“Nếu muốn thay đổi định mệnh của gia tộc chúng ta thì chỉ có tới phương Đông, ở đó số phận của chúng ta sẽ thay đổi!” – Câu nói này cứ văng vẳng mãi bên tai mẹ; nhất là mấy ngày hôm nay, tiếng gọi của định mệnh càng lúc càng mãnh liệt. Nhưng mẹ lại không có cách nào để thay đổi tất cả những điều này, để thoát khỏi sự ràng buộc của số phận. Vốon dĩ mẹ đã có cơ hội để cùng con bắt đầu một cuộc sống mới, nhưng mẹ lại như bị ma xui quỷ khiến mà chấp nhận tới Trung Quốc.
1
Hàn Giang không men theo ven hồ mà lại đi về
ngách phía đông núi cát, càng đi càng lên cao. Đột nhiên, Hàn Giang bị vấp một cái, giống như bị vật gì đó ngáng chân, anh ngã sõng soài trên núi cát. Đường Phong và Lương Viện vội vàng chạy tới.
“Đường Phong, cậu xem, đây là thứ gì!” – Không đợi Đường Phong chạy tới, Hàn Giang đã gọi to.
Đường Phong chạy tới, Hàn Giang đã đứng dậy, thở hổn hển rồi ngồi bệt xuống cát. Trên nên cát cạnh anh lộ ra một hòn đá, chính xác mà nói là một hòn đá đã được mài giũa.
Với kinh nghiệm của Đường Phong, anh nhận ngay ra hòn đá này có vấn đề. Giữa sa mạc mênh mông bỗng xuất hiện một hòn đá có vết tích của con người mài giũa, điều này đã nói lên tất cả. Đường Phong và Lương Viện vội càng phủi cát trên hòn đá đi, rồi họ kinh ngạc mở to mắt, bởi vì hòn đá dưới chân họ càng lúc càng lộ ra nhiều hơn, kích thước mỗi lúc một to hơn.
“Là một bia đá!” – Đường Phong đã nhận ra đây là một tấm bia đá không lớn lắm, nhưng cũng không phải loại nhỏ.
“Bia đá?” – Hàn Giang đứng dậy – “Trên đó có chữ không?”
“Có! Lại còn là chừ Tây Hạ!” – Đường Phong không giấu được sự mừng rỡ.
“Ồ! Viết gì vậy?”
Tay Đường Phong khẽ run run phủi lớp bụi cát trên bia đá đi, chầm chậm đọc to ba từ: “Đại-Bạch-Tuyền!”.
“Đại Bạch Tuvền? Hồ nước này tên là Đại Bạch Tuyền, thảo nào nước ở đây có màu trắng!” – Hàn Giang hình như đã hiểu ra chất nước trong hồ.
Sau một hồi trầm ngâm, Hàn Giang lại thúc giục:
“Cậu tiếp tục đi!”
“Tiếp tục gì cơ?” – Đường Phong mặt mày ngơ ngác.
“Tiếp tục đọc đi chứ!”
“Hết rồi!”
Cái gì? Cá một bia đá to thế này mà chỉ có ba chữ thôi sao?”
ưm, chỉ có ba chữ, ba chữ rất to. Dưới chân bia vẫn còn một dòng chừ nhỏ là niên hiệu: Thiên thụ lễ pháp Diên Tộ bát niên thất nguyệt nhị thập tứ nhật lập” – Đường Phong lại đọc dòng chữ nhở dưới chân bia đá lên.
Chỉ có vài chữ thế thôi ư, đúng là phí công mừng rỡ, chỉ là một tấm bia đá chỉ dẫn thôi mà!” – Hàn Giang mặt mày rầu rĩ.
Đường Phong vẫn lần sờ tấm bia đá này: “Tuy chỉ có ba chữ, nhưng vẫn có chút giá trị. Trước tiên, nó cho chúng ta biết hồ nước này từ xưa đến nay đều là màu trắng; thứ hai, chừ đại này cho thấy vào thời kỳ Tây Hạ, hồ nước này chắc là rất to; cuối cùng, kết hợp với vị trí tồn tại của bia đá thì trong thời kỳ Tây Hạ, nước trong hồ có lẽ nhiều hơn hiện giờ rất nhiều, mực nước chắc là phải tới vị trí cắm bia đá này!”
“Rộng vậy sao! Thảo nào tên là Đại Bạch Tuyền!”
– Lương Viện ngạc nhiên kêu lên
“Không chỉ có vậy, bia đá này còn nói với chúng ta rằng: ở đây là một con suối, vậy thì dưới đáy hồ chắc chắn là có miệng suối nên mới đảm bảo dược cho nguồn nước trong hồ hàng ngàn năm cũng không cạn giữa sa mạc mênh mông!” – Đường Phong giải thích.
“Dưới đáy sa mạc mênh mông thế này mà lại có miệng suối?” – Lương Viện rất ngạc nhiên.
“Điều này không có gì lạ, Nguyệt Nha Tuyên ở Đôn Hoàng chính là một miệng suối trong sa mạc. Sa mạc Badain Jaran thời Hán từng là một mặt hồ mênh mông, được gọi là ‘Cự Diên Hải”. Sau này khí hậu biến dối, nguồn nước cạn kiệt nên dần dần mới biến thành sa mạc Gobi ngày nay. Nhưng trên sa mạc vẫn còn lại vài hồ nước, những hồ nước này có thế hàng ngàn năm không cạn, phần lớn là do được các miệng suối này bồ sung nước.” – Đường Phong giải thích.
