Chương 48: Cú phôn lúc nửa đêm
Đây là đâu?
Trần nhà trắng, đèn sáng trắng, đệm trắng muốt, áo khoác trắng. Hình như tôi vẫn ở trong tuyết trắng trải khắp núi rừng, mất hết hồn vía. Tôi thở dốc, kinh hãi nhìn quanh, rồi ngồi dậy.
Cánh tay tôi đang cắm kim truyền nước gì đó, tôi rút phứt ra luôn, không chút do dự.
“Gì thế? Sao cô lại rút kim ra?” Chị y tá đứng tuổi vừa bước ra cửa đã quay lại, cứ như chị ta có mắt mọc sau gáy.
“Các người bơm thuốc gì cho tôi thế?” Tôi bịt chặt cánh tay, nếu chị ta cứ tiêm nữa thì khó tránh khỏi một cuộc vật lộn.
“Đừng dại thế! Chúng tôi đang truyền kháng sinh và dung dịch gluco, vết thương ở chân cô bị nhiễm trùng, người thì yếu lắm. Chịu khó nằm xuống đi! Bây giờ tôi ra gọi điện cho đội trưởng Ba.”
“Đội trưởng Ba?”
“Đúng! Là anh cảnh sát ở Giang Kinh đến. Cô vào viện này đều do anh ấy thu xếp. Nằm xuống đi!” Chị lại cắm kim vào tay tôi. Nghe thấy tên Ba Du Sinh, tôi không vùng vằng nữa. Ngực áo chị y tá in chữ “Bệnh viện số 1 Đại học Cát Lâm”, ga trải giường cũng in chữ như vậy.
Thì ra tôi đã ở thành phố Trường Xuân.
Tôi gắng nhớ lại tỉ mỉ những sự việc trước đó, hình như tôi ngất lăn trên tuyết, trước đó là đâm xe, bị truy đuổi…
“Có lẽ tôi không cần gọi điện nữa!” Chị y tá mỉm cười.
Ba Du Sinh bước vào, tay anh vắt chiếc áo khoác. Anh mỉm cười an ủi tôi: “Hoan nghênh em đã trở về trần gian!”
Tôi chăm chú nhìn anh, rồi lắc đầu nói: “Đúng, không phải là anh!”
Ba Du Sinh ngạc nhiên, rồi lập tức hiểu ra: “Có kẻ mạo danh tôi, xưng là công an Giang Kinh chứ gì?”
Tôi cũng hiểu ra: “Chắc Triệu Sảng đã nói chuyện với anh rồi?”
Anh gật đầu, rồi kéo cái ghế đến bên đầu giường tôi ngồi xuống. “Việc em cần nhất lúc này là nghỉ ngơi cho tốt.”
“Thực ra em cảm thấy vẫn ổn, không thấy có vấn đề gì lớn. Anh nói đi, tại sao anh lại đang ở miền đông bắc?”
Ba Du Sinh hơi nhíu mày. Anh vốn không bao giờ thể hiện tâm trạng buồn vui trên nét mặt, tôi đã nhiều lần tiếp xúc với anh nên mới nắm bắt được nét thay đổi rất tinh tế này. Anh hơi do dự rồi mới nói: “Em không nhớ ra được thật à?”
Tôi chưa hiểu ý, nhìn anh, chầm chậm lắc đầu: “Chưa nhớ ra điều gì ạ?”
Ba Su Sinh lại do dự, lần này rất lâu. Mãi anh mới nói: “Em đến khu nghỉ dưỡng, hôm sau anh đã gửi Email cho em, đề nghị một điều rất riêng tư, nói rằng em đi cùng nhóm người ấy có phần mạo hiểm… chưa có chứng cứ gì, chỉ là cảm giác, anh muốn em lưu ý. Và còn nói rằng, nếu hai ngày liền không có tin gì về em thì chắc em có chuyện, em cứ thông tin với anh, anh sẽ giúp. Một ngày sau đó, tức là ngày thứ ba em đến khu nghỉ dưỡng, anh nhận được thư em báo tin bình an ổn thỏa cả. Nhưng nửa đêm hôm đó anh bỗng nhận được cú phôn của em…”
“Em gọi điện cho anh ư?” Tôi kinh ngạc.
Ba Du Sinh gật đầu, chăm chú nhìn tôi, như muốn quan sát đánh giá lại tôi một lần nữa. “Đúng thế. Em lại nói về chuyện có cảm giác tâm trạng mình bị xáo trộn mạnh, lúc thì sợ hãi, lúc thì chán nản bất lực. Và còn nói đến người chị họ…”
“Em gọi điện cho anh khi nào? Có phải là khoảng 2h rưỡi sáng không?” Tôi nhớ đến hình ảnh mình trong đoạn video của Giản Tự Viễn.
