Săn Đuổi

Chương 25



Người dịch: Văn Hòa – Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG –

Đúng hai giờ sau, Morton mở cửa phòng giam. Shema đứng quay lưng ra cửa sổ. Ông đứng trong ngưỡng cửa, hai người nhìn nhau không nói.

— Sao ? – Cuối cùng ông hỏi.

Shema đứng im lặng một hồi lâu. Khi chị nói, giọng chị nghe nhỏ nhưng lại rất cương quyết :— Tôi sẽ giúp ông.

Cả hai đều cười, mặc dù họ không cười với nhau.

— Cám ơn cô – Morton nói, giọng nghiêm trang, rồi ông bước vào phòng. Ông cứ nhìn thẳng vào mặt chị và hỏi, – Raza hiện ở đâu ?

— Ở Li Bi.

— Ở đâu tại Li Bi ?

Chị nói chỗ ở cho ông biết. Ông tin tưởng vào lời chị nói. — Tốt. Ta đi thôi.

Morton quay ra, chị bước theo ông. Mười phút sau, Shema mặc bộ áo quần khi chị ra tòa, chị lên xe, ngồi bên cạnh Morton. Khi chiếc xe ra khỏi nhà tù, Morton không nghỉ ngơi một phút, ông cũng không để cho Shema yên mà hỏi chị liên miên.

Trước hết ông bảo chị miêu tả toàn cảnh căn cứ, rồi miêu tả tòa nhà, tầng hầm dưới cát… Ông yêu cầu chị kể thời khóa biểu từ sáng sớm cho đến chiều tối, rồi từ chiều tối cho tới sáng sớm. Ông đặc biệt chú ý đến giờ ngủ, giờ luyện tập, giờ ăn và giờ đổi gác.

Thỉnh thoảng chị dừng lại, như là những hình ảnh trong óc chị đang bị mờ đi. Chị nhắm mắt lại để tập trung tư tưởng. Rồi chị mở mắt ra và lại kể tiếp bằng một giọng bình tĩnh, khiến cho ông hài lòng vô cùng. Thỉnh thoảng ông chen vào :

— Cô có chắc không ?

Câu trả lời vẫn trước sau như một. Gật đầu, rồi lập lại những gì chị vừa nói. Khi chiếc xe rẽ ra xa lộ, Morton quay qua hỏi thêm về những thói quen của Raza.

— Hắn đi ngủ khi nào ?

— Không trước nửa đêm.

— Hắn có khóa cửa phòng không ?

— Không. Không ai dám vào phòng hắn.

— Hắn có ngủ một mình không ?

— Không bao giờ.

— Hắn ngủ bên mép giường nào ?

— Gần cửa sổ. Hắn thích nhìn ánh nắng mặt trời đầu tiên.

— Cô tả cái phòng của hắn đi.

Mắt ông dán chặt vào chị khi chị miêu tả lần lượt từng đồ vật trong nhà. Rồi ông lại hỏi tiếp những câu khác.

— Hắn có để súng trong giường không ?

— Hắn thường để một khẩu dưới gối. Còn một khẩu Kalashnikov nữa dưới giường. Hắn lại để một thùng lựu đạn trong bàn trang điểm nữa.

Người tài xế tăng tốc, chiếc Mercedes vượt qua đoàn xe tải.

— Lựu đạn à ? – Morton hỏi lại.

— Vâng. Hắn làm lấy. Hắn làm giỏi lắm.

— Trong hộc bàn sao ?

Shema lắc đầu : — Tôi không nhớ, có lẽ hộc thứ hai.

— Có bao nhiêu hộc ?

— Bốn – Chị nhắm mắt lại một chốc – Không, chỉ có ba thôi! – Chị nói rồi mở mắt ra.

— Tốt, bây giờ đến văn phòng của hắn…

Chị lần lượt miêu tả cho ông nghe từng phòng trong tòa vila, miêu tả bức họa cảnh Beirut treo trong phòng ăn, miêu tả đồ gỗ màu đen và những ghế dựa bọc da. Chị không bỏ sót một chi tiết nào.

— Còn nền nhà ? – bỗng ông hỏi – nền nhà trải cái gì ?

— Thảm. Hắn thu thập thảm. Thỉnh thoảng hắn trải tấm này chồng lên tấm kia.

Ông gật đầu, làm như chuyện thảm lót như thế là chuyện tự nhiên nhất.

— Bây giờ cô kể đến chuyện gác đêm đi – Ông tiếp tục.

Từ ngoại biên đi dần vào trong, ông yêu cầu chị kể lại đầy đủ chi tiết về toán tuần tra lưu động và toán lính canh ở mỗi pháo đài ngầm dưới cát và ở tòa nhà lớn. Chị miêu tả cách bài trí của khu luyện tập vừa khi chiếc xe bỏ xa lộ rẽ vào ngoại vi khu phi trường Frankfurt. Mấy phút sau, chiếc Mercedes đậu bên cạnh chiếc Concorde.

Shema bước theo Morton lên thang máy bay. Viên sĩ quah Trung tâm truyền tin và người phụ trách tài vụ trên máy bay đang đứng đợi họ ở cửa. Morton giới thiệu Shema với họ, rồi vào buồng máy để bảo viên phi hành trưởng chuẩn bị cất cánh đi Luân Đôn. Rồi ông trở lại chỗ Trung Tâm truyền tin.

— Nối đường dây đến Tel Aviv – Morton ra lệnh cho viên sĩ quan Trung tâm truyền tin – Tôi muốn nói chuyện với Thủ tướng, với các cấp chỉ huy quân đội và không quân, và với các cấp chỉ huy hành quân trong các lực lượng này. Gọi Danny, báo cho ông ấy biết để dùng phòng Chiến tranh.

