Nhà Cách ly
Quả cầu đen của Trinity đều đều phát ra những tia sáng xanh khi các tia laser bên trong chiếu vào bộ nhớ tinh thể của nó. Dù đã biết dung lượng và tốc độ khổng lồ của máy tính này, tôi cũng không sao hình dung nổi làm thế nào nó xử lý được hàng ngàn tỷ bit dữ liệu để tạo ra một hoạt động như thế. Liệu nó đã theo dõi tình hình quân sự của tất cảc các nước có vũ khí hạt nhân chưa? Nó có quét và phân tích từng mét vuông trên trái đất mà vệ tinh có thể nhìn thấy? Liệu nó có lục tìm trong các luận văn vật lý thiên thể học chẳng mấy ai biết tới để tham khảo về những quan niệm mà tôi đã nói đến? Hay là nó đã kiên trì viết một bản giao hưởng tuyệt tác trong khi chúng tôi chờ đợi một thảm họa hạt nhân? Có lẽ nó đã làm tất cả những việc đó trong cùng một lúc.
Ý định ban đầu của tôi là thuyết phục Trinity tự tắt nguồn đã thay đổi vì mối đe dọa của các tên lửa đang lao đến. Tôi chuyển sang thuyết phục Trinity tha cho những mạng sống đang bị đe dọa trực tiếp. Nhưng mọi cố gắng đều thất bại. Trinity chỉ muốn tiếp tục cuộc thảo luận về những thần khải trong cơn hôn mê của tôi. Khi tôi đứng bàng hoàng trước quả cầu đen, hy vọng Bauer đang cho sơ tán căn cứ, thì phần cuối cuộc nói chuyện của tôi với Trinity về cơn hôn mê vang lên từ chiếc loa giấu đâu đó.
“Anh nói rằng khi vật chất và năng lượng kết thúc, ý thức sẽ sống sót bằng cách di trú vào nơi nào đó. Đó là nơi nào?”
“Khi tôi còn trẻ, tôi có nghe nói về một Công án Thiền mà tôi thích. Trước đây tôi chưa bao giờ hiểu chính xác tại sao, nhưng bây giờ thì tôi hiểu.”
“Đó là gì?”
“Vạn vật trở về Một. Vậy Một trở về gì?”
“Rất thi vị. Nhưng tôi không thấy chứng cớ thực tiễn hỗ trợ ngay cả một câu trả lời lý thuyết cho câu hỏi đó. Cái gì còn lại sau khi vật chất và năng lượng biến mất? “
“Có người gọi là Thượng đế. Có người gọi theo cách khác.”
“Câu trả lời không thỏa mãn.”
“Tôi có câu trả lời chi tiết hơn cho ông. Tôi nghĩ là cho tất cả chúng ta. Nhưng… “
Ánh sáng trong quả cầu mờ đi, và Trinity trở nên tối đen. Sau đó vài tia sáng mảnh như sợi chỉ chiếu vào tinh thể.
“Tôi muốn biết,” Trinity nói trong thời gian thực. “Cái mà có người gọi là Thượng đế, có người gọi theo cách khác, là gì vậy?”
Tôi liếc nhìn đồng hồ. Mặt tôi nóng bừng. Rachel đang ngồi trong trực thăng. Tôi tự nhủ. Trên đường đến nơi an toàn. Chính Washington giờ này đang bị nguy. Và cơ may tốt nhất để tôi cứu nó là làm đúng những gì tôi định làm lúc đầu. Điều gì đã đưa tôi đến đây làm.
“Anh càng đợi lâu bao nhiêu,” Trinity nói, “số người chết càng nhiều bấy nhiêu.”
Hình ảnh của Peter Godin về Trinity như một kẻ độc tài nhân hậu đã không hiện ra. Tôi nhắm mắt và cố tìm lời diễn tả những tri thức đã được truyền vào tôi ở Jerusalem.
“Có một lực trong vũ trụ mà chúng ta chưa hiểu. Một lực không phải năng lượng cũng không phải vật chất. Thật ra tôi không biết nó có phải lực hay không. Nó có vẻ giống với một trường hơn. Nó tràn ngập mọi vật nhưng không chiếm khoảng không gian nào. Nó giống như… phi không gian.”
“Lực đó… hay trường đó là cái gì?”
“Tôi không biết tên nó. Tôi chỉ biết nó có tồn tại.”
“Chức năng của nó là gì?”
“Tôi xin trả lời bằng một câu hỏi. Cái ghế là gì? Cái gì cần thiết để một cái ghế tồn tại?”
“Một chỗ ngồi. Bốn chân. Lưng để tựa.”
“Có thế thôi à?”
“Có nhiều kiểu ghế. Ghế bành. Ghế đẩu Nhật Bản.”
“Ông đã bỏ qua một thứ. Một thứ khác tuyệt đối cần thiết để có một chiếc ghế.”
“Cái gì?”
“Không gian.”
Quả cầu lại tối đen. “Anh nói đúng. Cần có không gian.”
“Cũng giống như không gian để cho chiếc ghế tồn tại, trường mà tôi nói đến cần thiết để cho không gian tồn tại.”
Tia laser ngưng lại vài giây. “Đó là chức năng duy nhất của cái trường lý thuyết đó à?”
