Người dịch: Văn Hòa – Kim Thùy
Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên
Shared by: CCG –
Ngôi nhà bí mật ở trên đại lộ Foley đã được thay đổi kể từ khi Morton và Shema đến. Hai người từ Mortholt đến trên xe của Fuller.
Nửa tá kỹ thuật viên từ Tòa Đại sứ ở Luân Đôn đã được Morton điều động đến, họ thiết lập một hệ thống liên lạc với Tổng hành dinh của Hải quân Hoa Kỳ ở Ruislip, nằm ở phía tây, liên lạc với bộ chỉ huy Hạm đội Sáu ở Naples, và với Bộ Hải quân ở Washington. Từ khi Wolfie và Michelle trở về, một đường dây liên lạc nữa nối với những kỹ thuật viên ở Bộ Chỉ huy Tình báo ở Bắc Luân Đôn và Tổng hành dinh của họ đóng tại Cheltenham. Một đường dây vô tuyến riêng được thiết lập với tàu sân bay Independence. Chiếc tàu sân bay đang chạy hết tốc lực đến bờ biển Li Bi. Lại còn thiết lập nhiều đường dây liên lạc thường xuyên với Danny ở Tel Aviv, và với căn nhà của Matti.
Không khí hết sức khẩn trương. Mọi người khi đánh giá và kiểm tra tin tức qua điện thoại đều dùng mật mã với nhau. Trong lúc xe đưa mọi người về, Fuller đã hỏi Shema về những tên đánh bom khách sạn. Chị đã nói cho ông ta biết tên tuổi của chúng, miêu tả hình dạng của chúng, và ông đã báo cáo lại cho cơ quan Tình báo ở Yard biết, Bây giờ, trong một góc nhà, ông lại tiếp tục hỏi chị, lần này hỏi về những tên nằm vùng của Raza ở tại Anh.
— Hắn cần một mạng lưới để phân phát vi rút bệnh than B.C – Fuller nói. Giọng ông rất căng thẳng và nóng nảy.
Shema nhìn Morton. Bỗng ông mỉm cười với cả hai người; với Fuller, ông tỏ ra thông cảm cho nỗi căng thẳng của ông ta, còn về Shema, ông như động viên chị để chị tích cực ủng hộ ông.
— Nhiều người trong số này là sinh viên – Chị nói – Họ được tập đoàn tu sĩ trả lương. Hầu hết đều đến học ngôn ngữ.
Fuller liền tạm ngưng hỏi, ông nhấc điện thoại. Ông ra lệnh kiểm tra ngay những trường ngôn ngữ trong vùng có sinh viên Ả Rập học, bất kỳ sinh viên Ả Rập nào. Ông gác máy rồi lại quay qua Shema. Ông hỏi :
— Còn những ngôi nhà bí mật ? Thiết lập ở các chung cư, một phòng trên một cửa hàng phải không ? Hay ở đâu ?
Shema nhíu mày : — Tôi chỉ đến Luân Đôn có một lần.
— Cô ở đâu ?
— Ở Regent Palace.
Fuller tỏ ra thất vọng.
Shema nhắm mắt lại. — Khoan đã. Có một chỗ… tôi nhớ rồi… chỗ ấy ở trên đường ra phi trường. Khi tôi lên đường đi Geneva, tôi đã dừng lại đấy để lấy một phong thư….
Shema mở mắt ra nhìn Morton.
— Tôi xin lỗi. Ông David, Tôi không nhớ được tên đường.
— Có phải con đường chính không ? – Fuller hỏi. Ông ta nhìn Morton – Biết đâu nhờ may mắn ngôi nhà mật ấy còn đấy. – Ông quay qua Shema – Cô nhớ bên trong nhà trông ra sao ? Đồ đạc chẳng hạn ? Giấy dán tường hay màn treo ra sao ?
Shema lắc đầu : — Tôi không nhớ được.
Fuller thở dài.
— Mẹ kiếp, chúng tôi đều trông chờ vào cô cả – Ông ta cất cao giọng – Có hàng trăm ngàn người quanh đây đang sắp chết đấy !
— Tôi đang cố gắng nhớ đây – Shema bình tĩnh nói.
— Vậy hãy cố lên đi ! – Fuller nói nhanh – Có người đang giữ chất độc để biến thành phố này thành một hoang địa đấy. Tôi muốn thộp cổ hắn trước khi hắn hành động.
— Tất cả chúng ta đều muốn cả, Harry à – Morton dịu dàng nói.
Fuller nhướng cặp mắt mệt mỏi nhìn Shema. — Tôi xin lỗi.