Ba Du Sinh thở phào: “Thì ra em không quên. Đúng là khoảng 2h rưỡi sáng.”
“Xin lỗi, em đã phá giấc ngủ của anh.” Đúng là sau đó tôi mới biết mình đã gọi điện thoại, nhưng tình hình và nội dung nói gì tôi quên sạch.
Một lần nữa Ba Du Sinh lại nhíu mày: “Ngủ? Đâu có phá giấc ngủ gì chứ? Đêm hôm đó anh và các đồng nghiệp đang thức để khám phá một vụ án lớn phóng hỏa phá hoại, ngủ nghê gì đâu! Có lẽ em không nhớ ra thật?”
Tôi lắc đầu: “Sau đó xem một đoạn video em mới biết mình đang gọi điện thoại.”
“Em nói mình không ngủ được, cảm thấy những người xung quanh đều trở nên kỳ lạ, hai vợ chồng người chị họ nghi kỵ lẫn nhau, hôn nhân đi đến chỗ bế tắc, ông anh rể La Lập Phàm bị lùa khỏi phòng vợ chồng ở chung, phải ra ngủ đi-văng phòng khách; chị ấy viết trên blog ám chỉ sẽ tuyệt mệnh gì đó…”
Tôi lẩm bẩm: “Em ra phòng khách gọi điện, mà La Lập Phàm thì ngủ ở phòng khách…” Tại sao tôi lại đứng trước mặt La Lập Phàm gọi điện kể về những chuyện lan man ấy?
Ba Du Sinh nói: “Lúc đó em nói rằng Lập Phàm đang không có mặt ở phòng khách, em đoán anh ta đã lẻn về phòng; còn nói là Thành Lộ thường ngủ rất say, sẽ không nhận ra Lập Phàm đã lại về giường nằm.”
Tôi lập tức nhớ ra chiếc ba-lô của mình. Sẽ nói với Ba Du Sinh rằng rất có thể biết Lập Phàm sau khi rời phòng khách thì đi đâu, nếu xem lại đoạn video kia. “Em còn nói những gì nữa?”
“Sau đó hai ngày liền em không thông báo gì cả. Anh xem bản tin thì biết chân núi Trường Bạch có bão tuyết, bèn gọi điện hỏi bãi trượt tuyết, họ nói đúng là có vài du khách bị kẹt trên núi, nhưng họ cam đoan rằng, chỉ cần du khách không mạo hiểm ra ngoài thì không có gì nguy hiểm cả; khi thời tiết dịu đi, họ sẽ huy động các nhân viên thông thuộc địa hình, giàu kinh nghiệm, tiếp tế đồ ăn lên núi.
“Lúc đầu anh cũng tạm yên tâm, nhưng nghĩ đến Email và cái cảm giác bức xúc của em khi gọi điện lúc nửa đêm… Kể từ sau “vụ án 5 xác chết” anh tin rằng em có trực giác khá tốt, em không phải con người dễ hoang mang, thổi phồng sự thật, em đã cảm nhận ra nguy hiểm rình rập thì chắc không phải là bỗng dưng vô cớ. Cho nên anh phóng xe đến bãi trượt tuyết.”
Tôi cảm động nói: “Anh hiếm khi có được kỳ nghỉ phép dài ngày, anh còn phải về quê Trùng Khánh, sao anh lại…”
Nhưng tôi lại trả lời thay anh: “Đúng thế, không hiểu tại sao em không thể nhớ nổi những việc mình đã làm. Nay nhớ ra rồi, đúng là lúc đó em có ý nghĩ cầu cứu anh. Sau khi vào ngôi nhà gỗ đó ở thì em thấy hưng phấn, tiếp đó là nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn. Em tưởng đó là phản ứng bình thường khi lên núi cao, nhưng về sau mới biết hiện tượng đó không dứt, chỉ sau khi uống trà thì lại hưng phấn, tiếp đó lại nhức đầu, cho nên em mới ngờ mình bị đầu độc. Em còn cảm thấy những người cùng ở ngôi nhà gỗ, dù là người quen thân hay người lạ, quan hệ với nhau trở nên rất lạ. Người đứng ra tổ chức chuyến đi là Cốc Y Dương, bạn trai cũ của em. Đến đông bắc lần này em nhận ra chính anh ấy lại là một điều bí mật. Em tuyệt đối không tin những chuyện “ngẫu nhiên” hoặc “xác suất rất nhỏ” xảy ra, trái lại em cho rằng biến số càng lớn thì rủi ro cũng càng lớn. Em đoán rằng, vì em có những phán đoán nên em mới báo động để anh biết. Có lẽ vì mấy ngày vừa rồi em quá nhức đầu, đến nỗi quên cả những việc mình đã làm.”
Tôi nghĩ, trong óc tôi thậm chí có thể xuất hiện những việc tôi chưa từng làm!
