Sáng thứ Hai, bà Yorke, Luna và con chó Roska đi chuyến xe lửa thứ nhất tới ga Hassocks. Oliver với Swanhild đã ở đó đón hai người. Bà Yorke hỏi:
– Cháu tôi báo tin cho ông với miss Hammond biết trước rồi chứ? Luna tính ra công việc tìm đào cũng phải mất ít ra cả một ngày: cô cháu tôi cứ sợ làm phiền cho anh em ông.
Oliver quả quyết nói:
– Nếu tìm xét cẩn thận thì hết ngày cũng chưa xong được. Gođard thì đang xem tiếp những giấy má cổ ở nhà. (Chàng lại nói với Luna). Cái ý định đào Gò Sét thực bất ngờ, miss Bartendale nhỉ.
Nàng đáp:
– Là vì tôi muốn thừa dịp tốt chứ có gì đâu.
Trong mấy ngày vừa qua, tuyết đã rơi lác đác, rồi đến hồi mứa đá, sau cùng thì đổ thành trận tọ Sáng hôm đó tiết trời lại êm và hơi ẩm. Một màn sương mù mỏng nhẹ trùm phủ dưới lòng thung lũng và lướt bay bên cạnh chiếc xe hơi, xé tơi qua các cành cây trụi lá và điểm thêm vẻ đẹp huyền bí cho con đường về.
Sanhild cầm lái, Oliver ngồi đằng sau với bà Yorke, chốc chốc lại đưa mình về phía trước để góp chuyện, vì Luna ngồi ngay cạnh em gái chàng. Bà Yorke thì thản nhiên: bà chú ý đến lời bàn bạc của mấy người kia chỉ là giữ lễ độ.
Miss Bartendale hỏi:
– Ông có tìm được thêm đoạn nào trong tập thư của Culpeper không?
– Có. Nhưng những đoạn ấy gần bị hư hỏng vì nhiều lần thí nghiệm hóa học. Gođard đem cả về nhà để tìm cách cố dò xem. Anh ấy tài lắm kia.
– Ở đây bọn tò mò có đến nhiều không?
Oliver:
– Hừm! Ngày hôm qua là ngày đáng ghét lạ! Họ tổ chức thành một đoàn từ Brigton đến, nhà chúng tôi bị những người ồn ào nhất xông vào. Cũng may, hôm nay xấu trời, ta không bị quấy rối nữa.
Luna đáp:
– Càng haỵ Người ngoài họ sẽ làm bận cho công việc của tạ Ta thử tìm xem những vật cụ Warlock chôn dưới Thunder s Barrow có những gì. (Nàng đưa mắt dò ý mọi người trong lúc nói). Theo tục Đan Mạch, vị tổ tiên nhà ông, tức là người con trai cụ Magnus Hammond, táng trong Gò kia cùng với phần lớn những đồ vật mà cụ không muốn rời bỏ. Bảy thế kỷ về sau, một người con trai nối dõi nhà cụ là Magnus Pháp sư rắp tâm muốn lấy lại những bảo vật đó. Cụ Pháp sư này bèn chế luyện Bàn Tay Danh Vọng rồi khai mộ tổ nhà mình lên và chiếm lấy những của xem ra có đôi chút giá trị. Tôi mong rằng cụ Pháp sư để sót lại trong đó cái vật quý nhất đối với tôi bây giờ, nghĩa là cái mảnh đồng khắc bản cổ tự thứ hai.
Oliver hỏi:
– Cô vịn vào những chứng cớ nào mà đoán những điều đó?
– Thoạt tiên tôi nhận thấy rằng Gò Thunder với Bàn tay có liên lạc với nhau từ hôm mà ông Gođard kể cho ta nghe câu chuyện con Bò Vàng với thằng quỷ canh giữ nó. Cụ Pháp sư là một thầy luyện thuốc trường sinh và tìm vàng bằng những lời thần chú: ông cụ chắc có thể dùng Bàn Tay kia trấn áp để làm tê liệt được thằng quỷ giữ của trong mồ.
Oliver:
– Cô đoán có lý lắm.