“Đúng là sa mạc thần kỳ!” – Lương Viện trầm trồ.
“Dĩ nhiên niềm vui mà bia đá này đem lại cho chúng ta không chỉ có ba điều đó, quan trọng nhất là nó đã nói rõ cho chúng ta biết thời gian lập bia: Thiên thụ lễ pháp Diên Tộ bát niên thất nguyệt nhị thập tứ nhật lập, tức ngày 24 tháng 7 năm Diên Tộ thứ tám. Neu tôi nhớ không nhầm thì thời eian này là niên hiệu thời kỳ sau khi Nguyên Hạo tại vị, và thời gian này khiến tôi lập tức nghĩ tới Hạn Hải Mật Thành. Theo như Đại Lạt Ma nói thì niên hiệu Nguyên Hạo xây dựng Hạn Hải Mật Thành chính là thời gian này. Điều này một lần nữa chứng minh rằng, tấm bia đá này rất có khả năng do Nguyên Hạo hạ lệnh lập nên. Đừne coi thường tấm bia này, tuy nó không to nhưng dựng một bia đá thế này giữa biển cát mênh môna vào thời kỳ” đó cũng không dễ dàng. Hai người nghĩ xem, tại sao Nguyên Hạo lại phải lập nên tấm bia này?”
– Đường Phong lần lượt nhìn Hàn Giang và Lương Viện.
Mắt Hàn Giang bỗng sáng lên: “Xem ra tính chất ở đây tương phản với Hắc Thạch, rất có thể thời đó ở đây gần một con đường nào đó, nên triều đình đã lập nên tấm bia này đế thông báo về nguồn nước ọi người qua đây!”
“Đúng! Chỉ có điều… có điều hiện giờ chúng ta đã bị mất GPS nên không thể phán đoán được vị trí cụ thể, không thể biết rõ Đại Bạch Tuyền rốt cuộc nằm trên con đường nào!” – Đường Phong vừa nói vừa loay hoay với chiếc la bàn.
“Nhưng không phải nước ở đây có độc sao? Tại sao Nguyên Hạo vẫn chỉ ra nguồn nước này nhỉ?” – Lương Viện bỗng hỏi.
“Điều này cũng vừa cho thấy thời kỳ Tây Hạ, nước ở đây không có vấn đề gì cả, còn nếu như trong nước có độc thì tấm bia đá chỉ dẫn này chắc chắn sẽ thông báo ọi người không nên uống nước ở đây, nhưng tôi không thấy chữ nào như vậy trên mặt tấm bia đá này!” – Đường Phong nói.
“Biết đâu lại ở mặt sau thì sao!”
Mỗi câu nói đó của Lương Viện cũng khiến Đường Phong giật mình, đúng vậy, vẫn còn mặt sau, sao mình lại sơ suất như vậy. Vậy là ba người cùng nhau dốc sức lật tấm bia “Đại Bạch Tuyền” lại. Đường Phong không phát hiện thấy chữ nào trên mặt sau tấm bia, nhưng lại phát hiện thấy một cuốn sổ nhỏ bìa da màu xanh, để đúng chỗ ban nãy bia đá đè lên.
2
Sự chú ý của ba người đã từ bia đá chuyển sang cuốn số màu xanh. Đường Phong nhặt cuốn sổ lên. Phát hiện đây là cuôn “Sổ tay từ ngừ Nga – Hán giản lược”. Do nhiều năm trôi qua nên Đường Phong vừa mới lật cuốn số ra, những trang giấy vàng của cuốn số đã bát đầu rơi ra. Lật vài trang, Đường Phong cảm thấy nó hình thường, không có gì lạ, “Đây là một cuốn từ điển Nga- Hán, Hán-Nga hai ngôn ngữ đối chiếu, chắc là di vật của thành viên đoàn thám hiểm năm đó. Từ hình thức tới tên xuất bản của cuốn sổ cho thấy, chủ nhân của nó chắc là một thành viên phía Liên Xô.”
“Nhưng sao cuốn từ điển này lại bị đè dưới tấm bia đá nhỉ?” – Lương Viện tò mò nhìn mặt sau bia đá trống trơn rồi lại nhìn vào cuốn từ điển.
Đường Phong cũng khônơ hiểu thế này là thế nào.
Hàn Giang vẫn không vên tâm. đón lấy cuốn từ điển lật giở. Hàn Giang mạnh tay hơn Đưòttg Phong, nên anh vừa mới giở ra, cuốn sổ đã rơi vãi tả tơi. Đường Phong không thể không nhắc nhở anh: “Anh nhẹ tay một chút, anh lật kiểu đó thì chưa đến cuối nó đã long hết cả gáy rồi!”
Hàn Giang mặc kệ Đường Phong, tiếp tục nhanh tay lật siở khi lật tới trang cuối cùng, Hàn Giang cười, nói: “Sao nào, tôi lật đến trang cuối cùng cũng không rơi nhé…”
Hàn Giang bỗng im bặt, Đường Phong và Lương Viện nhìn anh. Mãi lâu sau, Hàn Giang mới chỉ vào trang cuối cùng của cuốn từ điển, nói: “Hai người xem ở đây viết gì này?”
Lúc này Đường Phong mới để ý thấy, phần trống trên trang cuối cùng của cuốn từ điển viết chi chít chừ, toàn là tiếng Nga: “Hình như là một bức thư. nét chữ Nga thật là đẹp!”
