Khung Dực thúc ngựa lên phía trước, đến sát bên con chiến mã của đại ca hắn.
Đứng trên triền dốc thoai thoải nhìn xuống phía rừng mận đang vào mùa, hoa nở trắng xóa một vùng, Khung Dực nheo nheo mắt rồi nói:
“Đại ca, người đến rồi.”
“Ừm.” Khung Tuấn gật đầu, mắt vẫn dõi ra phía trước nhìn đoàn người bên kia đang từ trong rừng mận tiến ra.
“Ta đã nói đệ bao nhiêu lần rồi.
Những lúc có nhiều người thì gọi Đại hoàng huynh.”
“Hahaha, biết rồi, đại ca!” Khung Dực phóng ngựa lên phía trước nghênh đón trước khi đại ca hắn lại cau mày, lắc đầu nhắc nhở thêm một trận.
Khung Dực và Khung Tuấn hôm nay đều vận giáp bạc, trán đội vương miện sắt của hoàng tộc Đại Thương, toàn thân sáng loáng, uy nghi lẫm liệt.
Tóc dài xõa ra, lẫn những bím tóc nhỏ thắt nhuyễn.
Thoạt nhìn, dung mạo của hai huynh đệ khá giống nhau, tuy nhiên trên gương mặt Khung Dực lại tản ra khí chất tướng quân cao ngạo, phảng phất vài phần cuồng dã của chiến binh Đại Mạc.
Tóc hắn cũng ngả màu nâu vàng, trong khi tóc của Khung Tuấn sậm màu hơn, gương mặt cũng trầm tĩnh hơn nhị đệ.
Năm nay Khung Dực mười tám tuổi, còn Khung Tuấn vừa bước sang tuổi hai mươi.
Phía trước, đoàn người nọ cũng đã tới gần.
Dẫn đầu là hai binh sĩ cầm cờ phướn thêu quốc huy Kinh Lạc, sau đó là tầm hai mươi thớt chiến mã của tướng quân vệ quốc đóng ở ải Bạch Vân, nơi quân đội biên giới của Kinh Lạc đóng quân.
Khi khoảng cách hai bên gần hơn, Khung Dực đã nhận ra, trên con ngựa đen lưng phủ tơ lụa đang chạy phăm phăm chính giữa đoàn người là vua chủ Kinh Lạc, Chu An.
Hơn nữa, trong lòng ngài còn đang ôm một đứa trẻ.
“Vua chủ.” Khung Dực và Khung Tuấn ghìm cương, xuống ngựa, vòng hai tay ra phía trước hành lễ, tuy nhiên đầu vẫn ngẩng cao, mắt nhìn thẳng, gối không quỳ.
Đối phương là vua chủ địch quốc, còn bọn hắn chỉ là Vương tử, theo bối phận dĩ nhiên phải hành lễ.
Tuy nhiên, sau chiến tranh hai nước, Đại Thương lại là kẻ trên cơ.
Phong thái của bên thắng cuộc phải được tỏ rõ.
Chu An trông có vẻ ngoài năm mươi, vẫn còn tráng kiện, thân vận áo lụa hai lớp màu vàng nhạt, tay bó chẽn giáp da.
Ngài nghiêm mặt quan sát Khung Dực, Khung Tuấn một lúc rồi chầm chậm gật đầu: “Nhị vị vương tử.”
Khung Dực lập tức bất mãn.
Chu An vẫn chưa xuống ngựa, lại dùng tư thế ngồi trên cao nhìn xuống hai huynh đệ hắn như vậy!
Khung Tuấn thản nhiên như không, mỉm cười nhìn Chu An: “Vua chủ sức khỏe vẫn an khang?”
Lời này nói ra chẳng khác gì một câu giễu cợt.
Kinh Lạc và Đại Thương nằm liền kề với nhau, Đại Thương nằm phía bắc, Kinh Lạc nằm phía nam, chia sẻ một đoạn biên giới trập trùng nơi núi rừng Mạc Bắc.
Rừng mận nằm ngay trên đường biên giới này vừa vặn vắt ngang, phân chia lãnh thổ hai bên.
Hai nước đã có lịch sử chiến tranh gần cả trăm năm, tuy nhiên nói đến năng lực chiến đấu thì Đại Thương vẫn nhỉnh hơn một bậc.