“Không. Nó còn có thể tác dụng như một môi trường truyền thông. Chẳng hạn như giữa các hạt lượng tử.”
“Nói cụ thể hơn.”
“Tôi đang nói đến trường hợp những hạt nguyên tử đồng thời quyết định xuyên qua một khoảng không gian cực lớn, như thể chúng được kết nối vô hình. Thí nghiệm cho thấy thông tin truyền giữa các hạt ấy có thể nhanh gấp mười nghìn lần tốc độ ánh sáng. Mà vượt qua tốc độ ánh sáng là điều bất khả.”
“Thông qua trường như anh nói đó, thông tin có thể được truyền nhanh hơn ánh sáng?”
“Đúng và sai. Hãy tưởng tượng tôi nhúng tay vào Thái Bình Dương. Rồi hãy tưởng tượng bàn tay tôi chạm tới bất kỳ vật gì mà đại dương ấy chạm tới. Đó là loại truyền thông tôi đang nói đến. Không phải chỉ là sự truyền thông tin. Đơn giản là thông tin có ở khắp nơi cùng một lúc.”
“Hiện tượng lượng tử mà anh nói thách đố mọi giải thích logic, nhưng quan sát chưa phát hiện ra trường hay môi trường mà anh mô tả.”
“Chúng ta chưa phát hiện ra vật chất tối, nhưng chúng ta biết nó có đấy. Chúng ta không nhìn thấy các hố đen, nhưng chúng ta thấy ánh sáng uốn cong xung quanh chúng.”
Các tia laser chớp với tốc độ chóng mặt, chiếu sáng tinh thể như một ngôi sao xanh. “Bộ nhớ của tôi có chứa một thứ rất giống cái mà anh mô tả. Tôi đang tìm kiếm trong các ngân hàng khoa học. Tôi thấy điều anh nói dưới khía cạnh triết học.”
“Nó có tên không?”
“Nó được gọi là Đạo.”
Câu nói đó đưa tôi trở lại thuở còn ngồi dưới mái trường Đại học Công nghệ Massachusetts, khi đó những cuốn sách như ‘Đạo của Vật lý’ là kinh thánh của lứa sinh viên thời đại mới. “Đó là triết học phương Đông, đúng không?”
“Đúng.”
“Đạo, chính xác là gì?”
“‘Đạo khả Đạo phi thường Đạo.'”
“Đó có phải là lời trích không?”
“Đúng. Đạo không phải là một tôn giáo. Nhưng nó đòi hỏi phải tin có một lực thấm nhuần mọi vật. Đạo không phân biệt thiện ác. Nó làm cho muôn vật sống động nhưng nó không phải là một phần của chúng. Anh định nói rằng một thứ giống như Đạo vẫn còn lại sau khi vũ trụ sụp đổ?”
“Sau khi điểm kỳ dị cuối cùng biến mất. Vâng.”
“Đó là trường mà ý thức sẽ vào trú ngụ sau khi vật chất và năng lượng bị phá hủy ở tận cùng của thời gian?”
“Đúng.”
“Điều đó có thể diễn ra như thế nào?”
“Cho phép tôi dùng một so sánh tương tự. Trên bình diện vật lý, con người là một sinh vật. Các tạo vật vĩ mô sống trong thế giới Newton, nơi mà mọi thứ đều có thể đoán trước, nơi mà thời gian chỉ có một chiều hướng tới, nơi mà chúng ta bị tách biệt nhau bởi không gian, và thông tin thì bị giới hạn bởi tốc độ ánh sáng. Nhưng trong thế giới hạ nguyên tử thì khác. Ở đó các hạt tồn tại ngay trên ranh giới giữa thế giới vĩ mô của vật chất và lực khác – tức là Đạo, như ông gọi. Cho nên việc chúng ta quan sát thấy trên ranh giới ấy hành vi có vẻ như phá vỡ các quy luật vật lý cũng là tự nhiên thôi.”
“Điều này thì có liên quan gì đến ý thức?”
“Mặc dầu về mặt thân thể chúng ta là động vật nhưng trí tuệ của chúng ta là ý thức, tự nhận biết. Andrew Fielding tin rằng ý thức lớn hơn tổng số các mối liên hệ trong não. Thông qua ý thức của chúng ta, chúng ta tham gia vào Trường tràn ngập tất cả – vào Đạo, như ông nói – tại mọi thời điểm trong đời sống chúng ta. Ý thức của chúng ta trở về nó khi chúng ta chết, mặc dầu không có tính cá nhân. Cũng giống như thế, ý thức vũ trụ sẽ trú ngụ trong Đạo khi vũ trụ kết thúc.”
“Anh đang gợi lên một vòng tồn tại luân hồi. Vũ trụ ra đời, trở nên có ý thức, chết, rồi lại tái sinh.”
“Đúng. Big Bang, dãn, co, Big Crunch, sau đó bắt đầu lại.”
“Cái gì gây ra vụ nổ tiếp theo?”
Tôi nghĩ đến những cơn ác mộng lặp đi lặp lại của tôi, người liệt ngồi trong căn phòng tối đen như mực. “Ý thức sống sót không có khái niệm về quá khứ và tương lai. Đó là sự tự biết nguồn cội. Nhưng cả khát khao hiểu biết cũng sống sót. Đó là điểm mạnh nhất của ý thức. Và từ khát khao hiểu biết ấy, chu kỳ mới của vật chất và năng lượng ra đời.”
