“Sau này, khi đã biết Helen trong nhiều tình huống hơn, kể cả những tình huống chúng ta quen gọi là đời thường, cô vẫn không ngừng khiến cha phải ngạc nhiên. Cha thường kinh ngạc trước khả năng liên kết nhanh các sự kiện trong đầu óc cô, những liên kết thường dẫn đến sự thấu hiểu bản chất sự việc mà phải mất khá lâu bản thân cha mới đạt đến được. Cô còn làm cha phải sững sờ với kiến thức uyên bác tuyệt vời của mình. Helen có đầy những chuyện bất ngờ như vậy, và cha dần dần xem chúng như cái giá mình phải trả hằng ngày, một sự nghiện ngập đối với khả năng luôn khiến cha bất ngờ ở cô. Nhưng chưa bao giờ cô làm cha hoảng hốt như khoảnh khắc ở Istanbul, lúc cô bất ngờ nổ súng vào tay thủ thư kia.
“Tuy nhiên, cha không có thời gian để ngạc nhiên, vì hắn chỉ trượt ngã sang một bên và ném một cuốn sách sượt qua đầu cha, sách trúng một cái bàn đâu đó bên trái cha, rồi rơi xuống sàn. Helen lại bấm cò, vừa tiến lên phía trước vừa nhắm bắn với vẻ bình tĩnh khiến cha nghẹt thở. Rồi phản ứng kỳ quái của tên tay sai khiến cha phải kinh ngạc. Từ trước đến nay, cha chưa bao giờ thấy ai bị bắn, ngoại trừ trong phim ảnh, nhưng trong phim, than ôi, kể từ hồi mười một tuổi cha đã xem bộ phim trong đó cả ngàn người da đỏ chết trước mũi súng, sau này còn thấy đủ mọi hình tượng tội phạm, cướp ngân hàng, đám lưu manh côn đồ, cả bọn lính Đức Quốc xã, được Hollywood thời chiến hăng hái tạo ra để bắn giết. Điều kỳ lạ của vụ nổ súng này, một vụ nổ súng thực sự, là dù có một vết đen do trúng đạn hiện trên áo, tại một chỗ dưới vùng xương ức, nhưng hắn không hề tỏ vẻ đau đớn, đưa tay chộp ngay vào chỗ đó. Viên đạn thứ hai sượt qua vai; gã bỏ chạy, lủi vào kho sách ở cuối sảnh.
“ ‘Cánh cửa!’ Turgut la lên phía sau cha. ‘Có một cánh cửa ở đó!’ Bọn chúng ta chạy đuổi theo hắn, va vấp lung tung vào bàn ghế. Selim Aksoy mảnh khảnh và nhanh như một chú linh dương, vọt đến chỗ các kho sách trước tiên và biến mất vào trong đó. Bọn ta nghe thấy âm thanh một cuộc ẩu đả, cùng với một tiếng rầm, đúng hơn là tiếng cửa sập, và nhận ra Aksoy đang nằm sóng soài, thân hình bị đè dưới một đống bản thảo viết tay từ thời Ottoman, một cục u bầm tím hiện rõ trên một bên má anh ta. Turgut chạy về phía cánh cửa, cha cũng chạy theo, nhưng cánh cửa đã đóng chặt. Khi mở được nó ra, chúng ta chỉ thấy một con hẻm nhỏ vắng tanh, không có gì ngoài một chồng hộp gỗ. Turgut và cha sóng đôi sục sạo cả khu vực rối rắm như một mê cung đó, nhưng không thấy dấu vết nào của tên tay sai kia, chắc hẳn hắn đã bay mất rồi. Turgut chặn một vài khách bộ hành lại để hỏi nhưng không ai trông thấy nhân vật của chúng ta.
