Cốc Chẩn cười nói: “Câu này của Doanh gia gia, có ý là xơi chắc ta rồi?”.
“Không có quạt Ba Tiêu, dám qua Hỏa Diệm Sơn sao?”. Doanh Vạn Thành hềnh hệch cười nói: “Nếu như ngươi có hận, thì hận bản thân ngươi không chuyên tâm luyện võ. Nếu ngươi có một nửa bản lãnh của Cốc Thần Thông, thì bộ xương già này của gia gia, há dám tự đưa đến cổng để bị bẻ gẫy sao?”
Cốc Chẩn nói: “Thần thông Quy Kính của Doanh gia gia, ta trước nay vẫn bội phục, nhớ năm xưa khi ta thử tuổi 4…”. Còn chưa nói hết câu, Doanh Vạn Thành đã hừ lạnh một tiếng, chặn lời: “Chuyện đã qua nhiều năm, còn có gì để mà nói chứ?”.
Cốc Chẩn cười nói: “Việc thú vị như vậy, bằng hữu của ta còn chưa nghe qua kìa. Lục Tiệm, ngươi có muốn nghe không”. Lục Tiệm cười đáp: “Chuyện hồi nhỏ của ngươi sao? Kể ra nghe xem”. Doanh Vạn Thành hừ một tiếng, khuôn mặt già nua u ám.
Cốc Chẩn uống một bát rượu, thong thả cười nói: “Khi đó ta mới sinh ra chưa được bao lâu, cha ta vứt nhiều đồ vật cho ta chộp, nói là chộp được cái gì, sau này nhất định có duyên với đồ vật đó, ví như cầm bút thì học văn, cầm đao thì học võ. Nhưng vị Doanh gia gia này lại biết một bản lĩnh lợi hại, có tên là Quy Kính, không những có thể đoán được tâm tư của đối thủ, mà đến tâm tư cua trẻ con, y cũng có thể đoán được. Khi ấy y đánh cuộc với cha ta, nói ta nhất định chộp bàn tính, vật cược là một trăm lượng hoàng kim, có đúng vậy không, Doanh gia gia?”
Doanh Vạn Thành bực tức, nói: “Vậy thì sao, chẳng lẽ ngươi không chộp bàn tính sao?” Cốc Chẩn cười nói: “Ta có chộp bàn tính, cho nên nói thần thông Quy Kính của Doanh gia gia, không phải là khoác lác. Nhưng mà, một trăm lượng hoàng kim là ai thắng?”.
Cơ mặt của Doanh Vạn Thành co rút một lúc, lộ ra vẻ đau lòng, cáu giận nói:
“Là cha ngươi thắng”.
Cốc Chẩn cười nói: “Lục Tiệm, ngươi đoán xem, tại sao rõ ràng là Doanh gia gia đoán trúng bàn tính, nhưng lại thua cuộc?”. Lục Tiệm nghĩ một hồi, lắc đầu cười nói: “Ta không đoán ra được”.
“Cái này rất là đơn giản”, Cốc Chẩn nói: “Bởi vì y chỉ đoán trúng có một nửa”.
Lục Tiệm kinh ngạc hỏi: “Tại sao lại nói như vậy?”. Cốc Chẩn nói: “Đứa trẻ bình thường, đều là một tay thử tuổi, nhưng ta thì hai tay cùng chộp, tay phải chộp bàn tính, tay trái thì chộp một chiếc thuyền gỗ đồ chơi; mà hai tay còn không phân biệt trước sau chộp đồ, theo cái lý bình thường thì Doanh gia gia chỉ đoán trúng một nửa, thua mất một trăm lượng vàng”.
Doanh Vạn Thành nghe đến bực bội, dậm trúc trượng một cái, quát: “Việc nhỏ con ngày trước, cũng đem ra tự khoe”.
“Doanh gia gia hiểu sai rồi!”. Cốc Chẩn lành lạnh cười một cái, mục quang sáng rực:
“Ta nói cái chuyện này, không phải là kể lại kỷ niệm xưa. Mà là muốn gia gia biết, bắt từ ngày hôm đó, ta chính là khắc tinh của Kim Quy Doanh Vạn Thành gia gia. Trừ khi vừa gặp mặt gia gia liền giết ta, bằng không nhất định sẽ gặp rủi ro”.
Đôi mắt già nua của Doanh Vạn Thành híp lại, quan sát Cốc Chẩn một hồi, hì hì cười nói: “Gia gia già rồi, không uống được rượu, không ăn được thịt, cho dù nhìn nữ nhân xinh đẹp, cũng hoàn toàn không có hứng thú, chỉ riêng thích một số vật trắng vàng, những thứ này ngươi có rất nhiều, gia gia thích ngươi còn không kịp, sao lại nỡ lòng giết ngươi chứ?”.
Cốc Chẩn lành lạnh nói: “Ngươi cần bao nhiêu?”.
“Gia gia là người không tham lam”. Doanh Vạn Thành thở dài nói: “Vạn lượng hoàng kim, mười hộc minh châu gì đó, gia gia đều không cần. Gia gia chỉ cần một chiếc nhẫn phỉ thúy, ngươi đưa cho gia gia, gia gia sẽ phạm cái tội bất nghĩa lớn trong thiên hạ, tha cho ngươi đi”.
“Ta tưởng là cái gì chứ?”. Cốc Chẩn bật cười khanh khách: “Nhẫn phỉ thúy? Cái đó thì dễ dàng, ta viết một lá thư cho Ngô Lãng Minh, gia gia đến chu bảo trai của hắn chọn, muốn mấy chiếc có mấy chiếc”.
Doanh Vạn Thành híp hai mắt lại, khanh khách cười, lộ ra một cái miệng tối đen:
“Cháu ngoan, ngươi thừa biết gia gia không cần những thứ đó. Nhẫn mà gia gia cần, cả thiên hả này chỉ có một chiếc: Phỉ thúy chi hoàn, huyết văn tam tháp, tài thần thông bảo, hiệu lệnh thiên hạ 5”.
“Có thứ bảo bối như vậy sao?” Cốc Chẩn kinh ngạc nói: “Sao ta chưa từng nghe nói qua?”.
“Bậy bạ”. Doanh Vạn Thành dậm mạnh trúc trượng một cái, bụp một tiếng, trục trượng xuyên thủng sàn gỗ dày năm tấc: “Nếu như không có chiếc nhẫn Tài Thần đó, dựa vào chút tuổi của ngươi, làm sao có thể hiệu lệnh các thương nhân trong thiên hạ, điều động tiền bạc và hàng hóa trên thế gian?”.
Trong lúc la hét, mây mù trong đôi mắt của Doanh Vạn Thành đều tan biến, trong như băng tuyết, hai tia sắc lạnh, bức thẳng đến. Hai mắt của Cốc Chẩn cũng sáng đến kinh người, bốn mắt nhìn nhau, giống như sấm sét giao kích, Lục Tiệm chợt thấy toàn thân lạnh toát, thân thể giống như dây cung, không tự chủ được căng lên.
Bỗng nhiên, Cốc Chẩn lại cười một tiếng, bầu không khí nặng nề như gặp gió ấm ngày hạ, chớp nhoáng tan chảy. Chỉ nghe y đạm nhiên nói: “Việc này là do Ngô Lãng Nguyệt nói sao?”.