Đường Phong ngây người nhìn nét chữ N°a thanh thoát đẹp đẽ một lúc lâu, rồi khi đọc tới dòng cuối, Đường Phong không khỏi kêu lên: “Đúng là một bức thư cảm động!”
“Bức thư cảm động?’” – Hàn Giang không hiểu.
“Là một bức thư của người mẹ viết cho con mình, bà ta chắc là một thành viên của đội thám hiểm…”
Hàn Giang vội vàng ngắt lời Đường Phong: “Đợi đã, đợi đã, cậu nói gì cơ? Bức thư của một người mẹ viết cho con mình? Trong đoàn thám hiểm có thành viên nữ sao?” ‘”Hình như chưa từng nghe nhắc đến, ông nội tôi chưa từng kể, Makarov và Misha cũng chưa từng nhắc đến, nhưng đội trưởng Hàn, anh không nên bài trừ phụ nữ chứ!” – Lương Viện bất mãn nói.
Đường Phong ngẫm nghĩ: “Điều này quả thực có chút kỳ lạ, vê lý mà nói thì thời đó tuyên chọn thành viên tham gia hành động nguy hiểm và gian khổ như vậy, sẽ không thể mang theo thành viên nữ; huống hồ một người phụ nữ lại đi cùng với một đoàn toàn đàn ông thì
cùng càng bất tiện! Nhưng đấy đúng là tuyệt bút của một người mẹ viết cho con mình!”
“Cậu đọc kĩ lại xem, biết đâu không phải nó được viết khi đoàn thám hiểm gặp nạn!” – Hàn Giang vẫn không tin.
Đường Phong lắc đầu: “Anh không tin cũng vô ích, tôi dịch cho anh nghe!” – Nói xong, Đường Phong chậm rãi đọc bức thư người mẹ viết cho con mình.
3
Alesha thân yêu:
Có lẽ tất ca đều chi nong công vô ích, có thê con sẽ vĩnh viễn không đọc được những dòng này, bởi đây chính là định mệnh! Con thân yêu, hiện giờ con ớ đâu? Con đang làm gì? Có hạnh phúc không? Có nhớ mẹ không?
Ngay từ đầu, định mệnh đã không công bằng với con, con sinh ra trong một năm tháng hoang đường, vừa mới sinh ra đã mất cha và cùng mẹ bị áp tải tới vùng Siberi hoang vu, để nếm trải mùi vị của cuộc đời. Trong gió rét cắt da cắt thịt tại Siberi, cơ thể bé bỏng của con đã từng bưng tới ẹ khoai tây nóng bóng tay; mẹ cũng mãi mãi không bao giờ quên được khuôn mặt đỏ ửng vì lạnh của con lúc đó.
Tất cả những điều này đều là sự hoang đường của định mệnh, trước đây mẹ không tin vào định mệnh, nhưng giờ thì mẹ tin rồi, định mệnh của mẹ và của con đã được an bài cách đây rất nhiều năm. “Nếu muốn thay đổi định mệnh của gia tộc chúng ta thì chỉ có tới phương Đông, ở đó số phận của chúng ta cũng sẽ thay đổi Câu nói này cứ văng vẳng mãi bên tai mẹ, nhất là mấy ngày hôm nay, tiếng gọi của định mệnh càng lúc càng mãnh liệt. Nhung mẹ lại không có cách nào đế thay đổi tất cả những điều này, thoát khỏi sự ràng buộc của định mệnh. Vốn dĩ mẹ đã có cơ hội để cùng con bắt đầu một cuộc sống mới. nhưng mẹ lại nhu bị ma xui quỷ khiến mà chấp nhận tới Trung Quốc.
Đây là một chuyến đi không hề thần kỳ, thậm chí còn tẻ nhạt. Mẹ và đoàn thám hiểm đã gặp phải bão cát đen đáng sợ, bão cát không cướp đi mạng sống của mọi người, nhưng đoàn của mẹ đã thật sự bị mất phương hướng trên sa mạc. Từ trường ở đây dị thường và biến đổi rất nhiều, khí hậu đáng sợ và kỳ dị, xung quanh đều chỉ là cát vàng, mênh mông vô bờ bến, không một chút sinh khí, không một tia hy vọng, kim của la bàn thì quay mọi hướng như điên dại, rốt cuộc không thể xác định được phương hướng chuẩn xác ọi người.
Hôm qua, định mệnh lại một lần nữa đùa cợt với mọi người. Khi tât cả mọi người đã sức cùng lực kiệt, chờ đợi tử thần tới, thì một hồ nước đã xuất hiện trước mắt. Hầu hết ai ai cũng lao xuống hồ nước, đây có thể là nguồn nước duy nhất trong phạm vì mấy trăm dặm.
Nhưng lý trí đã nói với mẹ rằng, nước này có thể không uống được, bởi vì nước ở đây lại có màu trắng. Thiết Bị của đoàn mẹ đã bị mất trong bão cát đen từ lâu rồi, nên không thể kiểm tra chất lượng nước ở đây. Dưới cái nắng thiêu đốt, giữa sự hy vọng và tuyệt vọng quẩn quanh, cuối cùng một số người không muốn chờ đợi nữa, họ đã nếm thử nước trong hồ – nước của cái chết! Họ ngay lập tức ngã xuống ven hồ.
