Hắn tràn đầy sinh lực đến nỗi gần như đau đớn. Carroll Janes có thể nhận thấy dự cảm ngập tràn trong hắn, năng lượng đang tích tụ, cho tới khi hắn như sáng lấp lánh. Hắn luôn luôn ngạc nhiên bởi cách con người mù tịt trước sức mạnh, nhưng mà phần lớn mọi người đều cực kì ngu ngốc.
Sẽ là đêm nay. Thật không bình thường khi chỉ mới một tuần trôi qua từ tối thứ Sáu trước, nhưng việc này quá dễ dàng, chẳng có lý gì phải trì hoãn. Và còn nỗi sung sướng, sự hình thành của năng lượng gần như ngay lập tức sau khi ánh sáng từ vụ trước phai nhạt dần. Tất nhiên, hắn không thể dựa vào sự hình thành này mỗi tuần; sức mạnh thực sự tàn bạo không diễn ra thường xuyên như thế. Và hắn thường thích kéo dài nó nhiều hơn, thậm chí có khi lâu đến một tháng, nhưng đó là vì luôn luôn có những khó khăn cần phải vượt qua, những vấn đề cần phải giải quyết. Jacqueline Sheets chẳng có vấn đề gì cả. Mụ ta sống một mình, và thói quen hàng ngày của mụ thì cố định một chỗ. Không, chẳng có lý do gì phải chờ.
Thật kì lạ là hầu như lúc nào phụ nữ cũng là những kẻ thô lỗ, mặc dù một đôi lần cũng có những gã đàn ông mà hắn buộc phải trừng phạt. Hắn không thích đàn ông. Không phải vì sức mạnh của một gã đàn ông làm mọi chuyện khó khăn hơn; hắn khinh miệt cái khái niệm đó. Hắn đủ khoẻ để xử lý hầu như bất kì kẻ nào, và làm việc miệt mài để duy trì sức mạnh đó. Đàn ông chỉ đơn giản là không mang tới niềm sung sướng, cơ hội để kéo dài trò chơi trong khi năng lượng hình thành. Đàn ông gần như là buồn chán. Và tất nhiên, hắn không phải là đồ biến thái, nên ít nhất một nửa trò vui đã bị mất. Không đời nào hắn giao cấu với một gã đàn ông. Nếu đôi khi hắn hơi độ lượng hơn với sự thô lỗ của đàn ông – chà, thì rút cuộc đó là do quyết định của hắn, chứ không phải của bất kì ai khác. Nếu hắn thích phụ nữ hơn, thì đó cũng không phải là việc của bất kì ai ngoài chính hắn.
Hắn ngâm nga suốt cả ngày, khiến Annette phải nhận xét rằng chắc chắn hắn đang có tâm trạng tốt. “Chắc anh phải có kế hoạch lớn cho dịp cuối tuần,” cô ta nói, và hắn nghe thấy một chút ghen tị vô tình trong giọng nói của cô ta. Hắn thích thế. Tất nhiên, hắn đã biết là Annette khao khát hắn, vì tất cả những thứ hay ho mà cô ta sẽ có. Cô ta đơn giản không phải loại hắn thích.
“Một cuộc hẹn nóng bỏng,” hắn trả lời, không quan tâm liệu cô ta có nghe thấy trạng thái vui sướng âm ỉ trong câu nói hay không. Nó có thể tâng bốc những tưởng tượng của cô ta.
Hắn nghĩ Jacqueline Sheets đang chờ đợi hắn. Hắn đã ở trong nhà của mụ ta, và có thể tưởng tượng ra chính xác tình huống ấy. Hắn biết mụ ta ngồi ở đâu trong lúc xem ti vi – vốn là tất cả những việc mà mụ làm. Hắn biết phòng ngủ của mụ trông thế nào, mụ mặc gì đi ngủ: những bộ pijama thực dụng. Hắn không hề ngạc nhiên. Hắn thích váy ngủ hơn, nhưng quần pijama cũng không thành vấn đề. Mụ ta sẽ lột ra cho hắn; tất cả bọn họ đều làm vậy, với một con dao sáng loé dí vào mặt.
Hắn đã kiểm tra trong bếp. Dao rựa của mụ tồi tệ đáng thất vọng, với lưỡi cùn gần như không thái nổi một quả chuối. Rõ ràng mụ không giỏi nấu nướng, nếu không những con dao của mụ đã ở trong tình trạng khá hơn. Hắn đã chọn một con dao thái phi lê và mang về nhà, dành hai đêm vừa qua để cần mẫn mài lưỡi dao thật sắc. Hắn ghét phải làm việc với những dụng cụ nhà bếp.
Hắn gần như không chờ nổi tới đêm, khi nghi lễ bắt đầu, như cha hắn đã dạy hắn. Khi mi thô lỗ, mi sẽ phải chịu phạt.