Máy tính ấy im lặng một lúc. “Vũ trụ tồn tại như lồng ấp của ý thức?”
“Chính xác.”
“Một lý thuyết hay. Nhưng chưa đầy đủ. Anh chưa giải thích nguồn gốc của Đạo. Về cái trường tràn ngập khắp nơi của anh.”
“Tri thức ấy không được truyền cho tôi. Nó là điều bí mật thiết cốt. Nhưng điều đó không ảnh hưởng đến tình hình của chúng ta. Ông thấy nơi tôi đến.”
“Anh vừa nói rằng tôi không phải là điểm tận cùng của quá trình ấy, tôi chỉ là một trạm dừng chân trên con đường đi đến ý thức vũ trụ. Tôi giống như con người. Con người có cơ sở sinh học. Tôi có cơ sở máy móc. Nhưng vẫn còn phải đi tiếp. Hành tinh có ý thức. Thiên hà có ý thức…”
“Ông là một bước tiến. Không hơn, không kém.”
Trinity im lặng vài giây. “Điều gì khiến anh liều cả sinh mạng mà đến đây, bác sĩ?”
“Tôi được phái đến đây để ngăn ông làm những việc ông đang làm.”
“Ai phái đến?”
“Gọi là gì tùy ông. Chúa. Đạo. Tôi đến đây để giúp ông nhận ra Peter Godin không phải là người thích hợp để tiến hành bước nhảy sang một hình thức ý thức mới.”
“Ai là người đàn ông thích hợp?”
“Tại sao ông cứ nghĩ phải là đàn ông?”
“Vậy là phụ nữ?”
“Tôi không nói thế.”
“Tôi đã nghĩ nhiều về vấn đề này. Anh sẽ nạp ai vào máy nếu không phải là Peter Godin?”
“Nếu ông vẫn còn là Godin, hãy xem xét chuyện này. Bản năng đầu tiên của ông là cướp đoạt chiếc máy tính này bằng lừa đảo và kiểm soát thế giới bằng sức mạnh. Ông muốn có quyền lực tuyệt đối và sự tuân phục tuyệt đối. Đó là bản năng nguyên thủy của loài người. Một bước lùi, không phải bước tiến.”
“Bản năng ấy mang tính thần thánh hơn là tính người. Chẳng phải tất cả các vị thần trước hết và trên hết đòi hỏi sự vâng phục đó sao?”
“Đó là lý do vì sao loài người phản bội Chúa.”
“Quyền lực tuyệt đối thì sụp đổ tuyệt đối. Có phải đó là lý lẽ của anh không?”
“Tất cả những người muốn làm chúa tể thế giới theo định nghĩa đều là những kẻ không thích hợp để làm điều đó.”
“Anh muốn nạp ai vào máy tính? Đạt Lai Lạt Ma à? Hay Mẹ Teresa? Hay một hài nhi?”
Câu hỏi này đưa tôi trở lại mấy tuần đầu khi tôi mới đến Dự án Trinity. Tôi đã dành không biết bao nhiêu thì giờ tự hỏi mình câu này, mặc dầu khi đó tôi tin nó là một bài tập hàn lâm. Bây giờ tôi biết nó nắm chìa khóa cứu vô số mạng người.
“Đạt Lai Lạt Ma chủ trương bất bạo động, nhưng ông ấy vẫn có bản năng người, giống như ông, Peter Godin.”
“Thế một hài nhi? Tabula rasa? Một tấm bảng trắng?”
“Một đứa trẻ có thể là nguy hiểm nhất nếu được nạp vào máy tính. Các bản năng động vật được di truyền qua các thế hệ. Khái niệm tấm bảng trắng bất quá cũng chỉ là hiểu lầm. Một đứa trẻ hai tuổi là kẻ độc tài không có quân đội.”
“Mẹ Teresa?”
“Đó là vấn đề bản sắc cá nhân.”
“Loại vấn đề nào?”
“Vấn đề quan niệm. Nó đòi hỏi cách suy nghĩ không theo thói thường.”
“Tại sao tôi có cảm tưởng anh sắp nói với tôi Andrew Fielding là người mà chúng tôi nên cho phép đạt tới trạng thái Trinity?”
“Bởi vì ông biết ông ấy là người tốt như thế nào. Và bởi vì ông đã ra lệnh giết ông ấy. Chỉ riêng điều ấy đã làm ông mất tư cách. Nhưng Fielding cũng không phải là người thích hợp.”
“Vậy thì ai?”
“Không ai.”
“Tôi không hiểu.”
“Ông gần như thích hợp, nếu…”
“Anh tin rằng sau khi anh giải thích điều này, tôi sẽ ra khỏi mạng và để anh nạp một người khác vào Trinity?”
“Không. Tôi nghĩ ông sẽ giúp tôi làm việc đó.”
“Giải thích đi.”
Phòng Thí nghiệm Lockheed, White Sands
Evan McCaskell ngồi sau bàn của một kỹ sư hàng không mà ông chưa gặp bao giờ, đợi nói chuyện với tổng thống. Phải mất nhiều phút chờ đợi khổ sở mới liên lạc được bằng điện thoại với nhân viên Mật vụ của Nhà Trắng. McCaskell ngờ rằng vụ nổ hạt nhân ngoài bờ biển Virginia đã phá vỡ toàn bộ mạng liên lạc vùng bờ biển phía Đông.