Lần này, sau nhiều năm chinh chiến, quốc khố cạn kiệt, dân chúng lầm than, vua chủ Kinh Lạc lên tiếng đề nghị hai bên đình chiến để cùng nghỉ ngơi, dưỡng sức.
Hoàng đế Đại Thương, Khung Vũ, chấp thuận lời đề nghị của Chu An, tuy nhiên lại đưa ra yêu cầu bắt Kinh Lạc giao nộp hoàng tử duy nhất của nước họ gửi sang Đại Thương học tập, đến khi tròn mười tám tuổi mới được trả về.
Lý do bề mặt là học tập, thực chất ai cũng hiểu đó là giữ làm con tin trong thời gian đình chiến, cũng là để tỏ rõ phong thái kẻ thắng, người thua.
Ngoài ra, còn một tầng nguyên nhân sâu xa hơn mà Hoàng đế Đại Thương đang mưu tính.
Vừa thua cuộc chiến, vừa phải gửi con trai duy nhất sang địch quốc sáu năm trời, cho dù làm quân hay làm phụ, nào có thể an khang, vui vẻ? Quả nhiên, một câu hỏi nhẹ nhàng của Khung Tuấn đã nhắc nhở Chu An về thực tại của hai bên, đánh tan chút điềm tĩnh, cao ngạo cuối cùng của ngài.
Chu An khẽ thở dài, bế đứa trẻ nãy giờ vẫn ngồi im mở to mắt quan sát hai vị vương tử cùng xuống ngựa.
Lúc này, Khung Dực mới hạ mắt nhìn tới đứa trẻ kia.
Thoạt nhìn qua, đó là một đứa trẻ có gương mặt khá xinh xắn, dễ thương.
Da trắng, mắt đen, môi đỏ, không biết do trời xuân còn đang lạnh hay do điều gì mà hai má của nó hây hây, hồng hồng.
Tuy nhiên, đó là xét theo quan niệm cái đẹp của người Kinh Lạc.
Đối với Khung Dực hắn mà nói, vẻ xinh xắn đó chỉ nói lên một điều: yếu đuối.
Hắn là một dũng sĩ lớn lên trên lưng ngựa, lấy ánh nắng chói chang trên Đại Mạc làm chăn, lấy sương tuyết giá lạnh của vùng núi Khúc Băng làm gối, lấy gió cát mặn mòi của dải Chinh Sa làm giường.
Người Đại Thương bọn hắn, da vàng nâu, ngăm ngăm màu mật, tóc cũng cháy vàng.
Mắt sâu, mũi cao, vai rộng, chân dài.
Đối với hắn, chỉ những ai có sức mạnh mới xứng đáng được kính trọng, được tôn sùng.
Bởi vậy, hắn hạ mắt nhìn xuống đứa trẻ kia, môi khẽ nhếch lên một sự khinh thường không giấu giếm.
Bên cạnh hắn, Khung Tuấn chỉ im lặng không nói lời nào, nhìn không ra chút biểu cảm gì trên gương mặt.
Chu An đặt đứa trẻ xuống đất, ngồi xổm xuống nhìn vào mắt nó, hai tay đặt nhẹ lên vai nó, đong đầy yêu thương:
“Ngọc Huyên, đây là Khung Tuấn, Đại vương tử của Đại Thương.
Còn kia là Khung Dực, Nhị vương tử.
Con chào hai anh đi.”
Lời này vào tai Khung Dực liền khiến hắn nhíu mày khó chịu.
Cái kiểu xưng hô quái quỷ gì thế này!
Khung Dực thân là Nhị vương tử Đại Thương, mười tuổi đã thạo bắn cung cưỡi ngựa, mười hai tuổi bắt đầu vào quân doanh, đến năm nay khi hắn tròn mười tám tuổi đã là Thống lĩnh Nhạn Quân đóng tại biên giới phía Bắc của Đại Thương, vùng Khúc Băng đầy gió tuyết.
Tại vùng Khúc Băng có một đỉnh núi thiêng tên là Tuyết Nhạn, là nơi cư trú của Hồ tộc và nhiều dị tộc khác.
Nhạn Quân của Khung Dực chính là bức tường thành vững chắc, ngăn cản các bộ tộc phương bắc quấy phá Đại Thương trong bao năm.
Cũng chính vì thế, hắn chỉ quanh quẩn phía bắc và vùng trung bộ của Đại Thương, cũng chính là Đại Mạc, cùng lắm là miền cực đông, dải Chinh Sa.