Doanh Vạn Thành cười khô nói: “Việc nhỏ này, gia gia tự có cách biết, hà tất phải cần hắn nói?”.
Cốc Chẩn nói: “Hắn thâm nợ không nhỏ, ta lại không tha cho hắn, do đó chó gấp nhẩy tường, biên tạo câu chuyện hoang đường, hãm hại ta. Doanh gia gia, gia gia đã có thần thông Quy Kính, sao không soi soi trong lòng ta, có hay không có nhẫn Tài Thần, không phải soi một cái thì rõ sao?”.
Doanh Vạn Thành lắc đầu nói: “Cháu ngoan, ngươi thừa biết Quy Kinh chỉ có thể soi được hiện tại, không thể giám định được qua khứ, chỉ có thể đoán được ý niệm lúc này của ngươi, nhưng không thể biết được ký ức của ngươi. Hơn nữa, trong thiên hạ, người có thể khắc chế được ký ức của bản thân, không muốn nhớ lại tuy lác đác vài người, nhưng cháu ngoan vừa hay chính là một người trong đó. Gia gia bị ngươi lừa, cũng không phải là một hai lần. May mà, ta bị lừa một lần, học khôn một lần, lần này ngươi muốn lừa bịp ta, hắc hắc, đừng có nghĩ đến”.
Cốc Chẩn cười cười, rót rượu vào bát, một hơi uống cạn, lúc này y đã uống mười bát rượu, nhưng càng uống ánh mắt càng sáng, hoàn toàn không có vẻ say.
“Doanh gia gia”. Cốc Chẩn chợt nói: “Chúng ta cược một ván, gia gia thắng thì ta đưa nhẫn cho gia gia, ta thắng thì gia gia để cho ta đi”.
Doanh Vạn Thành hai mắt trợn ngược, nói: “Cược cái gì?”.
Cốc Chẩn nói từng chữ một: “Cược Kim Quy Tam Quan “.
Doanh Vạn Thành díp hai mắt lại, cười nói: “Được, nếu như ngươi có thể phá được tam quan của ta, gia gia cũng không còn mặt mũi làm khó ngươi”.
Cốc Chẩn nói: “Vậy thì cược đệ nhất quan trước: Xạ Phúc. Ta là mồi cá, ngươi là lưỡi câu”. Doanh Vạn Thành ngẩn người, nói: “Mồi cá? Lưỡi câu? Câu này có ý gì?”. Cốc Chẩn cười cười không nói, Doanh Vạn Thành cảm thấy kỳ quặc, dùng “Quy Kính” tra xét, nhưng mạch suy nghĩ của Cốc Chẩn đã chuyển sang hướng khác, bất giác cười lạnh một tiếng, nói: “Ngươi trước hay là ta trước?”.
Cốc Chẩn nói: “Ta trước”. Doanh Vạn Thành quay người lại, vận chuyển “Quy Kính” âm thầm quan sát, chỉ cảm thấy Cốc Chẩn đặt một quân cờ Song Lục dưới bát, tiếp đó lại cảm thấy y quay đầu lại, cười nói:” Được rồi, Doanh gia gia, gia gia đoán xem dưới bát là cái gì?”.
Doanh Vạn Thành quay người nhìn chừng chừng chiếc bát đó, díp mắt nói: “Là quân cờ Song Lục”. Cốc Chẩn mỉm cười, mở bát ra, Doanh Vạn Thành bất giác đờ người, thì ra dưới bát không phải là quân cờ mà là một hạt xí ngầu.
Y xoay chuyển ý nghĩ, nghiêm giọng quát lớn: “Tiểu tử thối, ngươi ăn gian”.
Cốc Chẩn cười đáp: “Ta ăn gian làm sao?”.
Doanh Vạn Thành tức giận nói: “Ta xạ phúc với ngươi, chứ không phải xạ phúc với y”. Nói xong chỉ vào Lục Tiệm, cười lạnh nói: “Cháu ngoan, ngươi thừa biết Quy Kính của gia gia chỉ có thể đoán được tâm ý của một người, không thể đồng thời quan sát hai người, do đó trước tiên đặt quân cờ vào trong bát, sau đó quay đầu không nhìn, để mặc cho tên tiểu tử này đổi quân cờ trong bát thành hạt xí ngầu, Quy Kính chỉ có thể soi ra tâm tư của ngươi, ngươi còn không biết y đổi thành cái gì, tự nhiên Quy Kính cũng không cách gì soi được”.
Cốc Chẩn và Lục Tiệm nhìn nhau một cái, lắc đầu nói: “Doanh gia gia nói rất có lý. Nhưng khẩu thuyết vô bằng, gia gia có chứng cứ gì, chứng minh là y đổi xí ngầu? Chẳng lẽ không phải là do thần thông Quy Kính sai sót sao?”.
Doanh Vạn Thành bất giác im lặng, chỉ trách nhất thời sơ ý, biết rõ là hai người giở trò, nhưng không nắm được chứng cứ, đã không có chứng cứ thì cũng bằng thừa. Chỉ còn biết nói: “Được, đến lượt ta. Nếu như các ngươi không đoán được, đệ nhất quan này cũng chỉ coi là hòa. Hừ, hai người các ngươi, quay đầu hết ra đằng sau cho ta.”.
Hai người Cốc, Lục nghe lời quay đầu, chớp mắt liền nghe Doanh Vạn Thành nói:
“Quay đầu lại đi”. Hai ngơời quay người lại, chỉ thấy trước người Doanh Vạn Thành, úp ngược một bát rượu. Cốc Chẩn hơi trau mày, rồi nhìn Lục Tiệm, chỉ thấy y nhắm chặt hai mắt, hai tay ấn xuống bàn, sau đó nhấc tay trái lên, lắc nhẹ, Cốc Chẩn tâm niệm nhất động, buột miệng kêu: “Dưới bát không có gì”.
Doanh Vạn Thành thần sắc đại biến, Cốc Chẩn thấy thần sắc của lão, cười ha hả:
“Thế nào, ta đoán trúng phải không?”.
Doanh Vạn Thành bực bội trợn mắt nhìn y, cũng không mở bát, sau đó lại cười một tiếng âm hiểm, không để ý nói: “Đệ nhất quan này, coi như ngươi phá được. Bây giờ là đệ nhị quan: giấu vật”.
Nói rồi lấy ra một đồng tiền đồng, do dự một chút, bẻ thành hai nửa, đưa một nửa cho Cốc Chẩn, nói: “Giấu nửa đồng tiền này trên người ngươi, nếu như rời khỏi người, thì coi như ngươi thua”.
Cốc Chẩn đặt nửa đồng tiền đó lên bàn, lắc đầu nói: “Không cần, bất luận là ta giấu ở chỗ nào, đều không thể thoát được Quy Kính của gia gia. Đệ nhị quan này ta chỉ mong hòa, đoán được Doanh gia gia giấu ở đầu là được”.
