“Jumping Frog”(Ếch nhảy) là khách sạn duy nhất ở Searle. Nhìn vẻ ngoài nó như một cái lán gỗ. Nhưng leo lên hết mươi bậc gỗ cọt kẹt dẫn tới cửa vào, tôi thấy yên tâm hơn. Đứng trong quầy tiếp tân là một cô gái rất xinh với mái tóc vàng như lúa. Cô cười rất tươi đón tôi.
– Chào ông Wallace, – cô nói khi tôi bước lại gần. – Ông tới ở đây chứ ạ?
Tôi không hề ngạc nhiên. Ở Searle này mọi người đều biết nhau, kể cả người lạ. Silas Wood chắc đã nói về tôi.
– Đúng như vậy, – tôi nói.
– Tên em là Peggy Wyatt. Cha em là chủ khách sạn này, nhưng em là người quản lý, cô phân trần. – Ông muốn loại phòng nào, ông Wallace. Ông cho phép gọi ông là Dirk được chứ ạ? Ở đây mọi người đều thân mật với nhau lắm.
Tôi ngắm nhìn cô gái. Cô có thân hình hơi nhỏ. Thực tình, ở cô ta có một vẻ gì đó – mà tôi không biết chính xác là điều gì – khiến ta nghĩ rằng đưa cô ta lên giường là việc không khó khăn gì.
– Tất nhiên rồi. – Tôi nói và mỉm cười thân thiện. – Loại phòng nào ấy à? Thế cô có những loại phòng nào?
– Nói thật với ông các phòng ở đây đều chật chội lắm, nhưng có một phòng dành cho các cặp vợ chồng: một giường đôi rất rộng. (Cô ta bẽn lẽn nhìn tôi với đôi mắt có hàng lông mi dài và tỉa cong cầu kỳ). Một phòng ngủ nhỏ và tủ lạnh đựng đồ uống.
– Thế là tốt rồi.
Cô gái đưa cho tôi bảng giá. Vì mọi chi phí của tôi đều được thanh toán nên tôi chấp nhận. Sau đó cô đẩy quyển sổ đăng ký về phía tôi. Chờ tôi ký xong, cô gái vòng qua quầy đi ra.
– Em sẽ dẫn ông đi xem phòng.
Cô gái mặc chiếc quần bò bó như mọi thanh niên khác và tôi đi theo cặp giò bó chặt đó đến cửa thang máy. Chúng tôi lên tầng một. Cô gái không lúc nào ngừng mỉm cười nhìn tôi. Nếu ở cái làng Searle này mọi người đều là bạn bè thì cô gái đúng là một quảng cáo sống.
Cô gái mở cửa và chỉ phòng cho tôi. Căn phòng tiện nghi mặc dù hơi nhỏ: một buồng ngủ có cửa sổ nhìn ra phố chính, một giường rộng và một phòng tắm nhỏ ngay bên cạnh.
– Tuyệt vời, – tôi nói và đặt vali xuống.
Peggy ngồi xuống giường nhún nhảy.
– Lò xo không cọt kẹt chút nào, cô mỉm cười nói.
Đúng lúc tôi nghĩ rằng đó là một lời mời khéo, thì cô gái đứng dậy đi ra phòng khách.
– Mời ông ra đây làm một ly. Nhà hàng mời. – Cô nói và bước tới gần tủ lạnh. – Uytski Êcốt chứ?
– Được thôi, với điều kiện cô phải cùng uống với tôi.
– Em thích rượu gin hơn. (Cô vừa rót đồ uống vừa nói tiếp). Nhà ăn ở đây chắc sẽ vừa lòng ông. Đừng có ăn ở chỗ khác làm gì. Bà đầu bếp ở đây hơi bị siêu. (Cô ta đưa ly cho tôi và nâng cốc về phía tôi, uống cạn rồi buông một tiếng thở dài và lại mỉm cười nhìn tôi). Vào giờ này trong ngày, hôm nào em cũng phải uống thứ gì đó. Cha em thì không muốn thế.
– Tất cả những người lao động nặng nhọc đều nên uống một ly vào lúc mười một giờ rưỡi mỗi sáng. – Tôi đáp và nhấp một chút uytski êm và ngon.