“Một cách miễn cưỡng, hai chúng ta quay trở về trung tâm lưu trữ, Helen đang cầm khăn tay lau má cho Aksoy. Không thấy cây súng ở đâu nữa, các tập bản thảo cũng đã xếp lại ngay ngắn trên những giá sách. Cô ngước nhìn lên khi bọn ta bước vào. ‘Anh ta đã ngất đi khoảng một phút,’ Helen lên tiếng, giọng bình tĩnh, ‘nhưng bây giờ thì ổn rồi.’
“Turgut quỳ xuống bên cạnh bạn mình. ‘Selim, đầu anh u to quá.’
Selim Aksoy nở một nụ cười thiểu não. ‘Tôi được chăm sóc tốt rồi mà,’ anh ta trả lời.
“ ‘Chuyện đó thì tôi thấy rồi,’ Turgut đồng tình. ‘Helen này, tôi thành thực khen ngợi nỗ lực của cô. Nhưng cố giết một kẻ đã chết là một việc vô ích.’
“ ‘Làm sao ông biết?’ cha hỏi, há hốc vì kinh ngạc.
“ ‘Ồ, tôi biết chứ,’ ông trả lời, giọng dứt khoát. ‘Tôi biết cái vẻ mặt đó. Đó là nét mặt của quỷ nhập tràng. Chẳng có khuôn mặt nào khác giống như vậy cả. Tôi đã từng nhìn thấy vẻ mặt đó.’
“ ‘Dĩ nhiên, đó là một viên đạn bạc.’ Helen miết chiếc khăn tay mạnh hơn lên má Aksoy, để đầu anh ta tựa hờ lên vai. ‘Nhưng, như các anh đã thấy, hắn di chuyển nên tôi đã không bắn trúng tim. Tôi biết mình đã liều lĩnh – cô nhìn cha một lúc lâu, nhưng cha không thể đoán cô đang nghĩ gì – nhưng chính bản thân ông cũng thấy là tôi đã ngắm khá chuẩn. Một người bình thường hẳn đã bị thương nặng vì những phát đạn như vậy.’ Cô thở dài, chỉnh lại chiếc khăn tay.
“Cha hoang mang nhìn hết người này qua người khác. ‘Chẳng lẽ lúc nào cô cũng mang khẩu súng đó đi khắp nơi như vậy sao?’ cha hỏi.
“ ‘Ồ, vâng.’ Cô quàng cánh tay Aksoy qua vai mình. ‘Đến đây nào, giúp tôi đỡ anh ta dậy.’ Bọn ta cùng nâng anh ta dậy và giúp anh ta tự đứng vững – anh chàng nhẹ như một đứa trẻ. Anh ta mỉm cười gật đầu, nhún vai tỏ ý không cần đến sự trợ giúp của bọn ta nữa. ‘Vâng, tôi luôn mang theo súng của mình mỗi khi cảm thấy có gì đó… bất an. Và kiếm một hai viên đạn bạc cũng chẳng phải là việc quá khó khăn.’
“ ‘Đúng vậy.’ Turgut gật đầu.
“ ‘Nhưng cô đã học bắn súng ở đâu vậy?’ Cha vẫn còn kinh ngạc bởi khoảnh khắc Helen rút súng ra rồi ngắm bắn nhanh đến vậy.
“Helen bật cười. ‘Ở đất nước tôi, nền giáo dục của chúng tôi tuy hạn hẹp nhưng lại sâu,’ cô giải thích. ‘Năm mười sáu tuổi tôi được giải thưởng của đoàn thanh niên về môn bắn súng. Tôi mừng là mình đã không quên cách ngắm bắn như thế nào.’
“Đột nhiên Turgut la lên và vỗ tay lên trán. ‘Ông bạn tôi!’ Cả bọn chúng ta đều mở to mắt ngạc nhiên. ‘Bạn tôi – Erozan! Tôi quên bẵng ông ta.’