Doanh Vạn Thành không ngờ y có chiêu này, hơi cảm thấy kinh ngạc, lại thấy y vô cùng tự tin, bất giác thầm bồn chồn, chỉ biết nắm nửa đồng tiền còn lại trong tay, khi xòe tay ra, đồng tiền kia đã biến mất. Lục Tiệm thấy vậy, hai tay ấn xuống bàn, kiếp lực thuận theo chân bàn truyền xuống, lại đi qua sàn lầu, truyền đến dưới chân của Doanh Vạn Thành, trong khoảnh khắc, liền cảm thấy nửa đồng tiền kia bám sát vào da thịt của Doanh Vạn Thành đang nhanh chóng rơi xuống, chớp mắt chui xuống lòng bàn chân trái của lão. Đang định tìm cách ám thị cho Cốc Chẩn, bỗng thấy đôi lông mày dài của Doanh Vạn Thành nhướng cao, mục quang lạnh lẽo bức đến.
Cốc Chẩn nhìn thấy, liền biết Doanh Vạn Thành đã hoài nghi, lần này dùng “Quy Kính” lên người của Lục Tiệm, vội cười nói: “Doanh gia gia, gia gia nhìn bằng hữu của ta làm gì? Đánh cược tam quan với gia gia là Cốc Chẩn ta mà”
Doanh Vạn Thành hừ lạnh một tiếng, nói: “Ta coi như đã biết thế nào là mồi cá, thế nào là lưỡi câu. Thì ra mồi cá cháu ngoan ngươi chỉ là làm ra vẻ, còn người thật sự đấu pháp với ta chính là tiểu tử này. Nhưng ta có chút kỳ quái, y làm sao có thể biết tâm y của lão phu, chẳng lẽ y cũng luyện Quy Kính không bằng?”, vừa mới dứt lời, bỗng nhấc trúc trượng lên, điểm vào Lục Tiệm, Lục Tiệm vội muốn tránh né, nhưng bị Doanh Vạn Thành soi ra tâm ý, nửa đường biến chiêu, vù cái điểm trúng “Kỳ Môn Huyệt” của y.
Hiển mạch của Lục Tiệm bị chế ngự, kiếp lực trong ẩn mạch tuôn lên, chuyển hóa thành nội lực, lại đả thông hiển mạch. Doanh Vạn Thành vừa định thu trượng lại, chợtthấy Lục Tiệm hơi trì trệ một lúc, liền có thể cử động được, tay trái móc vào trong, quyền phải tống thẳng ra, kình lực nặng như núi, ập thẳng đến.
Doanh Vạn Thành trở tay không kịp, hoành trượng ngăn cản, liền cảm thấy hổ khẩu phát nóng, trúc trượng tựa hồ bật ra khỏi lòng bàn tay, không kìm được tung người nhảy lùi lại, mới hóa giải được quyền kình của “Bán Sư Nhân Tướng”, trong lòng kinh dị, bỗng nghĩ lại, quát lớn: “Hảo tiểu tử, ngươi là kiếp nô?”.
Lục Tiệm bị y nói ra ẩn mật của bản thân, cũng lấy làm kinh hãi. Chợt nghe cốc Chẩn vỗ tay cười nói: “Doanh gia gia cao kiến”. Doanh Vạn Thành cười lạnh nói: “Cháu ngoan, kiếp chủ là ngươi sao?”.
Cốc Chẩn cười nói: “Nếu như ta nói là không phải, gia gia có tin hay không?”. Câu này của y lập lờ nước đôi, Doanh Vạn Thành càng trở lên hồ nghi bất định, bỗng lão nhấc tay, đâm thẳng trúc trượng vào mi tâm của Lục Tiệm. Lão đoán trước tiên cơ của địch thủ, Lục Tiệm né tránh không kịp, bèn dứt khoát dùng “Bạch Hào Tướng”, không lùi mà tiến, dùng đầu đón lấy. Kinh Phật có nói: “Giữa hai hàng lông mày của Như Lai phóng ra tia sáng trắng, soi rọi khắp vạn tám nghìn đất Phật tây phương”, do đó tướng thái này, có thể đem thần lực toàn thân tụ lại ở giữa hai hàng lông mày, Doanh Vạn Thành điểm trúng, giống như điểm phải thép, mà lại không cách gì đâm vào được.
Doanh Vạn Thành tuy có khả năng liệu địch, nhưng không liệu được Lục Tiệm lại có thể dùng thân thể huyết nhục, ngăn chặn được binh đao của bản thân, không kịp thu trượng lại, Lục Tiệm đã nhịn cơn đau buốt ở mi tâm, biến hóa “Chu Thiên Tướng”, hai tay đồng loạt xuất chiêu, nắm chặt lấy trúc trúc trượng.
Doanh Vạn Thành quát lớn một tiếng, truyền kình lực lên trúc trượng, trúc trượng đó u u rung lên, hai tay Lục Tiệm như gặp phải điện, lập tức buông ra, nhưng tay phải của y nhanh đến kỳ dị, vừa mới bị chấn thoát, lại nắm lấy trúc trượng, mắt thấy eo lưng của Doanh Vạn Thành hơi lộ sở hở, vội biến “Mã Vương Tướng” đá ra. Nhưng vừa mới nhấc chân lên, thì kiếp lực ở tay phải đi qua trúc trượng, liền cảm nhận được các tình cảnh trong cơ thể của Doanh Vạn Thành, lúc này tinh khí của Doanh Vạn Thành lưu chuyển trong “Đái Mạch”, chân khí ngưng tụ gia tăng trong “Thủ Thái Âm Phế Kinh”, dựa theo mạch lý, chính là dấu hiệu của thân hình lách sang phải, ngũ chỉ cắm xuống dưới, một cước này của Lục Tiệm nếu như thật sự đá ra, nhất định bị ngũ chỉ sắc như đao kiếm của lão xuyên thủng bắp chân.
Ý niệm này mới chỉ lóe lên, Lục Tiệm bèn từ “Mã Vương Tướng” biến thành “Đại Tự Tại Tướng”, vội thu chân lại, quát lớn một tiếng, chưởng trái thành đao, trước tiên biến tướng “Thọ Giả Tướng”, rồi lại biến “Hầu Vương Tướng”, thế như chặt tre, hết sức bổ ra.
Cú bổ ra này khí thế kinh người, kình phong khắp lầu. Doanh Vạn Thành tuy rằng liệu được, nhưng cũng không cách gì né tránh, chỉ biết vung tay đỡ lấy. Hai chưởng giao nhau, kình phong ào ạt, khuôn mặt nhăn nheo của Doanh Vạn Thành thoáng qua một vệt ửng hồng, Lục Tiệm thì cảm thấy tức ngực tim đập mạch, chợt lại cảm thấy chân khí trong “Thủ Thái Dương Tiểu Tràng Kinh” của Doanh Vạn Thành biến đổi, chiêu sau đó sẽ là khí thông ngón tay trái, điểm vào “Khúc Trì Huyệt” của mình, lập tức tiên hạ thủ vi cường, tay trái biến “Đa Đầu Xà Tướng”, một chuyển một chiết, quấn lấy ngũ chỉ của Doanh vạn Thành, Doanh vạn Thành nhận biết được tâm ý của Lục Tiệm, vừa kinh vừa nộ, bất đắc dĩ triệt tiêu kình lực biến chiêu, nhưng lão vừa biến chiêu, Lục Tiệm cũng biến.