– Hình như ông là thám tử phải không? Chứ ở cái xó xỉnh này thì có gì hay đâu mà xem. Có đúng là ông đang tìm Johnny Jackson không?
Tôi dự tính màn giáo đầu này còn kéo dài, nên ngồi xuống và mời cô gái ngồi xuống ghế đối diện.
– Để em rót thêm một ly nữa đã, – cô nói rồi lúc lắc cặp mông đi tới tủ lạnh.
Tôi ngạc nhiên là ly của cô ta hết nhẵn. Sau khi rót đầy một ly nữa, cô gái quay lại và ngồi xuống.
– Có đúng là vì Johnny mà ông đến đây không?
– Đúng.
– Ông già Jackson tự sát, thật khủng khiếp. Ông có thấy thế không?
– Đó là những chuyện thường xảy ra ấy mà.
– Em cũng hiểu. Ông già còn gì để mà hy vọng nữa đâu. Có phải vậy không?
– Một số người thì không, nhưng một số người khác lại có.
Cô gái uống một hơi hết nửa ly.
– Em không muốn già một tẹo nào.
– Nhưng điều đó sẽ đến với tất cả chúng ta, có trừ ai đâu. Cô có quen Johnny không?
– Em cùng học với anh ấy. Em rất nhớ anh ấy. Bọn con gái trong lớp mê anh ấy lắm, nhưng anh ấy chỉ có mến em thôi.
Johnny mất tích đã sáu năm nay, mà cô bé này lúc đó chỉ khoảng mười lăm mười sáu. Nếu cô ta không nói xạo, thì ở cái thị trấn nhộn nhạo này bọn trẻ có đời sống tình dục sớm thật.
– Nhưng tôi nghe nói Johnny đâu có thích chơi với con gái.
– Đúng vậy, hoàn toàn đúng. Anh ta thuộc loại con trai chỉ có một bạn gái, và người đó là em. (Cô gái uống cạn ly). Ông có nghĩ rằng sẽ tìm được anh ta không?
– Cũng không biết nữa, nhưng tôi hy vọng là được.Đó là nghề của tôi mà.
Cô gái nghiêng người ra phía trước. Gương mặt xinh đẹp của cô bây giờ đã đỏ lựng.
– Ông nhất định phải tìm ra anh ấy. Em nhớ anh ấy quá.
– Theo người ta nói thì cậu ấy bỏ đi sáu năm trước. Thời gian như vậy là quá lâu để một cô gái xinh đẹp như cô còn nhớ và lại còn tơ tưởng nữa.
– Johnny hoàn toàn khác bọn con trai khác. Anh ấy không giống bọn vô tích sự ở đây. Johnny thông minh. Em đánh cuộc là anh ấy đã thành đạt ở đâu đó và kiếm được hàng đống tiền. (Peggy thở dài). Em mơ ước anh ấy sẽ trở lại đây và đưa em ra khỏi cái xó xỉnh chán chết này. (Cô gái nhìn chiếc cốc rỗng không với vẻ chán chường).
– Cậu ấy có nói là sẽ bỏ đi không?
Cô gái lắc đầu.
– Anh ấy không bao giờ nói về mình. Cũng chẳng bao giờ nói về ông nội anh ấy.
– Thế cậu ấy nói những chuyện gì?
– Ồ, ông còn lạ gì bọn con trai. Khi thì nói về tình yêu, khi thì phàn nàn thế giới này thật khó nhọc đối với cánh đàn ông. Em có thể ngồi nghe anh ta nói hàng giờ. (Cô ta lại nhìn trộm chiếc tủ lạnh). Để em rót thêm ly nữa, – cô nói và chìa cho tôi xem chiếc ly rỗng.
– Thôi đủ rồi, Peggỵ Rượu gin rất có hại đối với những cô bé tử tế như cô. Không nên uống quá nhiều.
– Cái gì khiến ông nghĩ rằng em là cô bé tử tế? (Cô bé đứng dậy và rót thêm một ly rượu gin nữa). Ở cái xó xỉnh này chẳng có ai nghĩ như vậy cả.
