Tất cả bọn thợ đều rụt rè, không dám làm nốt, trừ có một mình Warren. Anh ta hích khuỷu tay rẽ Hornblower sang một bên rồi đào nữa. Không mấy chốc lớp đá phần hiện ra dưới lượt đất thịt phủ nông. Bây giờ những người kia lại bắt tay vào việc.
Oliver xem chừng bị kích thích dữ. Luna thì không rời mắt xem xét chàng. Nàng bảo:
– Ông Hammond ạ, ở mãi đây thì ta đến bị cảm nhiễm lạnh mất. Tôi muốn đi thăm miền Beacon hơn, và tiện thể xem cái hình Người Khổng lồ.
Vừa để tâm nghĩ ngợi, Oliver vừa dẫn hai cô cháu bà Yorke lên chỗ rồi dốc, trụi hết cây cối rằng, trên đó chân trái Người Khổng lồ gác lên. Bỗng nhiên chàng hỏi Luna:
– Lúc nãy tại sao tôi lại nói đến đất nghĩa địa nhỉ? Tôi không hiểu tại sao đấy. Dễ thường tôi hóa điên cũng nên.
– Đâu nào! Ông vẫn bình thường đấy chứ. Có lẽ mấy hôm nay tôi gợi cái ký ức tổ truyền của ông nhiều quá nên bỗng nhiên một kỷ niệm lại hiện đến trí ông đó thôi.
– Thế ai đem chỗ đất kia đến đó?
– Đối với những người nhập môn thần học thì đất thiêng là một của có phép từ trà. Cụ Pháp sư có lẽ vẫn chuyên tâm tìm tòi những thứ khác hơn là vàng kia!… Trong cái Gò kia hẳn còn giấu một sự bí mật thảm khốc nào đó.
Ba người lẳng lặng bước lên tận đỉnh đồi, một nơi kỳ thú vì còn những dấu vết cổ La Mã với ao ước nhỏ và dải cây viền bọc bao quanh. Họ tiến lên một chỗ phẳng rộng chừng năm mươi bộ: đó là khoảng đầu Người Khổng lồ. Đứng đó trông ra, phong cảnh thực kỳ diệu! Ngay dưới chân họ, ngay phía dưới ụ đất, nóc nhà làng xóm lẫn với vầng lá cây. Đằng xa, từng đoàn mây lóng lánh màu bạc trôi dưới bầu trời xanh rộng mênh mông. Một con đường vắt vẻo như một dải băng trắng chạy dần vào bóng tối đang xuống chiều.
Luna lặng ngắm bức phong cảnh ngoạn mục một vẻ não lòng đó mãi.
Oliver thì nhìn xa về phía khu rừng. Gò Thunder đặt mình trong một vòng cung những cây ủ dột. Chàng có thể trông thấy được những huyệt mà bọn thợ đã đào được và cái điểm sáng chiếc áo nịt trên mình Swanhild. Chàng ngoảnh đi, không muốn nhìn thấy cảnh quen thuộc kia nữa. Chàng liền gặp đôi mắt Luna, đôi mắt chói lòa, thăm thẳm mênh mông như cõi vô cùng bát ngát.
Lòng chàng bị đè nén. Chàng cất tiếng nói:
– Tôi đã từng sống những giây phút này rồi! Cũng dưới bầu trời này, cũng thành đá biển kia, cũng mô Gò trên có bao nhiêu thợ đất… Nhưng bọn thợ xưa kia xây đắp chứ không phá ra như bây giờ.
Luna đáp:
– Ký ức tổ truyền đấy!
– Muốn gọi là tên gì cũng được! Nhưng tôi biết rằng cách đây lâu lắm rồi, tôi đã ở đây, ở đây cũng như bây giờ, bên cạnh một người đàn bà có mớ tóc vàng ánh.
Ngượng vì những lời bồng bột hăng hái quá, chàng bỗng dịu giọng xuống khi nói câu sau cùng. Rồi, lại trân trân nhìn Luna, chàng lai say xưa nói tiếp:
– Ở đây là của tôi hết, cho đến khu rừng của miền ấp này! Địa hạt này dựng nên cho người hưởng hạnh phúc, tổ tiên tôi đã là cho nhân từ trên một ngàn năm trời này! Các cụ đã chiến đấu vì nó: đã vì nó mà hy sinh tính mệnh; cả đến cụ Pháp sư cũng vậy, cụ đã dự hồi vào chiến tranh Lưỡng Hồng. Cha tôi với anh tôi cũng đã hiến mình cho đất nước, đến chính tôi cũng đã là chiến sĩ rồi! Thế thì dù đời tôi có bị cái bóng ghê gớm của bọn quái vật kia phủ lên, tôi cũng vẫn có quyền được vui sống!
Chàng thốt những lời ấy ra với một vẻ sợ sệt dị kỳ, đôi mắt màu xanh xám của chàng lóe lên những ánh lửa đỏ.
