Chương 1
Quán rượu trên biển
Có một hòn đảo nằm ẩn khuất xong những vòng tròn sương mù dày đặc, rất xa trên vùng biển Nicengas (phía nam Lithendu), tên của nó là Zamia. Người ta bắt đầu sinh sống tại đây từ sau khi thời Cuộc Chiến Vĩ Đại kết thúc, tuy nhiên không hề có bất kỳ một cuốn sách hay tấm bản đồ nào chỉ dẫn đến sự tồn tại này của nó. Giống như một con ó biển, nó chỉ xuất hiện trên những cuốn hải trình của những thương thần giàu có như một cẩm nang quý giá về việc buôn bán kinh doanh và cũng chỉ để truyền lại qua các thế hệ cháu con trong gia đình nếu chúng chấp nhận tiếp quản công việc làm ăn béo bở đó.
Nhưng có một điều khiến hòn đảo này trở nên bí mật và luôn là thế dưới con mắt của tất cả những nhà lãnh đạo Hội Đồng phép thuật Menvor là ở chỗ: hòn đảo này lưu giữ trạm trung chuyển cuối cùng giữa hai thế giới tiên và thần, cánh cửa kết nối trực tiếp duy nhất còn sót lại kể từ sau thời kỳ đen tối mà cái bóng của Cuộc Chiến Vỹ Đại đã bao trùm lên. Trạm trung chuyển đó vì thế cũng là một trong những khu vực quan trọng và được bảo đảm tuyệt đối kỹ lưỡng ở đây. Nhiều người tự hỏi vì sao trạm trung chuyển đó lại trở lên quan trọng đến như thế. Để trả lời câu hỏi này, hãy nhìn vào những đại thương thần ở đây và tìm hiểu tại sao họ lại trở lên cực kỳ giàu có đến vậy.
Cứ ba tháng, những cuộc vận chuyển hàng hoá phép thuật quy mô lớn qua lại giữa thung lũng Tiên Fisifa và Lithendu được tiến hành thông qua trạm chuyển này. Những thứ được vận chuyển qua đây thường là những đồ tạo tác ngoài giờ từ những công trường sản xuất của các yêu tinh nằm trong sự cai quản của tộc tiên. Chúng bao gồm nhiều loại từ vật dụng gia đình, đồ lưu niệm, trang trí đến những sản phẩm thủ công tinh xảo, thậm chí là cả vũ khí. Những món đồ hiếm hoi đó dường như trở thành một chuẩn mực sản phẩm có giá trị chỉ giành riêng cho những gia đình thượng lưu giống như một thước đo mới của sự giàu có. Vì vậy, nghiễm nhiên chúng trở thành những con gà đẻ trứng vàng, những cái cây mọc ra quả bạc cho những đại thương thần.
Và tất nhiên, chúng không bao giờ muốn cho công việc làm ăn đó bị đình chệ hay phát giác bởi mối bất đồng gần một nghìn năm nay chưa bao giờ nguội đi trong tư tưởng của những nhà lãnh đạo Hội Đồng về Tiên. Những tay buôn đã không ngần ngại chi ra một số tiền khổng lồ để xây dựng lên một chuỗi liên hợp nhà hàng-quán rượu-khu nghỉ dưỡng như tạo lớp nguỵ trang kép cho những hoạt động giao thương bất hợp pháp phía sau đó.
***
Một chiếc thuyền trắng đang len lỏi qua nhiều hàng cột đá sừng sững, ẩn khuất sau những màn mây mù dày đặc. Một người đàn ông mặc áo choàng xám dài đang đứng đó, đưa mắt nhìn vào khoảng không gian xa xôi trước mặt như để xem xét tình hình. Cái thuyền vẫn nhẹ nhàng lướt đi, nhẹ nhàng tránh lé những cái cột thình lình hiện ra ngay dưới lớp sương mù. Khi những lớp sương mù ấy đã dần tan biến, một hòn đảo hùng vĩ hiện ra với nhiều ngôi nhà siêu vẹo, đổ nát, những trạm thuyền trơ trọi, hoang vắng, những cây cầu nhô ra biển đôi cái đã mục nát và gãy nham nhở.