– Tại sao?
Cô bé đã say, cười khanh khách.
– Rồi người ta sẽ kể cho ông nghe. Chàng trai duy nhất quý mến con bé hư đốn này là Johnny.
– Giữa cô và Johnny đã có chuyện gì chưa?
– Tại sao ông lại hỏi vậy? Em thì muốn lắm, nhưng Johnny thì làm ra vẻ rằng tình yêu không phải như thế. Nó phải đến cùng với hôn nhân. (Cô gái uống cạn ly, rồi loạng choạng để rơi cốc xuống thảm; sau đó cô nhìn tôi và nói trong cơn nức nở). Chính vì thế mà em muốn ông phải tìm ra anh ấy. Em muốn anh ấy quay lại đây và cưới em. Phải tìm bằng được anh ấy, ông nghe rõ chưa?
Rồi cô gái quay gót loạng choạng đi ra khỏi phòng và đóng sập cửa lại.
Tắm rửa và thu dọn đồ đạc xong thì đến giờ ăn trưa. Bụng tôi đói cồn cào. Tôi đi xuống nhà ăn. Khoảng vài chục người, chủ yếu là đàn ông, đang ngồi ăn. Khi tôi bước vào, mọi người đều ngẩng mặt nhìn tôi. Một số người mỉm cười và một số khác chỉ gật đầu chào tôi. Trong cái phòng rộng lớn này chắc chắn mọi người đều biết tôi làm việc cho một hãng thám tử tư và tôi đang tìm đứa cháu nội của Fred Jackson. Tôi ngồi vào cạnh chiếc bàn xa cửa sổ. Một người hầu bàn già da đen mỉm cười tới mời tôi món đặc sản trong ngày.
– Đây là món tủ của bà đầu bếp ở đây đấy, ông Wallace ạ, – ông ta nói. – Thịt bò hầm.
Tôi đồng ý gọi món đó và ông già chạy đi.
Biết mình là trung tâm của sự chú ý, tôi đan chéo hai bàn tay và đặt ngay ngắn trên bàn. Tôi biết chắc chắn rằng một ngày nào đó người ta không còn để ý đến tôi nữa. Nhưng cảm giác mình bị theo dõi, cứ như người ta chờ đợi tôi đột nhiên rút súng ra hay làm một trò ảo thuật nào đó, khiến tôi thấy khó chịu.
Tôi chợi thấy một người đàn ông cao lớn với vẻ mặt buồn bã đang đứng ngay cạnh tôi.
– Tôi là Bob Wyatt. Con gái tôi có nói rằng ông sẽ ở lại nhà chúng tôi đây một vài ngày. Thật là hạnh phúc lớn cho chúng tôi.
Bắt tay Wyatt, tôi quan sát vẻ mặt nhợt nhạt gầy guộc và đôi mắt đã lờ đờ của ông. Ông ta trạc ngoài năm mươi và có lẽ cuộc đời không mấy ân sủng với ông.
– Nếu ông cần điều gì đó, cứ nói với Peggy. – Ông nói với nụ cười gượng gạo và nhợt nhạt. – Chúc ông ăn ngon miệng. (Nói xong ông bỏ đi).
Món thịt bò hầm quả là ngon tuyệt. Tôi ăn một cách chậm rãi và vào khoảng hơn hai giờ chiều, tôi bước ra tiền sảnh sau khi mọi người còn lại trong phòng ăn đã gật đầu hoặc mỉm cười chào tôi. Tôi cũng mỉm cười hoặc gật đầu đáp lại.
Peggy đang đứng tựa vào quầy tiếp tân. Cô mỉm cười rất tươi chào tôi nhưng tôi không dừng lại. Tôi bước ra đường phố nóng ẩm và đi tới đồn cảnh sát. Tôi gần như chắc rằng may ra giờ này Mason đang uống thứ thuốc của ông ta và Anderson ở đó một mình.
Tôi thấy Anderson đang gác chân lên bàn và dùng một que diêm xỉa răng. Thấy tôi, anh ta đặt vội chân xuống và đứng phắt dậy.