Morton ngồi vào chỗ, ông bèn ra lệnh ngay. — Cố giữ lại tất cả tin gởi đến, ngoại trừ tin của Lacouste hay là có tin gì về tung tích của Raza. Trong khi giữ tin thì anh hãy cho phát lời nhắn của tôi đi.

Chiếc màn hình sáu inh ở phía bên phải ông bắt đầu hiện lên những tin tóm tắt các lời gởi đến. Yertzin đã xác nhận máy phát chuyển tiếp sắp chở từ Kabul đến Tel Aviv trên chiếc phóng pháo cơ Tupolev. Finel không có kết quả khi tiếp xúc với Á châu để tìm tung tích Raza. Lacouste đã điện đến. Nội các Pháp vẫn đang họp đột xuất. Gates gọi đến : Ông ta đã phái nhiều nhân viên đến Columbia. Cơ quan FBI tường trình không ai khớp dược hình miêu tả Lila với tất cả những hình trên máy vi tính đã có của họ hết. Sở Di trú Hoa Kỳ đã chuyển ảnh của chị ta đến các điểm nhập nội vào Hoa Kỳ rồi. Wolfie báo cho biết cả con và vợ của Hardman đều chết. Xét nghiệm tử thi xác nhận tất cả đều do vi rút bệnh than B.C gây nên. Một đội chống lây nhiễm đã tìm ra cái chai ấy ở trong trường. Lạ thay là không ai đụng đến hết. Matti cũng gọi đến báo Nancy Carson đã chết. Bitburg gọi đến, lần thứ hai, để yêu cầu gởi tin cập nhật về.

— Ba mươi giây nữa là nối được rồi – Viên sĩ quan truyền tin nói.

Morton ấn vào một nút, tất cả tin nhắn trên máy hình hiến mất.

Chiếc Concorde đã chạy hết đường bay. Chiếc máy bay dừng lại một lát, rồi cất mình khỏi đường băng. Khi máy bay rẽ qua phía bắc, trên màn hình hiện ra cảnh phòng Chiến tranh ở Tel Aviv, cảnh phòng chiếm hết cả màn hình.

Nửa tá người ngồi quanh hai bên Karshov. Ngồi sát bên Thủ tướng là vị chỉ huy không lực và vị chỉ huy quân lực. Danny ngồi bên cạnh ông ta. Bitburg ngồi ngay sau lưng Karshov. Đằng sau các thủ trưởng là những phụ tá : những khuôn mặt trẻ, trang nghiêm ; những người biết ghi nhận hôm nay là những người biết quyết định ngày mai.

Mọi người trao nhau lời chào, rồi một trong nhiều camêra đặt cố định trong phòng chiến tranh quay vào Karshov.

— Chúng tôi đã có mặt tất cả rồi đây, David – Thủ tướng nói – Và sẵn sàng nghe anh đây.

Morton chăm chú nhìn vào chiếc máy camêra nhỏ gắn trên màn hình. Camêra sẽ phát hình của ông qua vệ tinh về Tel Aviv.

— Raza đã có một căn cứ bí mật ở Li Bi. Có lẽ chính ở đây mà hắn đã hoạch định toàn bộ công việc hành quân – Ông nói rất bình thường – Hy vọng là hiện giờ hắn có mặt ở đó. Vì thế tôi đề nghị chúng ta hủy căn cứ ấy ngay.

Có nhiều tiếng thở hổn hển trong phòng chiến tranh, rồi tiếp theo là tiếng xì xầm. Cặp mắt của Bitburg ánh lên khi ông ta chồm người tới trước nói gì đó với Karshov. Thủ tướng khoát tay ra dấu cho ông ta im lặng, rồi chồm vai tới trước, ông gượng cười.

— Tấn công Li Bi à ? Lạy Chúa, chắc anh đã nghĩ đến hậu quả rồi chứ ?

— Chỉ có cách ấy mới bắt được Raza và người của hắn – Morton cương quyết nói.

Bitburg chen cái mặt giữa Karshov và vị chỉ huy không lực.

— Xin lỗi nhé – Bitburg nói – Xin lỗi nhé, làm sao mà anh biết được Raza ở đấy ? Cả toàn khu vực này đã được vệ tinh của ta và người Mỹ tìm kiếm lục soát rất kỹ. Không thấy gì hết ngoài một số ít dân Bedouin và lạc đà của họ mà thôi.

— Ngoài ngôi nhà ra, toàn bộ căn cứ đều xây ở dưới cát. Cả vệ tinh cũng chịu. Walter à. Chúng ta đã thấy cảnh này trong chiến tranh vùng Vịnh rồi – Morton đáp.

Vị Chỉ huy trưởng Không lực quay nhìn Bitburg. Ông ta nói :

— Tôi có thể tổ chức một cuộc kiểm soát để bảo đảm chắc chắn có Raza ở đấy hay không ?

— Nếu có hắn ở đấy – Bitburg nói nhanh – Vấn đề là thế, Moeshe à. Liệu có hắn ở đấy không ?

— Chúng ta chỉ biết được khi nào chúng ta vào trong ấy, chắc chắn là thế – Morton nói – Nhưng tôi biết chắc chắn là hắn ở đấy. Cái cách hắn vào ra Athens thì đủ rõ. Li Bi là nơi xuất phát tuyệt diệu để hắn phái con đàn bà ấy đi Trekfontein và cho những tên đánh bom.

— Anh có thể cho tôi biết nguồn tin ở đâu ra chứ, David ? – Bitburg hỏi.