***
Dane đã gọi cho Marlie vào lúc bảy giờ sáng, chỉ để chào và hỏi xem nàng có ngủ ngon không, và âm điệu khó chịu trong giọng nàng khiến anh cười khúc khích. Về mặt tinh thần nàng vẫn còn khước từ anh, nhưng về mặt thể chất mọi chuyện đã diễn tiến tốt đẹp hơn mọi hi vọng của anh. Anh đã hôn nàng, và nàng không chỉ không sợ hãi, nàng đã thích thú với nó. Xét đến quá khứ của nàng thì đó là cả một bước tiến dài.
Anh cười toe toét như một tên ngốc suốt trên đường đi làm. (he is so cute ^^) Anh đã hôn nàng! Cứ cho nó là một nụ hôn sẽ khiến bất kì đứa trẻ vị thành niên nào đảo mắt vì buồn chán thì đã sao nào? Lũ nhóc đó thì biết cái gì? Chúng chẳng quan tâm tới cái gì ngoài nắn bóp vài bộ ngực và đâm vài cú thật nhanh. Anh đã đủ già, cảm tạ Chúa, để biết rằng càng chậm thì càng thú vị. Tới lúc Marlie đến với anh có thể anh đã phát điên vì chán nản, nhưng sau đêm hôm qua anh không hề nghi ngờ chuyện đó sẽ xảy ra. Anh choáng váng vì vui sướng, những dự đoán sủi bọt trong lòng anh như rượu sâm-panh.
Trammell đã ở đó khi Dane bước vào, đôi mắt anh ta ngái ngủ khi dựa ra sau ghế của mình và nhìn Dane đi tới. Mọi người di chuyển xung quanh họ, nói chuyện và văng tục; tiếng điện thoại reo không ngớt, máy fax và máy phô tô o o gần như không lúc nào ngừng. Một ngày bình thường, nhưng Dane không cảm thấy bình thường. Anh vẫn đang cười khi bước tới máy pha cà phê và rót ra hai cốc. Anh hớp một ngụm khi về tới bàn mình, và đưa cho Trammell cốc kia. “Trông cậu có vẻ cần nó đấy. Một đêm tồi tệ hả?”
“Cảm ơn.” Trammell cẩn thận nếm thử, nhìn Dane qua mép cốc. “Một đêm dài, nhưng không tệ. Sao? Hôm qua có tìm hiểu được gì hay ho không?”
“Khá nhiều. Trước hết, hãy nói là tớ không còn nghi ngờ như trước nữa.”
Trammell đảo mắt. “Thế còn Marlie? Cô ta đã làm gì trong sáu năm?”
“Cố gắng hồi phục,” Dane nói nhanh. “Arno Gleen đã đánh đập cô ấy, cố hãm hiếp cô ấy, và khi không thể, hắn đã giết đứa trẻ trước mặt cô ấy. Theo lời Tiến sĩ Ewell, cú tổn thương về tinh thần đó đặc biệt tai hại, thậm chí có thể đã huỷ hoại mọi khả năng siêu cảm của cô ấy. Rõ ràng hình ảnh về vụ giết bà Vinick là cơn nhột ngoại cảm đầu tiên cô ấy có kể từ đó.”
“Vậy là ba mớ ngoại cảm đã trở lại với cô ấy?”
Dane nhún vai. “Ai mà biết được. Không có gì khác xảy ra cả.” Cảm tạ Chúa. “Tớ đã nói chuyện với cô ấy đêm qua, hỏi thêm vài câu về những gì cô ấy đã nhìn thấy trong hình ảnh tiên thị, và cô ấy nhớ ra được vài chi tiết.”
“Như cái gì?”
“Gã đó cao khoảng sáu feet, hắn khoẻ mạnh, và hắn không phải người phương Nam.”
Trammell khụt khịt. “Việc đó thực sự khoanh vùng nhiều cho chúng ta đấy.”
“Còn hơn những gì chúng ta có trước đó.”
“Đồng ý. Có còn hơn không. Đó là trong trường hợp chúng ta chấp nhận coi hình ảnh tiên thị của một nhà ngoại cảm là đầu mối, bởi vì thẩm phán chắn như quỷ là sẽ không chấp nhận cô ấy như một bằng chứng.”
“Còn lựa chọn nào khác nữa? Chẳng có gì khác cả. Gã này không để lại một dấu vết nào. Tớ sẽ chấp nhận bất kì một đầu mối nào có thể có, và lo tìm bằng chứng sau khi đã tìm ra hắn.”
“Thực ra,” Trammell chậm rãi nói, “chúng ta đã nói chuyện với một người phù hợp với mô tả đó.”
“Ừ, tớ biết. Ansel Vinick. Ông ta khỏe như bò mộng, và mặc dù đã sống ở Florida hơn hai mươi năm, ông ta vẫn còn mang âm điệu miền trung tây.” Anh không hề ngạc nhiên; rất ít người không được lớn lên ở phương Nam có thể nói được đúng giọng. Ngành công nghiệp điện ảnh và truyền hình chưa từng làm được. “Nhưng trực giác của tớ bảo là ông ta đã không làm việc đó.”
“Ông ta đã có cơ hội.”
“Nhưng không có động cơ. Không người tình, không bảo hiểm. Không có gì cả.”
“Có lẽ là một cuộc cãi vã đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát chăng?”