Những nhà nghiên cứu sinh vật có kinh nghiệm đã nói rằng những người đó bị trúng độc, nhưng họ không thể phán đoán loại độc tố nàv là do tự nhiên hình thành, hay là có người đã đầu độc nguồn nước. Những người còn lại đều không dám uống nước, cũng không còn sức để đi tiếp, và quan trọng nhất là không biết đi về đâu. Mọi người chỉ biết im lặng chờ đợi cái chết đang cận kề. Nhưng cũng có người không muốn chờ đợi sự phán quyết của định mệnh, họ đã bỏ đoàn để ra đi, tiến sâu vào sa mạc. Hy vọng họ có thể ra khỏi sa mạc, nhưng ai cũng hiểu rằng: đây là điều gần như không thể xảy ra.
Con thân yêu, trong giây phút này mẹ của con đang dùng chút sức lực cuối cùng để viết những chữ này, mẹ cũng đã không thể thay đổi được mọi việc, mong rằng con có thể thay đổi được định mệnh của gia tộc mình. Nếu không thể được, thì con hãy mau chóng rút lui, song như một người bình thường, đừng nuôi khát vọng xa xỉ rằng có thể thay đôổi được điều gì.
Đường Phong đọc xong toàn bộ bức thư, chau mày: ‘Càng về cuối bức thư, nét bút càng nguệch ngoạc, yếu
ớt. có thế thấy người viết bức thư nàv đã dùng chút sức lực cuối cùng để viết, nhưng hình như bà đã không thể gang gượng được đến phút cuối!”
“Nghe đọc một hồi, cả bức thư toàn là ‘định mệnh’ với “số phận’, chốc chốc lại nhắc tới từ này khiến tôi nghĩ tới cái từ “định mệnh” được khắc trên thân cây hồ dương. Sug nghĩ của Hàn Giang lại trở về với cây hồ dương.
“Đúng vậy, tôi cũng nghĩ tới cái từ ‘định mệnh’ đó. cũng là tiếng Nga. hơi eiốne nét chừ trong cuốn sổ ghi chép này. Dĩ nhiên tôi không hiểu về giám định bút tích tiếng Nga, bởi vậy cũng không thể phán đoán những chữ này có phải do cùng một người viết hay không!” – Đường Phong cố sắng hồi tưởng lại chữ “định mệnh!’ trên thân cây.
“Quan trọnge hơn ở chỗ từ “định mệnh” trên thân cây hồ dương xuất hiện ở một vị trí rất đặc biệt” – Hàn Giang nhắc nhở.
“Y anh muốn nói tới tấm bản đồ của Kozlov?” “ừm. Lúc đó chúng ta đã nhìn ra tên của vài địa danh và từ ‘định mệnh” trên thân cây hồ dương không phải do một người khắc, bởi vậy mới nehi ngờ rằng do thành viên của đoàn thám hiểm phía Liên Xô khắc. Vậy thì tại sao người này không khắc từ “định mệnh” trên thân cây hồ dương khác, mà lại khắc cùng chỗ với mấy từ chỉ địa danh trùne với địa danh trcn bản đồ của Kozlov được khắc trên cây hồ dương đó? Bởi vậy tôi nghĩ những từ này tưởng chừng như không liên quan tới nhau nhưng lại ẩn giấu mối liên quan không dễ phát hiện!” – Hàn Giang phân tích.
Nói như vậy thì có người trong đoàn thám hiểm có quan hệ với đoàn thám hiểm của Kozlov năm nào, đây là điều mà trước đây chúng ta không biết. Nếu người khắc chữ “định mệnh’ trên cây hồ dương chính là ngươi phụ nữ viết bức thư nàv. vậy thì chắc là bà ta có mối quan hệ gì đó với đoàn thám hiểm của Kozlov!”
Hàn Giang nghe Đường Phong nói vậy liền xua tay: “Bây giờ rút ra kết luận như vậy còn quá sớm, chúng ta hãy tìm xem những thông tin gì được tiết lộ từ bức thư này. Đoạn thứ nhất có liên tiếp vài câu hỏi thăm, có thế thấy người mẹ này trước khi kết thúc cuộc sống đã rât nhớ thương con mình, kêu gọi trong vô vọng. Đoạn thứ hai kể lại những ngày tháng gian khổ của bà và con trai tại Siberi trước đây, xem ra họ đã bị áp giải tới Siberi.”
“Vậv rất có khả năng là vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX.”
“Kỳ lạ nhất là đoạn thứ ba. Liên tục nhắc lại hai từ ‘định mệnh’ và ‘số phận’, eần như chẳng có tính logic nào cả, giống như thím Tường Lâm luôn miệng lẩm bẩm mãi cái từ định mệnh, rồi số phận đã sớm an bài, không thể thav đổi! Không hiểu bà muốn diễn đạt gì, lẽ nào là tự lẩm bẩm trong trạng thái sắp chết, nhưng những
1. Thím Tường Lâm: một nhân vật chính trong truyện ngắn “Chúc phúc” của nhà văn Lỗ Tấn.
tường thuật của bà sau đó lại hợp lý rõ ràng, thật là kỳ lạ!” – Hàn Giang lắc đầu, không hiểu tại sao người đàn bà đó lại viết như vậy.