Trong nhất thời, hai ngươi mỗi người nắm một đầu trúc trượng, Doanh Vạn Thành dùng thần thông “Quy Kính”, dự đoán tâm tư của Lục Tiệm, nhưng chỉ cần y xuất chiêu, Lục Tiệm liền dựa vào kiếp lực, từ trúc trượng cảm nhận được hướng đi kình lực của y, biến tướng ứng đối. Doanh Vạn Thành cảm thấy tâm tư của Lục Tiệm có biến, vội vàng biến chiêu, nhưng nội tức của y vừa mới động, Lục Tiệm lại đã biết, tình thế như vậy lặp đi lại lại.
Cốc Chẩn từ bên cạnh nhìn, thấy hai người đó khoa tay múa chân, nhưng không một chiêu nào thực sự xuất ra, vừa thấy kỳ quái lại vừa thấy buồn cười. Nhưng Lục Tiệm chỉ biết mười sáu tướng, phản phúc thi triển, không tránh khỏi dùng hết, còn chiêu thức của Doanh Vạn Thành thì huyền kỳ, biến hóa vô phương, dần dần chiếm được thượng phong. Lục Tiệm trong lúc sốt ruột, cảm nhận được hướng đi nội kình của Doanh Vạn Thành, y vội mô phỏng theo, trong nhất thời, Doanh Vạn Thành nhấc chân, y cũng nhấc chân, Doanh Vạn Thành giơ tay, y cũng giơ tay, Doanh Vạn Thành ngưng thần xuất quyền, y cũng xuất quyền, giống như một người đứng trước gương, hình bóng trong gương ngoại trừ diện mạo khác nhau, cử chỉ đều giống hệt nhau.
Cốc Chẩn thấy vậy cũng thu lại nụ cười, kinh ngạc nói: “Lục Tiệm, ngươi sao lại biết công phu của Đông Đảo ta? Chiêu này là Bộ Thủ Kình, chiêu kia là Vô Định Cước, ái a, quái sự, quái sự”.
Doanh Vạn Thành vừa kinh vừa nộ, bất luận lão biến chiêu như thế nào, Lục Tiệm đều có thể rập khuôn y hệt, xuất chiêu không sai, cứ như thế, không bao giờ kết thúc. Dẫu rằng lão nổi nóng, cũng nghĩ không ra nguyên do trong đó. Nên biết thần thông “Quy Kính” tuy lợi hại, nhưng có một sơ hở vô cùng lớn, đó chính là chỉ có thể soi ra công phu của hiển mạch, nhưng không có cách gì cảm nhận được sự vận chuyển của ẩn mạch. Doanh Vạn Thành trong lúc sốt ruột, không nhịn được quát lớn:
“Tiểu tử thối, ta thấy ngươi mặt mũi đoan chính, tại sao lại phải nối giáo cho giặc, giúp tên nghiệt chướng cưỡng dâm tiểu muội, giết mẫu thân, câu kết với Oa khấu này?”
Lục Tiệm nghe vậy cả kinh, thất thanh nói: “Lão nói cái gì?”. Doanh Vạn Thành vốn chỉ là nóng lòng trút căm giận, nhưng thấy Lục Tiệm kinh ngạc như vậy, bèn dùng
“Quy Kính” soi, liền biết ngọn nguồn, hăng hắc cười nói: “Ngươi há không biết? Tên tiểu súc sinh họ Cốc này, bức gian muội muội, gian tình bị mẫu thân phát hiện, rồi từ thẹn chuyển thành phẫn nộ, đâm trọng thương mẫu thân. Thậm chí, y câu kết với Uông, Từ, Ma, Trần tứ đại khấu, giết người cướp của, không việc gì không làm, làm cho một vùng Giang Nam rộng lớn, biến thành lò mổ Tu La…”.
Nói đến đây, Lục Tiệm bất giác buông lỏng trúc trượng, bịch bịch bịch lùi lại sau ba bước, hai mắt mở to, lắp ba lắp bắp nói: “Y… tại sao y… y không nói cho ta?”. Doanh Vạn Thành cười lạnh nói: “Việc xấu xa như vậy, y làm sao có thể nói ra được? Nếu như phạm tội bình thường, y bị nhốt vào trong Cửu U Tuyệt Ngục sao? Người thiếu niên, ngươi cũng không phải ngốc, thử nghĩ kỹ xem, thì có thể minh bạch”.
Lục Tiệm thừ người ra, quay đầu nhìn đi, chỉ thấy mục quang của Cốc Chẩn rủ xuống, tựa hồ không dám nhìn thẳng vào mắt mình. Trong sát na, các tình cảnh trước đó đều lần lượt hiện qua, trong lòng y bỗng nhiên thông suốt:
Tại sao Cốc Chẩn mới chút tuổi thị bị nhốt vào ngục sâu vô đáy, tại sao y lại nhục mạ mẫu thân sinh ra mình, tại sao trước sau không chịu nói bản thân phạm phải tội gì. Chỉ bởi vì tội ác này to lớn, quả thực là thiên lý bất dung.
Lục Tiệm nghĩ đến đây, vẫn chưa hết hy vọng, nghẹn ngào hỏi: “Cốc Chẩn, lão ta nói đều là thật sao?”. Cốc Chẩn buông tiếng thở dài, nhè nhẹ cười khổ.
Lục Tiệm nhìn y, chỉ cảm thấy lồng ngực đau buốt, nên biết, trải qua bao nhiêu kiếp nạn, y đã coi người này là bằng hữu thân thiết nhất của đời mình. Nhưng không ngờ đến bây giờ, lại là kết cục như vậy.
Lục Tiệm không đè nén được bi phẫn, bất giác quát lớn: “Cốc Chẩn, ta hận ngươi. Sớm biết như vậy, ta thà chết trong hang động, cũng không cứu ra ngoài”. Nói đến đây, bỗng nhiên nhấc quyền, kích vào Cốc Chẩn, nhưng quyền đi được nửa đường, rốt cuộc lại thu về, đấm mạnh lên chiếc bàn gỗ bên cạch, bùng lấy một tiếng, chiếc bàn gỗ bị chấn nát vụn.
Lục Tiệm trong lòng rối bời như lửa thiêu, đánh xong một quyền, bước nhanh xuống lầu. Trần Song Đắc đang trông coi trước lầu, thấy vậy hỏi: “Lục gia, ngài đi đâu? Tiểu nhân sắp xếp xe ngựa cho ngài”.
Lục Tiệm không nói một lời, chỉ biết chạy điên cuồng như bay, cũng không biết chạy được bao xa, chợt cảm thấy hai chân vừa lạnh vừa ướt, mới cả kinh phát giác: bản thân không biết từ lúc nào đã chạy đến bờ biển, từng trận thủy triều ập đến, chìm ngập đến đầu gối.
Lục Tiệm đưa mắt nhìn đi, sóng biển đen thẳm cuồn cuộn không ngừng. Trong sát na, trong lòng y lại hiện lên khuôn mặt của Cốc Chẩn, nụ cười kia trong sáng tươi tắn, mang một chút hơi vị trẻ con, hai mắt nhìn mình, luôn có sự chân thành không thể nói ra thành lời.