“Giám định pháp y không tìm được một vết bầm nào chứng tỏ bà ta bị đánh. Bà ta không chỉ bị giết, bà ta đã bị xẻ thịt.”
“Sách đã dạy rằng khi có nhiều vết dao đâm đến thế, tên sát nhân phải thực sự tức giận với nạn nhân. Và rằng nếu hắn dành nhiều thời gian như thế để làm việc đó, có thể hắn sống ở ngay gần. Cậu cũng biết các con số y như tớ: tám mươi phần trăm trường hợp, khi một người phụ nữ bị giết, đó là chồng hoặc bạn trai của cô ta. Và trong rất nhiều lần, tên giết người chính là kẻ đã gọi cảnh sát khi hắn “phát hiện” ra thi thể. Vinick phù hợp với tất cả những phân loại trên.”
“Trừ cái đầu tiên. Nếu họ đã cãi nhau, thì không ai biết gì về chuỵên đó cả. Hàng xóm không nghe thấy bất kì cái gì, dường như lúc nào họ cũng hoà thuận với nhau, và Vinick không hề cư xử bất thường theo bất kì cách nào khi đi làm vào đêm đó. Và bà ta đã bị cưỡng hiếp, mà không có một chút tinh dịch nào. Marlie nói rằng tên sát nhân đã dùng bao cao su; tại sao Vinick lại phải làm thế? Bà ta là vợ ông ta, vì Chúa. Tìm thấy tinh dịch của ông ta trong người bà ta chẳng phải là tội lỗi gì cả. Điều thực sự làm tớ bực mình,” anh nói, suy nghĩ rất lung, “là những ngón tay của bà ta. Tại sao phải cắt lìa chúng? Chúng ta vẫn chưa tìm được. Chẳng có lý do gì cắt lìa ngón tay của bà ta, trừ khi –”
“-trừ khi bà ta đã cào hắn,” Trammell nói nốt, đôi mắt đen tập trung sáng long lanh. “Bà ta đã cào hắn, và hắn biết về kiểm tra ADN. Hắn đã cắt ngón tay bà ta để các bác sĩ pháp y không thể lấy mẫu da của hắn dưới móng tay bà ta.”
“Vinick mặc chiếc áo cộc tay vào buổi sáng hôm đó,” Dane nhớ lại. “Cậu có nhớ có bất kì vết cào nào không?”
“Không. Có thể ông ta có vài vết trên ngực hoặc cánh tay phía trên, nhưng bàn tay và cẳng tay phía dưới là những vị trí dễ bị cào nhất.”
“Đừng quên tấm màn trong phòng ngủ bị cắt. Nếu là do Vinick làm, để nó trông giống như một lối vào bị đột nhập, chẳng phải ông ta phải làm cho nó rõ ràng hơn sao? Dù thế nào ông ta cũng không làm cho tớ có cảm giác là loại người nham hiểm. Và mọi chuyện Marlie đã kể cho chúng ta đều ăn khớp với những thứ chúng ta tìm được ở hiện trường. Đó không phải là Vinick.”
“Chờ đã,” Trammell nói. “Marlie đã không nhắc tới những ngón tay, phải không?”
Dane nghĩ về việc đó, rồi lắc đầu. “Không, và có vẻ như đó không phải là loại chi tiết mà một người có thể quên.”
Việc bỏ sót đó làm phiền anh, anh làm một ghi chú trong đầu là tối nay sẽ hỏi nàng việc đó.
“Tóm lại, tớ thấy tốt hơn nên nói chuyện lại với Vinick,” Trammell khăng khăng.
Dane nhún vai. “Với tớ cũng không sao, tớ chỉ cảm thấy đang lãng phí thời gian.”
Trong ngày hôm đó Trammell đã thử vài lần liên lạc với ông Vinick, giữa hàng trăm việc họ phải làm, nhưng không có ai nhấc máy. Anh ta đã gọi tới công ty vận chuyển nơi ông Vinick làm việc, và được cho biết là ông ta đã nghỉ suốt cả tuần, và sau khi xem xét mọi chuyện, họ thực sự không trông mong ông ta sẽ đi làm lại trong ít nhất một tuần nữa.
“Ngày hôm qua là lễ tang,” Dane nói. “Có lẽ ông ta đang ở với vài người bạn. Quỷ thật, tất nhiên ông ta sẽ không ở trong ngôi nhà đó. Các bác sĩ pháp y đã xong việc ở đó, nhưng cậu có muốn ngủ lại không cơ chứ?”
Trammell nhăn mặt. “Đoán là không. Nhưng làm sao chúng ta tìm được ông ta?”
“Hỏi một trong những người hàng xóm. Họ sẽ biết.”
Khi họ lái xe đến trước nhà Vinick thì đã là chiều muộn. Ngôi nhà có vẻ bị đóng cửa, bị bỏ hoang. Cuộn băng vàng niêm phong hiện trường đã được dỡ đi, nhưng ngôi nhà trông như vẫn biệt lập, mãi mãi khác biệt khỏi các căn nhà gần đó bởi bạo lực đã diễn ra bên trong. Một chiếc ô tô đậu trên đường lái xe, và Dane nhận ra nó là chiếc đã đậu ở đây sáng thứ Bảy tuần trước. “Ông ta ở đây.”