— Tôi sẽ gởi báo cáo cho ông, ông Walter.

— Đừng làm mất thì giờ – Karshov nói lớn – Nếu David không có nguồn tin chắc chắn, thì chúng ta đã không có mặt ở đây.

Trong phòng Chiến tranh, Danny rời mắt khỏi tập giấy ông đang ghi vội vàng, ông nhìn lên, nói :

— Chắc chắn Li Bi là nơi Raza dùng để đặt máy phát thanh.

Karshov nhìn ông, hàm râu đen lởm chởm không che được vết sẹo trên mặt Thủ tướng.

— Thế ta còn gặp phải khó khăn cơ bản. Li Bi. Chúng ta tấn công ông đại tá và chúng ta sẽ bị thế giới văn minh lên án nặng – Karshov nói to – Thế là chúng ta và Raza đều là cá mè một lứa.

Bitburg gật mạnh đầu vừa khi Morton cất tiếng nói :

— Tôi đề nghị chúng ta cho Vị lãnh đạo Tối cao biết chúng ta sắp làm gì, thưa Thủ tướng.

Lần này thì những kỹ thuật gia quanh Morton cũng hồi hộp cùng với các vị ở trong phòng Chiến tranh. Ông nhìn thẳng vào máy camêra. Karshov hỏi :

— Anh muốn tôi gọi đến vị Lãnh đạo Tối Cao để nói chúng ta sẽ dội bom nát một phần sa mạc của ông ta à, David ? Có phải anh có ý kiến như thế không ?

— Ngài không gọi, thưa Thủ tướng. Bạn bè của ông ấy sẽ làm, ở Damascus, ở Algiers và Tunie — Morton đáp – Các đồng minh của chúng ta sẽ thuyết phục họ gọi ông ta…

Đầu của Bitburg chồm ra trước, hơn nữa. Ông ta hỏi : — Đồng minh nào, David ?

— Người Pháp, người Đức. Họ luôn luôn tìm cách để thông thương thẳng với Tripoli. Họ sẽ thấy có lợi trong việc đóng vai trò sứ giả. Tất cả những gì họ nói đều giống nhau đó là Raza đã lẻn vào đất Li Bi mà ông đại tá không biết. Các ngài cứ suy nghĩ đi. Vệ tinh chúng ta không phát hiện được. Các ngài cứ nói với vị lãnh đạo tối cao rằng không ai trách ông ta hết.

Karshov gật đầu. Khi Bitburg định nói nho nhỏ bên tai ông, Thủ tướng xua ông đi. Morton nói tiếp :

— Mọi người rồi sẽ nói với vị Lãnh tụ Tối cao cùng một luận điệu hết, họ sẽ nói rằng không ai mong ông ta dùng lực lượng của mình để chống lại Raza hết, rằng quan điểm của ông ta là không đời nào người Ả Rập lại đi chống người Ả Rập. Nhưng rồi đây cũng là cơ hội để ông ta có được uy thế với các nước Ả Rập khác và với các nước khác trên thế giới, cũng như được xem là người Ả Rập có tầm nhìn xa – Morton mỉm cười – có lẽ rồi Appleton cũng gọi đến ông ta nữa đấy. Bây giờ thì ông này đã hợp tác với chúng ta rồi.

Giọng cười của Karshov vang lên. — Tôi đã nghe anh gọi Tổng thống rồi, David à.

— Cần phải làm thế thôi.

— Tôi cũng nói với ông ta như thế – Karshov dừng lại một lát – Tiến hành được đấy, David. Vị Lãnh đạo Tối cao là một con người cho mình là Trung tâm, là con người thực tiễn, cho nên ông ấy sẽ không cản trở chúng ta đâu. Rồi thế giới sẽ hoan hô ông ta cho mà coi. Cái kiểu như Hitler chống lại chủ nghĩa cộng sản trong những thập niên ba mươi. Một trong những điều kỳ diệu của loài người là khả năng luôn luôn đi tìm cái thiện trong điều ác.

Ông ngừng nói và quay lại. Một người phụ tá vừa đưa một mảnh giấy tới trước cho ông. Đằng sau Morton, vị Sĩ quan Trung Tâm truyền tin đang nghe điện thoại, rồi viết mạnh xuống tập giấy ghi lại lời nhắn. Tờ giấy được chuyển tới tay Thủ tướng, cùng lúc ấy vị sĩ quan Trung tâm truyền tin cũng giúi vào tay Morton tờ giấy ông vừa xé ra khỏi tập giấy. Morton đọc lời trên giấy rồi nhìn lên.

— Anh nghe rồi phải không ? – Karshov hỏi.

— Lacouste vừa nói cho tôi nghe.

— Mẹ kiếp bọn Pháp ! – Karshov hét lên – Bọn Pháp đã quyết định thả bọn “Cảm tử quân”. Chúng yêu cầu đi đến Tripoli, và nước Li Bi bằng lòng nhận họ vì lòng nhân đạo. Người Pháp sẽ chở chúng đi, bằng Hàng không Pháp nữa chứ, trên một chiếc 747.

Vị chỉ huy trưởng không lực đã phá tan bầu không khí yên lặng nặng nề trong phòng Chiến tranh.

— Chúng ta không thể ngồi yên để nhìn bọn khủng bố này bay đi như thế được. Trong một tuần thôi là chúng trở lại bờ Tây để tiếp tục tàn sát. Tôi có thể huy động lực lượng không quân của chúng ta để chặn chiếc 747 lại trước khi chúng vào không phận Li Bi.