“Phải mất một lúc chúng ta mới hiểu được Turgut muốn nói gì. Anh chàng Selim Aksoy, lúc này có vẻ đã hồi phục, là người đầu tiên phóng vào kho sách, nơi anh ta đã bị đả thương, ba người còn lại trong chúng ta nhanh chóng tỏa ra khắp căn phòng dài, tìm kiếm dưới bàn hoặc sau ghế. Sau một vài phút, không ai tìm thấy ông ta. Sau đó, có tiếng Selim gọi, chúng ta vội ùa đến chỗ anh ta. Aksoy đang quỳ trong kho sách, dưới chân một cái giá cao chất đủ loại hộp, bao, cuộn giấy. Chiếc hộp đựng các tài liệu của Giáo đoàn Rồng nằm dưới sàn, bên cạnh anh, nắp hộp chạm trổ đã bật mở và một số tài liệu chứa bên trong bị vứt tung kế bên.
“Giữa đống di vật này, ông Erozan nằm ngửa sóng soài, trắng nhợt và bất động, đầu ngoẹo qua một bên. Turgut quỳ xuống, áp tai vào ngực người bạn. ‘Cảm tạ Thượng đế,’ sau một lúc ông thốt lên. ‘Ông ấy còn thở.’ Rồi, quan sát kỹ hơn, ông ta trỏ tay vào cổ người bạn. Nằm sâu dưới khoảng da thịt mềm và xanh tái ngay phía trên cổ áo là một vết thương gớm ghiếc. Helen quỳ xuống bên cạnh Turgut. Một lúc lâu, không ai nói gì. Dù đã nghe thầy Rossi mô tả về gã quan chức mà thầy đụng đầu nhiều năm về trước, dù đã biết việc Helen bị thương trong thư viện ở quê nhà, cha vẫn thấy khó tin được điều mình đang chứng kiến. Gương mặt người thủ thư tái mét, gần như đã trở xám, hơi thở yếu ớt, ngắt quãng từng cơn, phải rất lắng tai mới nghe được tiếng thở đó.
“ ‘Ông ta bị nhiễm rồi,’ Helen khẽ nói. ‘Tôi nghĩ ông ta đã mất rất nhiều máu.’
“ ‘Hôm nay thực là một ngày đáng nguyền rủa!’ Khuôn mặt Turgut lộ vẻ đau khổ, siết chặt bàn tay người bạn trong hai bàn tay to lớn của mình.
“Helen là người đầu tiên trấn tĩnh lại. ‘Chúng ta cần phải suy nghĩ một cách hợp lý. Có lẽ, đây chỉ là lần đầu tiên ông ta bị tấn công.’ Cô quay sang Turgut. ‘Hôm qua, lúc ở đây giáo sư không thấy ở ông ta bất kỳ dấu hiệu nào thế này chứ?’
“Turgut lắc đầu. ‘Ông ta hoàn toàn bình thường.’
“ ‘Vậy thì tốt.’ Cô lục trong túi áo khoác, trong một thoáng cha chợt rúm người lại, vì nghĩ cô lại chuẩn bị rút súng ra. Thay vì vậy, cô lôi ra và đặt lên ngực người thủ thư một củ tỏi. Dù toàn bộ cảnh này rất nghiêm trang, Turgut vẫn không khỏi mỉm cười và cũng rút trong túi ra một củ tỏi, đặt nó chung với củ tỏi của Helen. Cha không thể hình dung được cô đã lấy củ tỏi đó ở đâu – có lẽ trong lúc chúng ta đi dạo ở khu chợ người Hồi giáo, khi cha đang mải mê nhìn ngắm những cảnh quan khác? ‘Tôi nghĩ vậy là chí lớn gặp nhau rồi,’ Helen nói với Turgut. Sau đó, cô lấy rồi mở một gói giấy, bày ra một chiếc thánh giá nhỏ bằng bạc. Cha nhận ra đó là cây thánh giá bọn ta đã mua ở nhà thờ Công giáo gần trường đại học, cô đã sử dụng nó để dọa gã thủ thư quỷ quái kia khi hắn tấn công cô trong khu vực sách lịch sử của kho sách thư viện.
