Tiếng chuông báo đã đến giờ ăn tối reo vang.
Hai người ngồi trong phòng tiếp khách cùng đứng dậy, cầm lấy áo khoác rồi lại đi xuyên qua hành lang dài được sơn xám xanh để đến phòng ăn.
Những bàn ở xung quanh lò sưởi ấm áp đều đã có người, bà Sanders mặc một chiếc áo len chính là người đầu tiên phát hiện ra người phóng viên, bà lớn tiếng gọi “Boris, gấu con của bà” rồi khó khăn đứng dậy, các y tá vội vàng đỡ bà ngồi xuống xe lăn, thu hút bà bằng món cháo bí đỏ nhão nhẹt.
Ông lão và người phóng viên cùng ngồi xuống một chỗ bên cạnh cửa sổ.
Nhìn từ đây, bầu trời đêm mang lại cảm giác thật bí bách, chỉ có tấm kính yếu ớt là ngăn bọn họ tách khỏi bóng tối ướt nhẹp ngoài ấy.
Prudence chỉ cần một tách trà và một phần bánh cuộn.
Người phóng viên gọi một phần thịt hầm, hộ sỹ Albert mang thức ăn cho anh cùng với một ly rượu lê, Prudence nháy mắt với người phóng viên, ý bảo anh nên thử một chút.
Người phóng viên uống một ngụm, hương rượu ngọt hơn so với tưởng tượng của anh, mang theo những bọt khí nho nhỏ như đang được uống một giọt tinh chất mùa hè hòa tan cùng nước đá.
“Tuyệt lắm, không phải sao? Nhà của Albert có kinh doanh một nhà máy ủ rượu ở Finistère – tỉnh cực tây của Brittany – nhưng cậu ấy nhất quyết chạy khỏi bán đảo đầy mưa ấy để đến Paris học tập, thi lấy bằng hộ sỹ.”
“Cuối cùng lại trở về bán đảo đầy mưa.”
“Cuộc sống mà.” Prudence xé một miếng bánh mì nhỏ để phết hết lượng sốt còn dính lại trên thành đĩa: “Từ sau năm 1963, tôi đã không còn trở về Cornwall, sau đó người ta lại biến nhà chính của nhà họ Loiseau thành một địa điểm du lịch khiến tôi cũng chẳng còn lý do gì để về đó nữa.
Trên chuyến tàu vào mùa hè cuối cùng của chúng tôi, Alex trông rất vui vẻ, tôi nghĩ bản thân tôi cũng vậy, chúng tôi đều đang trông chờ vào một kỳ nghỉ thong thả ở đó: Bãi cát, trời trong, dù che nắng, dâu tây và rượu vang.”
Trên tầng mây đen nhánh bỗng lóe lên một tia chớp bất ngờ, tiếng sấm chui xuống qua lỗ hổng ấy, người phóng viên ngẩng đầu nhìn trần nhà trong suốt bằng thủy tinh theo bản năng, vết thương giữa trời mưa đã khép lại nhưng những tia điện màu xanh trông như mạch máu lại đang lan đến khắp nơi, mấy giây sau lại biến mất.
Trong đầu người phóng viên thoáng hiện lên ngọn hải đăng xa xa, anh tưởng tượng mưa gió đang ập vào căn phòng tối đen không hề được chiếu sáng ấy.
Đèn trong phòng ăn lóe lên một lát rồi lại khôi phục như bình thường, mọi người tiếp tục cúi đầu, đặt sự chú ý của họ lên những món ăn.
Prudence là người duy nhất không bị tiếng sấm dọa sợ, ông đang nhìn chăm chú vào nước trà đậm màu trong tách như đang kiếm tìm một lời dự báo nào đó, hoặc giả như là câu trả lời.
“Tài xế đã chờ Alex ở trạm xe lửa, lúc nhìn thấy tôi, ông ấy có vẻ kinh ngạc bởi vì ông ấy chỉ được lệnh đón một mình Alex.
Alex không cho ông ấy cơ hội nói nhiều, cậu Prudence đây đã là bạn tốt từ nhiều năm trước, Cậu ấy muốn tới thì tới, không cần phải thông báo trước.
Người tài xế trả lời rằng Vâng thưa cậu, ông ấy không có lựa chọn.
Chúng tôi lên xe, lái về phía nhà chính.”
Xe đỗ trên con đường đá vụn, tài xế lấy hành lý ra giúp hai người.