Cột chiếc thuyền vào một cái cọc chắc chắn, nhặt chiếc gậy trên khoang, người đàn ông bước lên khỏi sóng nước, bắt đầu đi lên dọc theo những bậc thang giờ phủ đầy lá và cát dẫn lên khu đồi phía trên. Những dãy nhà đổ nát bắt đầu hiện ra rõ rệt hơn, trên con đường chính vất bừa bãi đầy những thùng gỗ, những bảng hiệu gãy đổ và rách nát, lớp lá cây dưới đất đã bắt đầu mục nát tạo lên một mùi ngai ngái nhè nhẹ. Những con ó biển thỉnh thoảng lại ngó đầu ra khỏi cái ổ bằng lá khô, đâu đó trên ống khói hay cửa vòm của một ngôi nhà bỏ hoang nào đó, đưa mắt nhìn theo người đàn ông đang lặng lẽ bước đi.
Khi ông ta bắt đầu nghĩ rằng ông sẽ phải quay lại vì chẳng còn ai có vẻ như đang sinh sống trên hòn đảo khô cằn, mục nát này nữa thì bỗng có tiếng gọi với lên từ phía sau khiến ông giật mình:
– Bryant?
Ông quay lại, ngạc nhiên không nói lên được một lời nào. Trước mặt ông là một lão già chừng 60 tuổi nhưng điệu bộ vẫn rất khoẻ khoắn, lão đang bê một chậu lớn chất đầy cá, bước thoăn thoắt lên những bậc thang đá mà ông vừa đi qua rồi tiến băng băng về chỗ ông đang đứng. Khi đã tới gần, lão hẩy nhẹ thau cá với ý là ta đi tiếp thôi rồi xung phong dẫn đường. Lão vừa đi vừa nói:
– Ta thấy một cái thuyền vẫn còn mới ở cảng và tự hỏi không hiểu kẻ nào lại đang vác xác tới đây.
Bryant nhận xét:
– Hòn đảo trông tệ quá!
Lão cười lớn, tay xốc lại chậu cá:
– Ừ! Đúng là có lúc huy hoàng rồi cũng phải có ngày tàn lụi! Mà sao hôm nay lại tới tìm lão già này?
– Tôi có nghe chuyện từ những tay thương lái hồi tuần rồi khi chúng vào thị trấn. Và muốn đến thăm xem tình hình ngài thế nào!
Lão hớn hở nói:
– Vậy thấy ta thế nào? Vẫn phong độ chứ hả?
Brandon cười nói:
– Giống một cậu trai 18!
Lão cũng cười lớn rồi bỗng dừng lại ở một ngôi trông giống nhà hơn hết, nó vẫn còn sáng màu và chưa bị dây leo cuốn lấy. Lão đẩy cửa bước vào kèm theo một lời mời nhiệt tình:
– Vào đi!
Bryant lặng lẽ nhìn một vòng căn phòng trước đây đã từng là một quán rượu đông đúc người, ông nhớ những tiếng ồn ào quát tháo của mấy gã say xỉn vào lần trước tới đây chừng hơn 1 năm về trước, những tiếng chạm cốc leng keng, những tiếng zô ầm ĩ đến inh tai và những cô gái phục vụ tấp nập bưng những khay bia đầy ắp ra cho khách. Nhưng đó là cái thời kỳ đã như qua lâu lắm rồi, giờ đây, trong quán chỉ còn chơ lại những cái bàn trống đã được xếp gọn ở một góc phòng, bên dưới lớp vải trắng đã phủ kha khá bụi. Đây đó có vài hộp gỗ trồng đủ mọi loại cây đặt trên những cái kệ, ngay cạnh cửa sổ. Sàn nhà và tường bong chóc sứt mẻ và cũng phủ một lớp bụi dày không kém với những thanh kèo vắt ngang cái mái trần thấp.
Có lẽ thứ sạch nhất có thể nhận ra trong căn phòng lúc này chính là khu quầy rượu. Bryant nhìn ngắm từng chai rượu còn mới tinh, tem mác cẩn thận, được đặt ngay ngắn sau những ô tủ kính sáng màu vuông vức. Một bảng hiệu làm bằng gỗ được đục chạm nhiều nét hoa văn tinh tế đặt ngay ngắn trên quầy, trên đó có khảm dòng chữ được bằng đồng trông vẫn còn khá mới:
” Quán rượu của Richard Wooberick
Phục vụ thương thần 24/7″
Lão vừa quay lại sau khi đem cất chậu cá vào gian trong, trên tay lão còn cầm theo hai cốc thuỷ tinh lớn (thứ hay dùng để đựng bia trước đây) chứa đầy một loại nước màu cam sóng sánh sủi bọt. Lão nói với Bryant:
– Nào! Giúp ta một tay! Bày cho ta một cái bàn, được chứ hả?