Bấy giờ bà Yorke mới cất tiếng nói. Bà ôn tồn bảo chàng:
– Mọi người chúng ta, ai cũng có quyền được sung sướng hết, hay cũng được sung sướng theo cái độ mà oan trái tổ tiên ta, tội lỗi của chúng ta, những trường hợp hoàn cảnh và các người quanh ta vẫn để cho ta hưởng.
– Người quanh ta ử… (Chàng kêu thé lên). Thế ra bà nghĩ đến cô Kate phải không?
– Trời ơi! Không đâu, ông ạ! Luna đã bảo ông rằng về chuyện ấy ông chẳng có gì phải ân hận tự trách kia mà!
Chàng lẩm bẩm:
– Nếu tôi mà không chống cự thì…
Bỗng nghi ngờ, chàng ngưng bặt. Rồi lại nói:
– Miss Bartendale! Có phải cô đã bảo con quái vật kia có lẽ là sự quả báo của một tội tổ tiên đó chăng, có phải đó là di tích của một quá khứ đã chết?
Luna buồn rầu đáp:
– Không còn gì sinh tồn linh hoạt bằng sự chết cả. Tôi tưởng tượng thế giới nhân loại ra một địa cầu vô cùng to lớn, mà ở khắp mặt có một ngàn năm trăm triệu người sống đang sinh hoạt bên trên; còn ở dưới là đoàn lũ âm u huyền bí của hằng hà sa số người chết. Bọn ấy nay chỉ còn là tro bụi nhưng họ vẫn ấp ghì cả những người sống mà họ đã sinh đẻ ra trên đời, họ bao bọc lấy để mà din dủi cho phải đi theo đến đường chính hay đến đường tà. Phải đó! Tôi như trông thấy được họ, trông thấy cả mộ thế giới bên kia, những ngưởi mà tâm hồn, mà tư tưởng với lời nói việc làm đều còn trường cửu truyền dõi lại ở chúng ta là bọn người sống.
Nàng chợt rùng mình lên. Oliver hỏi:
– Thế ra ta chỉ là những phản ảnh của tổ tiên ta thôi sao?
– Không phải thế đâu, ông Hammond ạ. Cái bản lĩnh riêng, tức là thứ ánh sáng mà Trời phú riêng cho mọi người chúng ta kia, khiến cho ta có thể chống cưỡng lại được sự di truyền mà vượt hẳn lên. Nếu tôi không cầm chắc được rằng Thunder s Barrow giấu chìa khóa, cái bí quyết một thế lực ma quái ám ảnh các con cháu nối dõi cụ Magnus., thì tôi đã chẳng khai bới gò Thunder làm gì.
Oliver đáp một cách vô tâm:
– Cái đó cố nhiên.
Rồi bỗng nhiên chàng nói:
– Miss Bartendale ạ, cô cho rằng cụ thủy tổ nhà Hammond, cái người Đan Mạch tên là Magnus ấy, cô cho rằng đã tàn sát cả gia đình người vợ là Edith, phải không. Nếu cô tưởng thế thì tôi dám chắc cô đã lầm đó.
– Vậy ư? Tôi thì tôi không thể tưởng tượng được rằng một tay hải khấu lại xin cưới một người đàn bà hồng mau mà không biết hại phụ huynh của người ấy trước.
– Sao vậy? Người đàn ông kia vì tình yêu mà có thể quý mến họ hàng người đàn bà được chứ?
– Tôi càng không thể tưởng rằng một tay ngược Bắc Âu lại bỏ cuộc đời tung hoành của mình để được lòng một người đàn bà.
Thế mà hai bên tâm đầu ý hợp được đấy. Mà cũng chỉ trong dăm bảy ngày là đủ cho họ hiểu nhau, chỉ từ ngày thứ hai tuần trước đến thứ hai tuần sau thôi. Tôi biết chắc như thế đó.
Màu da trắng xanh của Luna bỗng thành ửng đỏ Oliver vội vàng nhìn đi. Chàng nói tiếp:
– Tôi ăn nói như đứa trẻ nhỏ vậy, cô nhỉ. Tôi không biết đối với tôi cô nghĩ thế nào… Tôi thì trong mấy ngày gần đây, sao mà tôi sung sướng thế! Cứ được như thế mãi chẳng đẹp đẽ quá sao? Tôi biết tình thế ác nghiệt của đời, cũng như cụ Magnus đã hiểu hết tình đời một bữa cụ trầm ngâm ở đây trước vị thần của giống Đan Mạch. Hẳn cô cho tôi là người điên rồ nhỉ, phải không miss Bartendale?
Luna ngập ngừng một lát rồi mới cố tĩnh sẵng tiếng đáp:
– Ông Hammond ạ, ông vừa mới đau dậy. Tính tình ông dễ bị xúc động mà tôi lại gợi những ký ức của tổ tiên ông trong tâm trí, làm ông bị kích động thêm…
Giữa lúc đó, ba người trông thấy Swanhild vừa leo ra khỏi cái hố. Swanhild lớn tiếng gọi:
– Xuống đây mau lên! Chúng tôi tìm thấy con Bò Vàng rồi!