— Cô hành động tuyệt lắm, Shema à – Morton nói, Wolfie đang đứng bên cạnh một kỹ thuật viên, đưa tay vẫy ông. Khi Morton bước đến, anh phân trần :
— Người bên Bộ chỉ huy Tình báo đấy. Họ đã tìm ra được số nhà của Effendi. Đấy là một căn nhà ở Harrow – Trên đồi. Họ đã bao vây nhà.
— Không ai đến gần hết nếu không có lệnh tôi – Morton ra lệnh.
Wolfie cười, đáp :
— Tôi đã dặn dò rồi.
Michelle từ nơi một máy hiện hình kê ở phòng khách quay lại nói.
— Cheltenham cho biết có một trong những bức fax đánh vào là từ Li Bi. Một bức khác từ đâu đó giữa Mexico City và Panama. Họ đã thu hẹp khu vực nhận fax ở khoảng giữa Hammersmith và đường Great West.
Morton đã bước nhanh về chỗ Shema. — Có phải con đường Great West không ? Đúng con đường ấy à ?
Shema lại nhắm lại. Sau một hồi lâu, chị mở ra rồi đáp :
— Đúng. Có một khu nhà chung cư. Chúng tôi không đậu xe được. Cho nên tôi phải đi bộ.
— Cô cố gắng nhớ đi – Morton thúc – Cô đi bộ bao xa ? Cô đi qua cái gì ? Nhà hàng ư ? Có một quán rượu à ?
Chị lắc đầu. — Tôi xin lỗi. Đã ba năm rồi.
Morton quay qua Fuller : — Cho nhân viên của anh đến con đường ấy ngay. Vào từng nhà vào từng phòng. Nói với họ đi tìm máy fax, và kiểm tra tất cả các tủ lạnh. Và nếu tìm ra chai nước hoa nào, thì đừng đụng tay vào.
Quay qua Shema, ông nói: — Tôi sẽ đưa cô đến con đường ấy. Khi cô thấy lại, biết đâu cô sẽ nhớ ra.
*
**
Faruk Kadumi thấy dấu hiệu an ninh rất nghiêm ngặt ở khu đưa đón khách ở phi trường. Những cảnh sát vũ trang từng cặp đi tuần tra, người nào cũng bồng súng UZI. Hành lý của hắn đã kiểm tra nên hắn yên tâm. Chưa đầy một giờ nữa là hắn đã đáp máy bay đi Paris. Khi đến đấy rồi, hắn sẽ suy tính kỹ càng hơn, hắn sẽ gọi về Li Bi để tìm hiểu lý do tại sao hắn phải sang Mỹ. Trong lúc ấy, hắn sẽ đến xin phép Sở Di trú . Raza có lần đã nói khi ở trong khu vực xuất phát rồi thì không còn có đường ra nữa, chỉ đợi chuyến bay cất cánh nữa mà thôi.
Faruk Kadumi cứ bước mãi trước một dãy điện thoại dọc theo một bức tường. Hắn cứ nấn ná không muốn gọi cho Effendi. Nhưng cũng phải gọi thôi.
*
**
Nửa giờ trôi qua. Trong thời gian này, ở Tel Aviv, Chantal đã thay chỗ cho Danny. Danny hiện đang bay về Nam, hướng đến Ai Cập trong môt chiếc Hai-12 dẫn đầu. Có mười bốn biệt kích đi theo ông. Bám sát theo sau là năm chiếc trực thăng khác, mỗi chiếc cũng chở từng ấy người.
— Người Ai Cập đã thiết lập một trạm dừng để lấy thêm nhiên liệu ở El Alamein – Chantal nói trên điện thoại – Họ lại còn cung cấp một máy bay chiến đấu hộ tống trên đường đến tàu sân bay Independence.
— Phải cám ơn họ cho đích đáng nhé – Morton nói.
— Đích thân Thủ tướng Karshov đã gọi đến Cairo cám ơn rồi – Chantal nói – Nhưng liệu tám mươi bốn có đủ không ?
— Ở vụ Entebbe, chúng ta có ít người hơn số này mà. Chúng ta cần yếu tố bất ngờ thôi. Tôi cũng sẽ phái thêm quân của Moeshe đến yểm trợ thêm.
Đằng sau ông, một kỹ thuật viên nói gì đó với Wolfie. Bên kia phòng, Fuller đang nói với chiếc xe tuần tra đang chở Shema chạy theo đường Great West.
— Họ đã gọi đến báo cho ông đại tá rồi đấy – Chantal nói tiếp – Sau vài câu la lối ỏm tỏi, ông ta vui vẻ lại rồi. Chắc khi yên hàn vô sự rồi, thế nào Appleton cũng gọi đến cho ông ta để hứa hẹn mời đến Tòa Nhà Trắng đấy.
Morton lầu bầu hỏi : — Mạng lưới kiểm soát vùng Tripoli ra sao rồi, Chantal ?