“Ta làm mồi cá, ngươi làm lưỡi câu… Ta từ nhỏ đã thích cười, tên hồi nhỏ là Tiếu Nhi… Ta với người khác đều phải tranh cái được thua, duy chỉ có ngươi là ta không tranh…”. Từng câu từng chữ, còn như ở bên tai, Lục Tiệm uất ức khó giải, không kìm được vùi đầu vào trong biển, mặc cho nước biển lạnh lẽo mặn đắng tràn vào mũi miệng, cho đến khi hết hơi, mới nhấc đầu lên, suy nghĩ: “Xem dáng vẻ của Cốc Chẩn, nghe y nói chuyện, làm sao lại có thể là kẻ ác như vậy, nếu như đều là Doanh Vạn Thanh vu cáo, tại sao y lại không biện giải? Y thông minh tuyệt luân, tại sao đến lúc đó, lại thành một kẻ ngốc?”.
Lục Tiệm trong lòng không yên, chỉ cảm thấy nếu không làm rõ chân tướng, cả đời này chớ mong kê gối ngủ ngon, bỗng nhiên chuyển thân, lại chạy vội về hướng “Quan Hải Lâu”. Còn chưa đến gần, thì thấy trong lầu tối om, trong lòng bất giác nặng trĩu, chạy đến trước lầu, cửa tửu lầu đã đóng chặt, trong lòng không cầm được nóng như lửa đốt, giơ tay gõ cửa.
Gõ được hai hồi, liền nghe thấy Trần Song Đắc nói vọng ra: “Là Lục gia sao?”. Nói rồi dỡ ván cửa, bước ra ngoài. Lục Tiệm buột miệng hỏi: “Trần đại ca, Cốc Chẩn đâu?”.
Trần Song Đắc cười khổ nói: “Lục gia ngài giết tiểu nhân rồi, hai chữ đại ca vạn lần không dám nhận, ngài giống như Cốc gia gọi tiểu nhân Song Đắc là được. Còn như Cốc gia? Người cùng với vị lão gia kia ngồi xe ngựa đi được hai canh giờ rồi, trước khi đi có nói với tiểu nhân, Lục gia ngài nhất định còn quay lại, kêu tiểu nhân ở đây đợi ngài”.
Lục Tiệm nghe vậy vậy lặng người đi, lại thấy Trần Song Đắc quay người lấy ra một bọc vải, nói: “Cốc gia nói, ngài muốn hồi hương, không thể không có lộ phí. Cốc gia kêu tiểu nhân đưa một trăm lượng bạc cho ngài, còn nói chỗ bạc này là năm xưa người làm ăn buôn bán kiếm được, sạch sạch sẽ sẽ.
Lục Tiệm đón lấy bọc vải, chỉ cảm thấy nặng trình trịch, trong lòng bất giác chua xót, không nén được hỏi: “Song Đắc, ngươi nói xem, Cốc Chẩn có giống một đại ác nhân không?”.
Trần Song Đắc nghe vậy sững người, lắc đầu nói: “Hai con mắt này của Song Đắc, người nam kẻ bắc cũng thấy nhiều rồi, tuy không dám nói bách phát bách trúng, nhưng cũng có thể nhìn ra một chút manh mối. Vẻ ngoài của Cốc gia có chút tà khí, nhưng trong lòng thật thà rộng lượng, tuyệt không phải là kẻ gian ác gì. Bằng không, Cốc gia sao lại làm bằng hữu với Lục gia ngài? Nghe Cốc gia nói, liền biết là Cốc gia rất tán thưởng phẩm cách của Lục gia, Trần Song Đắc tôi nếu như có thể được Cốc gia tán thưởng như vậy, cho dù lập tức chết ngay cũng cam chịu”.
Lục Tiệm mặc nhiên một hồi lâu, chợt nói: “Cốc Chẩn và lão nhân kia đi về hướng nào?”. Trần Song Đắc nói: “Đi về phía tây bắc”. Lục Tiệm chắp tay nói: “Đa tạ”. Nói xong quay người nhấc chân, chạy vội về hướng tây bắc.
Lục Tiệm trong đêm tối điên cuồng chạy mấy chục dặm, vẫn chưa nhìn thấy hình bóng xe ngựa. Nên biết những con ngựa kéo xe đó, đều là danh câu Đại Lương, thần tuấn vô cùng, sức người há có thể bì kịp. Lục Tiệm chạy cho đến khi sức cùng lực tận mới chịu dừng chân, nhìn đồng rộng mênh mông, chán nản thất vọng vô cùng.
Nghỉ ngơi một lúc, y không có cách nào, chỉ biết dạo bước về phía trước, dọc đường hỏi han người đi đường, nhưng không có chút tin tức, đi được hơn một trăm dặm, Lục Tiệm chợt hiểu ra, hoặc là bản thân đuổi nhầm phương hướng, hoặc là Doanh Vạn Thành ngụy kế đa đoan, dọc đường tiêu hủy tung tích. Tóm lại, dựa vào bản lĩnh của y, muốn đuổi kịp hai người, tuyệt đối đã không còn khả năng.
Lục Tiệm nản lòng nhụt chí, đành chuyển hướng đi về phía bắc, chỉ thấy thôn làng bỏ hoang khắp nơi dọc đường, nhà cửa thưa thớt, nhiều mảnh ruộng tốt bị cỏ cây mọc um tùm. Hỏi han nông phu may mắn còn sống, mới biết nơi này nhiều lần gặp phải Oa loạn binh họa, thoạt đầu là Oa khấu xâm phạm cướp sạch, sau đó quan binh lại đến, đám quan binh này vừa nghe thấy danh của Oa khấu, trông thấy từ xa mười tên thì chín tên đã tháo chạy, nhưng đối đãi với bách tính thì lại độc địa tàn nhẫn, không việc ác nào không làm, lại còn có tên chuyên giết bách tính vô tội, cắt lấy thủ cấp, mạo xưng Oa khấu để tranh công.
Lục Tiệm càng nghe càng phẫn nộ, kêu: “Chẳng lẽ không còn vương pháp sao?”.
Người nông phu kia tức giận nói: “Vương pháp cái gì? Có đao thương thì có vương pháp”. Lục Tiệm nói: “Đám quan binh này, không có tướng lĩnh ước thúc sao?”.
Người nông phu đó nói: “Tướng lĩnh thì nhiều, nhưng không có mấy người ước thúc binh sĩ. Ngoại trừ Du lão tướng quân Du Đại Du, binh sĩ của Du tướng quân rất tốt, trước nay không xâm phạm bách tính, nhưng chỉ có một mình y là tướng quân tốt, thì làm được cái việc gì? Lấy ví dụ cho người, Oa khấu đến, thì giống như lược thưa chải tóc, dù sao đi nữa còn lưu lại một chút gầu; còn quan binh đi qua, hừ, thì giống như lược bí, lớn đến nhà cửa, nhỏ đến kim chỉ, không lưu lại cái gì cho ngươi…”.
Trong lúc nói chuyện, bỗng nghe có người kêu lớn: “Quan binh đến rồi”. Người nông phu kia sắc mặt đại biến, nhấc chân chạy vội theo đồng bọn, chui vào núi rùng, khoảnh khắc liền không thấy.
Lục Tiệm đưa mắt nhìn đi, chỉ thấy một đội quan binh khí thế hung hăng, quất ngựa phi đến, một tên quân quan trong đó tức giận nói: “Đám chân đất này càng lúc càng gian hoạt. Giống như con chuột thành tinh, vừa thấy lão tử thì chuồn mất tăm, hôm nay nếu không lấy được mấy cái thủ cấp, làm sao ăn nói với đại soái được?”.