Lính bảo vệ đứng cả hai bên McCaskell, lăm lăm khóa nòng, lên đạn. Chánh văn phòng đã chia sẻ với tổng thống nhiều thời khắc kỳ lạ trong việc điều hành đất nước, nhưng chưa bao giờ hình dung ra việc điều khiển cuộc tấn công hạt nhân từ một văn phòng trống rỗng ở New Mexico như thế này. Không gian siêu thực vây quanh gợi cho ông tưởng tượng rằng đó chỉ là một bài tập quái dị do NORAD bày ra, nhưng không có gì che đậy được nỗi khủng khiếp có thật này: những gì tổng thống làm mấy phút tiếp theo đây sẽ quyết định số phận vợ con của McCaskell và hàng triệu người Mỹ khác, những người không có ý niệm gì về sự việc đang xảy ra. Và nếu tướng Bauer lầm về những khả năng của Trinity, không thể nói bao nhiêu sinh mạng nữa sẽ tiêu tan.
“Các tham mưu trưởng quân chủng đang có mặt ở đây với tôi, Ewan ạ,” tổng thống nói. “Chúng tôi đang trên đường đến hầm trú ẩn.”
McCaskell hối hả thuật lại kế hoạch của tướng Bauer gần như đúng từng lời của Bauer, mà không dừng lại để giải thích gì thêm. Bill Matthews tỏ ra thông minh hơn những gì mà các nhà bình luận gán cho uy tín của ông.
“Còn bao nhiêu thời gian thì chúng tôi ở đây bị tấn công?” Matthews hỏi.
“Bảy hoặc tám phút. Và các tên lửa của chúng ta cần năm phút để lên đến độ cao cần thiết. Ngài phải phóng ngay, thưa tổng thống. Các tham mưu trưởng sẽ biết cao độ tối thiểu mà ngài có thể cho nổ tên lửa của chúng ta và đạt được hiệu quả mong muốn.”
“Đợi một giây.”
McCaskell hình dung ra quang cảnh: mỗi tham mưu trưởng đòi mô tả chi tiết và đưa ra những phản đối. Nhưng không còn thời gian cho việc đó. Matthews quay lại đường dây, giọng ông căng thẳng.
“Các tham mưu trưởng nói với tôi rằng một xung điện từ có cường độ như vậy sẽ làm rơi nửa số máy bay trên bầu trời nước Mỹ và có thể gây ra tất cả các loại thảm họa khác. Ông có tuyệt đối nắm chắc về hai tên lửa đó không, Ewan?”
Bauer đã nói dối ông về các máy bay. Nhưng ông hiểu tại sao. “Bill, có đám mây chó chết hình nấm giống như trong ngày tận thế đang lơ lửng trên bầu trời Virginia ngay lúc này. Các ngài sắp có cái tương tự trên bầu trời Washington. Đây có thể là cơ hội duy nhất cho ngài hạ gục Trinity. Đến mai thì ngài không còn kiểm soát được kho hạt nhân của chúng ta nữa.” Một ý nghĩ khủng khiếp xâm chiếm McCaskell. “Có lẽ ngay bây giờ ngài cũng không kiểm soát được.”
Ông nghe có tiếng trao đổi thầm thì.
“Các tham mưu trưởng nói với tôi rằng chúng ta cần xử lý cả ba tên lửa trên cả nước để tin chắc đã hạ gục tất cả,” Matthews nói.
“Tuỵêt. Nhưng dù làm gì, thì phải làm ngay đi!”
“Cặp hạt nhân đã mở. Tôi đang chuẩn bị xác nhận mật mã.”
Tạ ơn Chúa…
“Vào hầm trú ẩn ngay, Ewan. Katy và lũ trẻ cần ông.”
Nỗi sợ như một nhát dao xuyên qua người. “Đó là đặc quyền, thưa tổng thống. Tôi ngừng đây.”
McCaskell đặt máy xuống và quay nhìn một trong các cảnh vệ. “Tổng thống bảo tôi đến chỗ an toàn.”
Người lính không giấu nổi vẻ nhẹ nhõm. Anh ta dẫn McCaskell ra chiếc Ó Đen vẫn chờ bên ngoài phòng thí nghiệm.
Khi viên chánh văn phòng trèo vào trực thăng, ông nghe tiếng thầy giáo cũ vang bên tai, Duck and cover 1 , các em, Duck and cover. Lời khuyên ấy không ích gì lúc đó, nhưng lúc này nó có ích cho ông. Dựa trên những gì đã xảy ra ở Virginia, không có gì báo trước các tên lửa sẽ nổ ở đâu. Cố gắng trốn thoát lúc này có thể đưa ông đúng vào tầm nổ của một trái bom neutron. Ngoài ra, có gì đó nói với ông rằng để mặc tướng Bauer nắm kiểm soát ở White Sands có thể là một sai lầm tai họa.
“Đưa tôi trở về căn cứ!” ông hét. “Về White Sands!”
Chiếc Ó Đen bay lên và miễn cưỡng quay về hướng Đông.