Martha vẫn đứng đợi trước cửa như mọi ngày, trông bà có vẻ nhợt nhạt, miệng không nở nụ cười.
Bà nhẹ nhàng ôm lấy Alex nhưng không đến gần Harry mà chỉ cứng nhắc gật đầu một cái, nói rằng Nam tước đang chờ họ trong thư phòng.
Hai chàng trai lo lắng nhìn nhau, một trước một sau đi lên lầu.
Lò sưởi sát tường trong thư phòng cháy hừng hực, bây giờ là đầu tháng sáu, không khí bị thiêu đốt vừa khô vừa nóng tỏa đầy mùi gỗ thông và mùi giấy cũ lên mốc khiến người ta khó mà hô hấp.
Nam tước ngồi phía sau bàn đọc sách, ông đang vùi đầu viết gì đó nên có lẽ không để ý đến việc có khách đến thăm.
Alex gọi ông, Nam tước không nói một lời mà chỉ dùng chiếc bút viết để chỉ vào cái ghế đặt trước lò sưởi, hai người ngồi xuống, chờ đợi trong lo lắng bồn chồn.
Củi kêu tí tách trong lò sưởi, đầu ngọn bút lướt qua tờ giấy làm phát ra tiếng xào xạc nhỏ nhẹ, trừ những âm thanh ấy ra, trong căn phòng khổng lồ này không còn tiếng động nào khác.
Alex đụng tay Harry, người nọ liếc nhìn Nam tước, sau khi đảm bảo đối phương không để ý đến họ, cậu mới nhẹ nhàng cầm lấy ngón tay Alex rồi buông ra.
“Ở Paris vẫn tốt chứ, Alex?” Nam tước bỗng nhiên hỏi, đẩy bút và lá thư sang một bên.
“Đúng vậy, thưa cha.”
“Còn viết những câu chuyện của con không?”
“Không, không còn nữa ạ.”
“Cậu thì sao, cậu Prudence? Tôi nhớ là cậu đang viết bài cho một tạp chí.”
Harry ngồi thẳng lên một chút: “Tòa soạn báo thưa ngài, nơi đó có tên là Góc nhìn, thế nhưng tôi đã không còn làm việc ở đó nữa.”
“Tôi rất tiếc, tại sao vậy?”
“Chỉ vì muốn đổi một hoàn cảnh khác thôi thưa ngài, bây giờ tôi đang ở Bưu báo.”
Nam tước hừ một tiếng như có điều suy nghĩ rồi không nói gì nữa, ông đứng dậy, đi về phía bên kia lò sưởi, trong tay cầm một lá thư.
Harry nhìn Alex, người kia nhìn lá thư, hắn nắm chặt tay vịn ghế như lúc mọi người nhìn chằm chằm vào một con rắn hổ mang đang chực chờ bò ra khỏi bụi cỏ.
Nam tước thả bức thư lên bàn cà phê trước mặt đứa con trai nhỏ, trông nó rất giống với bức thư đã được gửi cho chủ bút Schmidt, bên ngoài phong thư không hề có mộc bưu điện và địa chỉ, bên đầu bên phải thì đã bị mở ra gọn gàng bằng dao mở thư.
“Được đưa tới cùng với những bức thư khác vào ngày hôm trước.” Giọng nói của Nam tước rất bình tĩnh, thậm chí có thể nói là lạnh lùng: “Mở ra xem thử đi, Alex.”
Alex lắc đầu.
Nam tước cầm bức thư lên, đổ những tấm hình bên trong ra rồi bày trên bàn.
Alex quay đầu, nhắm mắt lại giống như chỉ cần hắn chờ đủ là có thể tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng ấy.
Harry hít sâu một hơi: “Đây chỉ là trò đùa mà thôi, tôi có thể giải thích…”
“Câm miệng, cậu Prudence.” Nam tước cắt ngang lời cậu bằng chất giọng lạnh như băng: “Đi ra ngoài, nhà này không chào đón cậu nữa.
Cậu nên vui mừng vì tôi đã không mời cảnh sát đến giải quyết chuyện này.”
Harry ngơ ngác ngồi tại chỗ, đến khi Nam tước lặp lại lệnh đuổi khách thêm một lần nữa, cậu mới đờ đẫn đứng dậy.