Hăn liếc Lục Tiệm một cái, “phì” một tiếng, nói: “Còn có một tên không sợ chết, tiếc là chỉ có một cái đầu, gom lại cũng không đủ số”. Nộ khí trong ngực của Lục Tiệm trào dâng, nhưng nghe giọng điệu của người này, không giống như người Chiết Giang, vừa mới cảm thấy nghi hoặc, bỗng thấy tên quân quan đó kẹp ngựa phi đến, vung đao chặt xuống. Lục Tiệm kẹp tay đoạt lấy cương đao, lôi hắn xuống ngựa, lại biến thế “Đa Đầu Xà Tướng, tay phải biến hóa như bóng rắn, trái phải khai cung, vả cho hắn mười mấy cái tát liên tiếp, đánh đến nỗi sao vàng bay loạn trước mắt tên quân quan đó, nhưng lại không sờ được cái nào.
Lục Tiệm đánh xong, ném mạnh một cái, quẳng tên đó ngã ngất đi. Đám quan binh nhìn thấy, không tên nào không cả kinh, sợ hãi kêu lên: “Oa khấu, má ơi, là Oa khấu”.
Lục Tiệm nghe vậy vừa bực vừa buồn cười, thấy đám quan binh đó quay ngựa, ôm đầu chạy như chuột, lập tức buông tiếng kêu dài, thi triển thuật khiêu ma, lướt qua bên cạnh đám người, hai tay biến hóa “Chu Thiên Tướng”, lúc lên lúc xuống, lôi đám quan binh đó xuống ngựa, ném mạnh ra xa, bọn quan binh bị quẳng đến sứt đàu mẻ trán, tay chân gãy đoạn, nằm dài trong ruộng, oai oái kêu thảm.
Lục Tiệm ném bay tên cuối cùng, nhân thế ngồi lên yên ngựa, quát lớn: “Các ngươi thân là quan quân Đại Minh, nhưng không dám chống trả Oa khấu, chỉ biết hiếp đáp bách tính, vô cùng đáng ghét, hôm nay tạm thời trừng trị các ngươi một chút, nếu sau này còn hành hung, đảm bảm các ngươi đầu rơi xuống đất”.
Quát xong một tiếng liền quất ngựa đi. Trên đường đi, nơi nơi đều có khói lửa tro tàn, thật giống như lời nguời nông phu kia nói: “Giặc qua như lược thưa, binh qua như lược bí”, vùng đất Giang Nam phồn hoa, trải qua nhiều lần Oa loạn binh hỏa, trở thành vùng đất của ma quỷ, thành lớn đóng chặt, thành nhỏ coi nghiêm ngặt, bên ngoài thành hoang vu vắng lặng, cỏ mọc lan trên mặt đất, vạn phần thê lương.
Cốc Chẩn nhìn thấy thảm trạng dọc đường, nước mắt không kìm được như mưa chảy xuống, chợt nhớ lại lời kệ trước khi lâm chung của Ngư hòa thượng, nghĩ thầm: “Kiếp nhân dục sinh, khổ nhân lạc khổ, sương phi mi thượng, kiếm do tâm xuất; thế gian sang di, chúng sinh đa khổ, quỳnh quỳnh bồ đề, tịch tịch chân như. Chẳng trách nào đại sư trước khi tọa hóa sầu bi bất nhẫn như vậy, bách tính trong thiên hạ thật là khổ”.
Y nghĩ đến đây, nhìn thế giới bi thảm này, bỗng nhiên có chút giận đời ghét tục, lập tức buông lỏng cương ngựa, mặc cho ngựa đi về phía bắc. Chập tối hôm ấy, thì đến một thôn làng bỏ hoang không người, Lục Tiệm xuống ngựa nghỉ ngơi. Lúc đêm khuya, Lục Tiệm còn chưa ngủ say, bỗng bị tiếng động đánh thức, mở mắt bật dậy, nhấc cửa sổ rách nát ra một khe hở, chỉ thấy hắc ảnh lay động bên ngoài cửa sổ, cũng không biết có bao nhiêu người ẩn náu trong thôn, người nào người nấy khom người rón rén, hành tung quỷ dị.
Lục Tiệm thấy vậy cả kinh, bỗng nghe có một người dùng Oa ngữ nói: “Sao trong thôn này lại buộc ngựa?”. Một người khác thì nói: “Trong thôn có người không?”. Lục Tiệm đánh thót một cái: “Bọn chúng là Oa khấu?”
Chỉ nghe người nói lúc đầu chuyển qua dùng Hoa ngữ, thấp giọng quát: “Các ngươi vào phòng lục soát, nếu như có người, lập tức giết ngay”. Vài tên khác dùng Hoa ngữ trả lời, lục soát bốn phía.
Lục Tiệm nghĩ bụng: “Đám ngườii này một lúc thì dùng Oa ngữ, một lúc lại dùng Hoa ngữ, rốt cục là chân Oa hay là giả Oa?”. Trong lúc nghi hoặc, bỗng nghe thấy tiếng cửa ken két vang khẽ, một đạo hắc ảnh mở cửa, lặng yên tiến vào. Lục Tiệm không đợi y lục soát, vội lạng người nhào lên, chặt một chưởng lên cổ hắn, tên kia kêu cũng không kịp kêu, liền lập tức ngã nhào.
Lục Tiệm kéo hắn vào góc tường, chợt nghe thấy tiếng bước chân gấp gáp bên ngoài cửa, có tên dùng Oa ngữ nói gấp: “Bẩm Mao quân, đạo quan binh kia đuổi đến nơi rồi”.
“Kỳ quái”. Tên Mao quân cười nói: “Cũng không biết ai dẫn đạo quan binh này, lại không sợ chết như vậy. Mọi người đi mai phục cho tốt, đợi quan binh vào thôn, nghe ta phát hiệu lệnh bằng súng Điểu, thì nhất tề xông ra chém giết”. Có tên nói: “Nhưng con ngựa này rất kỳ quái, người đi lục soát vẫn chưa quay về”. Mao quân quả đoán nói: “Binh quý thần tốc, cũng chẳng quan tâm nhiều được nữa”.
Nói xong, bốn phía trở lên trầm lặng, chắc là đám Oa khấu đều ẩn náu mai phục trong chỗ tối.
Lục Tiệm nhấc cửa sổ ra, ngưng thần nhìn đi, chỉ thấy ánh lửa chập chờn phía đằng xa, tiếng bước chân lộn nhộn, tựa như có rất nhiều người tiến lại. Lục Tiệm đang do dự có nên nhắc nhở người đến không, bỗng nghe thấy tiếng một súng Điểu vang lên, một tiếng kêu thảm phía đằng xa, một ngọn đuốc tắt ngúm. Tiếp đó liền nghe thấy tiếng súng Điểu dầy đặc như tiếng rang đậu, bùng bùng vang loạn, chốc chốc có người trúng đạn, thảm thương kêu lên.
Trong tiếng súng Điểu, đám Oa khấu ô ô oa oa kêu lên, từ góc tường chui ra, từ mái nhà nhảy xuống, Oa đao trường mâu, múa lên vù vù như gió, bỗng nghe thấy một giọng nói phía bên quan quân sang sảng quát lớn: “Không được lùi lại, kết thành Lưỡng Dực Nhạn hành trận”. Tiếng hét còn chưa dứt, liền nghe thấy tiếng sắt thép giao nhau vang lên, hai bên đã giáp lá cà.