Đối với phương nam, đặc biệt là Kinh Lạc, hắn không mấy quen thuộc.
Cuộc chiến của hai nước mấy năm nay cũng do lão tướng Lưu Mục của Đại Thương dẫn đầu.
Đây là lần đầu tiên Khung Dực xuôi nam dưới tư cách Nhị vương tử, tham gia vào nhiệm vụ tiếp nhận hoàng tử Ngọc Huyên của Kinh Lạc.
Ban đầu chỉ có Đại vương tử lĩnh mệnh đi, dù sao Khung Tuấn với tư cách trưởng tử vẫn luôn được phụ hoàng cho đảm nhận nhiều việc trong triều, nhất là đối ngoại đối nội.
Lần này không hiểu sao, phụ hoàng gọi hắn lại rồi bảo, đi chung với Đại hoàng huynh đi, mở rộng kiến thức về phương nam của con một chút, sẽ tốt cho con sau này.
Nhìn thấy vẻ mặt của đệ đệ mình, Khung Tuấn khẽ quay mặt sang, nhỏ giọng giải thích:
“Người Kinh Lạc xưng hô khác chúng ta một chút.”
Lúc này, Ngọc Huyên hơi rụt rè tiến lên một bước, vòng hai tay lại ép vào trước ngực, cúi người về phía trước:
“Em chào anh Khung Tuấn, chào anh Khung Dực.”
Ngọc Huyên vận áo thụng màu lam, tay áo dài, không quấn đai lưng, đầu đội khăn làm từ tơ lụa quấn nhiều vòng, che một phần trán, tóc búi gọn gàng phía sau.
Đây là kiểu ăn mặc của người Kinh Lạc.
Khi Ngọc Huyên cúi người xuống, tay áo cơ hồ chạm vào mặt cỏ phủ sương.
Khung Tuấn bước lên nhẹ nhàng đỡ tay Ngọc Huyên, cười bảo:
“Hoàng tử Ngọc Huyên, sau này cứ gọi Đại vương tử, Nhị vương tử là được.”
Ngọc Huyên ngoan ngoãn gật đầu: “Dạ, em biết rồi.”
Khung Dực chẳng nghe nổi nữa, cái kiểu xưng hô sến súa này làm hắn nổi hết da gà.
Hắn nhún chân nhẹ một cái, nháy mắt đã yên vị vững vàng trên lưng ngựa.
“Đại hoàng huynh, đệ đi xem xe ngựa đã chuẩn bị sẵn sàng chưa.” Dứt lời hắn liền thúc ngựa rời đi, loáng cái đã không thấy bóng dáng.
Khung Tuấn khẽ thở ra một hơi, quay sang áy náy nhìn Vua chủ Kinh Lạc:
“Nhị đệ lỗ mãng, mong Vua chủ đừng trách.”
Chu An cười, phất tay ra phía sau ra hiệu, lập tức có cận vệ bưng lên một chiếc rương nhỏ, trong rương chất đầy mười vò rượu đựng trong bình gốm sứ trắng muốt.
“Tự tay ta ủ chút rượu mơ, Đại vương tử giúp ta trao cho Hoàng đế Khung Vũ.
Mơ này là mơ đầu mùa trên Hương Sơn, chỉ chọn những trái chín nhất, khi hái lông tơ còn mịn màng như nhung, lại chọn buổi sáng sớm khi mơ còn ngậm sương mà hái, sau đó ngâm với đường phèn thượng hạng.
Rượu này uống vào thanh ngọt mà thơm, dùng hàng ngày hay tiếp khách đều được.”
Khung Tuấn vội chắp tay cảm tạ:
“Vua chủ có lòng.”
Lễ vật này không đáng giá, nhưng lại do chính tay Vua chủ ủ tặng, nói sao cũng là một đại lễ.
Xem ra, việc Vua chủ Kinh Lạc sắp gửi gắm cũng không nhẹ.
Quả nhiên, Chu An đã ôn tồn lên tiếng trước:
“Khung Tuấn, sáu năm này, mong con và Khung Dực đối xử tốt với Ngọc Huyên.
Chúng ta hai nước giao tranh nhiều năm, thật ra chủ yếu do hai lão già bọn ta đều cố chấp.
Thực lòng ta không hy vọng hận thù sẽ lan xuống lớp trẻ các con.