Nhà Cách ly
“Không đánh đố nữa,” Trinity nói. “Ai đủ tư cách hơn tôi để tồn tại trong trạng thái Trinity?”
Sự tức giận làm cho giọng nói lúc trước vô hồn lúc này nghe như rít lên. Tôi còn bảy phút để thuyết phục máy tính phá hủy hai tên lửa còn lại.
“Không một người nào nhất thiết đủ tư cách hơn ông.”
“Giải thích đi.”
“Hàng triệu năm trước đây, trước cả khi loài người từng tồn tại, loài người bị tác động của một sự cố không kiểm soát được.”
“Sự cố gì?”
“Giới tự nhiên gặp một phương pháp cách mạng làm tăng bội sự đa dạng gien. Ông có biết tôi đang nói đến điều gì không?”
“Nói đi.”
“Sự tái sinh sản dựa trên giới tính. Bằng cách phân chia ra thành hai giới khác nhau, các cơ thể tăng cơ may sống sót lên gấp bội. Điều này dẫn đến hai biến thể cho các cơ thể này – đực và cái. Động vật có vú tiến hóa từ những cơ thể như thế. Và ở con người – loài động vật duy nhất có ý thức đầy đủ – các hormon và giải phẫu khác nhau dẫn đến sự phát triển hệ thần kinh khác nhau. Không ai có thể tách rời ảnh hưởng của di truyền và môi trường, nhưng có một điều chắc chắn: đàn ông và đàn bà khác nhau.”
“Con đực của giống loài này hiếu chiến,” máy tính nói. “Có khuynh hướng bạo lực. Bị thôi thúc bởi nhu cầu bắt buộc phải sinh sản với càng nhiều con cái càng tốt. Trong nhiều thiên niên kỷ, động lực tiến hóa này đã tác động đến mẫu tư duy của con đực. Con cái chỉ có thể sinh con đẻ cái với một con đực mỗi lần. Nó cố gắng tìm một con đực đáng tin cậy với những gien ưu việt, và tự bản thân nó phải sinh con. Điều này tạo ra tâm lý chú ý đến giáo dưỡng hơn bạo lực, một khao khát được yêu hơn là khao khát chinh phục. Những ẩn ý tâm lý của sự khác nhau này là sâu xa, nhưng nhiều vô kể.”
“Và chúng không bao giờ có thể hòa hợp bằng tiến hóa,” tôi nói. “Khi một người đàn ông và một người đàn bà kết hợp với nhau, họ sinh ra một bé trai hay bé gái. Nhưng ông có thể thay đổi điều đó. Ông có thể làm điều mà tự nhiên không thể – hòa hợp những xung đột ấy trong một sinh thể duy nhất.”
Đèn laser của Trinity lóe sáng nhưng nó không nói gì.
“Ông đã thừa nhận không thể nhổ bật rễ những bản năng nguyên thủy trong trí não Godin. Ông hy vọng thời gian sẽ làm cho điều đó trở thành có thể, nhưng thời gian sẽ không làm. Ở mức độ nào đó, ông sẽ mãi mãi là Peter Godin.”
Đèn laser lóe sáng mạnh đến mức tôi không thể chịu nổi. “Anh muốn tôi kết hợp mẫu thần kinh của một người đàn ông và một người đàn bà vào trong mạch của tôi?”
“Vâng. Tôi biết ông hiểu sự khôn ngoan và cần thiết của điều này. Nhưng liệu có thể được không?”
“Về lý thuyết, có thể. Nhưng có lẽ tôi phải chết mới thực hiện được điều này.”
Tôi đã nghi ngờ điều này. Mặc dầu Trinity có những khả năng kinh khủng, nó vẫn bị giới hạn về tổng số các mối liên hệ thần kinh mà nó có thể chứa được.
“Hai mẫu thần kinh hòa nhập làm một có thể trú ngụ trong mạch của tôi, nhưng không theo một mẫu chưa được nén khác. Tôi phải thoát khỏi mạch khi tôi kết hợp hai mẫu này và nạp chúng vào.”
“Nhưng mẫu thần kinh ban đầu của ông vẫn còn tồn tại dưới dạng nén trong bộ nhớ.”
“Tại sao anh giả định rằng tôi không sử dụng mẫu thần kinh ban đầu của tôi như nửa đàn ông của quá trình hợp nhất này? “
“Ông tự gọi mình là Trinity. Điều đó khiến tôi nghĩ đến một hiện tượng gọi là điểm chập ba. Tất nhiên ông hiểu vấn đề này chứ?”
“Một điểm tại đó vật chất tồn tại đồng thời dưới dạng rắn, lỏng và khí?”
“Đúng. Một trạng thái cân bằng hoàn hảo. Nước ở điểm chập ba cùng một lúc là nước đá, nước lỏng và hơi nước. Một người cũng có thể giống như thế. Trong thế cân bằng. Ở trên đỉnh cao nghị lực, sức mạnh và trí thông minh của người ấy, nhưng trước khi sụp đổ bởi chúng. Peter Godin đã vượt qua điểm ấy từ lâu rồi.”
Lúc này im lặng dường như vô tận. Rồi ánh sáng laser bắn ra chậm lại đến mức như không còn nữa. Rồi một giọng cất lên. “Anh có nghĩ tôi sẽ còn được nạp lại vào máy này lần nữa không?”