— Đã xong xuôi một giờ rồi. Đã có một chiếc K.12 của NSA và chiếc Watchboy. Lại còn có sự giúp đỡ của tàu Independence nữa. Ông đại tá có nói chuyện vắn tắt với Raza đấy, chúng tôi đã nghe được.
— David! – Wolfie gọi gấp – Chúng tôi mới phát hiện một chuyện ở Heathrow. Có một cuộc gọi đến nhà của Effendi.
Morton gác điện thoại, bước vội đến Wolfie : — Cái gì thế ?
Wolfie nhìn vào một tập giấy ghi chú – “Hàng đã được bàn giao”. Một giọng Ả Rập, đàn ông và có học. Tuổi trung niên.
— Effendi có nói gì không ?
Wolfie cười lớn.
— Không. Nhưng hắn cứ giữ điện thoại và lặp lại lời nhắn “nhận và giao”. Chắc là chúng sẽ gọi lại nữa đấy.
— Chúng có để lộ ra cuộc gọi xuất phát ở đâu tại phi trường không ?
— Ở trạm Hai, bên tầng trệt. Có thể hắn đi từ trạm Một hay trạm Ba đến đây gọi rồi đi lui lại. Hay có thể hắn đi xe chở khách đến trạm Bốn luôn.
Morton lắc đầu.
— Xem hắn có vẻ nôn nóng đây, Wolfĩe. Nghe cái tin thì biết. Tuồng như hắn sợ bị theo dõi. Kẻ như thế này thường muốn đứng gần ở điểm khởi hành lắm. Cho người ra trạm Hai trong vòng ba mươi phút sắp đến được không ?
Michelle gõ thật nhanh lên máy hiện hình VDU. Một bản sao kế hoạch khởi hành các chuyến bay xuất hiện lên màn hình.
— Có hai chuyến bay thuê riêng – Michelle nói.
— Hắn đi các chuyến theo kế hoạch chung – Morton cắt ngang.
— Có một chiếc Lufthansa đi Hamburg, chiếc Iberia đi Barcelona và Malaga, hàng không Tunisie… – Michelle nói tiếp.
— Cho tôi những danh sách hành khách đi máy bay, – Morton nói với Wolfie. Anh đứng sau Michelle nhìn những con số chuyến bay lần lượt xuất hiện trên màn hình – Cho danh sách hành khách đáp chiếc KIM đi Amsterdam, chiếc hàng không Thụy Sĩ đi Geneva và chiếc hàng không Pháp đi Nice và Paris.
Wolfie chưa thi hành liền, vì anh đang bận nghe điện thoại.
Morton nhìn ra cửa. Shema đã về. Chị lắc đầu. Ông cười với chị để che giấu sự thất vọng, rồi quay qua với những người đang bình tĩnh nói chuyện với đối tác của họ ở Israel, Italy, ở Hoa Kỳ và trên tàu Independence.
Hành khách đi chuyến hàng không Pháp 619 đi Paris trải qua thủ tục an ninh lần cuối cùng trước khi máy bay cất cánh, do nhân viên an ninh Chi Đặc biệt phụ trách đang đứng bên cạnh bàn của nhân viên kiểm tra ở phòng chuẩn bi lên tàu. Faruk Kadumi láu lỉnh mỉm cười chào. Người sĩ quan an ninh gật đầu vui vẻ, rồi đưa mắt nhìn người đi sau đó.
Faruk Kadumi ngồi vào chỗ trong phòng đợi.
*
**
Morton đứng bên cạnh máy fax với Shema, nhìn danh sách hành khách đi chuyến hàng không Tunisie hiện ra. Họ lướt nhìn danh sách. Shema lắc đầu. Morton đưa tờ giấy cho một người kỹ thuật viên, ra lệnh anh chuyển về máy vi tính của Finel.
Danh sách khác lại hiện ra.
*
**
Chiếc AF 619 nhích lui khỏi bãi đậu rồi len lỏi qua những con đường nhỏ, cuối cùng ra ngoài phi đạo.
Buộc dây thắt lưng ở chỗ ngồi vào xong, Faruk Kadumi nhìn qua cửa sổ. Hắn cảm thấy máy rú lên, rồi chiếc Airbus chạy nhanh theo phi đạo.
*
**
Chờ đến nửa tờ danh sách di chuyển AF 619 lòi ra khỏi máy, Shema mới nắm lấy tay của Morton lắc lắc:
— Hắn đấy !
Chị đưa tay chỉ tên Faruk Kadumi.
— Hắn là ai thế ?
— Một bác sĩ. Hắn chữa bịnh cho cảm tử quân của Raza.
Morton gọi Fuller.
– Chúng ta có một mục tiêu quan trọng trên chuyến bay đi Paris. Có gọi giữ lại máy bay được không ? Chiếc này của Hàng không Pháp 619.