“Có thể đoạn này chính là những gì mà người phụ nữ muốn diễn đạt. xem câu này ’Nếu muốn thay đổi định mệnh của gia tộc chúna ta thì chỉ có tới phương Đông, ở đó số phận của chúng ta cũng sẽ thay đổi’. Câu nói này văng văng bên tai bà ta. Có thể thấy rằng câu nói này rất quan trọng đối với bà. Nhưng rốt cuộc nó có nghĩa gì nhỉ?” – Đường Phong cứ nghiền ngầm mãi câu nói này như thê nó là một câu thần chú vậy.
“Tôi không hiếu câu đó, nhưng câu cuối cùng ngược lại, lại là một câu hữu dụng: ‘Vốn dĩ mẹ đã có cơ hội để cùng con bất đầu một cuộc sống mới, nhưng mẹ lại như bị ma xui quỷ khiến mà chấp nhận tới Trung Quốc”, cho thấy bà ta vốn dĩ có thế không tới Trung Quốc, không tham gia vào đoàn thám hiểm, nhưng bà vẫn tới đây như bị ma xui quỷ khiến. Từ câu này nhìn lại có thể giải thích cho câu ban nãy, bà ta đã đến Trung Quốc tham gia lần thám hiểm đó. đây chính là số phận của bà, bởi vậy mà cả đoạn thứ ba bà ta cứ lải nhải mãi điệp khúc bà ta tới Trung Quốc là do định mệnh đáng sợ.” – Hàn Giang giải thích. “Đoạn thứ tư nói về bà, cũng là những gì đội thám hiểm đã gặp phải trên sa mạc, những chuyện đáng ghét đó chúng ta cũng đều gặp phải rồi, nhưng chúng ta vẫn phải đặc biệt chú ý tới câu cuối cùng: “kim của la bàn thì quay mọi hướng như điên dại. rốt cuộc không thể xác định được phương hướng chuẩn xác ọi người’, câu nói này khiến tôi lạnh hết cả người!”
5
Sau một hồi trầm ngâm, Hàn Giang lại lên tiếng: “Đoạn thứ năm và thứ sáu là những đoạn mà tôi hứng ^f thú nhất. Bà đã tường tận kể lại những gì bà gặp phải, nếu như đúng như chúng ta suy đoán trước đây, thì đội thám hiểm đã xảy ra tranh cãi quanh việc có uống nước ở đây không. Một số người sau khi uống nước đã mất mạng, những thành viên còn lại không dám uống thứ nước chết người này, nhưng lại sức cùng lực kiệt, mất phương hướng, vậy là chỉ còn cách ở đây chờ đợi cái chết. Trước khi cái chết kéo đến, người phụ nữ “đã viết bức thư này!”
“Quả nhiên có độc? Nhưng chúng ta uống xong đến bây giờ vẫn chưa bị làm sao! Đường Phong, ban nãy anh uống nhiều nhất, hiện giờ anh có thấy gì không ổn không?” – Lương Viện lo lắng nhìn Đường Phong.
“Này, em mong anh trúng độc hả, em thấy anh thế này giống có phản ứng gì không?”
“Vậy thì kỳ lạ thật, tại sao những người trong đoàn thám hiểm năm đó lại bị trúng độc nhỉ?” – Lương Viện chau mày.
“Có lẽ chúng ta vẫn có thể nhìn ra một chút manh mối từ trong bức thư này. Trong thư nhắc đến nhà sinh vật học cho rằng những người đó trúng độc, nhưng không thể phán đoán được loại độc này là do tự nhiên hình thành nên. hay là có người bỏ độc xuống hồ. Câu nói này đã giúp anh mở rộng tư duy. anh vẫn giữ suy đoán ban đầu của mình, anh nghi ngờ Mã Xướng Quốc làm!” – Đường Phong nói như đinh đóng cột.
“Nghi ngờ Mã Xướng Quốc? Anh nghi ngờ hội Mã Xướng Quốc dã bỏ chất độc vào nước trong hồ?” – Lương Viện ngạc nhiên nói.
“Đúng vậy, anh nshĩ thếp’
“Nhưng… nhưng Makarov khi nhớ lại đã kể rằng sau hôm đội thám hiểm bị đổ hết nước uống đi, họ đã chia thành mấy ngả tới vùng lân cận tìm nguồn nước, kết quả không tìm thấy mà!” – Lương Viện nhớ lại hồi ức của Makarov.
“Không sai, chắc chắn họ không tìm thấy, nếu đội thám hiểm tìm kĩ vậy thì chứng tỏ trong rừng hồ dương quả thực không có nguồn nước. Nhưng lão Mã kể rằng, buổi sáng, đội thám hiểm chia thành năm nhánh xuất phát, hẹn rằng muộn nhất là tới trước khi trời tối phải quay lại doanh trại, bởi vậy nên cự li mà họ tìm kiếm chắc chắn bị giới hạn, rất có khả năng Đại Bạch Tuyền nằm ngoài lộ trình mà họ tìm kiếm!” – Đường Phong tính toán qua cự li giữa Đại Bạch Tuyền và rừng hồ dương.
“Xem ra chúng ta đã ở rất xa rừng hồ dương rồi!” – Lương Viện than thở.
“ừm, đội thám hiếm không những không tìm thấy Đại Bạch Tuyền, mà lại còn bị bão cát đen thổi bay tới đây. Đây rất có khả năng là nguồn nước gần rừng hồ dương nhất, nên nó đã bị Mã Xương Quốc thả chất độc từ trước đó rồi!”
Hàn Giang nghe xong suv đoán của Đường Phong liền gật gù: “Xem ra đây là suy đoán gần với sự thật nhất.