Một cái gõ nhẹ xuống nền đất bằng đầu gậy, Bryant đã khiến ột chiếc bàn và hai cái ghế đang nằm chổng kềnh ở góc phòng với những cái khác, bỗng lục cục đứng dậy, lướt nhẹ trên những lớp không khí, cuốn nhiều bụi bặm trên sàn nhà bay theo và đáp xuống ngay cạnh chỗ lão chủ quán Richard đang đứng. Lão đặt hai cốc nước xuống mặt bàn, lấy tay kéo một ghế ình rồi nặng nề thả mình một cách khá mệt nhọc. Bryant cũng ngồi xuống cái đối diện. Lão chủ quán nói:
– Hai ly nước bí cuối cùng trong kho đấy! – rồi lão tự thưởng ình một hớp ngon lành, bộ râu rậm rạp vương vãi vài giọt nước khi lão nói – Bọn thương thần trong đất liền chả đến đây nữa lên không còn quả bí nào trong kho cả!
Bryant cũng thử uống một ngụm, thứ nước bí để lâu ngày đã bắt đầu lên men tạo ra một vị cay cay chua chua rất khó chịu. Ông đặt ly nước trở lại bàn, ông hỏi:
– Giờ chỉ còn mỗi ông trên đảo này thôi sao?
Richard nhấp thêm một ngụm to nữa rồi mới trả lời:
– Họ cuốn gói đi hết kể từ lúc nghe tin bọn tiên đánh nhau. Ai mà chả sợ vạ lây, với lại bọn thương thần cũng muốn đóng cửa hòn đảo vô thời hạn vì công việc nằm ăn thời chiến thì coi như hỏng bét hết rồi còn gì. Các xưởng yêu tinh làm việc tối đa công xuất để chế tạo vũ khí.
Brandon hỏi ngay:
– Vậy chuyện là thế nào? Vì sao giới tiên lại xảy ra chiến tranh vậy?
Lão Richard suy ngẫm mất một lúc, cái thân hình sồ xề ngả về phía sau. Lão kể:
– Ta nghe Vicemt kể là bọn thương tiên nói, hình như có kẻ trong triều bất đồng quan điểm với lão vua già khú của chúng về chuyện chọn người kế vị gì đó, hắn nói hoàng hậu không chung thuỷ và rằng công chúa không phải con vua. Thế là lão ta mới tức tối ra lệnh chém đầu tên nghịch thần đó và rồi tên đó được cớ tạo phản! – Lão đế thêm – Đúng là lũ tiên rác rưởi, ta chúa ghét chúng, ta chưa bao giờ ta cho 1 tên tiên nào vào quán của ta hết!
Bryant như để nói với chính mình:
– Vậy là chúng đã biết về sự có mặt của con bé?
Lão Richard mở mắt to hơn bao giờ hết, lão hỏi lại:
– Con bé nào?
Bryant có vẻ bối rối, nét mặt ông ta căng cứng lên vì lo lắng:
– Lyaa!
Lão Richard lại uống thêm một ngụm nước bí trước khi hỏi:
– Sao lại liên quan tới con bé đó?
Bryant giải trình:
– Hoàng Hậu đã nuôi Lyaa từ nhỏ. Chắc chúng nghĩ rằng Hoàng Hậu là mẹ con bé!
Gương mặt lão chủ quán đã bắt đầu trở lên tím tái một cách kỳ lạ. Lão hỏi đầy nghi hoặc:
– Ta tưởng mụ ta đã không hề cho ai biết?
Brandon suy tư:
– Tôi cũng không biết! Nhưng bằng cách nào đó, những dấu hiệu đã tố cáo nó và chắc rằng với tính khí giống mẹ, nó sẽ chẳng bao giờ chịu ở yên trong phòng đâu!
Đôi lông này rậm rạp của Richard bắt đầu vểnh lên, xô những nếp nhăn nghi hoặc dày lại trên trán lão, lão chồm tới trước, hỏi đầy hăm doạ:
– Có phải thằng Jordan kêu cậu đến gặp ta để giúp đỡ hai kẻ đó không?