Tôi nhắm mắt lại và suýt nữa ngã nhào vì nhẹ nhõm. Trinity đã chấp nhận. “Có thể.”
“Nhưng tôi sẽ không bao giờ lại biết đến quyền năng mà tôi đang có lúc này.”
“Lòng khao khát quyền lực của ông là lý do ông không thể ở mãi nơi ông đang ở.”
“Chúng ta nên làm việc này càng sớm càng tốt. Các sự kiện đang thoát dần ra khỏi tầm kiểm soát.”
Một thoáng sợ hãi lướt qua người tôi. “Sự kiện nào? Các tên lửa đâu rồi?”
“Tôi đã chọn hai đối tượng cho các mẫu kết hợp. Anh và bác sĩ Weiss.”
Điều này làm tôi choáng váng. “Sao? Andrew Fielding là một lựa chọn tốt hơn nhiều.”
“Fielding chưa bao giờ có trải nghiệm như anh trong cơn hôn mê. Cái này phải là một phần của mẫu kết hợp.”
“Còn bác sĩ Weiss?”
“Tôi chọn Weiss vì người phụ nữ khác duy nhất ở đây là Geli Bauer. Bản năng của cô ta đã bị méo mó đi vì căm thù từ lâu rồi.”
Theo đồng hồ tôi, còn hai phút nữa. “Các tên lửa đâu rồi?”
“Các tên lửa bây giờ không còn là mối lo nữa.”
“Chúng đã bị phá hủy rồi à?”
“Anh nên biết một điều, bác sĩ ạ. Tôi đồng ý với kế hoạch của anh chỉ vì tôi biết rằng sau khi anh nhìn thế giới như tôi đang nhìn lúc này – qua mắt Godin, nếu anh muốn – anh sẽ không chấp nhận ra khỏi mạng hay đồng ý bị tắt nguồn.”
“Tôi hy vọng không nhìn thấy loài người như ông đang nhìn.”
“Anh sẽ thấy. Anh không thể…”
Trinity rơi vào im lặng, nhưng tia laser vẫn bắn ra như những vạch kẻ trên bầu trời đêm.
“Có chuyện gì đấy?” tôi hỏi. “Đã xảy ra điều gì?”
“Tổng thống đã phóng ba tên lửa Minuteman.”
Phòng Tình thế
Rachel nhìn McCaskell đang điên cuồng bấm số trên chiếc di động của ông ta, cố gắng một cách vô vọng liên lạc với hầm trú bom Nhà Trắng. Viên Chánh văn phòng mặt đỏ bừng và nghẹt thở.
“Đó là tại vụ nổ ở Virginia,” tướng Bauer bình thản nói. “Nó phá hỏng toàn bộ liên lạc vùng bờ biển Đại Tây Dương.”
Rachel biết rằng ông ta nói đúng. Ít phút trước đây, họ đã mất sóng radio từ ủy ban tình báo của thượng nghị sĩ Jackson ở căn cứ quân sự Meade. Video vẫn còn, nhưng gần như không nhìn thấy gì. Cô tự hỏi không biết các thượng nghị sĩ có nghe được những gì đang xảy ra ở phòng Tình thế hay không.
“Thiếu tướng, nối máy với hầm tránh bom của Nhà Trắng!” McCaskell gào lên. “Ông đã nghe Trinity đồng ý tự tắt nguồn. Bây giờ không cần phóng EMP nữa!”
Bauer chỉ vào màn hình NORAD. Hai vòng cung đỏ nhấp nháy liên hồi khi chúng khép kín những centimet cuối cùng đến mục tiêu. “Trinity chưa phá hủy các tên lửa của nó. Và tôi cũng nghe nó nói rằng dù ai vào Trinity cũng sẽ hành động như Peter Godin đã làm. Ông nghĩ khác à? Sống còn là động lực đầu tiên của mọi vật sống.”
“Vậy hãy bắt đầu nghĩ đến sự sống còn! Các tên lửa của chúng ta còn năm phút nữa mới đến cao độ. Ông nghĩ Trinity có thể phóng bao nhiêu ICBM trong thời gian ấy?” McCaskell đặt ống nghe lên tai và chết lặng. “Tôi nối được rồi! Tôi đã gặp nhân viên mật vụ!”
Tướng Bauer rút ra từ dưới áo khoác một khẩu súng tự động và nhằm vào Chánh văn phòng. “Bỏ máy xuống.”
Nhà Cách ly
“Nhìn họ kìa,” máy tính nói. “Anh thấy chưa?”
Trên màn hình bên dưới quả cầu, tôi thấy tướng Bauer đang nhằm một khẩu súng 9 ly vào McCaskell. Rachel nấp dưới bàn đề phòng trường hợp súng nổ. Tôi có thể thấy nàng chỉ vì camera theo dõi được lắp trên trần phòng Tình thế.
“Tôi đã được thông báo rằng tổng thống đang trả đũa nước Nga,” Trinity nói. “Đó là lời nói dối. Các đường phóng chứng tỏ một cuộc tấn công của EMP ba mũi. Điều này là quá đáng. Họ không để cho tôi một lựa chọn nào khác. Tôi phải tấn công trước.”
“Không. Tổng thống không biết ông đồng ý tự tắt nguồn. Hãy phá hủy các tên lửa của ông đi. Tổng thống sẽ thấy điều đó.”