Swanhild:
– Tôi thì cứ vẫn tưởng Gò Thunder là thứ mộ phần thượng cổ dành riêng cho những vị Thầy Cả và có vị thần của họ là Con Người Quái dị coi giữ.
– Khoa học khảo cổ hễ không giải thích được điều gì thì lại đem gán cho các Thầy Cả ngày xưa. Nhưng ở đây, tên vị thần ta thấy rõ lắm. Thunder là biến thể của tiếng Thor. Vị tổ tiên nhà ông thời xưa là người chưa theo đạo Thiên Chúa, cụ thờ kính thần Thor, và Con Người quái dị là hình tượng của vị thần này, chính cụ Magnus Hammond.
– Hai bím tóc ấy, phải không?
– Phải đó. Ông tưởng đến một người đàn bà, chính những người Vikings (Bắc Hải khấu) ngày xưa để tóc dài và tết thành bím, còn cái dấu fylfot (chữ thập ngoặc) kia là biểu hiện của thần Thor.
Oliver chỉ kêu một tiếng:
– Trời!
Nhưng Swanhild còn vặn:
– Tôi vẫn chưa thấy liên lạc gì với tổ tiên nhà chúng tôi.
– Chậc! (Lời trách móc của Oliver). Thì em cứ để cho miss Bartendale nói nốt có được không?
Luna:
– Đây, tôi xin nói đến câu dịch nghĩa mà ông bác học ở Dulbin đã dò được ở những chữ cổ tự khắc vào dọc thanh gươm, câu ấy tôi mới nhận được hôm qua: “Tên ta là Helin Biter(#1) . Chủ nhân của ta là con trai Magnus Fairlocks”. Những chữ sau vì mòn quá không thể nào đọc được. Tôi mong rằng những chữ khắc trên mảnh đồng chôn dưới mộ đọc được rõ hơn.
Oliver lộ ra hết lòng khen phục Luna, Swanhild lại hỏi:
– Nhưng cô có tin chắc rằng những chữ kia có giá trị và quan trọng thực không?
– Tôi tin chắc thế, vì đến đời ông anh cô đây mà vẫn nhớ đến kia mà!
Bấy giờ xe hơi đang nhằm nẻo Thuder s Barrow mà tiến. Trên đồi cao, gió thổi mạnh, cảnh vật quang đãng; nhưng bên dưới thì mù mịt, người ta không trông rõ thung lũng với những nguồn suối con. Những vệt đá vôi nổi lên khắp chỗ. Hình Người Khổng lồ trong sương, nhờ sự biến hóa dị kỳ của ánh sáng, trông khác nào một bóng ma nhuốm hồng.
Họ gặp Gođard từ phía làng xóm ra đón họ. Chàng bước lên xe và bảo mọi người:
– Tôi tìm mãi chỉ một bọn ít quá. Hornblower đem cả bản lịch của hắn đến cùng với cái đồng hồ của Đức mà con hắn bắt được hồi rút binh. Bọn họ đi từ lúc chưa sáng để làm cho sớm xong việc, vì không người nào muốn qua rừng sau lúc trời tối.
Luna hỏi:
– Ông Covert, ông kiếm được bao nhiêu người?
– Được bốn người. Hornblower là một; cái anh chàng báng bổ thần thánh nhất làng, là hai; người làm vườn mới ở cho chúng tôi, là ba, hắn ta trước đã là hướng đạo sinh; và một người thợ cuốc còn trẻ tuổi mới ra khỏi nhà trừng giới, anh chàng này thì từ thần đến quỷ chẳng còn biết sợ ai. Tôi hứa trả công thực hậu để dụ họ. Ngoài ra, ta lại còn anh Wareen, vị hôn phu của cô Kate; anh nầu chẳng cần gì hết, muốn bảo sao cũng ừ.
Oliver hỏi:
– Việc ta nhờ họ làm họ có biết là việc gì không?
– Có, tôi đã bảo cho họ biết cả. Cũng may, bốn người đều khỏe cả. Sức lực tôi đây cũng khá, còn Swanhild cũng quen với công việc cuốc vườn. Thế là được sáu tay cuốc xẻng. Bây giờ Swanhild định liệu thế nào xin bảo chúng tôi.