Alex muốn đi theo cậu nhưng đã bị cha của hắn cản lại: “Con ở yên đây, ta sẽ gọi cho bác sĩ Mercer, ông ấy và trợ lý sẽ đến đây vào sáng ngày mai, bọn họ sẽ quyết định xem con có cần phải đến bệnh viện để tiếp nhận điều trị hay không.”
“Cha…”
“Nói thêm câu nào nữa, ta sẽ nhốt con vào phòng ngầm dưới đất.”
“Ngài không có quyền nhốt cậu ấy ở đây.” Harry nắm lấy tay Alex: “Ngài có thể tiết kiệm thời gian đến đây của bác sĩ được rồi, chúng tôi sẽ đi ngay bây giờ.”
Nam tước bước hai bước đến bên bàn đọc sách, cầm lấy một cái chuông với tay cầm được điêu khắc rồi dùng sức lắc.
Cửa thư phòng mở ra, hai nam người làm bước tới, đi phía sau là Martha, trên mặt bà là vẻ mặt vô cùng khó tin.
Lúc Harry bị bắt đi, trông bà rất bối rối giống như chính bà mới là người bị kéo ra ngoài.
Đứng ngoài hành lang cũng có thể nghe thấy tiếng cãi vã từ trong thư phòng.
Harry giãy giụa, đánh một trong hai nam người làm một quyền nhưng hai người vẫn đứng yên, sau đó, họ kéo Harry xuống lầu như đang kéo một con mồi chuẩn bị lên thớt, họ thô bạo đẩy cậu ra ngoài cửa, khiến cậu suýt chút nữa đã té ngã trên con đường đá vụn.
Cửa đóng lại, khóa chặt.
Harry chạy lên bậc tam cấp, dùng sức gõ cửa, hét to.
Có người chạm vào bờ vai cậu, Harry xoay người, bấy giờ mới phát hiện chiếc xe đưa bọn họ tới đây vẫn còn đỗ ở chỗ cũ, động cơ không khởi động, hành lý của cậu thì được đặt ven con đường đá vụn.
Người tài xế đồng tình nhìn cậu, hỏi cậu có cần ông ấy đưa đến trạm xe lửa hay không.
“Tôi trả lời: Cút ngay.”
Giọng nói của Prudence đột ngột tăng cao khiến người hộ sỹ cũng phải tò mò nhìn ông: “Tôi không đi, trong suốt một tuần lễ tiếp theo vẫn vậy.
Tôi cố chấp chờ ngoài cửa, trời đổ mưa vẫn chờ.
Martha có đi ra một lần để khuyên tôi mau rời đi.
Tôi nói tôi sẽ chỉ rời đi cùng với Alex, bà ấy bỗng nhiên nổi giận, chỉ trích tôi khi đã lây căn bệnh đáng khinh ấy cho Alex.
Lửa giận mau chóng qua đi, bà ấy khóc, tiếc cho cả hai đứa con trai bất hạnh của nhà Loiseau, đầu tiên là George, bây giờ lại đến Alex.
Tôi nhét một tờ giấy đã được gấp lại vào tay bà, cầu xin bà ít nhất hãy mang những lời này đến Alex, bà do dự rất lâu, không đồng ý cũng không từ chối, sau đó bà đóng cửa lại, không xuất hiện thêm lần nào nữa.”
“Sau đó họ đã gọi cảnh sát đến.
Vì để có thể nhét tôi vào xe cảnh sát, hai viên cảnh sát không thể không dùng tới gậy cảnh sát và còng tay.
Tôi tin là tôi vẫn còn sẹo từ vụ đó, ngay ở khóe mắt này thôi, không rõ lắm đâu nhưng nếu có đủ ánh sáng thì sẽ thấy ngay đấy.
Bọn họ đưa tôi tới trạm xe lửa, bắt chuyến tàu sớm nhất về London.
Tôi định sẽ lén trở lại đây vào một chuyến khác nhưng bọn họ đã sớm đề phòng chuyện này, cảnh sát đã đưa hình và miêu tả của tôi cho tàu trưởng, tôi còn chưa kịp thực hiện thì đã bị ngăn cản.”
“Tôi lại nghĩ ra một cách khác, xuống tàu trước một trạm rồi bắt xe về nhà chính.
Tôi vẫn không thể gặp được Alex, Nam tước uy hiếp rằng nếu tôi còn xuất hiện trước cửa nhà họ, ông ấy sẽ đưa con trai vào viện chữa bệnh.
Tôi quay về London, không dám mạo hiểm nữa.”