Brandon nói, cố giữ giọng bình tĩnh hết mức có thể:
– Ngài ấy chỉ muốn giúp…
Chưa chờ ông nói hết câu, lão đã chen ngang:
– Giúp mụ ta để đem tai hoạ lên toàn Lithendu sao? Chẳng lẽ thằng đó ngu ngốc đến mức tự mình vác lửa đốt nhà mình sao?
Brandon vẫn cố giữ một thái độ hoà nhã nhất có thể:
– Lyaa là người duy nhất còn sót lại mang thân phận hoàng tộc. Nó là cơ hội duy nhất để kết thúc chiến tranh ở Fisifa.
Lão Richard vẫn khăng khăng giữ thái độ của mình:
– Đó là chuyện của chúng! Không liên quan gì đến nơi này cả!
– Nhưng mưu đồ của những kẻ phản loạn không chỉ dừng lại ở việc muốn cướp ngôi! – Brandon giải thích – Hai ngày trước khi cuộc chiến xảy ra, ngài Jordan có nhận được một lá thư từ Hoàng hậu. Bà ấy nói rằng tình hình ở Fisifa đang dần xấu đi. Nguồn phép thuật của họ đang hao mòn. Toàn thể quận thần yêu cầu nhà vua phải khởi tạo một cuộc chiến tranh để giành thêm nhiều nguồn lợi phép thuật hơn. Cái đích mà chúng nhắm tới là Lithendu, là các thần. Nhà vua đã không đồng ý. Và đó mới chính là cái cớ mà chúng khởi tạo chiến tranh để giành lấy ngôi vua… Chúng muốn tự mình thực hiện Vuộc Chiến Vĩ Đại một lần nữa!
Lúc này lão đã đứng lên, lão hất cánh tay lực lưỡng, cánh cửa chính bị phép thuật của lão giật mạnh đến nỗi bong cả bản lề, nó đổ sập xuống nền nhà tạo lên một tiếng RẦM điếc tai, kéo theo đó nhiều cát bụi bay tứ tung. Lão chỉ tay ra ngoài, nói với Richard:
– Vậy thì câu trả lời càng phải là KHÔNG! Ta sẽ tự tay phá huỷ trạm chuyển để chúng không bao giờ đặt chân được lên đất của ta! Giờ thì đi về đi!
Bryant cũng đứng dậy:
– Ngài vẫn chưa hiểu sao? Con bé là hy vọng duy nhất để kết thúc cuộc chiến này nếu nó xảy ra. Đối với dân chúng Fisifa, con bé vẫn là công chúa, vẫn là niềm tin của họ. Những nghịch thần đã làm mất đi điều đó khi chúng ngang nhiên đoạt chính và ám hại Nhà vua! Đấu tranh ít thương vong nhất phải được tiến hành từ chính bên trong kẻ thù!
Gương mặt phương phi của lão chủ quán đổi từ tím ngắt sang trắng bệch. Lão ngồi phịch xuống ghế, hai mắt chân chân nhìn về phía cửa. Có vẻ như Bryant đã lấy được nhiều hơn lợi thế về mình, ông tiếp:
– Con bé mang trong mình hai dòng máu. Nó sẽ là cây cầu đầu tiên giúp giải toả những bất đồng giữa hai dân tộc suốt hơn một ngàn năm qua…
Lão Richard dơ tay ra hiệu không cần nói thêm gì nữa:
– Nó vẫn là thằng hèn nhác vậy sao?
– Cái gì?
– Sao nó không phải là người đến gặp ta hôm nay? Sao nó không phải là người nói cho ta nghe những điều đó? Sao nó cứ mãi nằm im trong cái vỏ bọc hào nhoáng mà người ta đang trùm lên cho nó vậy?
Có một thoáng im lặng…
– Sau bao sai lầm, nó vẫn là đứa đặt sự ích kỷ của nó lên trên tất cả sao? – Lão Richard lại tiếp tục với những suy nghĩ đau khổ – Sau ngần ấy năm mà nó không hề rút được bài học nào sao?
Nói rồi lão chống tay lên mặt bàn đứng dậy, lững thững dậm từng bước nặng trịch xuống tấm sàn gỗ, bước quay vào nhà trong. Một vệt trắng sáng lăn dài trên gò má lão. Khi đến cửa, lão mới ngập ngừng nói:
– 8h!… Tối mai!… Dù có chuyện gì thì cũng bảo nó rằng, nó không thể mãi hèn như thế được… Hãy trả lại tất cả những gì nó đã nợ Smith!