— Để tôi xem thử – Fuller ngần ngại nói – Nhưng đây là máy bay Pháp, chúng ta phải sang Paris mới được. Có lẽ cũng sắp hạ rồi.
Morton nhấc cái điện thoại gần nhất, ông bấm số : — Pierre phải không ?
— Vâng có gì thế ?
Morton nói cho Lacouste nghe hết tình thế.
Năm mươi lăm phút sau, chiếc AF 619 hạ cánh ở Paris – Orly. Mười phút sau, máy bay đáp bến. Phải mất hơn ba mươi phút nữa, hành lý của Faruk Kadumi hiện ra cho hắn để Hải quan kiểm soát.
Khi hắn bước đến cửa ra, có hai người đàn ông xuất hiện hai bên. Người lớn tuổi, mặc bộ cômlê giản dị, tự giới thiệu :
— Chúng tôi là cảnh sát, thưa ông bác sĩ. Xin vui lòng đi lối này.
Với kinh nghiệm dạn dày, họ lấy hành lý của hắn, rồi hai người hai bên nắm nhẹ lấy cánh tay của hắn.
Chuyên xảy ra không lọt khỏi mắt của một người phụ trách hành lý của khách. Hắn ta đã được lệnh tìm Faruk Kadumi để đưa cho hắn vé đi New York. Người phụ trách hành lý gọi điện cho Marcel Balot ở Marseilles. Anh chàng người Corse này fax đến tòa nhà ở Li Bi. Nadine lại chuyển lời nhắn đến cho ngôi nhà mật của tập đoàn tu sĩ Hồi giáo ở Mexico City.
Khi Raza đã đi rồi, anh chàng giúp việc làm theo lời hắn dặn. Anh ta nhắc lời nhắn đến cho Nuri ở Sweetmont.
Nhận thấy việc Faruk Kadumi bị bắt sẽ có ảnh hưởng rất lớn, Nuri liền fax đến văn phòng của vị lãnh đạo Hồi giáo Muzwaz. Ở đây lại nhắn lời fax đến Balot, ra lệnh cho tên này tìm cách để cứu cho được Faruk Kadumi. Văn phòng chịu chi trả một triệu quan Pháp để thực hiện việc này.
Thời gian trôi qua từ khi hai người phụ trách hành lý gọi cho đến khi đề nghị này đưa ra mất mười lăm phút.
Năm phút sau, chiếc Concorde hiện ra khỏi bầu trời ảm đạm, hạ cánh xuống phi trường Charles de Gaulle với Morton, Wolfie, Michelle và Shema.
Trong suốt chuyến bay ngắn ngủi này, lực lượng của Danny đã báo cho Morton biết họ đã đến El Alamein, và chiếc tàu Independence cũng đã đến vị trí. Cơ quan CIA đã gởi những toán tình báo vào Mexico City và Panama để tìm Raza. Tại Tel Aviv, công việc tìm hiểu cái máy chuyển tiếp đã bắt đầu. Tại Sweetmont, công việc kiểm soát khu bất động sản của Harmoos cũng tiến hành.
Tình trạng Mirian không có gì thay đổi. Khi Matti nói với ông, anh không biết nói sao.
Khi Morton bước ra khỏi ca bin máy bay thì đã thấy Lacouste đang đứng đợi ở dưới chân cầu thang. Ông dặn dò những người kia ở lại trên máy bay để chuẩn bị cho một đêm trường trước mắt. Viên phi công đã thảo xong kế hoạch bay đi Malta.
— Chuyện ra sao rồi ? – Morton vừa hỏi vừa bước xuống sân bay.
Lacouste xòe hai bàn tay.
— Chúng tôi đang giam lỏng hắn.
Hai người bước đến chiếc Citroen đã có tài xế ngồi sẵn.
— Khi nào thì bọn cảm tử quân ra đi ? – Morton hỏi, chiếc xe vọt đi, ra một cánh cổng thuộc địa phận của an ninh.
Lacouste cười chua chát.
— Tám giờ tối nay. Hàng không Pháp đảm trách công việc chuyên chở. Họ sợ người của các ông ra tay, cho nên chúng tôi phải cho một đoàn hộ tống chiếc máy bay.
Chiếc xe ra khỏi phi trường, chạy theo một con đường quanh phi trường. Morton nói :
— Thế vẫn không ngăn được chúng tôi đâu.
Ông nhìn ra cửa. Đã đến giờ xe cộ đông đúc rồi. Người tài xế lấy một ngọn đèn nháy của cảnh sát ở dưới thùng đồng hồ của xe, anh thò tay ra cửa, cắm ngọn đèn vào mui xe. Khi chiếc Citroen chạy vào con đường khẩn cấp, ngọn đèn hiệu màu xanh xoay vòng để giành quyền ưu tiên trên đường.