“Lần này Turgut ôn tồn khoát tay ngăn cô lại. ‘Không, không,’ ông ta thốt lên. ‘Ở đây, chúng tôi có những kiểu mê tín của riêng mình.’ Từ đâu đó bên trong áo khoác, ông ta lấy ra một tràng hạt gỗ, giống các tràng hạt cha nhìn thấy trong tay những người đàn ông trên đường phố Istanbul. Cuối tràng hạt này là một tấm mề đay có khắc chữ Ả-rập trên cả hai mặt. Ông ta nhẹ nhàng rà tấm mề đay lên môi ông Erozan, gương mặt người thủ thư nhăn lại, như bị làm cho ghê sợ, giần giật và co rúm. Một cảnh tượng dễ sợ nhưng kéo dài không lâu, và rồi người thủ thư mở mắt, nhíu mày. Turgut cúi xuống, dịu dàng nói gì đó bằng tiếng Thổ, sờ vào trán rồi bất ngờ lôi trong áo khoác ra một cái chai dẹt chứa chất gì đó và cho ông thủ thư uống một ngụm.
“Một phút sau, Erozan ngồi dậy, nhìn quanh, đưa tay sờ lên cổ tựa như chỗ đó hãy còn đau. Khi những ngón tay cảm nhận được những giọt máu rỉ ra rồi khô dần trên vết thương nhỏ bé kia, ông úp mặt vào lòng bàn tay, bật khóc nức nở, một âm thanh não lòng.
“Turgut quàng tay lên vai còn Helen thì đặt một bàn tay lên cánh tay người thủ thư. Cha chợt nhớ, chỉ trong vòng một giờ qua, đây là lần thứ hai cô dịu dàng chăm sóc cho một người bị đau đớn khổ sở. Turgut bắt đầu hỏi han người thủ thư bằng tiếng Thổ, sau vài phút ông ta ngồi xổm lên, nhìn ba chúng ta. ‘Ông Erozan cho biết, sáng nay tên lạ mặt kia đã đến chỗ căn hộ ông ta rất sớm, lúc trời vẫn còn tối, và hăm dọa giết nếu ông ta không mở cửa thư viện cho hắn. Sáng nay, khi tôi gọi điện, tên ma cà rồng kia đã ở bên cạnh rồi nhưng ông ta không dám nói. Khi tên lạ mặt kia biết được người gọi, hắn bảo ông ta phải đến trung tâm lưu trữ ngay, cùng với hắn. Ông Erozan phải tuân theo vì sợ hãi, khi đến nơi, hắn bảo ông ta mở cái hộp kia ra. Ngay khi chiếc hộp vừa bật mở, con quỷ liền nhảy bổ vào, vật ông ta xuống đất – ông bạn tôi cũng cho biết là gã mạnh kinh khủng – rồi cắn vào cổ ông ta. Đó là tất cả những gì ông ta nhớ được.’ Turgut lắc đầu, vẻ buồn rầu. Ông Erozan đột ngột níu chặt cánh tay Turgut, và nói một tràng tiếng Thổ, có vẻ như đang van xin một điều gì đó.
“Một lúc lâu, Turgut vẫn không nói gì, rồi sau đó, như thay cho một câu trả lời câm lặng, ông ta siết chặt và ấn tràng hạt vào đôi tay người bạn mình. ‘Ông ta nói với tôi rằng ông ấy hiểu, chỉ cần bị tên quỷ kia cắn hai lần nữa là cũng trở thành quỷ như hắn. Ông ta yêu cầu nếu việc đó xảy ra mà không cách nào tránh khỏi thì chính tay tôi hãy giết ông ta.’ Turgut quay đi, cha nghĩ mình đã thấy những giọt nước mắt long lanh trong đôi mắt ông.