“Tôi không nhớ trong khoảng thời gian từ tháng bảy đến tháng chín tôi đã làm những gì, dù sao mỗi ngày cũng chỉ uống rượu, không ngừng viết thư rồi gửi đi, bị trả về, tôi bỏ những bức thư ấy vào trong một chiếc hộp bánh quy.
Tôi cũng đã thử gọi điện thoại nhưng bất kể người nghe là ai, họ đều sẽ cúp máy khi vừa nghe thấy giọng tôi.
Đến tháng chín, tôi bắt đầu làm việc ở Bưu báo như đã hẹn, đơn giản là vì bánh mì và tiền thuê phòng.
Tiền lương có vừa đủ để tôi thuê một căn gác xép nhỏ ở gần tòa soạn, tôi thường xuyên bị đau dạ dày, nếu không phải bị đau nửa đầu thì cả đêm cũng không ngủ được, tôi không thể làm gì khác hơn đọc đi đọc lại những xấp bản thảo của Alex – lúc ấy tôi chỉ có mấy tờ mà cậu ấy đã gửi cho tôi từ rất nhiều năm trước.
Bản thảo của Mùa hè đã nằm trong hành lý mà cậu ấy mang về Cornwall, nếu bị cha cậu ấy phát hiện, số bản thảo ấy có lẽ sẽ bị thiêu rụi.”
“Sau đó, cảm ơn Chúa, Leila đã xuất hiện.”
“Chị ấy đã tới tìm tôi, chị chờ dưới tòa soạn báo, lái một chiếc xe mui trần màu trắng, có lẽ chị ấy đang về thành phố từ ngoại ô bởi vì trên bánh và thân xe chỉ toàn là vết bùn.
Chị ấy đưa cho tôi một lá thư, không nói gì nhiều.
Tôi hỏi chị ấy về tình trạng của Alex, chị do dự hồi lâu, khéo léo nói rằng cậu ấy đang không quá ổn, có lẽ bởi vì phải uống thuốc do bác sĩ Mercer kê, trông Alex lúc nào cũng như người đang say, chị không tin tưởng người bác sĩ này lắm.
Có lẽ cha đã làm quá lên.
Chị lại giải thích tiếp rằng Martha đã lén đưa bức thư này cho chị, nếu tôi muốn viết cho em trai chị ấy cái gì đó, chị ấy có thể giúp tôi mang về Cornwall, chờ Martha có tìm được cơ hội đưa cho Alex hay không, có lẽ làm như vậy có thể khiến cậu ấy cảm thấy tốt hơn một chút.”
Người giúp việc mặc tạp dề đẩy một chiếc xe kêu lạch cạch bắt đầu dọn dẹp tách dĩa.
Bấy giờ, người phóng viên mới phát hiện anh chỉ mới ăn được một nửa phần thịt hầm nên vội vàng ăn hết số còn lại.
Đá trong ly rượu ngọt đã tan hết giúp vị ngọt loãng bớt, người giúp việc chờ anh phóng viên uống hết số rượu còn lại mới dọn đi dĩa thức ăn, dao nĩa và ly trên bàn rồi đẩy xe đến một bàn khác.
Những người ở trong viện dưỡng lão chầm chậm rời đi dưới sự giúp đỡ của hộ sĩ, đèn trên trần cũng lần lượt tắt ngúm.
Người hộ sĩ đi tới, khom người nói gì đó bên tai Prudence, ông lão nói cảm ơn rồi đứng dậy, đi về phòng tiếp khách cùng với người phóng viên.
“Albert nói rằng đáng lẽ ra căn phòng này sẽ bị khóa sau bảy giờ tối nhưng tối nay họ đã phá lệ cho tôi một lần.” Prudence ném hai thanh gỗ thông vào lò sưởi sát tường, ông chưa ngồi lại trên chiếc ghế bập bênh mà ngồi xuống chiếc ghế salon một người bên cạnh người phóng viên, hai người cùng nhau nhìn ngọn lửa nhún nhảy, khói bay lên cùng với những hạt bụi nhỏ li ti biến mất dần vào đường ống khói tối đen.
Trong chiếc hộp sắt trống rỗng, những bức thư cũ nằm tán loạn trên chiếc bàn uống trà nhỏ, vết mực đậm nhạt không giống nhau.
“Cứ như vậy, nhờ có Leila và Martha, Alex và tôi cuối cùng cũng chạm được tới đối phương thêm một lần nữa – theo nghĩa bóng.
