Vụ Bí Ẩn: Con Chó Tàng Hình

Chương 4: Con chó ma quỷ



Đã gần tám giờ lúc Ba Thám Tử Trẻ bước xuống xe buýt Wilshire và đi đến Paseo Place. Cha xứ nhà thờ St. Jude, đang đứng trước nhà, lục lạo trong túi áo khi ba thám tử bước đến. Ông vui vẻ gật đầu chào và chúc một buổi sáng tốt lành.

Hannibal, Bon và Peter không gặp bà Bortz khó chịu khi bước vào tòa nhà ông Prentice ở, nhưng ba bạn không thấy ông ở nhà.

Thay vì đó, ba thám tử tìm thấy tờ giấy nhắn nhét dưới cửa nhà ông.

“Ba bạn trẻ của tôi”, giấy nhắn viết, “tôi ở số 329 Lucan Court. Nhà ngay phía sau lưng tòa nhà này. Băng qua lối đi, vòng ra cửa trước. Tôi sẽ chờ các cậu.”

Hannibal nhét giấy vào túi.

– Là căn nhà bị trộm vào – Hannibal nói.

Ba Thám Tử Trẻ nhìn xuống ban- công và thấy bà Bortz đã ra khỏi nhà. Bà mặc áo đầm, mái tóc đỏ hung rối bù.

– Ông Prentice không có ở nhà à? – Bà hỏi.

– Dường như không – Hannibal nói.

– Không hiểu ông ta có thể đi đâu vào giờ này nhỉ? – Bà nói.

Ba thám tử không trả lời bà. Ba bạn đi xuống cầu thang, băng qua sân, ra ngoài bằng lối sau tòa nhà – một lối nhỏ đi ngang qua chỗ giặt ủi, nhà kho và có vài bậc thềm dẫn lên lối đi. Ba thám tử nhìn thấy thùng rác, nhà xe và lưng các tòa nhà của đường bên kia.

Đúng như Fenton Prentice đã nói, số 329 Lucan Court nằm ngay phía sau lưng căn hộ của ông. Đó là một dinh thự vuông vức, một tầng. Khi Peter bấm chuông, thì người ra mở cửa là Charles Niedland, người đàn ông tóc bạc đứng nói chuyện với Fenton Prentice tối hôm qua. Trông ông có vẻ nhớn nhác.

– Mời vào.

Ông bước lui, mở rộng cánh cửa.

Ba Thám Tử Trẻ bước vào một nơi nửa nhà nửa căn hộ đơn. Cửa sổ mái được khoét ngay giữa trần phòng khách. Phòng không có thảm và rất ít đồ gỗ. Có nhiều bàn vẽ và một giá vẽ. Hình chụp và phác hoạ được ghim khắp nơi trên tường, sách được xếp thành chồng khắp mọi nơi. Có cả một máy truyền hình nhỏ, một dàn âm thanh stereo tinh vi và một bộ đĩa đồ sộ.

Fenton Prentice ngồi trên giường, hai tay ôm cằm. Trông ông mệt mỗi nhưng bình tĩnh.

– Chào các cậu – ông nói – Có thể các cậu sẽ muốn giải thêm một vụ bí ẩn nữa. Hoá ra, chính tôi là người bị mất trộm tối hôm qua.

– Kìa, anh Fenton – Charles Niedland nói – tôi tin chắc chỉ là một vụ trộm ngẫu nhiên thôi. Cảnh sát đã làm cho tên trộm hoảng sợ trước khi hắn kịp lấy thêm gì khác ngoài con chó Carpates.

Charles Niedland quay sang ba thám tử.

– Anh Fenton có nói tôi rằng các cậu có tài điều tra. Tôi nghĩ trong trường hợp này không có gì bất bình thường để điều tra. Tên trộm vào bằng cửa sổ nhà bếp. Hắn dùng dao cắt kiếng đục một lỗ, với tới mở cái chốt ra. Rất bình thường.

– Nhưng hắn chỉ lấy mỗi con chó Carpates – Prentice nhấn mạnh.