Morton nhớ ra người chỉ huy trưởng không lực từng là một phi công giỏi. Nhưng không thể nào giao cho ông ta một công việc phức tạp được. Vị chỉ huy trưởng quân lực quay qua Karshov :

— Tốt đấy, chúng ta đem chúng về đây, đưa chúng ra tòa. Bọn chúng đã bị buộc tội rồi mà. Trước đây chúng ta đã từng làm như thế rồi !

Morton hơi nhích người, ông đáp : — Lần ấy chúng ta chỉ ép một chiếc DC.3 khi chúng lọt vào không phận của chúng ta, Sel à. Bây giờ là cả một chiếc 747 của hàng không Pháp bay ngoài Địa Trung Hải. Làm thế chúng ta đã gây chiến với không lực Pháp rồi đấy.

VỊ chỉ huy trưởng quân lực hằn học nhìn vào camêra : — Vậy theo ông thì phải làm gì ?

— Theo tôi cứ để cho chúng đi. Tất cả đều về trại của chúng hết. Chúng ta sẽ thanh toán chúng ở đấy – Morton đáp.

Phòng Chiến tranh im phăng phắc.

— Khi nào ? – Cuối cùng Karshov hỏi.

— Rạng sáng ngày mai.

— Anh cho chúng tôi biết, anh cần gì ? – Thủ tướng hỏi, lần này ông không còn đắn đo nữa.

Morton nói cho ông ta biết vừa khi chiếc Concorde bay vào eo biển Channel của nước Anh. Fuller đã cung cấp chiếc xe tải cho họ. Đi theo xe có thêm một tài xế, và anh chàng kỹ thuật viên ngồi chen với Wolfie và Michelle ở sau xe. Chiếc xe tiếp tục chạy qua các đường phố quanh trạm cảnh sát Paddington Green, ở đây các sĩ quan trong đội chống khủng bố của Scotland Yard đang thẩm vấn Salem Arish.

— Tôi không hiểu tại sao dân tộc các anh lại trường tồn được – Người kỹ thuật viên nói. Anh ta còn trẻ, buộc tóc đuôi ngựa, mặc áo vét tông bằng vải thô, mang kính trắng. Anh ta ngồi trên một cái ghế đẩu gắn cứng vào sàn xe.

— Chúng tôi phải sống còn chứ – Wolfie đáp. Anh ngồi chen giữa hai cái máy dao động ký, hai tay ôm lấy đầu gối.

— Không phải “tất cả” họ đều muốn giết chúng tôi – Michelle nói thêm – Chỉ phần lớn thôi.

Cô ta ngồi tréo chân trên sàn xe, bên cạnh cái hộp đen xù xì để dò tìm những cuộc điện thoại. Trên mặt hộp có nhiều mặt đồng hồ dao động.

— Tôi đã có thời làm ở Hồng Kông – Người kỹ thuật viên nói, mắt anh nhìn vào màn hình máy giám sát gắn chặt vào thành xe – Tôi cũng thấy như thế. Người Ả Rập, người Trung Hoa, họ đều như nhau.

Màn hình xuất hiện vị trí của một số trạm điện thoại công cộng trong khoảng bán kính một dặm cách trạm kiểm soát.

— Con mồi chúng ta săn đuổi có lẽ sắp xuất hiện rồi đấy – người kỹ thuật viên lên tiếng sau một hồi im lặng – Bọn này khi nào cũng thích đi xa một khoảng cách nhà lao hết.

Chiếc xe dừng lại ở một ngã tư, rồi lại tiếp tục chạy từ từ qua các đường phố của Tây Luân Đôn. Trời bắt đầu mưa.

*

**

Trời đang mưa ở Mexico City khi chiếc 737 của hãng hàng không Mexico từ Medelin hạ cánh. Ba mươi phút sau là Raza đã làm xong thủ tục và được đưa đến một ngôi nhà bí mật của tập đoàn buôn lậu, ngôi nhà nhìn xuống công trường Ba Nền Văn Hóa.

Căn nhà thoáng đãng, rộng rãi, chị quản gia và anh giúp việc nhà chào hắn rất lễ phép. Anh ta đưa cho hắn một cặp da :

— Thưa ngài, giấy tờ báo cho ngài đây.

Anh ta dẫn Raza vào phòng khách, còn người quản gia thì mang va li của hắn vào phòng ngủ. Sau đó, chị trở ra với một bình nước cam tươi và một đĩa bánh bích quy socola. Bỗng hắn nhớ lại chuyến tới đây lần vừa qua.

Chị quản gia rót cho hắn một ly nước cam.

— Chị đi đi – Hẳn vẫy tay xua họ đi – Nếu cần tôi sẽ gọi.

Hai người cúi chào rồi lui ra. Hắn uống nước cam và mở tập hồ sơ ra xem. Tờ trên hết là của vị lãnh đạo Hồi giáo, báo cho hắn biết nước Pháp đã đầu hàng. Marcel Bolot, tên môi giới của tập đoàn buôn lậu ở nước Pháp, đã fax từ Paris về, tin các “Cảm tử quân” sẽ về đến Li Bi vào lúc nửa đêm – Lại một lần nữa anh chàng người Corse này chứng tỏ hắn ta nắm được nhiều tin tức khắp nơi.

Nuri điện thoại báo Lila đã đến Sweetmont.

Nadine fax đến báo cáo chị ta không thể nào tiếp xúc được với Faruk Kadumi ở Luân Đôn. Không ai trả lời điện thoại cho chị hết, hay là xác nhận đã nhận được bức fax mà chị đánh đến cho hắn, nhắn hắn khi làm xong việc ở Luân Đôn thì bay sang New York ngay.

Raza cau mày, hắn nhấc điện thoại lên, bấm số Luân Đôn. Hắn để cho điện thoại reng suốt một phút, rồi hạ máy xuống.