“ ‘Không đến nỗi thế đâu.’ Mặt Helen đanh lại. ‘Chúng ta sắp lần ra nguồn gốc của điều tồi tệ này rồi.’ Cha không biết cô có ý muốn ám chỉ tên thủ thư xấu xa kia hay chính Dracula, nhưng khi nhìn thấy quai hàm cương nghị của cô, cha hầu như tin chắc vào thắng lợi sau cùng của chúng ta trong việc đánh bại cả hai kẻ đó. Trước đây, cha đã từng chú ý vẻ mặt đó của cô, bây giờ nhìn thấy nó cha lại chợt nhớ đến buổi ăn tối ở quê nhà nơi lần đầu tiên chúng ta đã đề cập đến gốc gác của cô. Sau đó cô đã thề phải tìm ra và lật mặt nạ người cha bội bạc của mình trước thế giới học thuật. Cha băn khoăn tự hỏi phải chăng mình đã tưởng tượng ra chuyện đó hay vào một lúc nào đó sứ mệnh của cô đã đổi thay mà chính bản thân cô cũng không hay biết?
“Selim Aksoy vẫn lảng vảng phía sau chúng ta, lúc này anh ta lại đang nói gì đó với Turgut. Ông giáo sư gật đầu. ‘Anh Aksoy nhắc nhở tôi về công việc mà chúng ta đến đây làm, anh ta có lý đấy. Chẳng bao lâu nữa, những người nghiên cứu khác sẽ đến, chúng ta phải chọn lựa hoặc đóng hoặc mở cửa trung tâm cho công chúng. Anh ta đề nghị bỏ mặc cửa hàng của mình hôm nay, và làm người thủ thư thay thế ở đây. Nhưng trước tiên, chúng ta phải dọn dẹp mớ tài liệu này, xem chúng có hư hỏng mất mát gì không, và quan trọng hơn hết phải tìm một chỗ an toàn để ông bạn tôi nằm nghỉ. Ngoài ra Aksoy còn muốn chỉ cho chúng ta một vài điều trong trung tâm trước khi người khác đến.’
“Cha lập tức thu dọn các tài liệu rơi vương vãi đây đó, và nỗi lo sợ tệ hại của cha được xác nhận ngay. ‘Mất các bản đồ gốc rồi,’ cha rầu rĩ báo lại với mọi người. Chúng ta lục tìm trên các giá kệ, nhưng các bản đồ của khu vực kỳ lạ trông giống con rồng đuôi dài kia đã biến mất. Chúng ta chỉ còn biết kết luận rằng tên ma cà rồng kia đã kịp giấu chúng vào người trước khi chúng ta đến. Quả là một ý nghĩ u ám. Lẽ tất nhiên, chúng ta còn có các bản sao, cả bản của thầy Rossi lẫn giáo sư Turgut, nhưng đối với cha, các bản chính tượng trưng cho chìa khóa dẫn đến nơi giam cầm thầy Rossi, một mối liên kết gần gũi hơn rất nhiều so với bất kỳ thứ gì khác cha đang có trong tay.
“Cộng thêm vào sự chán nản vì mất các tấm bản đồ quý báu là ý nghĩ tên thủ thư xấu xa kia có thể khám phá ra bí mật trong đó trước chúng ta. Nếu thầy Rossi đang ở chỗ hầm mộ Dracula, bất luận nó tọa lạc ở đâu, thì giờ cơ hội để gã thủ thư quỷ quái kia đánh bại chúng ta ở ngay đó cũng đã khá lớn. Cha chưa bao giờ cảm thấy vừa nôn nóng vừa bất lực về việc tìm kiếm vị giáo sư hướng dẫn kính yêu của mình đến vậy. Ít nhất – cha lại nhận ra, một cách kỳ lạ – hiện tại Helen vẫn vững vàng bên cạnh cha.