Phía dưới Đại Bạch Tuyền có miệna suối, có thế không ngừng bổ sung nguồn nước, trải qua bao nhiêu năm nên hiện giờ nước trong hồ đã không còn độc nữa!”
“Nhưng vẫn không thể giải thích tại sao nước trong hồ lại màu trắng?” – Lương Viện hỏi.
‘‘Đây có thể là do thổ nhưỡng của vùng này có chứa một loại khoáng chất đặc biệt nào đó! Đây không phải là thứ mà chúng ta cần nghiên cứu. tôi nghĩ cái tên Đại Bạch Tuyền đã đủ để chứng minh rồi!”
“Không! vẫn chưa hết đâu!” – Đường Phong ngẳt lời Hàn Giang: “Đoạn thứ sáu trong thư đã đặc biệt nhắc tới sau đó có một sổ người không can tâm ngôi đây chờ chết, nên đã rời khỏi đội ngũ, tự mình tìm lối thoát. Hai câu này lại cung cấp cho chúng ta tin tức quan trọng, đội thám hiểm không chết hết ở đây. Ban nãy chúng ta đã thống kê hài cốt phát hiện được, ở đây tổng cộng có hai mươi tám bộ hài cốt, cộng thêm ba bộ hài cốt sĩ quan phát hiện thấy ở Ma Quỷ Thành là ba mươi mốt bộ, ngoài ra còn có ba người sống sót, như vậy tính ra quả thực vẫn còn vài người không biết tung tích. Những người trong số họ có khả năng đã gặp nạn trong bão cát, nhưng khả năng lớn hơn là sau khi rời khỏi đây, họ tự tìm đường đi, nhưng phần lớn đều lành ít dữ nhiều, không ra được khỏi sa mạc!”
“Trong số mấy người này có bao gồm cả Misha, Makarov và ông nội em không?” – Lương Viện hỏi.
“Anh nghĩ chắc là bao eồm cả ba nsười họ, bởi vì trong hồi ức của cả ba người đều không nhắc tới Đại Bạch Tuyền. Hơn nữa, lão Mã và ông nội em khi quay lại doanh trại thì người của đội thám hiểm đã biến mất, hai người họ đơn độc chạy thoát khỏi sa mạc. Còn về Misha… rất có thể sau đó Misha đã tìm thấy Hạn Hải Mật Thành, vì vậy mới có hình ảnh “cổng lớn không gì có thể so sánh” được nhắc tới trong thử’ – Đường Phong phán đoán.
“Vậy thì số phận của những thành viên sau đó tách khỏi đoàn thám hiểm thế nào nhỉ?”
Đường Phong không trả lời ngay câu hởi của Lương Viện, mà im lặng ngẫm nghĩ một hồi mới nói: “Anh bỗng có một suy nghĩ táo bạo, họ đã đi đâu? Họ có thể đi đâu? Trước tiên, anh nghĩ họ không thể ra khỏi sa mạc, sau khi đội thám hiểm mất tích, cứu viện đã nhanh chóng triển khai. Nếu như họ ra khỏi được sa mạc thì chắc sẽ được đội cứu viện phát hiện thấy. Nhưng ngoài lão Mã và ông nội của em ra, không… không còn ai được phát hiện nữa! Rất có thể Misha đã tìm thấy Hạn Hải Mật Thành, Mã Xướng Quốc cũng rất có khả năng đã tới ốc đảo chết chóc. Hai người họ chắc là nhiều ngày sau đã ra khỏi sa mạc, vậy thì những thành viên khác còn lại trong đoàn thám hiểm liệu có thể đi được tới ốc đảo chết chóc hay không, thậm chí là có thể tìm được Hạn Hải Mật Thành không?”
‘Nếu như vậy thì những gì toàn bộ đoàn thám hiểm gặp phải sau đó đều có thể suy đoán ra được!” – Tâm trí của Hàn Giang giống như đang trở lại ngày hè đáng sợ nửa thế kỷ trước.
6
Những gì đội thám hiểm gặp phải cũng giống như trong phim vậy, trước mắt Hàn Giang tất cả như hiện lên và dần dần trở nên rõ nét: khi Makarov và Lương Vân Kiệt quay trở lại doanh trại, ở đây không một bóng người, bởi vì trước đó những thành viên có kinh nghiệm trong đoàn đã phán đoán được sẽ có bão cát tấn công, nên đoàn thám hiểm đã nhanh chóng bỏ đi. Thế nhưng tất cả những điều này đều trở nên vô ích, vì bão cát với quy mô khủng khiếp đã tấn công đoàn thám hiếm cho dù họ đã lên đường. Khi bão cát qua đi, phần lớn thành viên của đoàn thám hiểm đều không chết, sau khi trải qua chặng đường gian khổ, họ đã tập họp tại Đại Bạch Tuvền. Đối diện với nước suối quái dị, trong nội bộ của đoàn thám hiểm đã xảy ra tranh cãi, và đúng là Đại Bạch Tuyền đã bị Mã Xướng Quốc đầu độc nên một số thành viên đã chết ngay sau khi uống nước. Một số thành viên khác đã lựa chọn cách bở đi, và không biết kết cục thế nào. Những thành viên còn lại thì chết khát trên sa mạc…
“Dĩ nhiên, hiện giờ mà nhận định Mã Xướng Quốc là người hạ độc có lẽ cũng hơi vội vàng! Chúng ta vần cần có chứng cứ xác thực hơn!” – Hàn Giang tổng kết lại.