*

**

Matti quay đầu chiếc xe du lịch Lincoln vào lối đi để vào khu Sweetmont, còn Lou vẫn mải miết lục lọi đống danh thiếp các doanh nghiệp trong túi xách da. Anh liếc nhìn một tấm.

— Ossie Oakes, đại lý sắt thép – Anh đọc to lên – Anh gặp hắn ta ở đâu đấy ?

— Ở Miami – Matti đáp.

— Anh biết gì về đại diện cho sắt thép mà quen hắn ?

— Không. Nhưng tôi thích âm nhạc là được rồi.

Lou lắc đầu rồi mải miết lục tìm.

Ở phi trường Kennedy, đã có nhiều người trong công ty bảo hiểm điều tra về chiếc xe taxi của Muktar Sayeed. Họ đưa tấm hình của hắn cho cả dãy xe taxi đem để hỏi xem họ có thấy hắn ở phi trường vào hôm hắn chết không. Không ai thấy.

— Còn công ty bảo hiểm vỏ xe thì sao ? – Lou hỏi, vừa lấy ra hai tấm thiệp.

— Hoàn toàn bảo đảm – Matti đáp – Họ đang làm ăn khó khăn mà. Tất nhiên là họ muốn kiểm tra xem hai cái vỏ xe bị nổ.

— Nhưng biết đâu Day Nite không dùng vỏ của họ ?

— Tôi đã kiểm tra rồi. Họ dùng vỏ ấy.

Lou lại lắc đầu. Ba mươi phút sau, họ đến chỗ ngoặt vào khu bất động sản của Harmoos. Hai người đưa thẻ cho người gác cổng, rồi cho xe đến đậu trước mặt nhà.

— Học đòi “Cuốn theo chiều gió” – Lou nói nho nhỏ.

— Có vẻ hắn nhại theo Tòa Nhà Trắng – Matti đáp khi hai người đi đến cánh cửa trước.

— Chắc mọi người đều nghĩ thế – Lou vừa cười đưa tay bấm chuông.

Một cô gái ra mở cửa. Cặp mắt cô ta đen, buồn bã, mệt mỏi, cơ thể nặng nề dưới bộ đồng phục. Matti đã từng thấy những vũ công múa bụng đi cái điệu như thế khi họ giải nghệ.

— Vâng, các ông muốn gì ?

Matti nhận ra giọng của cô ta là giọng Algerie.

— Chúng tôi muốn nói chuyện với ông Harmoos, thưa cô – Anh đáp, vừa chìa ra cho cô ta thấy tấm cạc, nói sơ mục đích đến đây.

Cô hầu ngần ngại : — Ông chủ không có ở nhà.

— Khi nào ông ấy về ? – Lou hỏi.

Từ bên hông nhà, Nuri bước đến hỏi :

— Các ông là ai ?

Hắn cầm khẩu súng máy kè kè trên tay, cái kiểu các “Cảm tử quân” cầm vũ khí. Bỗng hắn dùng tiếng Ả Rập bảo cô hầu đi vào làm việc. Hắn đưa tay ra :

— Cho tôi xem giấy chứng minh của các ông.

Nuri phụ họa theo lời hỏi bằng cách cố tình nhúc nhích khẩu súng trong tay. Hắn lần lượt xem hai cái thẻ.

— Chuyện này yên rồi mà ! – Hắn nói.

— Chúng tôi muốn hỏi vài câu thôi – Matti phân trần , – Vỏ trên xe taxi của ông Sayeed dùng đã lâu chưa, và trước khi dùng có kiểm tra lại không, những câu đại loại như thế mà.

— Chỉ trong vài phút thôi – Lou nói thêm.

Nuri ngần ngại. Harmoos đã nói không được cho phép ai vào nhà hết, khi Ismail và Lila đang ở trong nhà. Nhưng hai người đang ở dưới hầm, trong phòng thí nghiệm tạm thời. Harmoos đi Florida đến ngày kia mới về. Tốt hơn hết là trả lời ngay cho mấy thằng vô thần này cho yên, để chúng khỏi trở lại quấy rầy khi ông ấy về.

— Khẩu súng đẹp quá ! – Matti nói, gật đầu chỉ khẩu súng.

— Tôi thích đi săn. Ở đây có nhiều chuột chũi – Nuri nói vắn tắt.

Hắn lấy súng ra dấu cho hai người bước vào. Matti thấy thái độ của hắn vừa miễn cưỡng vừa giận dữ.

Họ đứng ở tiền sảnh của ngôi nhà. Những cái đầu bằng đồng gắn trên những chân cột bằng đá cẩm thạch và nhiều chiếc lư để trên thảm nhà. Nhiều cánh cửa dẫn đến nhiều nơi khác trong nhà.

— Chúng tôi cần xác minh là những việc xảy ra cho xe ông Sayeed không phải lỗi của nhà sản xuất xe hơi – Matti lên tiếng.

— Một tai nạn thôi – Nuri khinh khỉnh nói – Vào đi.

Hắn để khẩu súng dựa vào một bức tường, rồi dẫn hai người vào phòng làm việc của Rachid Harmoos. Matti nhìn quanh ra vẻ thán phục những bộ sách bọc da đẹp đẽ và những bức tranh treo trên tường.

— Ông Harmoos quả là một nhà sưu tập giỏi – Matti nói, giọng nể phục vô cùng.

— Đúng thế – Nuri lầu bầu trong miệng. Hắn bước đến bàn và lấy ra một tập đựng hồ sơ.