“Turgut và Selim đang bàn bạc bên cạnh người bạn thủ thư ốm yếu, hiện tại có vẻ họ đang hỏi ông ta một câu gì đó, vì ông ta cố gượng dậy và yếu ớt trỏ tay về phía sau kho sách. Selim biến mất, một phút sau trở lại với một cuốn sách nhỏ, bìa bọc da màu đỏ, hơi sờn rách, một dòng chữ Ả-rập màu vàng trên trang bìa. Anh ta đặt nó lên bàn, xem qua một lúc rồi vẫy tay ra hiệu gọi Turgut lại, ông giáo sư đang cuộn cái áo khoác lại để làm gối cho Erozan, xem ra bây giờ ông đã khỏe hơn. Cha đã định mở miệng đề nghị gọi xe cứu thương, nhưng rồi cảm thấy hẳn Turgut biết phải hành xử thế nào. Xong Turgut đứng dậy đi đến chỗ Selim, cả hai lại sôi nổi bàn luận với nhau vài phút nữa, trong khi đó Helen và cha tránh nhìn vào mắt nhau, hai chúng ta vừa hy vọng Aksoy sẽ khám phá được điều gì đó mới nhưng đồng thời lại lo sợ sẽ thất vọng nhiều hơn. Cuối cùng, Turgut lên tiếng gọi chúng ta.
“ ‘Đây chính là cái anh Aksoy muốn chỉ cho chúng ta thấy sáng nay,’ ông ta nói, vẻ nghiêm trọng. ‘Thực ra, tôi không biết nó có ý nghĩa gì với cuộc tìm kiếm của chúng ta hay không. Tuy nhiên, tôi sẽ đọc cho các bạn nghe. Đây là một cuốn sách có niên đại từ đầu thế kỷ mười lăm, do một nhóm tác giả mà tôi chưa bao giờ nghe tiếng biên soạn, các sử gia của thành phố Istanbul. Họ sưu tập ở đây tất cả các bản miêu tả hoặc tường thuật mà họ tìm thấy về cuộc sống ở Istanbul trong những năm đầu tiên của thành phố chúng tôi – đó là, bắt đầu từ năm 1453, khi Quốc vương Mehmed II chiếm được thành phố và tuyên bố nơi này là thủ phủ của đế chế Ottoman.’
“Ông ta trỏ vào một trang sách đầy những con chữ Ả-rập bay bướm, và không biết đây là lần thứ bao nhiêu cha nghĩ quả là kinh khủng khi các ngôn ngữ và bảng chữ cái của loài người lại khác xa nhau một trời một vực thế này, đến nỗi khi liếc nhìn vào một trang sách ấy, khả năng nhận thức của cha liền bị mắc kẹt trong một đống các biểu tượng chẳng khác gì một hàng rào tầm xuân ma quái không thể nào vượt qua. ‘Đây là một đoạn văn mà anh Aksoy nhớ lại từ một trong những lần đến đây nghiên cứu. Đó là một bản tường thuật về một vài sự kiện trong năm 1477, không biết tác giả là ai – vâng, các bạn ạ, đó là năm kế ngay sau năm Vlad Dracula bị giết trong trận đánh ở Wallachia. Đoạn văn kể lại về chuyện trong năm đó có những trường hợp mắc dịch bệnh ở Istanbul như thế nào, một thứ dịch bệnh khiến các thầy tế đạo Hồi phải chôn cất một số xác chết với cọc nhọn đóng vào tim. Nó cũng kể lại chuyện một nhóm tu sĩ vùng Carpates đã vào thành phố bằng một chiếc xe la – chính chi tiết này đã khiến Aksoy nhớ cuốn sách. Các tu sĩ này xin tị nạn trong một tu viện của Istanbul, họ đã ở đó chín ngày chín đêm. Toàn bộ bản tường thuật chỉ có vậy, và các mối liên kết trong câu chuyện cũng chẳng mạch lạc chút nào – nó chẳng đề cập gì thêm về các tu sĩ cũng như tình trạng họ sau đó như thế nào. Chính chữ Carpates làm cho anh bạn Selim muốn dẫn chúng ta đến đây.’