Họ gõ lên cửa trước. Không có ai trả lời, không có tiếng chuyển động ở bên trong ngôi nhà. Trammell đi vòng ra cửa sau, cùng một kết quả. Tất cả rèm cửa đều bị kéo xuống, nên họ không thể nhìn vào cửa sổ nào được.
Cả hai cửa nhà đều khoá. Họ gõ lần nữa, xưng tên. Không có gì.
Dane bước sang nhà hàng xóm. Một người phụ nữ bước ra khỏi hiên nhà trước tiếng gõ cửa của anh.
“Tôi là Thám tử Hollister,” anh nói, mở ví đựng thẻ ra. “Bà có trông thấy ông Vinick không? Xe ô tô của ông ta ở đây, nhưng chúng tôi gọi không ai ra mở cửa.”
Bà ta cau mày, và gạt tóc ra khỏi mắt. “Không, tôi không trông thấy ông ấy từ sau đám tang. Tôi cũng tới đó; như tất cả mọi người khác trong khu phố. Bà ấy là một người phụ nữ rất tử tế. Tôi không biết ông ấy đỗ xe trên đường từ lúc nào. Chiều muộn hôm qua còn chưa thấy nó ở đấy, nhưng sáng nay lúc tôi dậy thì đã thấy.”
“Bà không nhìn thấy ai ở đó hết à?”
“Không. Tất nhiên, tôi không ở đây cả ngày, nhưng tôi không trông thấy ai ở đó cả.”
“Cám ơn.” Dane gật đầu chào tạm biệt và bước trở lại căn nhà của gia đình Vinick. “Tớ không thích vụ này,” anh nói, sau khi kể cho Trammell nghe nhưng gì bà hàng xóm nói. “Cậu thấy sao về chuyện phá cửa xông vào?”
“Tớ nghĩ tốt hơn nên làm thế,” Trammell nói nghiêm túc. “Nếu chúng ta sai, chúng ta sẽ cúi mình xin lỗi và trả tiền đền bù thiệt hại.”
Họ đi vòng ra sau nhà. Phần trên của cánh cửa bếp rất nhỏ, là những tấm kính cắt hình kim cương. Dane kéo khẩu Beretta ra và dùng báng súng đập vỡ tấm kính gần nắm đấm cửa nhất. Anh luôn ngạc nhiên trước việc thực sự rất khó đập vỡ một cánh cửa sổ. Những tấm kính vụn lanh canh trên sàn đá phía trong. Cẩn thận dùng khăn tay bọc quanh bàn tay, anh với vào trong và mở khoá cửa.
Căn nhà rất nóng, và nồng nặc mùi tử khí bị ứ đọng ở bên trong. Sự im lặng gần như là sờ thấy được.
Dane tháo tấm khăn khỏi bàn tay và giơ lên chẹn mũi. “Cứt thật,” anh lẩm bẩm, rồi cao giọng. “Ông Vinick? Thám tử Hollister và Thám tử Trammell đây.”
Không có gì.
Cái mùi đó thấm qua cả lần vải. Nó không phải là mùi thịt thối rữa ngào ngạt, muốn bệnh, mà là một thứ mùi nhức óc của nội tạng trộn lẫn với mùi tanh của máu, cả mới và cũ. Dạ dày Dane xoắn lại. Anh thầm chửi thề lần nữa, và bước vào trong.
Căn phòng khách trống trải; anh cũng đã nghĩ như vậy. Các bức tường vẫn còn vương máu của bà Vinick, những vệt máu đã chuyển sang màu nâu.
Ông Vinick đang ở trong phòng ngủ.
Nó cũng vẫn chưa được rửa dọn. Vẫn có hình phấn vẽ một cơ thể người, và ông Vinick nằm đó trong góc nhà bên cạnh hình người đó. Có một khẩu súng nhỏ nằm gần đầu ông ta.
Ông ta không chừa lại một khả năng nào để làm hỏng việc. Bất kì ai tọng nòng súng vào miệng đều cực kì nghiêm túc với nỗ lực đó.
“A, cứt thật,” Trammell mệt mỏi nói. “Tớ sẽ gọi điện báo.”
Dane ngồi xổm bên cạnh thi thể, cẩn thận không chạm vào thứ gì. Anh không thể thấy bất kì dấu hiệu nào cho thấy đây không phải là một vụ tự tử, nhưng không làm xáo trộn hiện trường đã là một thói quen.
Anh nhìn quanh, và thấy một tờ giấy nằm trên giường. Những tấm ga giường đã bị kéo đi, chỉ còn trơ lại tấm đệm, và tờ giấy trắng lúc đầu rất khó nhìn trên nền vải bọc đệm màu trắng. Anh có thể đọc những gì trong đó mà không cần cúi xuống.