Martha đã giúp cậu ấy lén chuyển đi từng tờ bản thảo của quyển tiểu thuyết ấy, có đôi khi còn là một chồng thật dày, lúc không may thì chỉ có mấy tờ.
Thư của Alex được kẹp bên trong, nghiêm túc mà nói thì cũng không tính là thư, nhìn xem.”
Prudence tìm lấy một lá thư không được dán tem rồi thả vào giữa bàn uống trà.
Người phóng viên đeo găng tay vải vào, dè dặt mở bức thư ra, bên trong chứa đầy những mảnh giấy vụn khác nhau giống như chúng đã bị xé vội từ nơi khác ra, một mảnh chép thơ, một mảnh khác lại là cuộc đối thoại giữa hai nhân vật hư cấu – một người mẹ đang giải thích về màu sắc của lông chim.
Người phóng viên vuốt thẳng một mảnh giấy với đầy nếp nhăn, phía trên chính là tên của Harry, nói chính xác là cả một trang.
“Chúng tôi đốt tất cả những bức thư để tránh bị phát hiện.
Leila nói với tôi rằng Nam tước đã từng cho phép Alex đi lại tự do trong nhà nhưng có một lần, cậu ấy đã định chạy trốn từ cửa sổ nên từ đó, cậu ấy đã bị nhốt vào phòng cho khách ở phía tây.
Ở đây, chỉ có những câu chuyện là ngăn tớ khỏi bờ vực của sự điên loạn. Cậu ấy đã nói như vậy với tôi trong một bức thư: Những nhân vật của tớ la hét ầm ĩ, tớ nghĩ rằng bọn họ muốn bước vào giấy, muốn bị mực in cố định nhằm theo đuổi sự sống, cũng giống như một chú chim sẽ rời khỏi một cái cây sắp chết vậy.
Bác sĩ nghĩ rằng tớ thật lì lợm, thuốc men có thể khiến những giọng nói ấy yên tĩnh trong một hai giờ nhưng nói thật, tớ đúng là cần yên tĩnh, nhưng sự yên tĩnh ấy là sự yên tĩnh của những nấm mồ có thể khiến người ta khiếp sợ.
Harry, ở đây, cậu đã biến thành một khái niệm hư vô, có lúc tớ còn không dám chắc cậu có thật sự tồn tại hay không.
Có lẽ chỉ có những thứ tớ viết ra mới là thật, có lẽ chính tớ cũng chỉ là một nhân vật trong một quyển sách vốn không có hồi kết, một bàn tay độc ác đang thêu dệt nên câu chuyện của chúng ta.
Trước kia chúng ta đã từng nói về chuyện này rồi, không phải sao?”
“Tôi cố gắng an ủi cậu ấy, bảo cậu ấy hãy tạm thời giả vờ hợp tác, ít nhất là phải lừa gạt được bác sĩ trước.
Cứ như vậy một hai tháng, kế sách này có vẻ đã thành công, bác sĩ Mercer không cho cậu ấy uống thuốc an thần nữa, vào mỗi buổi sáng còn cho phép cậu ấy đi dạo trong vườn hoa.
Nhân cơ hội này, Martha đã gửi cho tôi nhiều thư và bản thảo hơn.
Thế nhưng cậu ấy lại bắt đầu uống rượu, Martha không thể không khóa căn hầm trú ẩn và tủ rượu lại, tuy nhiên Alex luôn giấu một chai rượu trong một góc nào đó, bà ấy cũng hết cách.
Cuốn tiểu thuyết đã gần đến hồi kết.
Vậy thì tớ và cậu sẽ không chết cùng với tớ, tớ có thể cảm nhận ngày ấy đang đến rất gần, có lẽ ngày mai tớ sẽ không tỉnh lại nữa, nhưng mà cậu sẽ biết phải tìm tớ ở đâu.”
“Chúng ta phải đưa cậu ấy rời khỏi đó, không thể đợi được nữa. Tôi tìm được Leila, lập tức nói như vậy với chị.
Chị ấy nói rằng chị phải bàn bạc với Martha, tôi nói rằng không cần bàn nữa, cho dù bọn họ không đồng ý, tôi cũng sẽ đến Cornwall, nếu cần thiết, tôi sẽ đốt căn nhà ấy thành tro tàn.