Lục Tiệm cư trụ lâu trong giao giới Tô Lỗ, nghe ra giọng nói kia là khẩu âm Sơn Đông, bất giác đẩy cửa đi ra, nhìn ra phía đằng xa, chỉ thấy đám Oa khấu như hổ vào bầy dê, làm cho đạo quan binh kia tán loạn, trong đó có vài tên Oa khấu đao pháp cao cường, tay phải cần trường đao năm thước, tay trái cầm thái đao hai thước, ngắn dài cùng xuất, xông vào trận thế của đám quan binh, trái đâm phải chém, giống như cắt bí thái rau.
Đạo quan binh kia không chống đỡ được, lùi ra khỏi thôn, bỗng nghe thấy một tiếng hét, hơn trăm tên Oa khấu từ rừng trúc bên cạnh thôn xông ra, chặn mất đường rút của quan binh, tên nào tên nấy nhảy lên xuất đao, thế không thể chặn được.
Trong trận của đám quan quân, giọng nói sang sảng kia vẫn trầm ổn, liên tiếp quát:
“Lá chắn, phía phải, cung tên, trường thương phía phải, xếp thành Tứ Phương trận…”. Nhưng đám sĩ binh vốn tham sống sợ chết, lúc này binh bại như núi, làm gì còn chú ý đến lá chắn cung tên, tên nào tên nấy đều như mất hồn phách, hoặc là nằm sấp đợi chết, hoặc là kéo ngược trường thương chạy tháo mạng, nhưng sớm đã có Oa khấu tung người đuổi theo, một đao một tên, chém ngã tất cả, trước sau không đầy ba nén hương thời gian, đám quan quân tử thương gần hết.
Lục Tiệm trông thấy vậy trợn mắt há miệng, y đều không có hảo cảm với đám Oa khấu và quan binh, vốn không định giúp đỡ bên nào, nhưng đám quan quân này vô tich sự như vậy, thì thật là ngoài dự liệu của y. Đám Oa khấu rõ ràng ít người, chúng quan quân rõ ràng nhiều người, ai ngờ dùng nhiều đánh ít, trong khoảnh khắc lại bị đám Oa khấu giết hết, không có một người nào chạy thoát.
Trong lúc kinh nghi, bỗng nghe thấy trong trận thế của đám Oa khấu, đồng loạt kêu hay. Lục Tiệm trong lòng kỳ quái, tung người lên nóc nhà, chạy nhanh hơn hai chục trượng, nhảy lên không cúi xuống nhìn, chỉ thấy đám Oa khấu vây thành một vòng tròn, đang xem hai người đánh nhau kịch liệt. Một người ăn mặc theo kiểu người Oa, tay trái cầm thái đao, tay phải cầm trường đao, đao quang như gió mạnh thổi tuyết, phiêu hốt tuyệt luân; người kia là tướng lĩnh Đại Minh mặc mãng bào lân giáp, thể hình cao lớn, râu dài phây phất, trên má tóe vài giọt máu tươi, y dùng một thanh trường kiếm, kiếm chiêu đơn giản không hoa mỹ, nhưng mỗi một kiếm đều cay độc xảo quyệt, thường có thể tìm ra kẽ hở trong làn đao quang, làm cho địch thủ phải tự cứu, song đao của Oa nhân kia tuy nhanh, nhưng nhất thời cũng không làm gì được y.
Đám người Oa chắc là lâu rồi mới gặp được đối thủ như vậy, đều xem đến hưng phấn, chỉ chỉ điểm điểm, một tên Oa khấu ăn mặc theo lối người Hán trong bọn cười nói: “Tân Ngũ lang, thế nào rồi, đánh hồi lâu rồi mà vẫn chưa thắng, hay là để ta đấu với y?”.
Tên người Oa kia tức giận hừ một tiếng, tăng nhanh đao pháp, nhưng đao pháp vừa nhanh lên, liền sinh ra sơ hở, người tướng Đại Minh nhìn thấy rõ ràng, tránh qua trường đao, rung tay xuất kiếm, đâm trúng vào đùi của Tân Ngũ Lang, nhưng không đề phòng thái đao bên tay trái của của Tân Ngũ Lang ném ra như điện, cắm ngập vào đầu vai của y.
Hai người áp sát rồi lập tức phân khai, Tân Ngũ Lang tập tễnh lùi sau vài bước, trường đao chống đất, quỳ một chân xuống. Hắn ở trong đám Oa khấu, đao pháp xưng hùng, song đao xông vào trận, trước nay chưa từng bị thương, không ngờ hôm nay lại trúng một kiếm, trong lòng vừa kinh nộ, vừa cảm thấy bội phục, dùng tiếng Hoa cứng ngắc nói: “Kẻ đến báo tên!”.
Người tướng Đại Minh lật tay rút Thái đao ở vai ra, nghe hỏi liền cười đáp:
“Ta là tham tướng Đại Minh Thích Kế Quang”.
Tân Ngũ Lang thấy y mặc cho máu chảy như trút trên vai, mày không trau, sắc diện không biến đổi, trong lòng bất giác lấy làm lạ, đứng thẳng người lên, trau mày nói:
“Thích Kế Quang, cái tên này ta chưa từng nghe qua. Thì ra ngươi không phải là Du Đại Du? Nghe nói kiếm pháp của Du Đại Du cao cường, là Trung Hoa đệ nhất kiếm khách, ta sớm đã muốn gặp, không ngờ ngoài y ra, còn có anh hùng.
Tên Oa khấu ăn mặc theo lối người hán cười nói: “Y có anh hùng hơn đi nữa, binh sĩ dưới tay đều là kẻ vô dụng, không chịu nổi một kích. Này, Thích tham tướng, ngươi to gan vô cùng, tướng lĩnh khác đều không dám truy đuổi ta, ngươi ngược lại thì lợi hại, dẫn một bọn vô dụng như vậy, cũng dám đuổi theo, chẳng lẽ ngươi không biết lão tử là ai?”.
Thích Kế Quang cười cười, đạm nhiên nói: “Ta tất nhiên biết người là ai, nghĩa phụ của ngươi là Uông Trực đứng đầu tứ đại khấu, ngươi tên là Mao Hải Phong, biệt hiêu là Thốn Thảo Bất Sinh, gặp trại giết trại, gặp thành giết thành, ngươi lần này liên tiếp xâm phạm Lạc Thanh, Thụy An, Lâm Hải, giết gần vạn người, nếu như ta không truy đuổi ngươi, thiên lý ở đâu?”.
“Nói rất hay”. Mao Hải Phong vỗ tay cười lớn: “Xem ra uy danh của Mao mỗ lan xa. Nhưng mà, Thích tham tướng, ngươi biết là đuổi đến thì thua, ngươi không sợ chết sao?”.
Thích Kế Quang nhướng mày, thong thả nói: “Quốc gia gặp nạn, tấm thân này có đáng gì”.
“Thì ra Thích tham tướng còn là một trung thần”. Mao Hải Phong cười ha hả:
“Đối phó trung thần, Mao mỗ thích nhất là móc tim của bọn họ ra, xem xem có phải là màu đỏ không”.
Đám người Oa bất luận là có thể nghe hiểu hay không hiểu, đều cùng Mao Hải Phong cười lớn. Thích Kế Quang cười lạnh một tiếng, lớn tiếng quát: “Bớt nói những lời thừa đi, đến lượt ai lên?”.