Giờ tôi không còn gia đình nào nữa, khi Nadine đã ra đi, vì thế tôi không nghĩ chuyện này có gì quan trọng. Tôi chỉ không muốn tiếp tục sống nữa. Ông ta ghi ngày tháng và kí tên, thậm chí còn ghi lại cả giờ. Mười một giờ ba mươi tối, gần với giờ bà vợ ông ta đã bị sát hại.
Dane bóp gáy, miệng anh mím lại thành một đường thẳng. Chết tiệt, thật rắc rối. Người đàn ông này chôn cất vợ mình, rồi trở lại nơi bà ta đã bị sát hại và găm một viên đạn vào đầu mình.
Trammell đã quay trở lại trong phòng và đứng bên cạnh Dane, tự mình đọc bức thư. ” Đó là do mặc cảm tội lỗi hay là do sự tuyệt vọng?”
“Có quỷ mới biết được?”
“Cứt thật,” Trammell nói. Có cái gì đó trong ngôi nhà chết chóc này làm giảm mọi câu bình luận xuống một từ đơn giản, thô lỗ đó mà thôi. Thật là buồn.
Tới lúc hiện trường đã được niêm phong, thi thể được mang đi, và các giấy tờ cần thiết được làm xong, thì đã gần chín giờ tối. Dane nghĩ về việc gọi cho Marlie, nhưng quyết định không gọi. Anh không có tâm trạng tốt, và không cảm thấy lãng mạn chút nào. Trammell có hẹn, nhưng anh ta cũng gắt gỏng y như Dane, và đã huỷ hẹn. Thay vào đó họ đi tới quán ba ưa thích của cớm và diệt gọn vài cốc bia. Rất nhiều cớm đi uống một hoặc hai, hoặc ba chai trước khi về nhà. Đó là cách dễ nhất để dịu xuống, và một cơ hội để xả hết sự căng thẳng lên những người biết chính xác họ đang nói về cái gì, trước khi họ về nhà với vợ con và giả vờ là mọi chuyện đều ngọt ngào, sáng sủa.
“Nếu ông ta là thủ phạm, giờ chúng ta sẽ không bao giờ biết được,” Trammell gầm ghè, liếm bọt bia trên môi trên.
Dane luôn thích Trammell vì anh ta uống bia, thay vì một loại rượu ra vẻ ta đây nào đó. Anh có thể chấp nhận những bộ vét Italy và áo sơ mi lụa, giày Gucci, nhưng anh sẽ khó mà cặp kè với một gã uống rượu được. Anh không biết tại sao Trammell lại đột nhiên quyết định rằng Ansel Vinick là nghi phạm tốt nhất của họ, nhưng đôi khi tất cả bọn họ đều có những ý nghĩ điên khùng. “Tớ không nghĩ ông ta làm. Tớ nghĩ gã đàn ông tội nghiệp chỉ không thể sống sau khi tìm thấy vợ mình như thế.”
“Tớ không tin ông ta làm,” Trammell gắt gỏng chối cãi. “Tớ chỉ muốn đảm bảo là ông ta không thoát tội bởi vì chúng ta quá bận rộn tìm kiếm những bóng ma.”
Dane uống nốt cốc bia của mình. “Chà, có tội hay không, ông ta cũng đã không thoát. Muốn nữa không?”
Trammell xem xét chỗ bia trong cốc của mình. “Không, thế này là đủ rồi.” Anh ta dừng lời, vẫn còn cau có với thứ chất lỏng màu hổ phách. “Nghe này, Dane –”
Giọng anh ta trượt đi, và Dane nhíu mày, chờ đợi một cách kiên nhẫn. “Ừ, sao?”
“Những linh cảm của cậu ấy. Bản năng của cậu thường chính xác, và tất cả mọi người đều biết thế. Cậu có bao giờ nghĩ rằng… cậu cũng không khác Marlie là mấy không?”
Nếu Dane vẫn chưa uống hết cốc bia của mình, anh hẳn đã phun nó ra khắp bàn. Anh nghẹn, và câu “cái gì?” giận dữ của anh chỉ là một tiếng khò khè.
“Hãy nghĩ mà xem.” Trammell bị kích động vì chủ đề này, cúi người tới trước trên hai khuỷu tay đặt trên bàn. “Tất cả chúng ta đều có trực giác, tất cả chúng ta đều đi theo chúng. Hầu hết lần chúng ta không cần làm thế, vì tên thủ phạm thường ngồi đó mà hát hò như một chú chim non vô tội, nhưng chúng ta cũng gặp những vụ bí ẩn rất thường xuyên. Vậy những trực giác đó của chúng ta khác gì Marlie?”
“Vớ vẩn. Trực giác chỉ là tiềm thức nhận ra điều gì đó mà ngay lúc ấy chúng ta chưa nghĩ tới.”
“Đó cũng khá giống với những gì một nhà ngoại cảm làm, đúng không?”
Dane bắn cho anh ta cái nhìn chua chát. “Tớ nghĩ hai cốc bia là quá giới hạn của cậu một rồi đấy. Chúng ta có trực giác là bởi vì có thể nhìn thấy những bằng chứng, và nghĩ về những tình huống. Trời ạ, nhà ngoại cảm không cần phải ở bất cứ nơi đâu gần đấy hay biết bất cứ chuyện gì về tình huống ấy, họ chỉ góp nhặt những rung cảm, hay là cái gì gì ấy.”