“Selim gật đầu xác nhận, nhưng cha thì không thể không buông tiếng thở dài. Đoạn văn quả có một âm hưởng kỳ lạ, nó khiến cha cảm thấy bất an mà không làm sáng tỏ chút nào vấn đề của chúng ta. Năm 1477 – quả đúng là kỳ lạ, nhưng đó có thể chỉ là một sự trùng hợp. Tuy nhiên, tính tò mò đã thúc đẩy cha đặt một câu hỏi cho Turgut. ‘Nếu thành phố này đã bị người Thổ cai trị thì tại sao vẫn có một tu viện Công giáo để các tu sĩ kia trú ẩn?’
“ ‘Câu hỏi hay, anh bạn ạ,’ Turgut điềm đạm nhận xét. ‘Nhưng tôi phải nói với anh là trước đó đã có một số nhà thờ và tu viện Công giáo ở Istanbul, trước khi người Thổ bắt đầu cai trị. Quốc vương Mehmed là người khoan dung nhất khi cho phép chúng tồn tại.’
“Helen lắc đầu. ‘Sau khi cho phép binh lính của mình phá hủy hầu hết các nhà thờ trong thành phố, hoặc biến chúng thành thánh đường đạo Hồi.’
“ ‘Sự thật là khi đã chinh phục được thành phố này, Quốc vương Mehmed đã cho phép binh lính của mình cướp phá ba ngày liền,’ Turgut bổ sung. ‘Nhưng ông ta hẳn không hành động như vậy nếu thành phố này đầu hàng thay vì kháng cự – thực ra, ông ta đã đề nghị một sự dàn xếp hoàn toàn hòa bình. Sử sách cũng ghi lại là khi tiến vào thành phố Constantinople và chứng kiến những tổn hại do binh lính mình gây ra – những dinh thự bị tàn phá, các nhà thờ bị hủy hoại, dân chúng bị tàn sát – Mehmed đã khóc than cho thành phố xinh đẹp này. Từ đó, ông ta đã cho phép một số nhà thờ hoạt động và dành nhiều ưu đãi cho các cư dân Byzantine.’
“ ‘Ông ta cũng bắt hơn năm mươi ngàn người trong số cư dân đó làm nô lệ,’ Helen lạnh lùng chêm vào. ‘Xin đừng quên sự thật đó.’
“Turgut dành tặng cô một nụ cười thán phục. ‘Cô quả là một đối thủ quá sức tôi. Nhưng tôi chỉ muốn chứng minh rằng các vị Quốc vương của chúng tôi không phải là những con quái vật. Vào thời đó, họ thường tỏ ra khá khoan dung sau khi đã chinh phục được một vùng nào đó. Chỉ có bản thân quá trình chinh phục là không mấy vui vẻ thôi.’ Ông ta trỏ bức tường ở đầu kia của trung tâm lưu trữ. ‘Chân dung của vị Quốc vương Mehmed vĩ đại ở kia, nếu các bạn muốn chiêm ngưỡng ông ấy.’ Cha đi đến đó xem, dù Helen vẫn bướng bỉnh đứng yên tại chỗ. Bức tranh được đóng khung – có vẻ như là một bức tranh màu nước rẻ tiền – vẽ một người đàn ông rắn chắc, ngồi trên ghế, đầu đội khăn xếp hai màu trắng đỏ. Da trắng, bộ râu tỉa tót công phu, đôi hàng lông mày như nét chữ bay bướm và đôi mắt màu hổ phách. Trong tay là một bông hồng độc nhất, áp sát vào chiếc mũi khoằm lớn, ngửi hương hoa và nhìn xa xăm. Cha thấy ông ta có vẻ là một đạo sĩ phái Hồi giáo Sufi thần bí hơn là một kẻ xâm lăng ác độc.
“ ‘Đúng là một bức tranh làm người ta khá ngạc nhiên,’ cha nhận xét.
“ ‘Vâng, ông ta còn là người bảo trợ nhiệt tình cho ngành kiến trúc và các loại hình nghệ thuật, và đã xây dựng cho thành phố này nhiều dinh thự xinh đẹp.’ Turgut gõ gõ ngón tay to bè vào cằm. ‘À, các bạn nghĩ gì về bản tường thuật anh Selim phát hiện?’