— Ông bác sĩ tâm thần của anh ra sao ? – Morton hỏi.
— Thì cũng như mọi khi, vẫn là hắn bị kích động quá, cảm xúc bị dồn nén quá.
Lacouste liếc nhìn Morton.
— Ông ta mong có nhiều thì giờ hơn, David à. Khoảng hai ngày trong phòng ấy, ông bác sĩ tâm thần này sẽ gợi cho Kadumi nhớ lại những gì hắn đã quên.
Morton thở dài khi nghe nói vậy. Ông nói : — Chắc chắn là chúng tôi không có thi giờ rồi.
Họ im lặng khi xe chạy trên đoạn đường đến tòa nhà giăng đầy ăngten trời ở vùng phụ cận Paris ở Tournelles, chạy đến bộ chỉ huy của các cơ quan lưu trữ hồ sơ và phản gián. Hầu hết những người làm việc ở đây đều gọi nơi này là Bể Bơi, vì nó nằm gần những hồ bơi công cộng.
Khi họ bước ra khỏi cầu thang dẫn xuống tầng hầm thì vị bác sĩ tâm thần đang đứng đợi. Ông ta cười theo lối Trung Hoa, những nếp nhăn quanh hai khóe mắt hằn sâu rõ nét – Ông ta cúi chào kiểu cách :
— Giáo sư Wang – Ông ta giới thiệu nho nhỏ bằng tiếng Anh khá chỉnh – Tôi rất hân hạnh được gặp ông. Xin ngài theo tôi vào.
Người Trung Hoa quay lại, dẫn họ vào một văn phòng nhỏ, bừa bộn. Trong phòng phảng phất mùi thuốc ; Morton nhìn qua một cánh cửa hé mở, ông thấy một kho thuốc.
— Tài liệu từ Tel Aviv gởi qua có giúp gì cho ông không, thưa giáo sư – Morton hỏi, ông tựa lưng vào tường. Trước khi rời khỏi Luân Đôn, ông đã yêu cầu Chantal thu thập những tài liệu nói về cá tính của bọn khủng bố rồi gởi sang.
Giáo sư Wang thở dài.
— Hắn ta không thuộc vào những loại đó. Hắn lớn tuổi hơn, phức tạp hơn nhiều. Hắn lại là bác sĩ.
Ông ta quay sang bàn làm việc, lấy lên một tập hồ sơ :
— Tôi đã suy nghĩ kỹ và xếp hắn vào loại “nghi ngờ bị điên loạn” vì thấy hắn bị rối loạn cảm xúc.
— Cũng chưa phân biệt được rõ ràng – Lacouste vui vẻ đáp.
Giáo sư trang trọng gật đầu. Ông ta đưa hồ sơ cho Morton, rồi nói nho nhỏ : — Một bác sĩ phẫu thuật… thật đáng buồn.
— Hắn đã lựa chọn mà, thưa giáo sư – Morton nói, ông nhìn vào một vài chi tiết do mật vụ Pháp thu thập về Faruk Kadumi. Ông đưa lại tập Hồ sơ cho ông giáo sư.
— Bao lâu nữa tôi mới được gặp hắn ?
— Ngay bây giờ, nào, mời ông.
Ông giáo sư dẫn họ ra ngoài văn phòng, đi dọc theo hành lang. Đến cuối hành lang, ông ta mở một cánh cửa. Bên trong lại có hai cánh cửa nữa ráp vào tường. Ông ta mở một cánh.
— Đây là phòng “kiểm soát” – Ông ta giải thích, vừa chỉ cái máy lớn cao bằng chiếc bàn kê ở giữa phòng. Một ô vuông để quan sát gắn vào một bức tường – Hắn không thấy hay là không nghe chúng ta được – Ông ta ra dấu cho Morton và Lacouste theo ông ta đến ô vuông.
Bên kia ô vuông là phòng giam, Faruk Kadnmi quấn một cái chăn quanh vai cho khỏi lạnh.
— Việc kiểm soát những hiện tượng kích thích lên cơ thể là rất quan trọng – Ông giáo sư nói tiếp – Sự thay đổi nhiệt độ làm suy yếu sức đề kháng đi. Ngay bây giờ chắc hắn cảm thấy như đang ở trong tủ lạnh. Các ông nhìn kìa.
Ông giáo sư quay lui, bước đến cái tủ máy. Ông ta bấm nhiều nút rồi kiểm tra kim chỉ trên các mặt đồng hồ. Vừa ý rồi, ông ta bước đến đứng với Morton và Lacouste.
Và họ thấy hơi thở Faruk Kadumi hổn hển bốc hơi khi hắn loạng choạng bước đến cửa phòng giam và đưa hai tay đấm vào cánh cửa sắt lạnh ngắt, hắn rên rỉ xin được thả ra. Thế rồi, quấn chặt người trong tấm chăn, hắn lăn xuống tấm nệm, người run lên và thổn thức khóc.