Trammell vuốt tóc, làm nó lộn xộn. Dane bắt đầu cảm thấy cực kỳ lo lắng; có lẽ hai cốc bia là quá nhiều với Trammell. Chúa biết anh chưa từng thấy Trammell có đến một sợi tóc chỉa ra ngoài, trừ cái lần họ bị dính vào vụ bắn nhau và Dane dính một viên đạn, nhưng đó là một tình tiết giảm nhẹ.
“Tớ không thể quyết định nên tin vào cái gì,” Trammell lẩm bẩm. “Lô gic và luật xác xuất chỉ ra Ansel Vinick gần như chắc chắn là thủ phạm. Nhưng Marlie biết mọi thứ, trừ chuyện về những ngón tay, và làm sao cô ấy biết được nếu không phải là một nhà ngoại cảm thực? Nếu cô ấy là thế thật, thì Vinick vô tội và chúng ta lại trở về với con số không?” Anh ta nâng cốc của mình lên và uống cạn, rồi đặt nó xuống bàn với một tiếng thịch.
“Chúng ta chính xác là thế đấy. Số không. Tớ đang bắt đầu cảm thấy ngu ngốc rồi, bởi vì chắc như quỷ là chúng ta chẳng đạt được cái gì sất.”
“Không bằng chứng, không nhân chứng, không động cơ. Biết gì không?”
Khuôn mặt khôn ngoan, trông như thần nông của Trammell trông buồn thảm đến nỗi Dane phải cắn vào má trong của mình để khỏi cười toe. “Không, sao?”
“Tớ không chuyển hoá chất cồn tốt lắm,” người đồng sự bảnh bao của anh tuyên bố đầy tự trọng.
“Không!” Dane vỗ cả hai tay vào mặt mình. “Tớ không bao giờ có thể đoán được.” Cá nhân anh nghĩ rằng bất kì ai vẫn có thể nói “chuyển hoá” mà không ngọng nghịu thì vẫn còn tỉnh chán.
“Thường thì tớ cẩn thận hơn thế này. Tớ… nhấp môi thôi.”
“Cậu là nhà vô địch thế giới nhấp môi.”
“Cám ơn. Nhưng có lẽ tốt nhất cậu nên lái xe.”
“Tớ cũng nghĩ vậy. Giờ cậu sẵn sàng về nhà chưa?”
“Bất kì lúc nào cậu sẵn sàng. Cậu sẽ không phải đặt tớ lên giường hay gì đâu, nhưng tớ không muốn lái xe.”
“Tớ cũng không muốn cậu lái đâu, bạn già. Thôi nào, đi thôi.”
Trammell vẫn bước đi vững vàng, nhưng anh ta ngâm nga khe khẽ, và Dane gần như suýt cười phá lên. Ngân nga “Cô em Clementine của tôi” không hợp với hình ảnh đó chút nào. “Cậu có bị dư vị sau cồn không?” anh tò mò hỏi. Một dư vị chỉ vì hai cốc bia thì thật là buồn cười.
“Không bao giờ có,” Trammell nói. Họ đã ra ngoài, và anh ta hít một hơi thở sâu bầu không khí đầy mùi khói thuốc. “Việc này không thường xảy ra lắm. Không kể từ ngày học đại học.”
“Tốt.”
“Cậu sẽ không kể với ai chứ hả?”
“Không. Tớ hứa.” Việc đó rất cám dỗ, nhưng anh sẽ giữ lại cho mình. Mặc dù những điều hổ thẹn nhất là một trò chơi thú vị, nhưng đây là một việc mà Trammell không thể ngừng được, và mấy gã đồng nghiệp sẽ quần anh ta một cách không vui vẻ gì suốt cả phần đời còn lại. Mặt khác, có cái gì đó để thi thoảng giơ lên đầu Trammell cũng hay. Anh huýt sáo vui vẻ khi họ vào trong xe, tâm trạng của anh được phục hồi đáng kể.
***
Nghi lễ có tác dụng xoa dịu. Hắn thích mọi thứ lúc nào cũng xảy ra theo trình tự chính xác, bởi vì hắn ra lệnh như thế. Hắn không làm việc này thường xuyên đến nỗi nó thành chuyện thường ngày – việc đó sẽ làm giảm sức mạnh của nó – nhưng có một sự đảm bảo trong các bước chuẩn bị giống nhau. Biết rằng chính những bước chuẩn bị này sẽ làm cho cảnh sát không bao giờ có thể bắt được hắn mang lại cho hắn cảm nhận một sức mạnh hân hoan. Chúng chỉ bắt được những kẻ ngốc với những sai lầm ngu ngốc, và hắn thì không bao giờ mắc sai lầm. Chưa một lần.
Sự dự đoán cho đêm nay cứ dâng lên trong lòng hắn, nhưng hắn giữ nó dưới tầm kiểm soát chặt chẽ. Hắn muốn tập trung vào các bước chuẩn bị.