– Cảnh sát không cho rằng như vậy là bất bình thường – Charles Niedland nói – Cảnh sát nói máy truyền hình không đáng một xu, màn hình chỉ có chín inch. Còn dàn stereo thì mang số bảo hiểm xã hội của em trai tôi ở dưới đế dĩa và trên hai cái loa. Sẽ rất khó bán lại. Ngoài ra ở đây không còn gì đáng giá nữa. Em trai tôi sống rất giản dị.

– Một nghệ nhân vĩ đại – ông Prentice nói – Cậu ấy sống vì nghệ thuật.

– Con chó Carpates là gì ạ? – Peter hỏi.

Charles Niedland mỉm cười.

– Một con chó. Một chú chó có lẽ chưa hề tồn tại thật, ngoại trừ trong đầu óc vài người mê tín dị đoan. Em trai tôi rất lãng mạn, cậu ấy thích các chủ đề lãng mạn trong công việc nghệ thuật. Có một truyền thuyết kể rằng cách đây hai thế kỷ, một ngôi làng trên vùng núi Carpates (dãy núi ở Trung âu, trải dài hình bán cung trên các quốc gia Tiệp Khắc, Ba Lan, Ukraina và đặc biệt là Rumani, đỉnh cao nhất là 2655mét) bị một con chó ma quỷ ám. Tôi biết rằng dân làng vùng núi Carpates có tiếng là rất mê tín.

Hannibal gật đầu ra vẻ hiểu biết.

– Vùng ấy còn được biết với tên Transylvania. Quỷ hút máu Dracula được cho là sống tại vùng đó.

– Đúng – Charles Niedland nói – nhưng con chó ma quỷ không phải là quỷ hút máu, mà cũng không phải ma sói. Dân làng tin rằng con chó là hồn ma của một ông quý tộc – một người say mê săn bắn và đã nuôi một đàn chó săn hung dữ. Nghe nói đàn chó có lai sói.Ôông quý tộc muốn đàn chó phải thật nhạy bén khi săn, nên ông để chúng ốm đói. Theo truyền thuyết cũ, vào một đêm có một con chó xổng chuồng đã cắn chết một đứa bé.

– Ghê quá! – Bob thốt lên.

– Đúng. Một tấn bi kịch, nếu thật có chuyện ấy xảy ra. Cha của đứa bé yêu cầu phải giết hết đàn chó. Ông quý tộc không chịu, và người ta kể rằng ông ấy đã quăng vài đồng tiền cho người dân làng này để đền bu cho đứa trẻ đã chết. Dĩ nhiên là người cha giận điên lên, và trong cơn tức, người này đã lượm một cục đá, ném mạnh vào ông quý tộc. Cục đá làm ông này chết, nhưng không chết ngay. Trước khi chết, nhà quý tộc xấu xa đã nguyền rủa cả làng và tất cả những ai sống trong làng. Ông ấy nguyện sẽ trở về làm ma ám nơi đó.

– Cháu đoán ông ấy biến thành một con chó? – Peter nói.

– Một con chó đàn khổng lồ – Charles Niedland nói – một con chó săn ốm đói, có thể có lai sói. Toàn bộ đàn chó săn của ông quý tộc bị hủy diệt, nhưng vào những đêm tối tăm, một sinh thể hốc hác trơ xương sườn chạy lang thang ngoài đường, kêu rên la hét. Dân chúng khiếp sợ. Có vài người để thức ăn ở ngoài cho con thú, nhưng nó không chịu ăn. Nếu con chó ma quỷ từng là ông quý tộc, thì lời nguyền rủa đã thành sự thật. Ông ấy đã quay về ám ngôi làng. Tuy nhiên, có một sự công bằng kinh tởm trong chuyện này, bởi vì ông ấy luôn ốm đói, y như đàn chó của ông từng bị ốm đói. Đến một lúc nào đó, dân làng không chịu nổi bỏ đi chỗ khác ở. Nếu con chó vẫn còn lang thang chỗ đó thì nó làm ma ám một nơi hoang tàn bỏ hoang.

