề mặt vật chứa. Trong môi trường không trọng lực, khi được giải phóng khỏi tác động của trọng lực, các mẫu tế bào tương tự sẽ biến đổi khác thường. Chúng phát triển trong không gian ba chiều và có được những hình dạng mà chúng không thể có trên trái đất.

Nếu mẻ thí nghiệm số 23 bị nhiễm bẩn thì sao? Nếu trường hợp này chỉ đơn giản là do vi khuẩn Archaeon hoạt động trong môi trường không trọng lực?

Nhưng anh loại khả năng đó ngay lập tức. Những biến đổi này diễn ra quá nhanh. Chỉ riêng môi trường không trọng lực cũng không thể thay đổi một mẻ sinh vật đơn bào thành một khối chất màu xanh đáng kinh ngạc như vậy.

Anh gõ một dòng chữ:

… Chúng tôi sẽ gửi mẫu của mẻ tế bào số 23 cho cô trong chuyến tàu con thoi lần tới. Hãy cho tôi lời khuyên nếu cô có thêm chỉ dẫn gì.

Tiếng ngăn kéo đóng sầm lại làm anh giật mình. Anh quay lại thấy Kenichi Hirai đang làm việc ở ngăn thí nghiệm riêng của anh ta. Anh ta đã ở đó bao lâu rồi? Anh ta vào khoang thí nghiệm nhẹ nhàng đến nỗi anh không biết anh ta có ở đó. Trong thế giới không có khái niệm bên trên hay bên dưới này, nơi người ta không bao giờ nghe thấy tiếng bước chân thì lời chào là cách duy nhất để thông báo cho người khác biết về sự có mặt của bạn.

Khi thấy Bill đang nhìn mình, Kenichi cúi đầu chào và tiếp tục công việc. Sự im lặng của anh ta khiến Bill khó chịu. Kenichi như một bóng ma sống trên trạm, đi lại mà không nói một lời, khiến ai cũng giật mình. Bill biết đó là do Kenichi tự ti về vốn tiếng Anh của mình. Để tránh không bị người khác cười nhạo, anh ta chọn cách nói chuyện càng ít càng tốt. Nhưng ít ra thì anh ta cũng nên nói “Chào” khi vào khoang để năm đồng nghiệp không bị đứng tim chứ.

Bill lại quay sang chú ý ống nghiệm số 23. Khối chất sền sệt này trông sẽ thế nào dưới kính hiển vi?

Anh cho ống nghiệm số 23 vào hộp găng tay bằng nhựa Plexiglas, đóng cửa lại, xỏ găng tay. Nếu chất trong ống bị đổ ra ngoài thì nó sẽ bị nhốt trong hộp. Các chất lỏng lơ lửng trong môi trường trọng lực siêu nhỏ sẽ phá hủy các mạng dây điện trên trạm. Anh nhẹ nhàng mở nắp ống nghiệm. Anh biết bên trong ống đang có áp suất lớn nên anh sẽ thấy nắp phụt ra. Dù vậy anh vẫn giật mình khi cái nắp bay phụt ra như nắp sâm-panh.

Anh lùi lại khi một giọt màu xanh dương pha xanh lá cây bắn lên tấm kính trong hộp găng tay. Nó bám ở đó một lúc, cựa quậy như một sinh vật sống. Nó sống, đây là một khối sinh vật kết hợp lại với nhau thành một khối sền sệt.

– Bill, chúng ta cần nói chuyện.

Giọng nói đó khiến anh giật mình. Anh nhanh chóng đậy nắp ống nghiệm, quay lại nhìn Michael Griggs vừa bước vào phòng. Bay cạnh anh ta là Diana. Một cặp xứng đôi, anh nghĩ. Cả hai trông đều bóng bẩy và khỏe mạnh trong chiếc áo NASA màu xanh hải quân và quần đùi màu xanh thẫm.

– Diana nói với tôi anh có vấn đề. – Griggs nói. – Chúng tôi vừa nói chuyện với Trung tâm Houston. Họ nghĩ có thể sẽ có tác dụng nếu anh dùng thuốc. Chỉ để anh có thể chịu đựng trong vài ngày tới.

– Giờ thì anh đã khiến Houston lo lắng rồi phải không?

– Họ rất lo cho anh. Và chúng tôi cũng vậy.

– Nghe này, tôi buột miệng nói về phương tiện di dời khẩn cấp chỉ là đùa thôi.

– Nhưng điều đó khiến tất cả chúng tôi lo lắng.

– Tôi không cần thuốc an thần Valium. Chỉ cần để tôi yên thôi! – Anh lấy ống nghiệm ra khỏi hộp găng tay, cho nó vào khay đựng mẻ tế bào. Giờ anh rất tức giận nên không thể làm việc được.

– Chúng tôi phải tin tưởng anh, Bill. Chúng ta phải phụ thuộc lẫn nhau khi ở trên này.

Bill giận dữ quay lại nhìn anh ta.

– Anh đang thấy một kẻ điên khùng ngay trước mắt anh phải không?