Đầu tiên là tháo bộ tóc giả vàng xoăn xuống. Đó là một bộ tóc giả rất tốt; hắn đã phải trả cả mớ tiền cho nó, nhưng nó đáng đồng tiền bát gạo. Không ai từng khám phá ra rằng nó là một bộ tóc giả. Không chỉ vì màu vàng là màu tóc thật của hắn, có nghĩa là không bị chọi màu, mà kiểu tóc xoăn còn là cái gì đó khiến mọi người ghi nhớ. Nó rất dễ nhận ra.
Chẳng có gì sai với tóc thật của hắn, hắn nghĩ khi đang quan sát thái dương tìm dấu hiệu tóc mọc trở lại nào đó. Nhưng sẽ thật ngu ngốc khi để một sợi tóc trở thành phương tiện để cảnh sát phát hiện ra hắn. Hắn đã cẩn thận cạo đầu, làm việc rất từ tốn, mặc dù chỉ có chút tóc mọc lởm chởm vì lần cuối của hắn quá gần.
Hắn thích cạo râu, sự ẩm uớt, cảm giác dinh dính của gel cạo râu, lưỡi dao đưa trên da thịt. Nó gần như giống với sex.
Tiếp theo là râu. Sẽ thật không ga lăng khi cào mụ ta bằng cái cằm lỉa chỉa. Rồi đến ngực. Hắn có một bộ lông ngực hình kim cương gọn ghẽ, và hắn khá là tự hào về độ dày của nó, nhưng nó cũng phải ra đi.
Rồi đến chân và cánh tay. Trơn láng. Chẳng trách phụ nữ cạo lông chân. Cảm giác thật tuyệt.
Cuối cùng, bộ phận sinh dục. Không một sợi lông nào sót lại để bị thu thập, kiểm tra, bị săn đuổi. Hắn cực kì cẩn thận ở khu vực này, bởi vì chỉ một vết xước nhỏ xíu thôi cũng có thể để lại một vệt máu không đáng chú ý. Việc đó đơn giản là không thể được. Và tất nhiên, hắn luôn mang bao cao su, để không có chút dịch nào. Hắn thậm chí còn có một kế hoạch dự phòng trong trường hợp bao cao su bị rách; nhưng từ trước tới nay hắn chưa phải dùng tới kế hoạch đó.
Hắn đã đọc được, một vài gã đàn ông không thể bị nhận dạng bởi tinh dịch của chúng; chúng được gọi là những người “phi bí mật”[1], và trong năm người đàn ông thì có một người như vậy. Cũng khá là hay khi biết được hắn có nằm trong hai mươi phần trăm đó hay không, nhưng hắn khó mà tới một phòng thí nghiệm và yêu cầu xác định tinh dịch của hắn là bí mật hay không bí mật được. Hắn không ngại phải đeo bao cao su; dù sao hắn cũng không muốn t*ng trùng của mình dính trong người phạm nhân.
Tiếp theo là quần áo của hắn. Đồ da. Không có sợi vải nào để bỏ lại, không có gì cho chúng một đầu mối. Hắn giữ bộ đồ da rất cẩn thận trong một chiếc hộp các tông, tránh xa khỏi mọi thứ khác. Hắn có một tấm phủ chỗ ngồi bằng nhựa để đặt lên trên ghế ngồi trong ô tô hắn, và sàn xe được trải bằng thảm nhựa. Hắn luôn luôn rất cẩn thận không để chân chạm vào bất kì thứ gì ngoại trừ tấm thảm, để giày của hắn không dính phải bất kì sợi nào của tấm thảm sàn xe. Chi tiết. Chú tâm tới chi tiết là tất cả. Không đời nào bọn cảnh sát xác định được hắn, bởi vì hắn chẳng để lại gì ngoại trừ chính đối tượng của bài học.
***
Thám tử Hollister đã không gọi, mặc dù Marlie trông mong gã sẽ gọi, hay thậm chí là xuất hiện mà không báo trước cứ như gã có khuynh hướng làm thế. Nàng đã bị căng thẳng, sợ gã sẽ gọi hay ghé qua, rồi khó chịu vì gã đã không làm thế. Cả hai cách, gã đều đã thành công trong việc huỷ hoại buổi tối yên bình của nàng ở nhà.
Nàng dập dình với ý tưởng ra ngoài xem phim, một phần để cản trở Hollister nếu gã có gọi, nhưng đã gạt bỏ ý tưởng đó. Nàng không thể quên chuyện đã xảy ra đêm thứ Sáu vừa qua. Mới chỉ một tuần thôi sao? Dường như đã cả tháng rồi. Có lẽ tuần sau nàng sẽ đi xem phim, nhưng không phải đêm nay.