Có tiếng chuông báo động reo lên nơi thùng máy. Giáo sư Wang đến chỉnh lại cho nhiệt độ được mát. Rồi ông ta nói : — Nào, chúng ta đợi ở văn phòng của tôi. Không lâu đâu.
*
**
Trong phòng giam, khí lạnh được thay thế bằng hơi nóng như lò lửa không chịu được. Mồ hôi ướt đẫm cả người Faruk Fadumi. Hơi nóng như toát ra từ trong tường và nền nhà, môi và cuống họng khô khốc. Phòng giam trở nên tối hơn, chỉ một ngọn đèn nhỏ trên trần nhà tỏa ánh sáng mờ mờ mà thôi.
Có cái gì đang xảy ra trên đầu hắn ; tiếng kêu vo ve khắp phòng giam ? Faruk Kadumi sợ sệt nhìn lên ánh sáng lờ mờ. Trên trần nhà có những lỗ mở ra. Rồi bỗng ánh sáng chói chang chiếu vào đầu hắn, làm cho đầu nóng ran. Hắn cảm thấy hai mi mắt khô cứng lại. Rồi ánh sáng chói chang kinh khủng ấy tắt đi thình lình như khi nó sáng lên.
Trong ánh sáng lờ mờ, cơn nóng lại càng lúc càng tăng lên.
*
**
Khi điện thoại trong văn phòng reo lên, mọi người đều im lặng. Ông giáo sư nghe điện thoại rồi đưa cho Lacouste. Vừa nghe, mặt ông ta sa sầm lại.
— Plastích à ? – Ông hỏi – Bao nhiêu ? – Ông ta để điện thoại xuống.
— Chúng bắt đầu lại. Mấy quả bom nhỏ nổ ở Cảng nhỏ và điện St. Michel – ông ta vui mừng nói tiếp – Lạy Chúa, không ai chết hết. Lần này chắc chúng chỉ cảnh cáo thôi.
— Có lẽ để lưu ý chính phủ của anh đừng đổi ý đây, Pierre à.
— Họ đã chuyển bọn cảm tử quân ra phi trường rồi . – Lacouste nói.
Vị giáo sư đưa tay xem đồng hồ.
— Hắn sẵn sàng được rồi đấy – Ông ta nói, giọng nhẹ nhàng khiến cho Morton nhớ đến một người làm nghề tống táng ông đã gặp ở Hồng Kông.
Ông nói với ông giáo sư những gì ông cần đến.
— Tôi cần hai người đàn ông lực lưỡng – Morton nói với Lacouste.
Trong lúc ông giáo sư đi vào phòng thuốc. Lacouste gọi điện thoại. Trong khi đứng đợi, Morton đọc lại hồ sơ của Faruk Kadumi. Khi hai thám tử lực lưỡng đến, Morton dặn dò họ công việc. Lặng lẽ, ông dẫn họ ra khỏi văn phòng.
Sau khi đến phòng kiểm soát để chỉnh lại ánh sáng bình thường ở trong phòng giam, ông giáo sư mở cửa.
Khi Morton và những người khác bước vào, một làn không khí lạnh phả vào người họ. Họ đứng hàng dọc theo một bức tường, không nói năng gì, chỉ nhìn vào con người áo quần xốc xếch, tóc tai bờm xờm tội nghiệp đang nằm trên tấm nệm.
— Xin chào bác sĩ Kadumi – Morton nói bằng tiếng Ả Rập, ông bước tới trước – Ông biết tại sao ông ở đây không ?
Faruk Kadumi nhìn ông kinh ngạc vô cùng. Hắn hỏi: — Ông biết tôi à ?
Morton gật đầu đáp :
— Tôi biết hết về ông. Effendi nói cho tôi biết. Tôi biết chuyện về ông với Arish.
Faruk Kadumi mải nhìn ông, mồm há hốc.
— Ông là ai ?
Lại một lần nữa Morton tảng lờ như không nghe.
— Tôi biết về những chai nước hoa – Ông nói tiếp bằng giọng đều đều, chắc nịch, như là ông đang kể lại những gi đã rành rành ra đấy rồi – Raza đã thất bại rồi – ông nói tiếp – Ông cũng thất bại rồi.
Morton bước đến gần hơn, tính toán khoảng cách giữa sự chế ngự và sự đe dọa.
— Tôi không biết ông đang nói gì – Faruk Kadumi nói, hắn cố ngồi dậy.
— Ông biết chứ! Tôi đã biết về những bức fax của ông. Về những gì đã xảy ra cho cô gái ở Athens. Và Lila nữa – Morton lại nói – Ông đã bị nhiều người phản bội rồi.