Chị ấy hẳn là đã vô cùng bất ngờ, trong mấy phút ấy, tôi cứ tưởng rằng chị ấy sẽ lấy điện thoại gọi cho cảnh sát nhưng cuối cùng chị lại nói, được rồi, nói tôi biết cậu cần cái gì.”
“Kế hoạch vốn là như vầy, chúng tôi sẽ thuê một chiếc xe từ chợ nông sản rồi chờ trước trạm xe lửa, loại xe này thường xuất hiện ở những nơi lấy hàng nên sẽ không gây quá nhiều chú ý.
Bác sĩ không hề ở lại Cornwall, ông ấy sẽ bắt tàu về London vào thứ sáu mỗi tuần, đến sáng thứ hai lại về nhà chính.
Lúc ông ấy không có ở đây, hai người hộ sĩ sẽ phụ trách việc trông chừng Alex.
Vào chủ nhật, hai người hộ sĩ ấy sẽ có nửa ngày nghỉ, bọn họ cũng không đi quá xa, bình thường chỉ vào thị trấn để mua một ít đồ, một hai giờ sau sẽ trở lại.
Khe hở không quá dư dả nhưng ít ra vẫn là một khe hở, Martha có thể viện cớ đi dạo để đưa Alex ra vườn hoa, từ đó, cậu ấy có thể trèo qua hàng rào, đi bộ đến nơi lấy hàng ở trạm xe lửa cách nhà khoảng bảy tám dặm, quả thật không gần nhưng chắc chắn có thể làm được.
Đến trạm xe lửa, cậu ấy sẽ có thể tìm được xe hàng, chúng tôi định đi về phía bắc, có lẽ là Glasgow nhưng sẽ không trở về London, bởi vì Nam tước nhất định sẽ biết phải tìm chúng tôi ở đâu.
Chồng của Leila có một người bạn đáng tin từ hồi còn là sinh viên ở trường y ở Glasgow, chúng tôi định tạm thời đến ở tại căn nhà nghỉ của anh ấy ở đó.
Vì lý do an toàn, tôi không nói về kế hoạch trong thư gửi Alex, tôi chỉ nhắc thoáng qua rằng tôi có một chủ ý, bảo cậu ấy hãy chờ đến cuối tuần.”
Prudence chăm chú nhìn lò lửa nhưng lại không giống như đang nhìn lò lửa, trông ông giống như đang nhìn đường bờ biển vốn đã không còn tồn tại sau lớp sương mù dày đặc hơn.
“Tối hôm tôi đưa bức thư ấy cho Leila, Martha gọi điện thoại tới, nói đúng hơn là gọi cho chủ nhà, bởi vì trong gác xép không có đường dây điện thoại.
Bốn giờ sáng, chủ nhà nổi giận đùng đùng gõ cửa phòng tôi rồi ném cho tôi một tờ giấy ghi chú, bên trên có ghi lại lời nhắn Martha gửi đến tôi.”
– —
Chuyến tàu đầu tiên đến London thường đến vào lúc năm giờ hai mươi và rời đi vào lúc năm giờ ba mươi lăm.
Harry đến từ lúc năm giờ.
Nhân viên bán vé không ngừng dùng ánh mắt nghi ngờ để quan sát vị khách xa lạ run rẩy toàn thân ấy, sau khi đẩy vé và tiền lẻ đến trước mặt Harry, họ vội vàng đóng cửa sổ lại như sợ rằng sẽ bị lây vi khuẩn nguy hiểm gì đó.
Harry đi một mình vào sân ga, ngồi yên trên chiếc ghế dài, tay siết chặt tờ giấy ghi chú rồi ngắm nhìn đường sắt trống rỗng.
Trong toa tàu vắng hoe được thắp sáng bằng những ánh đèn.
Đường ranh bao bọc những căn nhà lướt qua khỏi khung cửa sổ rồi dần dần biến mất, nhường chỗ lại cho một mảnh ruộng đen nhánh.
Harry tựa đầu lên cửa sổ, nhìn tờ giấy kia hết lần này đến lần khác.
“Thằng bé mất rồi, trở về ngay đi”, tại sao Martha không chịu nói rõ ràng? Hay bà ấy vốn đã nói rõ rồi, chỉ có đầu óc cậu là từ chối hiểu mà thôi.
Harry chợt đứng dậy, lắc lư đi tới nhà vệ sinh chật hẹp giữa các toa tàu, người soát vé nghe thấy tiếng bước chân nên ló đầu ra từ toa bên cạnh, người đó nhìn sắc mặt Harry, hỏi cậu có phải thấy không thoải mái không.