“Ý em là em bị nhức đầu, mất trí nhớ, đều do bị uống thuốc độc?”
Tôi cúi đầu, nhận ra mình đang mặc quần áo bệnh nhân, chăn bông mỏng mềm mại. Tôi nói: “Trong túi áo khoác của em có một gói trà túi, em đoán rằng nó bị tẩm thuốc độc. Trong nhóm người cùng ở ngôi nhà gỗ, lại chỉ có mình em uống trà, chắc có kẻ trộn ma túy vào trà, em là người duy nhất bị nhức đầu. Còn về cà phê hòa tan, trong nhà chỉ mình chị Thành Lộ uống cà phê, tâm tính chị ấy cũng trở nên buồn vui thất thường và nảy ra những ý nghĩ kỳ quái. Khi em ngừng uống của độc ấy thì lại ngủ li bì mê man, Giản Tự Viễn là một thành viên, nhân lúc em mơ hồ mất ý thức, anh ta định khai thác một điều bí mật, về việc kho báu Bá Nhan bị mất một cách bí hiểm.”
Ba Du Sinh mím chặt môi hồi lâu, rồi thở dài: “Xem ra, kho báu ở đáy hồ Chiêu Dương đã khiến em phải chịu bao tai tiếng… à, xin lỗi, ví dụ như thế không đúng.” Anh áy náy, gượng cười.
“Anh chàng Giản Tự Viễn là người như thế nào, đều nằm trong chiếc di động bên cạnh em đây. Anh ta không có cơ hội cho em biết ai sai khiến anh ta làm mọi việc; manh mối duy nhất nằm trong chiếc di động này.”
“Anh ta đâu?”
“Anh ta chết rồi, cũng như mọi người cùng ở ngôi nhà gỗ ấy. Trừ mình em.” Tôi nhớ đến Thành Lộ và Cốc Y Dương, hai người tôi quan tâm nhất trong những người bị nạn. Tôi rơm rớm nước mắt.
Có lẽ tại mắt nhòa lệ nên tôi nhìn không rõ, hình như Ba Du Sinh hơi nhếch mép cười? Không đúng, anh tuyệt đối không phải hạng người hẹp hòi, lạnh lùng trước tai họa của người khác.
Anh hỏi tôi: “Lúc này em thấy thế nào, có vận động được không?”
Tôi thử cựa quậy dưới chăn, thấy hai chân hơi tê mỏi, không có gì nghiêm trọng: “Chỉ muốn bỏ kim tiêm đáng ghét này ra, em nghĩ mình không vấn đề gì.
Ba Du Sinh cười: “Không cần phải bỏ ra. Anh sẽ nâng chai dung dịch, dẫn em đi dạo.”
Anh đỡ tôi xuống giường, tay nâng cái chai, dẫn tôi ra ngoài buồng bệnh. Rồi đi qua hành lang chật ních người vào thăm bệnh nhân và những giường bệnh kê thêm bên ngoài, đi thang máy xuống tầng trệt, bước ra cửa tòa nhà, anh choàng thêm cho tôi chiếc áo khoác của anh.
Tôi đứng ở cửa tòa nhà, lưỡng lự.
Tuyết trắng lóa mắt.
Có lẽ tôi sẽ trở thành con bệnh mắc chứng “sợ tuyết” đầu tiên trong lịch sử y học cũng nên.
Ba Du Sinh đứng bên khẽ nói: “Nếu cảm thấy không ổn thì em lại trở vào vậy.”
Tôi nhìn anh, mỉm cười: “Anh là một thầy giáo rất giỏi dùng kế khích tướng!”
“Anh nói thật đấy, không nhất thiết phải ra bây giờ, đâu phải việc gấp gì?”
Tôi không do dự nữa, cùng anh ra khỏi khu buồng bệnh. Tôi để ý nhìn dưới chân, mặt đường vừa được quét tuyết và rắc muối lên, nó đang chuyển sang màu tro; tuy chẳng đẹp mắt nhưng ít ra cũng không khiến tôi thấy kinh hãi nữa.
Chúng tôi đến một tòa nhà mới tinh, đi thang máv lên tầng hai, rồi bước vào buồng điều trị tích cực ICU.
Phòng dành cho bệnh nhân nặng, tường được sơn màu da cam, gam màu ấm áp, ít thấy, nhưng hình như lại có tác dụng cho tôi thêm cảm giác về sức sống. Ba Du Sinh nói mấy câu với cô y tá ở cửa rồi dẫn tôi vào, bước đến bên một giường bệnh.
Một phụ nữ. Sắc mặt nhợt nhạt, thiếu não, hai mắt nhắm nghiền, mũi chụp ống thở ô-xy.
Tim tôi dường như quên đập trước niềm vui bất ngờ này.
Đó là Thành Lộ.