– Em trai của bác vẽ tranh con chó à? – Hannibal hỏi.

– Em trai tôi không phải hoạ sĩ – Charles Niedland giải thích – Cậu ấy là một nhà điêu khắc nhưng cậu ấy có phác họa khi nghiên cứu thiết kế. Cậu ấy làm việc với thủy tinh và pha lê – đôi khi pha lê kết hợp với kim loại.

– Con chó Carpates là tác phẩm tuyệt đẹp – Fenton Prentice nói – Edward Niedland thực hiện tuyệt tác ấy đặc biệt cho tôi. Hoàn thành cách đây một tháng nhưng chưa giao. Edward Niedland có cuộc triển lãm về những tác phẩm mới nhất của mình tại Hành lang Maller, và cậu ấy muốn đưa vào đó con chó Carpates. Dĩ nhiên là tôi vui lòng để cậu ấy trưng bày. Vậy mà bây giờ mất hết rồi!

– Vậy là một bức tượng chó bằng thủy tinh – Bob khẳng định.

– Pha lê – ông Prentice chỉnh – pha lê và vàng.

– Pha lê là một loại thủy tinh – Charles Niedland nói rõ – nhưng một loại rất đặc biệt. Làm bằng thứ silic hảo hạng nhất, với hàm lượng oxyt chì rất cao, do đó nặng hơn và sáng hơn thủy tinh bình thường nhiều. Em trai tôi làm việc với thủy tinh – và pha lê – nóng đến nỗi gần như là chất lỏng. Cậu ấy tạo hình bằng công cụ, rồi nung nóng trở lại khi đã nguội, rồi tạo hình thêm nữa, nung nóng, tạo hình, cứ như thế cho đến khi có được hình thù như ý. Rồi cậu ấy sẽ hoàn chỉnh, chà và mài bằng axit. Khi xong rồi, con chó Carpates là một bức điêu khắc tuyệt vời. Mắt con chó được viền vàng, và có bọt vàng sùi ra ở mép. Trong truyền thuyết, người ta nói mắt con chó sáng chói lên.

– Có thể bác sẽ lấy lại được – Bob hy vọng nói – Một vật như thế sẽ rất khó bán.

– Sẽ bán được cho ai không có lương tâm và hiểu biết về công trình của Edward Niedland – Fenton Prentice nói – Cậu ấy còn trẻ quá… rất tài. Có người sẽ vui vẻ giao du với bọn trộm cướp để sỡ hữu được một tác phẩm của cậu ấy.

Hannibal nhìn khắp căn nhà giản dị.

– Chú ấy làm việc ở đây à? – Thám tử trưởng hỏi – Chú ấy phải cần một cái lò để làm việc với thủy tinh nóng chảy chứ?

– Em trai tôi có xưởng ở khu đông Los Angeles – Charles Niedland nói – Cậu ấy làm việc ở tại đó.

– Ở đây không có bức điêu khắc nào khác à? – Hannibal hỏi – Em của bác không giữ cái nào cho chính mình sao? Hay còn để ở xưởng?

– Edward có một bộ sưu tập nhỏ, tác phẩm của chính mình và của các nghệ nhân khác, giữ tại nhà ở đây. Tôi cho dọn mọi thứ đến một nơi an toàn hơn khi cậu ấy mất. Hoàn toàn do tình cờ mà con chó Carpates có ở đây khi tên trộm đột nhập vào.

Fenton Prentice thở dài.

– Triển lãm ở hành lang nghệ thuật của em tôi kết thúc cách đây vài ngày. Cậu ấy cũng đã mượn vài món của những chủ nhân khác, và tôi đã mang trả lại. Cuối giờ chiều hôm qua, tôi ghé qua đây, định giao con chó Carpates cho anh Fenton và soạn vài quyển sách của em tôi. Tôi đến đúng lúc anh Fenton đang chờ các cậu – anh ấy đã nói với tôi trước về các cậu trong ngày, khi tôi gọi để sắp xếp hẹn. Nên tôi để con chó Carpates lại, đi ra ngoài ăn một tí. Khi trở về, tôi nhìn qua cửa sổ thấy có kẻ lạ đang ở trong nhà. Tôi gọi cảnh sát ngay bằng điện thoại của hàng xóm.