— Báo cáo cho biết chỉ là một tai nạn. Ông Harmoos thích biết rõ ràng mọi việc – Hắn mở tập đựng hồ sơ ra rồi đọc nhanh. Hắn nhìn lên – Cặp vỏ đã thay trước khi xảy ra tai nạn hai tháng. Chúng đã được kiểm tra khi chạy được năm trăm, rồi một ngàn dặm. Chiếc taxi đã được kiểm tra tu bổ kỹ một tuần trước ngày Sayeed chết.

Hắn xếp tập hồ sơ lại. — Một chuyện đáng buồn. Cảnh sát cho biết tất cả yên ổn cả rồi.

Matti vui vẻ gật đầu.

— Chắc là yên ổn cả thôi.

— Cám ơn ông đã giúp đỡ – Lou nói thêm.

Nuri dẫn họ ra khỏi phòng làm việc.

Matti mỉm cười chào một phụ nữ đang đứng trong tiền sảnh.

— Xin chúc bà một ngày tốt đẹp – Anh lễ phép nói. Lila nhìn họ, nhưng không đáp lời.

Cả Matti và Lou đều giữ im lặng cho đến khi hai người đã ra khỏi khuôn viên của Harmoos và đi về phía xa lộ. Cuối cùng Lou cất tiếng nói :

— Tôi muốn phang khẩu súng lên đầu hắn quá !

— Harmoos thường bố trí một toán quân quanh nhà hắn – Matti đáp – Vừa khi thằng đứng canh vào lều là tôi thấy sáu thằng nữa nấp sau hàng cây. Và có lẽ trong nhà cũng có.

Hai người im lặng một lúc lâu. Rồi Lou hỏi : — Anh thấy con mẹ đàn bà ấy ra sao ?

— Tệ mạt ! Như quỷ !

Họ lái qua một chiếc xe tải của Ban Cải Tổ Nhanh đang đậu bên lề đường. Anh tài xế tuồng như đang ngủ gục.

— Trông cô ả giống người Ý hơn là Ả Rập – Lou nói, vừa đưa mắt nhìn chiếc xe tải.

— Nó người Ả Rập đấy, chắc thế. Nhìn cặp mắt thì biết.

Anh với tay lấy điện thoại trên xe.

— Tôi gọi đến chiếc xe tải, miêu tả hình dáng nó cho họ biết.

*

**

— Hắn đến kìa – Người kỹ thuật viên nói với Wolfie và Michelle.

— Tôi thấy hắn rõ rồi – Người tài xế nói lớn lên.

Chiếc xe từ từ chạy qua cổng vào trạm cảnh sát Paddington Green vừa khi Saleem Arish xuất hiện.

Người kỹ thuật viên bận bịu luôn tay, anh kiểm tra các mặt đồng hồ, các núm bật và nối các dây nhợ vào nhau, Anh ta đưa cho Wolfie và Michelle máy nghe có micrô áp vào môi.

— Fuller muốn nói chuyện với anh đấy – Anh ta nói.

— Con mồi đang qua đường – Anh tài xế báo cáo – Hắn đi qua trạm điện thoại thứ nhất.

Giọng của Fuller vang lên :

— Hắn là một thằng thủ dâm ngoan cố. Hắn chỉ nhận hắn có ăn cắp vặt thôi. Nhưng hắn chối về chuyện mấy cái chai. Chúng ta tạm cho hắn ra để theo dõi. Khi xong việc, sẽ trị hắn sau.

— Tốt lắm – Wolfie đồng ý.

— Xem như hắn muốn tìm một xe taxi – Anh tài xế nói.

Michelle chửi thề bằng tiếng Pháp.

— Không, khoan đã. Hắn định đi bộ.

Người kỹ thuật viên nhìn vào màn hình.

— Có một trạm điện thoại ở cuối đường.

Anh tài xế lái xe vượt qua Arish.

Anh kỹ thuật viên bấm nút trên thùng máy, tiếng kêu nho nhỏ phát ra. Wolfie và Michelle nhìn kim đồng hồ chao đảo rồi dừng lại.

Chiếc xe đậu quá trạm điện thoại năm mươi mét. Anh tài xế bước xuống, đi vào một quầy báo. Làm ra vẻ không vội vàng, anh quay lại với một gói thuốc lá.

— Hắn ở trong trạm điện thoại – Anh báo cáo khi vừa bước lại lên xe.

— Tôi bắt được hắn đang quay số – người kỹ thuật viên nói.

Anh bấm vào nút một máy nhận xoay vòng ở trên sàn xe để bên cạnh anh. Cuộn băng bắt đầu quay. Qua máy micrô đeo ở đầu, Wolfie và Michelle nghe những con số Arish đang bấm.

— Gọi cho số 081. Ở khu Harrow – Người kỹ thuật viên nói nho nhỏ trong micrô.

— Không – tám – một – Có tiếng xác nhận vang lên trong núm nghe đeo ở đầu – Bây giờ cứ theo dõi tiếp đi.

Trong một căn phòng trên một trung tâm tuyển mộ quân đội ở Bắc Luân Đôn, nơi đóng bộ chỉ huy của toán kỹ thuật viên trong tổng hành dinh tình báo, nhiều chuyên gia đang lần dò để tìm ra cuộc gọi điện thoại này.

Điên thoại reo vang.

— Xin chào – Một giọng nói nhẹ nhàng cất lên trong máy nghe.

— Có phải Effendi đó không ?

— Saleem, anh ở đâu đấy ?

— Bọn heo đã bắt tôi.

Trong xe cuộn băng im lặng. — Tại sao chúng thả anh ra ?

Có tiếng cười vang lên trong núm nghe : — Vì tôi không nói gì hết.

— Chúng muốn biết cái gì ?