“ ‘Thú vị,’ cha đáp lời theo kiểu xã giao, ‘nhưng tôi không rõ nó có ích gì trong việc giúp chúng ta tìm ra ngôi mộ.’
“ ‘Tôi cũng vậy,’ Turgut nói tiếp. ‘Tuy nhiên, ở đây tôi ghi nhận có một sự tương đồng nào đó giữa đoạn tường thuật này với mẩu thư tôi đọc cho anh nghe sáng nay. Những chuyện náo động trong khu hầm mộ ở Snagov, dù là gì chăng nữa, cũng xảy ra cùng năm 1477 đó. Chúng ta đã biết đó là năm ngay sau năm Vlad Dracula chết, và có một nhóm tu sĩ rất quan tâm đến gì đó ở Snagov. Liệu các tu sĩ này có cùng là một nhóm với họ không, hay là một nhóm nào đó liên quan tới Snagov?’
“ ‘Có thể,’ cha thừa nhận, ‘nhưng đó chỉ là phỏng đoán. Bản tường thuật này chỉ nói là các tu sĩ từ vùng Carpates đến. Trong thời kỳ đó, vùng Carpates hẳn phải đầy rẫy tu viện. Làm sao chúng ta có thể chắc chắn là họ đến từ một tu viện ở Snagov? Helen, cô có ý kiến gì không?’
“Chắc hẳn cha đã làm cô bất ngờ, bởi cô nhìn thẳng vào cha với vẻ mặt đượm buồn mà từ trước đến nay cha chưa bao giờ nhìn thấy. Tuy nhiên, ấn tượng đó tan biến ngay, và cha lại nghĩ có thể mình đã tưởng tượng ra điều đó, hoặc có lẽ cô đang nhớ đến người mẹ và chuyến đi Hungary sắp tới của hai chúng ta. Dù đầu óc có đang mơ màng ở đâu đâu, cô vẫn trấn tĩnh lại ngay. ‘Vâng, có rất nhiều tu viện trong vùng Carpates. Anh Paul nói đúng – chúng ta không thể đánh đồng hai nhóm tu sĩ đó nếu không có thêm thông tin nào khác.’
“Cha nghĩ giáo sư Turgut có vẻ thất vọng, ông ta mở miệng định nói điều gì đó, nhưng ngay lúc ấy chúng ta bị cắt ngang bởi tiếng thở hổn hển, khò khè. ‘Ông ấy ngất rồi!’ Turgut thét lên. ‘Còn chúng ta thì cứ mãi ba hoa như một đám lắm điều…’ Ông ta lại đưa củ tỏi lên mũi người bạn, và viên thủ thư lại nói lắp bắp và hơi hồi tỉnh. ‘Nhanh lên, chúng ta phải đưa ông ta về nhà. Giáo sư, và cô nữa, xin giúp tôi một tay. Tôi sẽ gọi taxi đưa ông ấy về nhà tôi. Ở đó, tôi và vợ tôi có thể chăm sóc ông ấy. Selim sẽ ở lại lo cho trung tâm lưu trữ – hẳn sắp tới giờ mở cửa rồi.’ Ông giáo sư liến thoắng bằng tiếng Thổ với Aksoy thêm vài yêu cầu gì đó nữa.
“Sau đó, Turgut và cha nâng người thủ thư ốm yếu xanh xao kia lên, dìu ông ta ra ngoài, cẩn thận đi qua lối cửa sau. Helen cầm áo khoác của Turgut theo sau, chúng ta đi hết con hẻm, và một lát sau đã đứng giữa ánh nắng ban mai. Khi ánh nắng chiếu vào mặt, ông Erozan rúm người lại, rúc vào vai cha, đưa một bàn tay lên che mắt lại, tựa như đang né tránh một cú đánh vào người.”