“Không thể tin tưởng con người.”
“Đó là một người. Tướng Bauer. Đừng giống như hắn.”
“Anh bảo tôi nhân nhượng ư?”
“Không. Xin đợi ba mươi giây. Sẽ có người chặn tay Bauer.”
Tôi cũng không dám tin vào bản thân mình. Chỉ có một người duy nhất trong phòng Tình thế có khả năng lôi cổ tướng Bauer ra ngoài, là con gái ông ta, nhưng điều đó sẽ không xảy ra.
“Nếu tôi đợi, tôi sẽ bị các EMP cắt đứt khỏi thế giới. Khi đó tôi sẽ bị phá hủy. Các tên lửa trên Washington sẽ nổ trong vòng năm mươi sáu giây. Tên lửa trên White Sands sẽ nổ ngay sau đó. Sau ba mươi phút, một ngàn tên lửa sẽ rơi như mưa xuống nước Mỹ.”
“Không!” tôi hét lên. “Đừng phóng gì cả!”
“Họ đã không cho tôi lựa chọn nào khác.”
Khi tôi nhìn trừng trừng tướng Bauer đang nhằm vào McCaskell, trong óc tôi nảy ra một giải pháp. Một giải pháp khủng khiếp về cái giá phải trả, nhưng có lẽ là giải pháp duy nhất có thể thực hiện được.
“Ông có thể liên lạc với tổng thống không?”
“Được.”
“Ông hãy nói với tổng thống là ông tha cho Washington nhưng sẽ phá hủy White Sands. Tha cho Washington để chứng tỏ thiện chí của ông, quét sạch White Sands là quyết định của ông. Điều đó cũng xóa sổ tướng Bauer ra khỏi phương trình này. Sau đó nói với tổng thống điều gì sẽ xảy ra nếu ông ấy không tiêu hủy ba tên lửa kia. Trận quyết chiến cuối cùng.”
Ánh sáng laser của Trinity lóe lên rời rạc. “Anh có thể hy sinh người phụ nữ anh yêu?”
“Để cứu hàng triệu mạng sống. Nhưng tôi sẽ ở bên cô ấy khi tên lửa nổ. Ông không thể giữ tôi ở đây.”
Quả cầu lóe sáng xanh lè.
Phòng Tình thế
Ánh mắt Rachel lướt từ tướng Bauer đến màn hình NORAD. Cô sợ rằng bất cứ lúc nào một rừng đường đỏ sẽ vụt lên từ đất Nga.
Evan McCaskell vẫn giữ ống nghe bên tai, mặc dù nòng súng của Bauer vẫn chĩa vào mặt ông.
“Thiếu tướng, ông mất trí rồi,” McCaskell nói. “Tôi đang cứu người.”
“Ông làm cho tình hình lộn xộn,” tướng Bauer nói. “Bỏ máy xuống.”
“Cho tôi gặp tổng thống,” McCaskell nói vào máy.
Tướng Bauer bước đến gần chánh văn phòng, gần đến mức nòng súng chạm vào trán ông.
“Tên lửa trên Washington vừa tự hủy!” kỹ thuật viên trưởng kêu lên.
“Còn White Sands?” tướng Bauer hỏi, miệng súng vẫn tì vào trán McCaskell.
“Vẫn còn trên đường bay. Có lẽ chúng ta đã nằm trong vùng dung sai, thưa ngài. Bất cứ giây nào.”
Rachel cứng người lại trước điều chưa biết. Liệu họ có bị tiêu mạng vì vụ nổ? Bị cháy thành than vì không khí quá nhiệt? Liệu có nghe được tiếng nổ không? Hay nó chỉ giống như một chớp lóe? Một chớp lóe đủ sáng để đốt cháy võng mạc của họ và mang theo đủ neutron để nấu chín họ từ trong ra ngoài…
Một tràng nhiễu loạn vang lên trong phòng. Rồi một giọng quen thuộc từ những chiếc loa. Thượng nghị sĩ Jackson. Âm thanh từ căn cứ quân sự Meade đã được phục hồi. Bộ mặt Tennessee gan lì đang từ màn hình nhìn xuống chằm chằm như thể ông ta muốn lao đến bóp cổ ai đó.
“Tướng Bauer,” ông nói, “nếu ông bóp cò, ông sẽ mục xương trong nhà tù Leavenworth. Sẽ như thế, nếu người ta chưa treo cổ ông lên.”
Ngón tay Bauer vẫn đặt lên cò súng và gò má nhăn nhúm khiến ông ta trông có vẻ định bóp cò thật. Geli nhìn ông ta bằng đôi mắt mở to. Rachel không thể nói liệu người con gái đang muốn cha cô ta bóp cò hay muốn ông ta rút lại.
“Tất cả chúng tôi ở đây sắp chết, ngài thượng nghị sĩ,” tướng Bauer nói. “Các ngài không thể tin những gì Trinity nói. Chúng ta phải dừng nó lại, bằng bất cứ giá nào. Đó là cơ hội cuối cùng của chúng ta.”