— Biết về mấy cái chai. Tôi phải ra tòa vào sáng mai. Nhưng tôi không nói cho chúng biết gì hết, Effendi…

— Nghe đây. Anh còn nhớ cái địa chỉ tôi đã cho anh chưa ?

— Khu chung cư chứ gì ?

— Đúng. Đến đó đi. Tôi sẽ nói chuyện thêm với anh ở đó.

— Effendi. Tôi không nói gì hết.

— Được rồi. Anh cứ làm như tôi nói đi.

Tiếng điện thoại của Eíĩendi cắt vang to lên trong máy thu băng một tiếng “cách”. Sau đó một lát, anh tài xế la lên.

— Hắn đi taxi, theo hướng kia !

Chiếc xe tải lao ra đường, quay ngược lại.

— Ồi, lạy Chúa ! – Anh tài xế hét lên.

Tiếng thắng xe rít lên thật lớn khiến cho Michelle và Wolfie té nhào vào anh kỹ thuật viên. Rồi chiếc xe tải dừng lại, mũi xe chỉ cách chiếc xe tải khác đang trờ tới có mấy phân.

Trong lúc anh tài xế tránh được xe, thì chiếc taxi chở Arish đã biến mất.

*

**

Cơn ho của Mirian đã đánh thức nàng dậy. Toàn thân nàng đau nhừ khi nàng quay qua nhìn chiếc đồng hồ ở bên cạnh giường. Nàng đã cố ngủ gà ngủ gật được hai giờ rồi.

Màn cửa sổ kéo ra khiến cho phòng ngủ tràn ngập ánh sáng, ánh sáng rọi lên tường nhà và soi rõ các đồ đạc trong nhà. Mirian cảm thấy khát nước nhưng lạnh người. Ước chi có Matti ở đây. Khi nàng gọi đến nhà anh, một người đàn ông lạ trả lời điện thoại cho biết anh đã đi khỏi. Nàng để lại tên, và nói nhờ nhắn Matti có việc quan trọng cần nói chuyện gấp.

Nàng muốn nói cho anh biết về việc mổ tử thi của Nancy. Vi rút bệnh than B.C đã hủy hoại hết những cơ quan trong người, nhập vào phổi, vào gan và thận. Mirian chưa hề thấy trường hợp nào như thế này trước đây.

Vị bác sĩ bệnh lý học đã quá kinh hoàng đến nỗi khi ông hút máu của Nancy ra, cái ống hút trật ra khỏi tay, máu đã phun ra thật mạnh vì máy hút đang hoạt động, Mirian quả quyết hai người đã bước lui tránh khỏi ống hút không để máu phun vào người. Tuy nhiên, họ vẫn ngừng công việc lại, ra phòng tẩy rửa, thay áo quần và mặt nạ đeo mặt, rồi lại kỳ cọ rửa ráy bằng hỗn hợp khử mầm gây bệnh lần nữa. Sau khi đã mặc áo quần sát trùng, vị bác sĩ bệnh lý học đã phun thuốc khử mầm gây bệnh quanh khu vực cái bàn mổ.

Mirian đưa tạy lên sờ cổ. Cổ đau, da xù xì. Nàng lảo đảo đi vào phòng tắm. Nàng xem cổ trong gương soi ở phòng tắm. Có một nốt phồng trên cổ.

— Ôi, lạy Chúa Jesus nhân từ ! – Nàng rú lên, lảo đảo trở lại phòng ngủ.

Khi nàng đưa tay nhấc điện thoại, một cơn ho dữ dội phát ra từ lồng ngực nàng, một vết máu dính vào khóe mệng nàng. Nàng qụỵ xuống trên giường, quá đau đớn không để ý đến việc nàng đã để lệch cả điện thoại ra ngoài giá.

*

**

Trong phòng khách ở ngôi nhà chung cư, Faruk Kadumi cứ mải miết nhìn cái máy fax. Hắn đang lo sợ sẽ có sự hãi hùng sắp xảy ra. Mỗi lần cái máy fax reo lên, là lại một lần nó đánh đến một tin khủng khiếp khác. Trước hết là vợ Raza ra lệnh cho hắn bay đến New York sớm chừng nào hay chừng ấy, Hắn tảng lờ như không nhận được lệnh, chỉ vì hắn tin là hiện giờ cái máy fax đang bị theo dõi. Hắn lại càng tin hơn nữa khi cảnh sát đến gõ cứa nhà lần nữa. Từ đó điện thoại reo mãi. Nhưng hắn sợ quá không dám trả lời.

Máy fax lại nhắn tin lần hai ra lệnh cho hắn phải bay qua New York. Hắn được lệnh phải báo cho Nadine biết kế hoạch khởi hành của hắn. Lời nhắn có ký tên “Ahmed”. Đấy là bí danh của Raza.

Faruk Kadumi xé vụn tờ giấy rồi nhét vào bồn cầu trong toa lét. Điện thoại reo liên hồi và tiếng reo lại càng làm cho hắn căng thẳng thêm lên.

Máy fax lại hoạt động. Hắn nhìn tờ giấy bắt đầu xuất hiện và ngay khi đứng ở bên kia phòng, hắn vẫn nhận ra nét chữ Ả Rập viết tay rõ ràng. Đợi cho đến khi lời nhắn phát xong, hắn bước tới xé tờ giấy ra khỏi máy.

Faruk Kadumi bắt đầu run lẩy bẩy khi hắn đọc to lời nhắn lên, làm như nhờ thế mà điềm gở sẽ bớt đi.