— Không ! – Faruk Kadumi hét toáng lên trong phòng giam – Không ! Ông nói láo ! ông là một tên Do Thái ! Một tên phục quốc Do Thái gớm ghiếc đang cố bẫy tôi !
Morton nhìn hắn một cách lạnh nhạt.
— Ông có trả lời tôi không ?
— Không ! Không bao giờ !
— Được rồi.
Morton quay lại những người khác rồi gật đầu. Hai thám tử bước đến, bẻ quặt tay Faruk Kadumi đè xuống nệm. Vị giáo sư lấy trong túi ra một ống kim tiêm và một cái chai nhỏ, nút chai đóng rất kỹ lưỡng. Ông ta lấy cái nắp đậy kim ra rồi chích kim qua nút vào trong chai, hút ra một lượng chất lỏng trong veo.
— Chúng tôi đã tìm ra cái này ở Athens – Morton nói với Faruk Kadumi – Trong này còn đủ vi rút bệnh than B.C. để giết hàng trăm người. Ông sẽ được chích thứ này vào người và để cho chết ở đây.
Vị giáo sư bước đến bên giường cầm ống tiêm dốc đứng lên như thể không muốn để mất giọt nào hết.
— Không ! – Faruk Kadumi la lên, cố vùng khỏi tay hai thám tử. Họ đè đầu hắn xuống nệm, quay mặt lên để nhìn thẳng Morton.
Bỗng trong phòng có mùi nước tiểu xông lên vì Faruk Kadumi không kiềm chế được, đã tè ra quần.
Morton cúi người xuống bên giường. — Bác sĩ Kadumi, tôi phải thông báo cho ông biết một số sự thực – Morton nói bằng giọng có vẻ buồn và thương xót. – Không ai biết ông ở đây hết. Ông vừa biến khỏi mọi người. Không ai có thể ngăn được những gì sẽ xảy đến cho ông được hết.
Morton cứ cúi người như thế một hồi lâu, nhìn sát vào mặt Faruk Kadumi làm như ông muốn nhìn kỹ cho nhớ.
Vị giáo sư đứng sau lưng ông, ống tiêm sẵn sàng.
— Chích đi – Morton bỗng đột ngột nói, ngẩng người lên một cách nhanh nhẹn, cương quyết.
— Không ! Các ông muốn biết cái gì ? – Faruk Kadumi la lên – Làm ơn, đừng làm thế ! Làm ơn, ôi, xin đừng…
Hắn bèn khóc nức nở. Những người khác lặng lẽ nhìn nhau, rồi nhìn Morton. Hắn hậm hực nhìn xuống giường.
— Nói sự thực đi, bác sĩ Kadumi – Morton nhẹ nhàng nói – Tôi muốn biết sự thực – Ông có hiểu không ?
Sau một hồi, hắn ngừng khóc, rồi hắn nhẹ gật đầu.
— Thế là rất tốt. Ở Luân Đôn, ông ở đâu ? – Morton hỏi.
Khi nghe xong, Lacouste bước ra ngoài phòng, gọi cho Fuller.
*
**
Họ trải qua với nhau suốt một giờ. Chỉ có dừng lại để cho các thám tử theo Faruk Kadumi vào toa lét, trong toa lét họ canh chừng hắn thay quần lót do ông giáo sư lén đưa cho. Ông giáo sư cũng chỉnh lại nhiệt độ trong phòng giam để cho mọi người được dễ chịu hơn. Sau đó, ông bác sĩ tâm thần đem đổ nước cất ở trong ống tiêm đi.
Faruk Kadumi đành nghiến răng chấp nhận thôi. Con người này đã biết hết rồi. Anh ta biết hết. Cứ nghe cái giọng nói tàn nhẫn, tự tin như thế kia thì đủ biết rồi.
Để cho nhanh, Morton gật đầu ra dấu cho hai anh thám tử và ông giáo sư ra khỏi phòng giam. Ông nghe tiếng bước chân đi lui đi tới bồn chồn ở bên ngoài cánh cửa mở rộng.
Lần lượt nêu ra những câu hỏi mạch lạc, ông đã nhanh chóng khám phá ra đầy đủ chi tiết về vi rút bệnh than B.C đã được chuẩn bị ra sao và ở đâu. Ông bảo Faruk Kadumi miêu tả bên trong cái pháo đài dưới cát và việc liên lạc giữa hầm này với ngôi nhà. Ông lấy làm hài lòng khi thấy việc miêu tả của hắn giống với việc miêu tả của Shema. Ông bảo Faruk nói đầy đủ thời gian hắn ở Luân Đôn cho đến lúc hắn bắn chết Arish.
— Tôi phải giết hắn – Faruk Kadumi nói nho nhỏ.
Morton gật đầu. Không cần nữa rồi. Bây giờ thì khỏi cần.