Luna ngạc nhiên hỏi:
– Thế nào? Tìm thấy con Bò Vàng?
Bọn đàn ông đang đừng quây lại trên mép hố sâu và rộng. Gođard hì hục cố lấy lên khỏi đáy một vật nặng, lớn bằng một người và trông chẳng ra hình thù gì. Toàn thể đều một màu, lác đác có mấy điểm vàng ở những chỗ bị cạo sứt.
Warren nậy ra một miếng, xát mạnh lên áo để làm rơi ra lượt đất bám ngoài. Cái miếng ấy to và dầy bằng cái nắp hộp đựng mũ. Có những đinh rỉ xanh dóng ở hai đầu.
Hốt nhiên, không ai bảo ai mà cả bọn thợ cùng lặng người nhìn thấy chân trời đỏ hồng lửa mặt trời lặn. Rồi Hornblower tách ra khỏi bọn để tra bản lịch và xem những dấu chỉ trên chiếc đồng hồ của hắn ta.
Warren bàn:
– Có lẽ đây là một tượng thần chăng?
Gođard:
– Gỗ thông bọc vàng đây mà, bọc vàng lá đồng lại bằng những đinh đồng.
Oliver nhảy xuống huyệt xem và nói ngay:
– Không phải Bò Vàng mà tượng thần cũng không phải nốt.
Rồi ngửng nhìn lên qua lớp cây thông cái thân hình vừng núi Beacon nổi đen trên nền trời bầm tím, chàng thấp tiếng nói tiếp:
– Vậy thì là cái gì được? Gỗ thông vẫn riêng dùng để tạc tượng thần kia mà? Với lại… À mà! Gỗ có phủ sơn và thép vàng, đây! Một vật vươn lên… Phải rồi! (Chàng bát ngát mê man, reo lớn tiếng). Một hình mũi hải thuyền! (#1) phải, một hình tượng ở đầu một chiếc chiến thuyền cổ. Ta đang đứng phía trên sân tàu một chiếc tàu buồm của tổ tiên ta đó, em Swanhild ạ! Chỉ một đôi thước đất nữa là đến nơi rồi. Em có nhớ ra không. Anh thì anh nhớ: chính trên con tàu này cụ Magnus đã ngược sông Adur đó. Rồi về sau, khi ông cụ mất, người ta đã táng ông cụ cùng với cả chiếc tàu. Chỗ thành tàu phía trước kia kìa. Còn chỗ này… (chàng đạo mạo trỏ xuống hai bên pho tượng nằm dưới đất) chính cụ Magnus ở chỗ này, ở phía dưới sân tàu của cụ đó. Cái miếng đồng màu xanh và hình lá chính ở dưới chân cụ.
Luna cũng cất tiếng nói:
– Một chiếc tàu lấy làm quan tài, với một hình tượng mũi tàu! Ồ! Sao tôi không nghĩ tới điều đó nhỉ?
Trong lúc Oliver mãi nói, Hornblower đi mặc áo cùng với các thợ đất; bấy giờ hắn trở vào và bảo:
– Thưa ông Hammond, nửa giờ nữa mặt trời đã lặn. Chúng tôi xin về đây.
Vẻ ngây ngô lo sợ hiện rõ trên từng nét mặt mỗi người trong bọn họ. Nói đến thế nào với họ cũng không ích gì.
Luna hỏi:
– Thế này thì làm thế nào mà đào xong được? Mà không xong ngay bây giờ thì một nửa phóng viên nhà báo ở London nghe tin đồn, thế nào sáng mai cũng kéo cả đến đây.
Oliver:
– Ba người mà cùng làm thì một giờ có thể xong được.
Swanhild lại cầm thuổng và bảo:
– Nếu vậy thì anh về nhà đi, em cùng với anh Gođard đào nốt cũng được.
Oliver:
– Không. Tôi ở lại kia. Chưa đến đêm tối thì tôi chưa có gì phải lo sợ, miss Bartendale bảo thế đấy.
Luna nói thêm:
– Mà dẫu ban đêm nữa, khi có tôi đó thì ông cũng chẳng phải lo sợ gì. Tôi đã có cách báo trước cho ông tránh.
Gođard lấy làm lạ hỏi:
– Thế sao cô không bảo cho chúng tôi biết cách ấy với?
Nàng phân giải:
– Là vì có những phép phải luyện tập quen tay dùng đến mới không nguy hiểm.
Bà Yorke bảo chung mọi người:
– Tôi cuốc đất một lúc cũng chẳng sao. Tôi muốn có mặt đây trong lúc quan trọng hơn là về nghỉ. Nhưng muốn đào tìm đến nơi đến chốn hẳn phải có thêm những khí cụ nữa.
Miss Bartendale và Oliver liền quyết định cùng về lâu đài Dannow tìm những đồ chưa có. Oliver xin hứa lúc qua rừng sẽ theo con đường không có cây lá um tùm.
Chú thích:
(1-) Hình mũi hải thuyền: Thuyền bể cổ thời Âu châu thường có những hình người hoặc một vài giống thú tạc ở đằng mũi