Ta…”
Khung Tuấn hơi cau mày, vội ngắt lời:
“Vua chủ xin yên tâm, hai nước đã có thỏa thuận không tổn hại Ngọc Huyên, nhất mực đối đãi Ngọc Huyên như khách quý.
Huống chi, từ xưa tới nay hai nước giao tranh cũng không được tổn hại con tin, sứ giả.
Đó đã là việc thiên kinh địa nghĩa.”
Cách nói thân tình của Chu An làm Khung Tuấn ngay lập tức dựng lên hàng phòng thủ.
Ở Đại Thương, nghĩa quân thần vẫn trên hết, bậc quân vương khi nói chuyện cùng con cái cũng không thân mật xưng hô như thế.
Cho dù đây là chiêu thăm dò của Vua chủ Kinh Lạc dành cho Đại vương tử Đại Thương hắn, hay thật sự là một dấu hiệu Kinh Lạc muốn chấm dứt chiến sự khi tân đế hai nước lên ngôi, hay chỉ đơn giản là lời cậy nhờ của một người cha khi gửi con mình đi xa, hắn đều phải dè chừng.
Chu An dường như cũng nhận ra thái độ của Khung Tuấn, thu lại sự ôn nhu vừa rồi.
Đúng lúc này, phía xa có tiếng vó ngựa truyền tới.
“Cha! Huyên à!”
Khung Tuấn hướng tầm mắt về phía sau, người đến là một nữ tử.
Xét theo tiếng gọi, đây chắc chắn là Đại công chúa Kinh Lạc, Chu Vũ Miên.
Vũ Miên lớn hơn Ngọc Huyên một chút, trạc mười lăm, mười sáu tuổi.
Nàng vận võ trang màu trắng gọn gàng, cổ tay mang giáp da, khoác áo choàng đỏ thẫm.
Tóc dài đen óng xõa ngang lưng, đầu đội khăn truyền thống của Kinh Lạc hình vòng cung, trên khăn đính cườm, hạt đá nhiều màu và ngọc trai theo kiểu hoa văn sóng lượn.
Khi đến gần, nàng ghìm cương, nhẹ nhàng tung người nhảy xuống ngựa.
“Chị Miên! Sao giờ chị mới tới!” Ngọc Huyên mắt sáng rỡ, chạy lại phía Vũ Miên.
Vũ Miên cũng lao đến ôm Ngọc Huyên, bế lên trên tay.
“Chị đi lấy bánh bột hấp cho em này, bánh vừa hấp chín là gói lại mang tới đây ngay, may mà còn kịp.” Nàng dúi vào tay Ngọc Huyên một chiếc bọc nhỏ còn tỏa khói mờ mờ, thoang thoảng mùi lá sen man mát.
Khung Tuấn nãy giờ vẫn im lặng quan sát Vũ Miên.
Dường như bắt được ánh nhìn của Khung Tuấn, Vũ Miên đặt Ngọc Huyên xuống, nắm tay em dắt lại đứng đối mặt với hắn, môi khẽ cười:
“Vị này chắc là Đại vương tử Khung Tuấn rồi?”
Khung Tuấn ngoài mặt nghiêm trang như thường nhưng trong lòng hơi gợn một tia thắc mắc.
Rõ ràng chỉ là nữ nhân, thế mà lại cưỡi ngựa xông thẳng vào phái đoàn hai nước đang chuyển giao con tin ngay biên giới.
Mặc dù Kinh Lạc có truyền thống đối xử nam nữ khá bình đẳng, dù là con trai hay con gái đều được cho đi học, dạy dỗ nuôi nấng như nhau.
Cơ mà…!đến mức như Vũ Miên thì có phải hơi quá rồi không? Ở Vũ Miên không có chút gì rụt rè của nữ nhân thường tình, trái lại nàng ngời sáng, tự tin, thậm chí còn thảng hoặc khí chất của người làm chủ.
Bất giác, Khung Tuấn liếc mắt nhìn vua chủ Chu An.
Chu An nhẹ giọng quở trách:
“Vũ Miên, không được vô lễ.”
Nói là quở trách nhưng trong cử chỉ, lời nói, ánh mắt lại chẳng có chút gì khó chịu.
“Đại vương tử.” Vũ Miên nhìn thẳng vào mắt Khung Tuấn.
“Mỗi tháng ta sẽ viết thư cho Ngọc Huyên, kính nhờ ngài chuyển đến y dùm.