– Chào anh Wallace, rất hân hạnh gặp lại anh.
– Cứ gọi mình là Dirk, – tôi nói và đưa tay bắt. – Có thể chẳng bao lâu nữa bọn mình sẽ cùng làm việc với nhau đấy. (Và tôi kể cho anh ta những điều mà đại tá ủy quyền cho tôi).
Anh ta mừng rỡ cứ như vừa kiếm được một triệu đôla.
– Thật tuyệt vời! Cám ơn Dirk. Thật không thể tưởng tượng nổi.
– Cảnh sát trưởng có đây không? – Tôi hỏi và ngồi xuống.
– Không. Ba giờ nữa ông ấy mới quay lại.
– Này Bill, ngôi nhà của Jackson bây giờ ra sao?
– Chẳng sao cả. Tha hồ cho chim chóc ở. Có thể có ai đó sẽ mua khu đất đó, nhưng là do thằng cháu nội quyết định. Tôi nghĩ nó là người thừa kế duy nhất của ông già Fred.
– Có ai biết nó hiện ở đâu không?
Anderson lắc đầu.
– Chẳng ai biết. Bác sĩ Steed nói ông ta sẽ cho thông báo trên các báo địa phương về cái chết của Fred. (Anh ta nhún vai). Tôi không biết điều đó có ăn nhằm gì không, nhưng Steed nói đó là điều cần phải làm.
– Mình rất muốn ngó lại ngôi nhà đó một lần nữa, – tôi nói. – Cậu có đi với mình không?
– Anh cho rằng có thể phát hiện được điều gì nữa à?
– Chừng nào chưa xem, làm sao mà biết được.
– Anh định đi ngay bây giờ à?
– Tại sao lại không, nếu cậu không bận gì?
– Tôi ngày nào cũng ngồi đây, nhưng có việc gì làm đâu. Rồi bọn tôi thành lũ vô tích sự hết. Ở cái làng Searle này tỷ lệ phạm pháp bé như đầu chiếc đinh ghim.
– Thế thì ta đi thôi.
Dọc đường, tôi nói với Bill về Peggy Wyatt. Ngồi cạnh anh ta trong chiếc Chevrolet cũ rích, tôi cố moi mọi thông tin mà anh ta có thể cung cấp cho tôi.
– Peggy ấy à? Một con bé hư đốn. (Bill lắc đầu). Anh biết đấy, tôi rất thương hại bố con nó. Ông ấy bị bệnh ung thư không thể chữa khỏi, may lắm thì sống được vài năm nữa. Không có đám nhân viên da đen, thì khách sạn sập tiệm lâu rồi. Amy, cái bà đầu bếp da đen ấy, nấu nướng ngon lắm nên còn thu hút được khách ăn. Bob Wyatt chỉ luẩn quẩn trong nhà. Ông ấy đau yếu thường xuyên. Mọi việc quản lý trong tay Peggy. Hồi xưa tôi học cùng trường với nó. Peggy là con bé thông minh. Rồi khi mẹ mất, nó bỏ học để giúp bố trông nom khách sạn. Và bắt đầu từ đó Peggy trở nên không thể chịu nổi.
– Thế mẹ cô ấy chết khi nào?
– Khoảng sáu năm trước. Khi đó Peggy tròn mười sáu tuổi.
– Cùng khoảng thời gian đó Johnny mất tích.
Anderson liếc nhìn tôi.
– Chuyện này thì có quan hệ gì với Peggy?
– Cậu nói là cô ấy trở nên không thể chịu nổi. Thế cô ấy có gây ra chuyện rắc rối gì không?
– Nói đúng ra là không. Cô ấy chỉ tự gây rắc rối cho mình thôi. Chuyện đó ở đây ai chả biết. Nó ngủ gần như với hết thảy mọi người. Tai tiếng lắm. Nhưng mọi người rất quý và thương bác Bob lắm, nên thường tạo bằng chứng ngoại phạm cho Peggy. (Lại một lần nữa Bill liếc nhìn tôi). Cái mà anh gọi là lá nho ấy mà. Nghe người ta nói gần đây nó còn uống rượu nữa.