— Bọn đến lấy hàng là ai thế ?
— Tôi không biết.
Một lần nữa, Morton quay lại chuyện những chai nước hoa.
— Anh chuẩn bị được bao nhiêu chai ở Li Bi.
— Một trăm.
— Và mấy cô gái Hy Lạp mang hết đi Athens à ?
— Vâng. Chỉ trừ một chai Lila đem đi Trekfontein.
— Chất lượng chai ấy cũng như những chai khác à ?
Faruk Kadumi gật đầu.
Morton dừng lại, tính toán. Một chai ở Nam Phi, ba chai ở nước Anh, ít ra là một chai ở Hoa Kỳ. Thế là còn đến chín mươi lăm chai chưa tính đến. Bao nhiêu chai bị hủy trong vụ cháy xe dầu ? Dựa trên những thiệt hại xảy ra ở Trekfontein, số vi rút bệnh than còn lại sẽ tiêu diệt cũng gần như triệu người là ít.
— Anh sẽ nhận thêm bao nhiêu chai nữa ?
— Tôi chưa biết.
— Còn các mục tiêu để rải ở đâu ?
Faruk Kadumi lại lắc đầu : — Tôi không được họ cho biết.
Morton nhìn ra cửa. Lacouste đến rồi lại đi.
— Tại sao anh lại đi Hoa Kỳ ?
— Họ cũng chưa cho tôi biết.
— Có phải anh sẽ đến Sweetmont không ?
Faruk Kadumi mệt mỏi nhìn ông, hắn hỏi : — Ở đâu ?
Morton bước tới gần hắn :
— Rachie Harmoos. Anh đã nghe nói về hắn chưa ?
Faruk Kadumi lại lắc đầu.
— Dĩ nhiên là tôi biết hắn. Nhưng tôi không biết hắn có dính dáng gì đến chuyện này không.
— Còn tên Lãnh đạo Hồi giáo Muzwaz thì sao ? Hắn ta chỉ chi tiền thôi sao ?
— Tôi không biết.
Morton nhìn hắn chằm chằm. Faruk Kadumi đã nói sự thật đấy. Cho nên ông đã cố che giấu sự thất vọng của mình.
— David – Lacouste trở lại trước cửa, vẫy tay ra dấu.
Ông ta giận tái mặt, tay cầm một tờ giấy. Khi Morton bước ra cửa gặp ông ta, Lacouste nói nho nhỏ, giọng bực tức :
— Ngưng lại ngay !
— Cái gì thế ?
— Hắn được thả rồi. Nhìn đây xem ! – Ông ta nhìn tờ giấy ra cho Morton xem – Lệnh thả do chính Bộ trưởng Tư pháp ký.
Morton nhìn tờ giấy.
— Tại sao thế này, Pierre ? – Ông trả tờ giấy lệnh cho Lacouste.
— Có điện thoại gọi đến văn phòng Tổng thống cho biết nếu không thả hắn ra, bom sẽ nổ nhiều nơi. Tổng thống vội vã ra lệnh cho hắn đi với bọn cảm tử quân luôn. Đã có xe đến đón hắn.
Lacouste nhìn về phía hai thám tử. Ông ta ra lệnh cho họ áp tải Faruk Kadumi ra phi trường Charles de Gaulle. Ông ta quay qua Morton :
— Xin lỗi, David. Tôi chỉ hy vọng ông đã có thì giờ thu thập được nhiều điều rồi. Thực tôi không xấu hổ về chuyện này.
Morton nhìn ông ta, đáp : — Đừng trách mình thế, Pierre.
*
**
Chín mươi phút sau, Morton và Shema ngồi chồm hổm trước một chiếc xe tải cảnh sát đậu bên trong hàng rào cảnh sát dày đặc bao quanh chiếc 747 của hàng không Pháp đang đậu trên sân bay Charles de Gaulle. Khi trên đường ra phi trường, Morton đã dừng lại một lát tại nhà hàng chuyên môn bán hàng đặc biệt do Lacouste báo trước rồi.
— Hãy nhớ từng đứa – Morton nói, khi nhóm cảm tử quân bước ra khỏi ôtô để bước lên cầu thang máy bay. Trước khi vào trong máy bay mỗi đứa đều giơ tay chào theo quy cách của chúng. Chỉ có Faruk Kadumi vội vã bước lên máy bay mà chẳng có ai thèm hoan hô chào đón.
Khi chiếc máy bay chuyển bánh, Morton hướng dẫn người tài xế xe tải lái họ sang tận cuối phi trường, qua khỏi một hàng rào an ninh-nữa, để đến chiếc Concorde đang đợi họ.
Sau khi đã lên máy bay, Morton đưa cho Shema một cặp dao phóng mà ông đã mua nơi cửa hàng.