– Anh Charles à, anh thật là bất cẩn – ông Prentice nói giọng hơi cay đắng.

– Kìa anh Fenton ơi, đừng cãi nhau nữa chứ – Charles Niedland trả lời – cứ cho là xui xẻo.

– Có ai biết rằng con chó sẽ được giao hôm qua không? – Hannibal hỏi.

Cả hai người đàn ông lắc đầu.

– Con chó Carpates có được bảo hiểm không? – Bob hỏi.

– Có, nhưng ích lợi gì khi nó không còn nữa? – Prentice đáp – Cũng… cũng y như bị mất bức Mona Lisa vậy! Người ta không thể nào được đền bù một vật như thế.

– Chắc là cảnh sát đã tìm thử dấu vân tay và các thứ khác? – Hannibal nói.

– Cảnh sát ở đây đến nửa đêm rắc bột dấu vân tay khắp mọi nơi – Charles Niedland trả lời – Dường như không tìm thấy gì cụ thể cả. Hiện cảnh sát đang kiểm tra hồ sơ về các tội phạm đã biết xem có tên nào chuyên trộm đồ mỹ nghệ hay không.

– Chắc chắn cảnh sát sẽ rà rất kỹ – Hannibal nói – cháu không nghĩ tụi cháu có thể làm gì hơn.

Ông Prentice gật đầu, chào Charles Niedland, rồi dẫn ba thám tử trở về lối đi sau nhà, vào sân tòa nhà ông ở. Bà Bortz có mặt ở đó, đang lặt lá khô trên cây. Ông Prentice làm như không thấy bà và đi lên lầu, cùng ba thám tử theo sau.

Khi đã vào căn hộ ông Prentice, Hannibal lấy hũ thuốc bôi ra và trình bày kế hoạch.

– Ngăn kéo bàn viết của bác có tay cầm bằng sứ – thám tử trưởng nói với ông Prentice – rất thích hợp cho mục đích này. Hoá chất này phản ứng với kim loại và có thể làm hỏng đồng hoặc thau nhưng không phương hại gì men sứ. Ta sẽ bôi tay cầm với thuốc này, rồi đi ra khỏi nhà. Nếu có ai đến trong khi bác đi vắng và mở tủ kéo, bàn viết thì kẻ đó sẽ bị dính những vết đen trên tay.

– Kẻ đột nhập có vẻ có khả năng đi lại cho dù có tôi hay không có tôi – Prentice nói – Ngoài ra, dường như nó còn không biết đến tường và cửa. Thì tại sao nó sẽ bận tâm đến ngăn kéo?

– Bác Prentice ơi, ít nhất ta cũng có thể thử xem sao – Hannibal nói – Bác nói tụi cháu rằng có lần bác về nhà và phát hiện ngăn kéo bác bị lục soát.

– Được rồi – Prentice nói – tôi muốn thử bất cứ thứ gì. Ta hãy bôi thuốc trên các ngăn kéo rồi ra ngoài kiếm gì ăn.

– Tuyệt quá! – Peter reo lên – Cháu đang đói bụng gần chết!

Hannibal bôi thứ thuốc thần tiên của mình lên các tay cầm bàn viết của ông Prentice. Sau đó Hannibal, Bob và Peter ra ngoài cùng ông Prentice, bước từ từ xuống cầu thang, nói chuyện lớn tiếng về địa điểm sẽ ăn. Sân vắng vẻ nhưng ngoài cổng mọi người gặp bà Bortz và chàng thanh niên gầy tên Sonny Elmquist. Cả hai đang nhìn về hướng nhà thờ.

Có một chiếc xe cứu thương đang đậu ngay cổng nhà thờ.

– Có chuyện gì xảy ra vậy? – Peter hỏi.

– Người bảo vệ nhà thờ – Elmquist nói – Anh ta bị thương! Cha xứ mới tìm thấy anh ta trên đài đồng ca!


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.