Harry lắc đầu, đóng cửa nhà vệ sinh lại rồi bắt đầu nôn, sau đó trượt ngồi xuống đất theo cửa.
Người soát vé gõ cửa, lớn tiếng hỏi cậu có cần giúp đỡ hay không, tàu trưởng có thể báo cho bác sĩ đứng chờ ở trạm kế tiếp.
Harry khó khăn đứng dậy, mở cửa, nói mọi thứ vẫn ổn rồi cảm ơn.
Quay về chỗ ngồi.
Thằng bé mất rồi, trở về ngay đi.
Cậu ngủ một lát, sau đó bị đánh thức bởi tiếng còi dài.
Trời đã sáng, có lẽ vì đoán được cậu sẽ ngồi chuyến tàu đầu tiên đến đây, Martha và tài xế đều đã chờ ở trạm, nữ quản gia còng lưng, mím chặt môi như khoảnh khắc chờ dưới căn hầm vào hai mươi hai năm trước, lúc họ đang chờ không quân Đức thả bom.
Dọc theo đường đi, không ai nói chuyện, xe lắc lư qua những chỗ lồi lõm trên đường, xuyên qua lớp sương mù mỏng manh vào buổi sáng sớm.
Con đường đá vụn dẫn tới nhà chính hệt như không có điểm cuối, bánh xe nghiền trên đá phát ra tiếng răng rắc.
Những bụi hoa hồng héo úa hai bên đường có sắc đen thoang thoảng khiến chúng trông như vừa bị thiêu rụi.
Cửa rộng mở, trong nhà một mảnh tĩnh mịch, bóng tối quấn chặt vào nhau như cây mây và dây leo.
Harry do dự đứng trong chỗ mờ tối giống như lần đầu tiên cậu tới chỗ này vào hai mươi hai năm trước.
“Phòng hứng nắng.” Martha nói.
Hàng lang vang vọng lại từng âm thanh khiến tiếng bước chân của bọn họ bị sao chép thành của nguyên một đội quân.
Cửa dẫn vào phòng hứng nắng nửa mở làm hắt ra ánh sáng nhợt nhạt.
Harry dừng bước, quay đầu nhìn Martha, nữ quản gia gật đầu.
Harry hít sâu một hơi, cậu đẩy cửa ra, đi vào.
Điều đầu tiên mà cậu để ý đến chính là sách và giấy nháp phủ đầy đất.
Alex đang nằm trên chiếc ghế bên cạnh cửa sổ sát đất, đầu hơi nghiêng về phía bên phải như đang ngủ.
Harry cẩn thận tránh né những quyển sách trên mặt đất để đi về phía hắn.
Một chai rượu rỗng đặt trên bàn cà phê, bên cạnh vương vãi đầy tàn thuốc, trong tách trà cũng rơi đầy tro thuốc.
Một chiếc bút lăn xuống mặt đất làm chảy ra vết mực thấm ướt tờ giấy như một vết máu đã khô.
Harry quỳ xuống bên cạnh chiếc ghế, hôn bàn tay lạnh như băng của Alex.
“Bác sĩ nói rằng có lẽ là vào khoảng hai giờ sáng.” Cậu thoáng nghe thấy giọng nói Martha, vừa yếu ớt vừa xa xôi như bị cách một tấm thủy tinh: “Nguyên nhân là do rượu và thuốc, chủ yếu là do rượu.
Cảnh sát cũng đã tới, họ cho rằng không có gì đáng nghi.”
Harry không trả lời.
Phía dưới chai rượu có đè một quyển giấy được gấp một nửa, tên của cậu được viết nguệch ngoạc trên đó, Harry rút tờ giấy ra, mở xem, bấy giờ mới nhận ra tay cậu đang run lẩy bẩy.
Alex chỉ viết vài câu, chữ viết xiêu vẹo, ngòi bút còn đâm xuyên cả tờ giấy.
“Chàng thủy thủ thân yêu,
Tớ ngại ngùng dâng lên câu chuyện của tớ, mỗi một chữ trong đó đều đến từ tớ nhưng nó chỉ thuộc về mình cậu.
Tớ đã viết xong kết cục, giờ phút này, mọi âm thanh đều đã hóa tĩnh lặng, tớ nghĩ rằng cuối cùng tớ đã có thể ngủ một giấc.”.