– Hình như cô bé có quan hệ thâm mật với Johnny lắm phải không?
– Tin mới đấy. Johnny có để ý gì đến bọn con gái đâu. Vả lại, Peggy là loại con gái cuối cùng mà một đứa con trai như Johnny có quan hệ. Hắn là một thằng rất nghiêm túc.
– Cậu có biết anh ta hồi đi học không?
– Có. Nhưng tôi không quan tâm tới hắn. Đúng là hắn học giỏi nhất trường, nhưng là đứa thích cô độc. (Anderson cho xe ngoặt vào con đường hẹp dẫn tới nhà Jackson). Có một số đứa định dần cho hắn một trận. Tôi nhớ là có một nhóm đã định ngày giờ cho hắn bài học hẳn hoi. Tôi cũng tham gia trong nhóm đó. Bọn tôi đã dồn hắn vào một góc sân chơi và định quét sơn vào mặt hắn. (Anderson gãi cằm). Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn một hộp sơn và một chiếc chổi quét sơn lớn. Johnny đứng im trước mặt chúng tôi. Hắn chẳng buồn tìm cách tháo chạy nữa. Hắn cứ đứng đó và nhìn chúng tôi. (Anderson nhún vai). Tôi không biết sao, nhưng lúc đó chẳng thấy thích thú gì nữa. Ở hắn có điều gì đó khiến chúng tôi phải dừng tay. Rồi chúng tôi cũng quên câu chuyện ấy đi. Hoặc có thể chúng tôi hiểu được rằng chúng tôi là một lũ ngốc nghếch còn Johnny đã là một người lớn. Tôi không thể giải thích nổi điều đó. Trong đôi mắt hắn có cái nhìn không hề nao núng mà còn như đặt hắn sau một bức tường lớn vậy. Bọn tôi la hét ầm ĩ nhưng rồi đột nhiên tự tản ra. Và cũng từ đó mọi người để hắn yên.
Anderson dừng xe trước ngôi nhà lụp xụp của Jackson.
– Chúng ta tới nơi rồi, – Bill nói và xuống xe.
Chúng tôi cùng đi tới nhà và mở cửa. Những con nhặng đã biến đi đâu hết. Trong nhà phảng phất mùi ẩm mốc. Người ta chỉ còn nghe thấy tiếng ộp oạp xa xa của lũ ếch.
– Cậu đã kiểm tra xem ông già Jackson có giấy phép giữ súng chưa, Bill? – Tôi hỏi và quan sát xung quanh.
– Rồi. Ông ta có giấy phép dùng súng Carbine chứ không phải khẩu Beretta.
– Thế cậu đã kiểm tra xem ở Searle có ai có khẩu Beretta chưa?
– Rồi. Ở Searle không ai có khẩu Beretta cả.
Tôi gật đầu ra vẻ khen ngợi.
– Cậu đã làm tốt nhiệm vụ đấy.
– Bởi tôi rất muốn làm việc cho đại tá Parnell mà.
– Với đà này cậu nhất định sẽ đạt được ý nguyện. Bây giờ ta hãy đi xem xét một lát.
Trong một giờ rưỡi, chúng tôi đã rà soát ngôi nhà từng li từng tý. Nhưng không có một kết quả gì: không một bức thư, không một tờ hóa đơn, không một bức ảnh. Khi kiểm tra các ngăn kéo rỗng của cái tủ đầu giường, tôi có cảm tưởng rằng ai đó đã tới đây trước chúng tôi và đã mang hết những thứ có ở đây đi. Không thể có chuyện ông già Jackson sống bấy nhiêu năm ở ngôi nhà này mà lại không giữ một bức thư hay một chứng từ nào.
– Mình có cảm tưởng rằng chúng ta đã tới muộn mất rồi, Bill ạ. – Tôi nói.
– Có lẽ vậy. (Anh ta đang ngồi quỳ gối nhìn dưới gầm giường). Hình như ở đây có cái gì đó thì phải.