Ngoài ra, trong sáu năm này Ngọc Huyên vẫn sẽ vận quần áo người Kinh chúng ta, ngày Tết của người Kinh vẫn sẽ cúng bái, ăn Tết theo lịch chúng ta.
Chút việc nhỏ này hy vọng Đại Thương rộng lòng đáp ứng, coi như cho Ngọc Huyên chút ân huệ của người xa xứ để đỡ nhớ quê hương.”
Dứt lời, nàng mỉm cười hành lễ, duyên dáng cúi người trước Khung Tuấn thật lâu rồi mới ngẩng lên.
Khung Tuấn lòng khẽ động, nhưng vẫn tỏ vẻ điềm nhiên đáp lời:
“Đại công chúa quá lời rồi.”
Mỗi tháng viết thư là để kiểm tra xem Ngọc Huyên có bình an vô sự hay không, hàng ngày vẫn mặc quần áo Kinh Lạc, ngày Tết đến vẫn ăn Tết theo lịch Kinh Lạc là để không quên cội nguồn quê hương.
Lời nói ra có nhu có cương, hành động trước sau có tiến có lùi, không cho Khung Tuấn một cơ hội phản bác hay từ chối.
Hơn nữa, nàng còn xưng “ta” chứ không dùng cách xưng hô “anh – em” phân rõ bối phận của người Kinh Lạc.
Đây chính là hàm ý nàng đặt mình ngang hàng với Đại vương tử hắn.
Nữ tử này…!không đơn giản.
Lẽ nào nàng ta đã đoán ra gì đó rồi?
Đúng lúc này, Khung Dực từ xa phóng ngựa tới.
“Xe ngựa đã chuẩn bị xong, tới giờ rồi, đi thôi Đại hoàng huynh.”
Lúc này nắng đã lên cao hơn một chút, xua tan sương sớm.
Triền cỏ xanh mướt của núi non Mạc Bắc cùng rừng mận hoa trắng ngút ngàn lặng lẽ chứng kiến cuộc chia ly lịch sử.
Trước lúc chia tay, vua chủ Chu An ngồi xuống ôm Ngọc Huyên vào lòng, dường như ngài còn thì thầm một câu gì đó vào tai em.
Ngọc Huyên mắt long lanh, ôm chị và cha thật chặt rồi đưa tay quẹt mắt, lầm lũi leo lên xe ngựa.
Nhị vị Vương tử của Đại Thương cũng chắp tay cáo từ Vua chủ và Đại công chúa Kinh Lạc, sau đó nhảy lên chiến mã, cùng cận vệ quay người, chầm chậm tiến sâu vào lãnh thổ Đại Thương.
Trên triền dốc, Chu An và Vũ Miên vẫn còn đứng đó nhìn theo.
“Cha.” Vũ Miên quay sang Chu An khẽ hỏi: “Cha nghĩ liệu Ngọc Huyên có thành công trộm được bí quyết thuần mã và luyện mã của Đại Thương không?”
Đại Thương có nhiều thảo nguyên rộng lớn ở Đại Mạc, trên đó có một giống ngựa cực kỳ dũng mãnh, chạy nhanh, sức bền, chịu được giá rét, mưa dông, vô cùng thích hợp để huấn luyện thành chiến mã.
Tuy nhiên, giống ngựa này lại rất khó thuần, xưa nay chỉ có hoàng tộc, một số tướng lĩnh cấp cao và những trưởng tộc du mục lớn trên Đại Mạc nắm rõ bí quyết để chịu trách nhiệm thuần mã cho quân đội Đại Thương.
Kinh Lạc xưa nay không mạnh như Đại Thương về mảng kỵ binh mà thiên về đánh du kích, dùng mưu, thủ thành, lấy ít địch nhiều.
Chu An nhìn xa xăm theo bóng dáng ngày càng mờ nhạt của đoàn người, sau cùng mới khẽ thở ra:
“Khó biết.
Ngọc Huyên mạnh mẽ nhưng tính tình thuần lương.
Vả lại…”
Ngài bỏ dở câu nói nửa chừng, đưa tay vỗ vỗ vai con gái trưởng của mình.
Sau khi nhìn thấy nhị vị vương tử của Đại Thương, ngài chợt nhớ lại một chuyện từ rất lâu trong quá khứ.
Vả lại, chuyến đi này chưa biết là duyên, hay là nghiệt..