Nàng lên giường sớm hơn thường lệ, trước mười giờ, thậm chí không thức để xem bản tin muộn. Nàng mệt mỏi; tuần lễ căng thẳng đã làm nàng kiệt sức. Thật là nhẹ nhõm khi được nhắm mắt lại và biết rằng nàng sẽ không phải đi làm vào sáng mai, rằng nàng có thể ở trên giường muộn chừng nào nàng muốn. Nàng thả lỏng trên đệm, cảm thấy các cơ bắp của mình nhão ra và trí óc chìm vào giấc ngủ…
– Hắn khẽ khàng di chuyển qua căn nhà. Ti vi đang bật om sòm, che dấu sự hiện diện của hắn. Hắn đứng chờ trong hành lang một lát, theo dõi mụ đàn bà đang ngồi quay lưng lại với hắn trong lúc mụ xem một bộ phim cũ, và sự khinh miệt lấp đầy trong hắn. Mụ ta quá dễ dàng. Hắn bước tới trước, từ từ, thưởng thức sự trì hoãn. Ánh sáng loang loáng từ chiếc ti vi phản chiếu trên lưỡi dao mảnh, cong cong của con dao trên tay hắn – Một âm thanh gầm gừ, như thú vật thoát ra từ sâu trong ngực nàng khi Marlie cố thét lên, cố gửi một thông điệp tuyệt vọng qua cổ họng nghẹn đắng của nàng. Lạy Chúa, ôi lạy Chúa. Nàng khóc thút thít, vật lộn với những tấm vải phủ khi nàng cố lăng mình ra khỏi giường. Hình ảnh quá thực tới nỗi nàng trông đợi nhìn thấy hắn lao vào nàng từ trong bóng tối, lưỡi dao bạc sáng loáng.
– Hắn đứng ngay đằng sau mụ ta, nhìn xuống mụ. Con chó cái ngu ngốc chẳng hề biết hắn ở đây. Hắn thích thế. Có lẽ hắn chỉ đứng ở đó cho tới hết phim, và tất cả thời gian đó mụ không hề biết – Nàng lảo đảo ra khỏi giường và ngã vì bị vướng vào tấm ga giường quấn quanh chân. Nàng tìm đường vùng ra khỏi tấm ga và loạng choạng đứng lên, điên cuồng nghiêng ngả sang hai bên khi nàng chạy tới cánh cửa. Cơn hoảng loạn làm mù mắt nàng, làm tê liệt não nàng – không, trời rất tối, đèn đóm đã tắt cả. Nàng lao vào tường, và bằng cách nào đó cú va chạm mạnh làm nàng vững vàng. Nàng mò mẫm tới công tắc đèn, nhưng nó không có ở đó.
– Việc này thật nhàm chán. Mỉm cười, hắn vươn tay chạm vào cổ mụ ta –
Marlie vấp ngã vào một bức tường khác, một bức tường đáng lẽ không được ở đó. Nàng đứng đó, run rẩy, hoàn toàn mất phương hướng. Nàng đang ở đâu?
Đèn pha từ một chiếc xe đi ngang qua nhất thời chiếu sáng căn phòng. Phòng khách. Làm thế nào nàng ra đây được? Nàng nhớ đã cố ra khỏi cánh cửa phòng ngủ, nhưng vẫn chưa với tới nó. Nhưng ít nhất bây giờ nàng biết đèn ở đâu.
Nàng gần như gạt cái đèn sang bên khi dò dẫm công tắc, và đột ngột ánh sáng ào ra làm nàng nhất thời bị loá. Điện thoại. Điện thoại ở ngay đó, trên bàn.
Số của gã. Số của gã là gì, chết tiệt? Nàng không thể nhớ, không thể nghĩ – nút gọi lại. Nàng đã gọi cho ai kể từ đêm đó chưa? Nàng không biết, không quan tâm. Nó sẽ gọi được ai đó. Nàng nhấc ống nghe lên, va mạnh vào thái dương nàng khi nàng cố giữ nó bằng bàn tay run rẩy khủng khiếp, và bấm vào nút mà nàng hi vọng là nút gọi lại. Tầm nhìn của nàng mờ đi, và nàng không chắc chắn.
Tiếng chuông đầu tiên reo trong tai nàng. Nàng nhắm mắt lại, chiến đấu để duy trì kiểm soát bản thân.
Tiếng chuông thứ hai. Nhanh lên. Làm ơn, nhanh nhanh nhanh.
Tiếng chuông thứ ba bị ngưng giữa chừng, và một giọng nói trầm, ngái ngủ, cáu kỉnh nói. “Hollister.”
“D-Dane.” Giọng nàng nhẹ, gần như mất kiểm soát.
“Marlie à?” Tất cả sự ngái ngủ biến mất. “Marlie, có chuyện gì?”
Nàng cố nói nhưng không thể; cổ họng nàng quá nghẹn. Nàng hít những hơi thở sâu, vội vã.
“Marlie, chết tiệt, nói gì đi!” Giờ gã đang thét vào tai nàng.
Nó đang tới. Nàng không thể chiến đấu với nó hơn nữa. Cơn run rẩy đã thành co giật, ánh sáng nhoà đi cùng với tầm nhìn của nàng. Nàng thực hiện một nỗ lực tuyệt vọng, hét lên, và giọng nàng chỉ là một tiếng thì thào. “Hắn… đang… làm lại… chuyện đó.”