Anderson giúp tôi đẩy cái giường dịch ra và chúng tôi phát hiện ra một cái hố đào xuống sàn nhà với tấm nắp bằng gỗ chỉ đậy một nửa. Tôi nhấc cái nắp ra và kiểm tra bên trong cái hốc rỗng. Tôi quay lại nhìn Bill đang quan sát qua vai tôi.
– Có thể ông già đã cất tiền ở đây và chắc là chưa tiêu bao nhiêu, – tôi nói và ngồi xổm dậy. – Cái lỗ này là nhà băng của ông ta và có kẻ nào đó đã phát hiện ra.
– Xem ra có lý lắm, – Bill thừa nhận.
Tôi nhún vai và đứng dậy.
– Thế là chúng ta chẳng thu được kết quả gì. Mình hy vọng sẽ tìm thấy thư từ, hay ít nhất cũng là một bức ảnh của Mitch và Johnny. Bây giờ ta thử xem xét quần áo của ông già xem sao.
Chúng tôi mở tủ quần áo. Chỉ còn độc nhất một cái quần cắt cụt hai ống và một chiếc áo vest bằng da đã sờn. Tôi lục tìm các túi, nhưng chỉ thấy bụi là bụi.
– Ông già sống hà tiện nhỉ? – Tôi nói và khép cánh cửa tủ lại.
Bill lầu bầu gì đó trong miệng. Cậu ta đang đứng quan sát bức tường trước mặt. Tôi nhìn theo Bill và nhận ra ngay chỗ đã từng treo một bức tranh hay một khung ảnh gì đấy. Chỉ có ánh sáng mặt trời mới cho phép chúng tôi phát hiện ra điều đó. Theo dấu vết còn lại trên tường, thì cái khung này khoảng ba mươi nhân mười lăm centimét.
Tôi đứng suy nghĩ một lát, mắt vẫn không rời bức tường, rồi nói:
– Mình đoán rằng đây là chiếc khung Huân chương Danh dự của Mitch. Được treo ngay trên giường của ông già. Tất nhiên chỉ là giả thuyết thôi, nhưng mình sẵn sàng đánh cuộc là mình không lầm.
– Nếu kẻ tới đây trong khoảng thời gian từ hôm qua đến sáng nay là một tên trộm, – Bill nói. – Thì nó sẽ làm gì với tấm Huân chương ấy? Vì tên Mitch đã được khắc ở bên dưới rồi kia mà.
– Ai nói với cậu nó là kẻ trộm? Gã tới đây lấy đi những thứ trong các ngăn kéo tủ và tấm Huân chương chính là kẻ đã giết Fred, – tôi nói. – Kẻ trộm thì lấy các thứ giấy tờ của Fred làm gì?
– Đúng thế.
Chúng tôi bước ra ngoài trong cái nóng hầm hập.
– Ta ra chỗ đầm nuôi ếch xem đi.
Chúng tôi đi tới đó và chỉ thấy ếch là ếch.
– Xong rồi, – tôi nói và châm thuốc hút. – Ta về thôi.
Tới chỗ đỗ chiếc Chevrolet của Bill, tôi hỏi:
– Liệu cảnh sát trưởng có lo lắng khi thấy cậu đi với mình không?
– Tôi đã xếp đặt cả rồi. Tôi đã nói với ông ấy cho tôi đi với anh để nắm được tình hình, đó là cách đề phòng tốt. Ông ấy rất hài lòng với ý tưởng của tôi.
– Đừng nói với ông ta quá dài dòng làm gì. Chỉ cần cho ông ta có cảm tưởng rằng mình chẳng tìm thấy gì hết. Mình có linh cảm cái lá nho này đang che đậy một điều gì đó quan trọng hơn mình tưởng.
– Ý anh muốn nói gì?
– Cậu cứ suy nghĩ đi, – tôi nói và ngồi vào xe. – Đây là một bài tập luyện tốt đối với cậu. Cậu đã nói chuyện với người bưu tá về thư tín của Jackson chưa?
– Chưa. Tôi không quên đâu, nhưng khó gặp Josh quá. Tôi hy vọng sẽ gặp ông ta tối nay.
– Đi gặp ông ấy đi, – tôi nói.
Tôi ngả người vào ghế trong khi Anderson chạy thẳng về Searle.