– Giờ anh đang nghĩ về vợ anh. Tôi hiểu điều đó. Và…

– Anh không hiểu được. Tôi nghi ngờ rằng dạo này anh đang suy nghĩ quá nhiều về cô vợ của anh. – Anh ta nhìn Diana đầy ẩn ý, rồi đẩy mình về cuối khoang, vào khoang kết nối. Anh định đi vào khoang cư trú nhưng ngừng lại khi thấy Luther đang ở đó chuẩn bị ăn trưa.

Không có nơi nào để trốn, không có nơi nào để yên tĩnh.

Đột nhiên anh trào nước mắt, quay trở lại lối ra và lui về chỗ mái vòm.

Quay lưng lại với những người khác, anh nhìn trái đất qua cửa sổ. Bờ biển Thái Bình Dương đã quay vào tầm nhìn của anh. Mặt trời mọc rồi lặn.

Lại thêm một thời gian chờ đằng đẵng.

Kenichi nhìn Griggs và Diana bay ra khỏi khoang thí nghiệm, cả hai đều đẩy đi với một lực vừa đủ. Họ đi lại thật uyển chuyển, giống như hai vị thần tóc vàng. Anh thường quan sát họ rất kỹ khi họ không nhìn anh. Đặc biệt là anh thích nhìn Diana Estes, một phụ nữ tóc vàng và quá xanh xao đến mức cô có vẻ gì đó trong suốt.

Họ đi bỏ lại anh một mình trong phòng thí nghiệm và anh có thể thư giãn. Có quá nhiều hiềm khích trên Trạm vũ trụ này. Nó khiến anh bất an và ảnh hưởng đến sự tập trung của anh. Bản chất anh là người trầm lặng, một người thấy hài lòng khi làm việc yên tĩnh. Dù anh đủ trình độ để hiểu tiếng Anh rất rõ nhưng anh thấy nói thứ tiếng đó thật khó khăn. Anh thấy mệt mỗi khi nói chuyện. Anh thấy thoải mái hơn nhiều khi làm việc một mình và im lặng, chỉ có các con vật trong phòng thí nghiệm làm bạn.

Anh nhìn lũ chuột qua cửa sổ quan sát của khu vực dành cho các con vật rồi cười mỉm. Ở một bên màn hình ngăn cách là mười hai con đực, bên kia là mười hai con cái. Khi còn là một cậu bé lớn lên tại Nhật Bản, anh đã nuôi thỏ và thích ôm chúng trên đùi. Tuy nhiên, những con chuột này không phải là động vật cưng. Chúng bị tách biệt, không được tiếp xúc nhiều với con người. Mùi của chúng đã được lọc và thông gió điều hòa trước khi chúng được tham gia vào môi trường trên Trạm vũ trụ. Toàn bộ những việc giải quyết chúng được thực hiện trong hộp đeo găng tay gần đó. Ở đó, toàn bộ các mẫu sinh học, từ vi khuẩn đến những con chuột trong phòng thí nghiệm đều được thao tác mà không cần lo sợ về việc làm nhiễm bẩn bầu không khí trên trạm.

Hôm nay là ngày lấy mẫu máu. Anh không thích công việc này vì anh phải dùng kim tiêm vào da con vật. Anh lẩm bẩm xin lỗi bằng tiếng Nhật khi cho tay vào găng tay và chuyển con chuột đầu tiên vào khu vực làm việc được đóng kín. Nó vùng vẫy cố thoát khỏi tay anh. Anh thả nó ra, để nó trôi nổi tự do trong khi anh chuẩn bị kim tiêm. Đó là một cảnh tượng thật đáng thương, con chuột điên cuồng đạp bốn chân, cố đẩy mình về phía trước. Nhưng nó không có điểm tựa nào để đạp nên nó trôi vô vọng trong không trung.

Giờ kim tiêm đã sẵn sàng. Bàn tay đeo găng của anh với ra để chộp lại con chuột. Chỉ đến lúc đó anh mới phát hiện ra một giọt màu xanh dương pha xanh lá cây đang lơ lửng cạnh con chuột. Thực sự thì giọt chất lỏng đó gần con chuột nên nó đưa chiếc lưỡi màu hồng của mình ra liếm. Kenichi cười to. Uống những giọt nước giải khát lơ lửng là việc các phi hành gia thường làm để giải trí. Giờ có vẻ như đó chính là việc con chuột đang làm, nó thích thú với thứ đồ chơi vừa tìm thấy.

Rồi trong đầu anh bật ra một ý nghĩ: chất màu xanh dương pha xanh lá cây đó do đâu mà có? Bill đã sử dụng hộp đeo găng tay. Có thể nào anh ấy đã làm đổ các giọt đó không?

Kenichi bay vào khoang máy để xem các ghi chép Bill vừa ghi. Đó là mẫu CCU số 23. Bản báo cáo giúp anh yên tâm rằng giọt chất lỏng đó không có gì nguy hiểm. Archaeon là các tế bào biển đơn bào và không có các thuộc tính gây hại.

Anh hài lòng quay trở lại hộp găng tay rồi cho tay vào. Anh lấy kim tiêm.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.