Trong khi Swanhild cẩn thận cầm lái xe chạy qua miền thung lũng, Luna giảng giài lại một lần nữa cho Gođard nghe. Chàng nói:
– Có một vài chỗ tôi thấy còn lờ mờ lắm. Nếu cụ Magnus Pháp sư có ý tìm vàng thì sao cụ chỉ giấu có thanh gươm thôi? Còn việc này nữa: công việc khai cái Gò Sét không ăn khớp với những lời di ngôn cuối cùng của ông cụ về chuyện căn phòng bí mật, mà cũng không là một lẽ để ông cụ phải xin ân xá tội bằng những lời tạc trên tấm bia mộ. Tôi chắc những thầy dòng ngày xưa không cho việc xâm phạm lăng mộ là một tội ác không thể chuộc được.
Luna đáp:
– Những điều ông bẻ đó, chính tôi cũng chưa kịp phân giải ra sao. Duy có điều chắc chắn bây giờ là, may lại đến lượt tôi xâm phạm vào ngôi mộ đó. Ồ! Tôi biết, ông Gođard ạ, tôi biết ý ông nghĩ rồi kia: phải có giấy phép hẳn hoi mới được khai mộ, chứ gì?
Gođard gật đầu, Oliver cương quyết nói:
– Đây là tổ ấm của tôi, trong địa hạt của tôi, mà ma quái cũng là của tôi, không ai nói vào đâu được.
Ít khi chàng dùng cái giọng nghiêm khắc đến thế.
Đến đầu con đường nhỏ, mọi người xuống xe đi bộ về phía Gò Sét. Giữa màu cảnh vật xám mờ, hai mái tóc của Luna và Swanhild in lên một điểm sáng.
Luna lấy một cuộc dây gai buộc một đầu vào một gốc thông, căng thẳng và vạch chung quanh cây đó một vòng tròn đường bán kính dài chừng trăm thước; vây lấy bốn cái cây nhỏ và chỗ trung tâm điểm của mặt Gò.
Lúc đó bọn thợ của Gođard tìm cũng vừa tới.
Hornblower đặt chiếc đồng gồ quả quít với bản lịch chỉ dẫn(#2) lên một tảng đá rồi cả bọn khởi công đào khoảng đất ở trong cái vòng đã vạch. Đến trưa họ đã đào bật được mấy gốc cây con.
Trong lúc bọn thợ nghỉ tay ăn uống thì Swanhild với Gođard lấy cuôc xẻng đào tiếp theo. Luna, bà Yorke và Oliver về dùng bữa trưa ở lâu đài Dannow. Lúc trở lại Gò, họ đem cho đôi bạn mấy món đồ ăn lạnh.
Bây giờ khoảng ba giờ chiều, Hornblower đang đào ở chỗ mấy cây thông lúc trước, đứng thẳng người lên để hất một xẻng đất ra một bên. Hắn bảo Oliver:
– Đất chỗ này lạ lắm, ông ạ.
Thì ra lớp phấn chỗ ấy bị vỡ và bên trên phủ một lượt dầy thứ đất thịt đen thẫm và tốt mầu. Warren xem kỹ một lát rồi quả quyết nói rằng khắp miền này không có chỗ nào đất được tốt như thế. Anh ta nói thêm:
– Mà đây không phải một chỗ tụ đất thiên nhiên. Thứ đất này lấy ở một khu vườn nào đến hẳn thôi.
Đứng trên mép hố, Oliver ngẫm nghĩ hoài. Rồi chàng thấp tiếng nói:
– Đây là đất mùn đây.
Chàng đưa tay sờ bên thái dương, dưới đám tóc gọt là chỗ vết thương còn hơi hơi rõ.
– Hình như tôi nhận ra được kia… Không biết tôi đã trông thấy thứ đất này ở đâu rồi nhỉ… À, phải rồi: ở một buổi hạ huyệt! Phải, thứ đất này là đất nghĩa địa đây. Nhưng thứ đất thánh ấy, giống quái quỷ quái nào đã mang được đến thế?
Chú thích:
(1-) Helin Biter: Thanh gươm tự xưng.
(2-) bản lịch chỉ dẫn: Khí cụ của người Âu châu dùng để dò tìm một vài vật dưới đất