— Kẻ giao hàng sắp gọi đến thôi – hắn nói nho nhỏ, – và mình sẽ nhân danh đấng Ala mà giao đầy đủ cho hắn. Sau khi mình đã ra khỏi cái xứ thù nghịch này của Chúa rồi, họ sẽ lo liệu hết.

Điện thoại lại reo một lần nữa.

*

**

Đến thành phố, Matti gọi số điện thoại của Marian qua điện thoại trên xe. Đường dây vẫn bận, anh bèn quyết định : — Tôi sẽ dừng lại đấy – Anh nói với Lou.

Mười lăm phút sau, Matti đậu xe ở ngoài khu nhà chung cư trên ngã tư đường thứ Bốn Mươi Mốt và đường thứ ba. Cách mười khu phố, cái Tháp của Bệnb viện Trung tâm thành phố vươn cao lên.

Marian đã đưa cho anh một chìa khóa hai tháng sau ngày họ hẹn hò đi chơi với nhau. Thỉnh thoảng anh đến, hai người nấu ăn tối vào những đêm họ định ngủ với nhau tại nhà.

Mở cửa trước ra, Matti bước vào trong một tiền sảnh nhỏ treo đầy ảnh đen trắng. Ảnh chồng lên nhau đến tận trần nhà.

…..

— Xin lỗi anh, đây là giới hạn của anh rồi.

Cửa phòng C.T.B.N. mở ra, người ta đẩy Mirian vào, rồi cửa đóng lại.

*

**

Điện thoại đã ngừng reo. Nhưng sự im lặng trong nhà lại càng làm tăng sự lo âu bồn chồn cho Faruk Kadumi. Hắn thu xếp hành lý để sẵn trong tiền sảnh, rồi hắn bít thùng thư để cho chẳng có ai dòm ngó đến hành lý của hắn. Thế rồi hắn lấy khẩu súng Browning trên tủ và vặn ống giảm thanh vào. Hắn nhét khẩu súng vào cái bao đeo bên hông, rồi ngồi xuống ghế ở phòng khách để đợi. Chỉ trong vòng mấy phút hắn đã hít hết phần ê te còn lại trong chai. Thế mà vẫn không giúp được gì.

Hắn cố nhớ lại tên Huấn luyện viên bắn súng nhỏ ở trại huấn luyện dã dạy hắn phải nắm súng thật chặt, gồng hai bắp chân lên và luôn luôn nhắm bằng hai con mắt mở to. Thế nhưng anh chàng ấy chưa bao giờ nói một ống giảm thanh đã làm cho phát súng nghe êm như thế nào.

Có tiếng gõ cửa, tiếng gõ nhẹ, rụt rè.

Faruk Kadumi cảm thấy chất ê te đã hết hiệu lực. Hắn đứng dậy, bước ra cửa. Tiếng gõ lại vang lên, lần này tiếp theo tiếng gõ là giọng nói nho nhỏ, khẩn trương :

— Effendi bảo tôi đến đây.

Faruk Kadumi mở cửa. Saleem Arish bước nhanh vào, hắn vội đóng cửa lại. Hắn ngập ngừng đứng lại ở tiền sảnh.

— Effendi đã gọi đến rồi phải không ?

— Không.

— Ông ta chắc sẽ gọi đến – Arish nhìn vào đống hành lý – Ông sắp đi à ?

— Vâng.

Arish thở dài : — Ước gì tôi cũng đi được.

Hắn bước vào phòng khách, nhìn quanh, rồi bước đến cửa sổ.

— Chỗ ở đẹp quá !

Arish quay nhìn lui. Bỗng hắn khựng người kinh ngạc. Faruk Kadumi vẫn đứng ở ngưỡng cửa, hai tay nắm chặt khẩu súng.

— Bước ra khỏi cửa sổ – Faruk Kadumi nói.

Arish mấp máy môi, nhưng hắn không thốt nên lời.

— Bước ! – Faruk Kadumi nói hết sức gay gắt.

— Tại sao vậy ? – Arish rán hỏi – Effendi sẽ làm cho ông..

— Bước !

Arish bèn bước đến phía Faruk Kadumi, hai tay dang ra như van xin. Faruk Kadumi bước lui ra ngoài tiền sảnh. Arish tiến đến, hai mắt nhìn thẳng tới trước. Hắn đứng ở ngưỡng cửa.

— Quay lại ! – Faruk ra lệnh.

— Xin ông, đừng…

— Quay lại !

Arish tuân lệnh.

— Xin ông – Hắn nói nho nhỏ – Tôi có tiền. Nhiều tiền…

Karuk Kadumi tiến đến, kê đầu ống giảm thanh vào gáy của Arish và kéo cò. Một tiếng kêu nho nhỏ phát ra. Arish ngã nhào trên tấm thảm. Hắn nằm yên.

Faruk Kadumi bước ngang qua tử thi, đi vào nhà bếp, để lại khẩu súng vào tủ. Rồi hắn mở cửa tủ lạnh ra. Cả một dãy chai nhỏ nằm ngay ngắn đã đông cứng lại. Đống chai này mà tan ra sẽ đủ sức gây nên mối kinh hoàng đền bù cho nỗi khiếp sợ hắn đã phải chịu đựng từ khi hắn bước chân đến cái xứ của bọn ngoại đạo này. Hắn đóng cửa tủ lạnh lại.

Rồi một lần nữa hắn bước qua xác của Arish, ra ngoài tiền sảnh, lấy hành lý lên. Hắn dừng lại lắng nghe tiếng động bên ngoài, rồi tháo chốt cửa, bước ra. Hắn đóng cửa lại, rồi bước đến thang máy. Một lát sau, hắn ra tới đường, gọi một chiếc taxi đến phi trường Heathrow.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.