‘Đáng sợ là hôm nay chúng ta cũng đang đối diện với những gì mà đội thám hiểm trước đây trải qua.” – Lương Viện tái mặt.
“Không, ít nhât chúng ta vẫn còn có nước, nếu như lúc đó nước trong Đại Bạch Tuyền có thể uống được thì không biết chừng đoàn thám hiểm đã không tan rã như vậy!” – Hàn Giang nói.
“Nhưng chúng ta phải đi theo hướng nào đây? Kể cả chúng ta có nước uống thì chúng ta cũng không thể cứ ở mãi đây. Và ba người chúng ta cũng chỉ có ba bình nước, nên lượng nước có thể mang theo rất ít. Nếu không tìm đúng phương hướng, thì e rằng chúng ta cũng khó mà thoát khỏi vận hạn như đoàn thám hiểm!” – Lương Viện rầu rĩ.
“Có lẽ… có lẽ chúng ta vẫn nên tìm manh mối từ trong bức thư này!” – Đường Phong bỗng thốt ra câu này.
“Trong thư? Không phải đã đọc hết bức thư này rồi sao?” – Hàn Giang không hiểu.
“vẫn còn đoạn cuối cùng đấy!”
“Đoạn cuối cùng? Đoạn cuối cùng chẳng có nghĩa gì cả, mà lại nói về định mệnh, cảnh báo con bà nếu
không thể thay đổi được định mệnh, thì hãy sống cuộc đời như những người bình thường, còn gì nữa đâu?”
“Từ nét bút của bà ta lẽ nào anh không nhận ra điều gì sao?” – Đường Phong hỏi lại Hàn Giang.
Hàn Giang lại chăm chú nhìn những nét bút đẹp đẽ:
“Lúc viết đoạn cuối cùng, người phụ nữ này hình như đã kiệt sức, bởi vậy nét chữ cànc lúc càne nguệch ngoạc, tới nỗi nét cuối cùng còn kéo ra rất dài.”
“Không sai, chữ càng viết càng khó đọc, càng viết càng yếu, cộng với những lời trong đoạn cuối có thể thấy người phụ nữ này đã tới thời khắc cuối cùng. Thế nhưng hai người có nghĩ tới không, tại sao bà ta lại nhét cuốn từ điển này dưới tấm bia đá?”
Lời nhắc nhở của Đường Phong đã khiến Hàn Giang và Lương Viện giật mình. Đúng vậy, bà ta đã kiệt sức như thế rồi thì lấy đâu ra sức để nhét cuốn từ điển ngay ngắn xuống dưới bia đá?”
“Trước tiên, chúng ta phải làm cho rõ tại sao bà ta lại nhét cuốn sổ xuống dưới tấm bia đá, bà ta đã sắp chết thì có cần thiết phải như vậy không?” – Đưòng Phong tự hỏi rồi ngừng lại, sau đó lại tự trả lời: “Đối với bà ta thì đây là việc rất cần thiết, bởi vì những gì ghi chép trong cuốn từ điển là bí mật của bà, bà không muốn để người khác đọc được, bởi vậy mà trong thời khắc cuối cùng của cuộc đời, bà vẫn không quên giấu nó thật kĩ.”
“Bí mật? Trong đó có bao nhiêu bí mật? Sao em không thấy vậy?” – Lương Viện vẫn mông lung không hiểu.
“Về chuyện trong đó rốt cuộc ẩn giấu bao nhiêu bí mật thì hiện tại chúng ta vẫn không thể hiểu hết, nhưng anh nghĩ với sự thâm nhập từng bước của chúng ta thì bí mật trong đó sẽ dần dần phơi bày trước mắt mà thôi. Với mồi nét bút mà trên đó đã tiết lộ một tin tức quan trọng, rồi trong giây phút cuối cùng bà ta vẫn giấu kĩ được cuốn rừ điển này, vậy sau đó thì sao? Không phát hiện thấy hài côt của bà ta ở đây! Vậy bà ta đã đi đâu?”
Lời Đường Phong vừa nói đã thức tính Hàn Giana và Lương Viện, đúng vậy, người phụ nữ này đã dốc cạn sức lực để giấu cuốn từ điền này xuống dưới bia đá mà vẫn còn sức đế đi tới chỗ khác sao? Tại sao không thấy hài cốt của bà quanh đâv? “‘Đường Phong, cậu nói như vậy khiến tôi nhớ tới cây hồ dương có khắc chữ. Lúc đó tôi đã nghi ngờ, nếu hai từ “định mệnh” do một thành viên nào đó trong đoàn thám hiềm khắc, thì tại sao cái cây đó lại cách doanh trại xa như vậy? Bây giờ nghĩ lại thì rất có khả năna trong đoàn thám hiểm chỉ có duy nhất một người phụ nữ, bởi vậy bà ta luôn luôn phải giữ khoảng cách với các thành viên nam. Ớ đây cũng vậy, trong bãi lau sậy có hài cốt của thành viên đội thám hiểm, trên bãi cát bờ phía bắc cũng có hài cốt của họ; còn tại đây. phía tây ven hồ thì chỉ có một mình người phụ nữ này viết thư, chờ đợi cái chết tới, nhưng cuối cùng lại không thấy hài côt cúa bà ta đâu cả! Như vậy chỉ có một cách giải thích, rất có thể người phụ nữ này vẫn chưa chết, sau khi bà ta viết xong đoạn thư cuối cùng chắc chắn đã xảv ra chuyện gì đó!”