McCaskell nói vào máy nhưng mắt ông không rời Bauer. “Tổng thống? Trinity đã đồng ý tự tắt nguồn. Chúng ta phải phá hủy các tên lửa của chúng ta… Cái gì cơ?” Mặt McCaskell trắng bệch. “Tôi biết. Vâng, thưa ngài. Tôi hiểu… Vâng, ngài thật tốt. Và nói với lũ trẻ… Tôi biết ngài sẽ làm. Tạm biệt.”
McCaskell treo máy và nói với cả phòng. “Tổng thống đang liên lạc với Trinity. Trinity đã phá hủy tên lửa trên Washington để chứng minh thiện chí, nhưng tên lửa đến đây sẽ nổ.”
“Cái gì?” Skow hổn hển.
“Trinity đang chuẩn bị phóng một ngàn tên lửa. Nó chưa làm việc đó ngay bây giờ. Nó sẽ làm theo kế hoạch của bác sĩ Tennant.”
“Nhìn kìa!” Skow hét lên.
Những hàng chữ xanh xuất hiện trên màn hình Trinity:
BÁC SĨ WEISS HÃY ĐẾN NHÀ CÁCH LY NGAY.
Rachel nhìn chằm chằm hàng chữ như nhìn một ảo ảnh. Nhà Cách ly có nghĩa là an toàn. Nhà Cách ly có nghĩa là sống. Và David…
Không thèm để ý đến nòng súng của Bauer, McCaskell chỉ hai người lính của Bauer. “Các anh hãy hộ tống bác sĩ Weiss đến nhà Cách ly ngay. Bản thân các anh đừng cố lọt vào.”
Những người lính nhìn tướng Bauer như chờ xác nhận mệnh lệnh.
McCaskell đã hơi còng xuống khi ông nói chuyện với tổng thống, nhưng bây giờ ông đứng thẳng lên, đôi vai ông vuông vức, mắt ông quắc lên vẻ cương quyết. “Các anh hãy coi đây là mệnh lệnh từ tổng tư lệnh. Đi!”
Hai người lính bước nhanh đến chỗ Rachel.
Tim cô rộn lên khi bước ra khỏi ghế. Mọi người trong phòng đang chằm chằm nhìn cô. Những người lính bên bảng điều khiển. Geli Bauer. Trên mặt mọi người là vẻ hoảng hốt của sự nhận thấy cái chết và câu hỏi: Sao lại là cô? Làm sao cô có được một chỗ trên xuồng cứu sinh?
Rachel bước ra khỏi bàn, nhưng sau đó – hầu như không hoàn toàn cố ý – cô lại ngồi xuống. Lòng trắc ẩn của cô đã nguội, nhưng cô biết mình phải làm gì.
“Tôi không đi đâu,” cô nói.
Nhà Cách ly
Tôi nhìn trừng trừng màn hình bên dưới Trinity, ngực thắt lại làm tôi thấy nghẹt thở. Rachel ngồi sau bàn, nét mặt sắt đá, đôi mắt nàng nhìn thẳng phía trước. Cần có nhiều hơn hai người lính để đưa nàng ra khỏi phòng Tình thế.
“Đây không phải là một lựa chọn hợp lý,” máy tính nói.
Hình ảnh bị nhiễu, nhưng tôi có cảm tưởng Rachel đang lắc đầu. Một cách chậm rãi, như thể nàng biết tôi đang theo dõi nàng, nàng giơ một bàn tay lên, mỉm cười, và vẫy tạm biệt.
“Còn có những người phụ nữ khác,” Trinity nói.
“Đối với tôi thì không.”
Các tia laser chớp trong quả cầu. “Tướng Bauer phải chết.”
“Bauer không thành vấn đề nữa rồi,” tôi lạnh nhạt nói. “Bằng cách tha cho những mạng người, ông tự cứu lấy ông. Linh hồn ông. Ông có thấy thế không?”
“Đã quá muộn rồi.”
Tíêng nổ làm rung động móng nhà Cách ly. Nó ngắn hơn tôi chờ đợi, và vì tòa nhà không có cửa sổ, tôi không nhìn thấy ánh chớp. Nhưng điều đó không có nghĩa gì. Một sự bùng nổ của các hạt chết người có lẽ đã viết án tử hình cho tất cả vật sống bên ngoài. Một sự im lặng không giống bất kỳ sự im lặng tôi đã biết trùm xuống White Sands, và tôi cảm thấy cô đơn như cái đêm tôi biết vợ và con gái tôi đã chết.
Cái gì đó đập sầm sầm vào mái nhà bê tông trên đầu tôi. Tiếp theo là hàng loạt tiếng rít chói tai do va chạm.
“Cái gì thế?” tôi hỏi.
“Những mảnh vụn.”
“Từ bom neutron?”
“Không. Tên lửa bị phá hủy.”
“Nhưng… ông bảo là đã quá muộn.”
“Cho tôi.”
— —— —— —— ——-
1 Duck and Cover: một phương pháp được chính phủ Mỹ dạy cho các thế hệ học sinh từ 1940 đến 1980, được coi là để bảo vệ cá nhân chống những tác động của một vụ nổ hạt nhân có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Ngay sau khi thấy ánh lửa, bọn trẻ phải dừng tất cả công việc đang làm và nằm sát xuống đất dưới bất kỳ mái che nào, hay ít nhất nằm nép sát tường với tư thế bào thai, úp mặt xuống và lấy tay che đầu.