“Thật không thể tin nổi, những gì xảy ra ở đây đúng là quá ly kỳ, và rốt cuộc sau đó còn xảy ra chuyện gì nữa nhỉ?” – Lương Viện vô cùng bất ngờ.
“Đầu lâu có thể mở miệng nói chuyện được đấy, đáng lẽ bên cạnh bia đá này phải xuất hiện một bộ hài cốt phụ nữ. nhưng lại không có, điều này đã nói rõ vấn đề!” – Đường Phong nói.
“Vậy anh nói xem người phụ nữ Liên Xô này đã đi đâu? Nếu như bà ta được cứu sống và rời khỏi đây, thì tại sao không mang cuốn từ điển này đi theo?” – Lương Viện hỏi lại Đường Phong.
“Hai câu hỏi này của em hiện giờ anh đều không thể trả lời được; tóm lại, anh có một dự cảm mãnh liệt rằng: người phụ nữ này vẫn còn để lại tung tích cho chúng ta, chỉ có điều là chúng ta có tìm thấy hay không thôi!”
Đường Phong lại vòng quanh bia đá cẩn thận xem xét mặt cát xung quanh, xác định không có hài cốt, thậm chí cũng không phát hiện thấy những vật dụng khác. ‘Tôi nghĩ người phụ nữ này không tự mình bỏ đi. Bởi vì trước đó có vài thành viên của đoàn thám hiếm đã không cam tâm ở đây chờ chết nên đã bỏ đi. Nếu như bà ta muốn bỏ đi, thì đã đi cùng họ rồi, nhưng không, hà đã lựa chọn cách chờ đợi cái chết. Tới giây phút cuối cùng, bà đã kiệt sức, nhưng cuối cùng bà lại rời khỏi đây…”
“Anh muốn nói ràng có người đã giúp bà ta rời khỏi đây?’” – Lương Viện kinh ngạc nhìn núi cát phía sau. Đường Phong nặng nề gật đầu: “Rất có thể.”
“Còn có ai? Ai có thể đưa người phụ nữ này rời khỏi đây? Misha?” – Lương Viện truy hỏi.
“Không! Không thể là Misha. Nếu anh đoán không nhầm thì người đưa bà ta rời khỏi đây chính là Mã Xướng Quốc!”’ – Đường Phong rất tự tin nói.
“Mã Xướng Quốc?! Tại sao anh khẳng định là Mã Xướng Quốc?”
“Điều này rõ rành rành ra đấy, nếu như độc tố trong Đại Bạch Tuyền là do Mã Xướng Quốc hạ độc, thì chứng tỏ ông ta rất thông thạo địa hình ở đây, ít nhất cũng hơn đội thám hiểm. Quân của ông ta chắc cũng đã gặp phải bão cát đen, nhưng sau khi thoát khỏi nguy hiểm, ông ta càng dễ tìm được đường sống. Rất có thể ông ta đã đem người của mình tới đây, trông thấy người của đội thám hiểm đã chết rồi hoặc là đang thoi thóp…”
Hàn Giang ngắt lời Đường Phong: “Nhưng tại sao Mã Xướng Quốc phải đem người phụ nữ Liên Xô này đi?” “Có thế lúc đó những người ở lại Đại Bạch Tuyền đêu chết hết cả rồi, chỉ còn mỗi người phụ nữ Liên Xô vẫn sống, nên Mã Xướng Quốc đã đem bà ta đi.” – Đường Phong đoán.
“Nhưng tôi cảm thấy nội tình bên trong không đơn giản như vậy!” – Hàn Giang lẩm bẩm.
“Đội trưởng Hàn, không phải anh nghi ngờ người phụ nữ này là nội gián trong đoàn thám hiểm đấy chứ?”
– Lương Viện bỗng hỏi Hàn Giang.
“Nội gián?” – Hàn Giang giật mình – “Tôi còn chưa nghĩ tới chuyện đó, trong đoàn thám hiểm năm đó đúng thật là có nội gián sao?”
“Tôi thấy chúng ta cứ ở đây mà suy đoán thì cũng vô ích, sáng sớm mai tiếp tục lên đường thôi!” – Đường Phong đề nghị.
“Tiếp tục lên đường? Chúng ta nên đi đường nào?”
– Sắc mặt Lương Viện thật khó coi.
Đường Phong leo lên đỉnh đồi cát, nhìn ra xung quanh, cát vàng mênh mông, nên đí đường nào đây?
Đường Phong dùng kim chỉ nam phán đoán phương hướng: “Chúng ta sẽ đi theo dấu chân của người phụ nữ Liên Xô này.”
“Đi theo dấu chân của người phụ nữ Liên Xô? Nửa thế kỷ trôi qua rồi, lấy đâu ra dấu chân của bà ta nữa?” – Lương Viện ngơ ngác.
Đường Phong giải thích: “Nếu như người phụ nữ Liên Xô này đúng là bị Mã Xướng Quốc đem đi, vậy thì bà ta sẽ đi đâu?”
“Ốc đảo chết chóc?”
“Đúng! Anh nghĩ chỉ có thể như vậy, thế thì chúng ta nên đi theo hướng tây, hơn nữa anh nghĩ: ốc đảo chết chóc và Hạn Hải Mật Thành chắc là cách Đại Bạch Tuyền không còn xa nữa đâu!”