Tân Ngũ Lang sắc mặt trầm lại, vừa định vùng lên, Mao Hải Phong vỗ vỗ vai hắn, hinh hích cười nói: “Tân Ngũ Lang, chân của người không tiện, hay là thôi đi, trận này giao cho ta”. Tân Ngũ Lang lộ ra vẻ xấu hổ, nhưng tình hình trớc mắt, không cho phép y tái chiến, chỉ còn cách khập khập khiễng khiễng, lùi sang một bên.
Mao Hải Phong tay trái thái đao, tay phải trường đao, bước ra khỏi đám người, cười dài nói: “Thích tham tướng, kiếp sau nếu có làm tướng quân, nhất định phải nhớ kỹ, dẫn quân thì dẫn bọn tốt hơn, chứ đừng dẫn một đám vô dụng”.
Thích Kế Quang kẹp kiếm quyết, mỉm cười nói: “Túc hạ yên tâm, binh sĩ như của túc hạ, Thich mỗ tuyệt đối không bao giờ dẫn”.
Lãnh điện lóe qua trong mắt Mao Hải Phong, hắn tức giận hừ một tiếng, hai gối hơi cong xuống, chực lao lên xuất đao, không ngờ một tiếng quát lớn vang lên, như sấm nổ trên trời giáng xuống, đám Oa khấu còn chưa kịp hiểu là việc gì, một một cây trúc xanh biếc to dài phá không quét đến, ba tên Oa khấu bị quét bay ra vài trượng, gẫy xương đứt gân, trong chớp mắt thì mất mạng.
Lục Tiệm một quét đắc thủ, lòng tin tăng lên, múa trúc xanh nhanh đến nỗi gió mưa không lọt qua được, vừa quét vừa tiến lại, vẫn là xuất thủ bằng “Thọ Giả Tướng”, thu thế bằng “Hầu Vương Tướng”. Cây trúc đó là do y nhổ cả rễ ra từ trong rừng trúc ngòai thôn, dài đến bốn trượng, cành lá um tùm, một khi múa lên, nội trong mười trượng, không một ai có thể đứng vững.
Lục Tiệm thấy qua bản lĩnh của đám Oa khấu, tên nào tên nấy đều kiêu dũng thiện chiến, hơn hẳn đám nhẫn giả chỉ biết tập kích, lập tức toàn lực xuất thủ, không dám thể tình, nơi trường trúc đi qua, đám Oa khấu trúng phải thì chết, chạm phải thì thương, những tên bị thương trong đó đa phần là bị cành trúc quét trúng, da thịt rách toạc, thảm thương vô cùng.
Đám Oa khấu dẫu rằng dũng mãnh ngoan cường, nhưng gặp phải binh khí kỳ quặc như vậy, cũng cảm thấy thúc thủ vô sách, bất luận là trường mâu hay trường đao, vừa chạm vào cây trúc đó, đều bị chấn bay. Mao Hải Phong nhìn thấy bộ hạ tử thương cực thảm, không kìm được hét lớn một tiếng, thoắt cái tung người lên, nhẹ nhàng như phi yến, đáp xuống trên thanh trường trúc kia, rồi đạp lên cành trúc thân trúc, đi về phía Lục Tiệm.
Lục Tiệm hoảng hồn, đột nhiên rung trường trúc, ra sức giũ một cái, chiêu này vốn là y học trộm từ chỗ của Doanh Vạn Thành, hôm đó Doanh Vạn Thành vài lần dùng cách này rung trúc trượng, muốn chấn thoát tay phải của Lục Tiệm. Lục Tiệm bởi vì có kiếp lực, cảm biết được được biến hóa nội kình của lão, vài lần như vậy, không ngờ lại ghi nhớ. Lúc này theo cách đó một rung một giũ, nội kình thuận theo cành trúc cây trúc truyền ra, Mao Hải Phong chỉ cảm thấy một cỗ tê dại từ hai chân truyền lên đỉnh đầu, ba hồn sáu phách đều giống như bị cái giũ này làm cho rời khỏi thân, bất giác kêu thảm một tiếng, ngã nhào xuống đất.
Lục Tiệm thấy vậy, ghìm cây trúc xuống, đè xuống Mao Hải Phong, không ngờ một người tung người nhảy lên, trường đao từ dưới gạt trúng trường trúc.
Lực đạo của đao này vô cùng lớn, hổ khẩu của Lục Tiệm phát nóng, định thần nhìn kỹ, kẻ đến chính là Tân Ngũ Lang, bất giác quát lớn một tiếng, lại rung cây trúc trong tay, trường đao của Tân Ngũ Lang lập tức bị chấn bay, nhưng chỉ ngừng một lát này, Tân Ngũ Lang đã đỡ Mao Hải Phong dậy, hai người nâng đỡ lẫn nhau, đồng loạy nhảy lùi lại, tránh khỏi một quét của Lục Tiệm.
Lục Tiệm than thầm đáng tiếc, thấy Thích Kế Quang kia đứng cạnh bên trái, liền nói:
“Thích tướng quân, đi thôi”.
Thích Kế Quang nhìn thi thể của quan quân rơi vãi khắp mặt đất, thở dài một tiếng, múa trường kiếm đi vội về phía Lục Tiệm, vài tên Oa khấu muốn ngăn cản, nhưng bị trường trúc của Lục Tiệm đông rung một cái, tây giũ một cái, chấn bay bọn trúng như diều gió, bay bắn lên cao, ngã xuống phía đằng xa, khi rơi xuống đất, không chết thì thương.
Hai người Lục Thích hợp lại một chỗ, vừa đánh vừa rút. Đám Oa khấu không dám lại gần, tới tấp kéo cung tên, nhét hỏa dược vào súng Điểu, nhưng cây trúc kia cành lá rậm rạm, được Lục Tiệm rung kình thi triển, trong sát na, giống như một tấm lá chắn lớn dầy đặc không lọt gió, cho dù tên hay đạn chì cũng bị đánh bật ra.
Lục Tiệm lùi vào trong rừng trúc, thấy ngựa buộc trên cây, liền nói: “Thích tướng quân, ngài cưỡi ngựa đi trước, ta ở lại đoạn hậu”.
Thích Kế Quang cười nói: “Tiểu huynh đệ, ngươi coi thường ta rồi. Thích mỗ tuy là tướng bại trận, nhưng cũng không phải là kẻ hèn nhát chạy trốn một mình. Mọi người đi thì cùng đi, chết thì cùng chết”.
Lục Tiệm nghe vậy hào khí lập tức dâng trào, kêu: “Được, tướng quân đi dắt ngựa, ta ở phía sau, xem bọn chúng có cách gì”.
Thích Kế Quang cười cười, dắt ngựa ở phía trước, Lục Tiệm kéo ngược trường trúc, bước nhanh theo sau. Đám Oa khấu muốn tiến không được, muốn lùi thì lại cảm thấy bất cam, chỉ biết đứng đằng xa chửi bới, Hai người Lục, Thích thấy vậy khoan khoái, nhìn nhau cười lớn. Thích Kế Quang cao giọng nói: “Mao Hải Phong, tạm thời nhớ lấy trận hôm nay, sau này gặp lại, Thích mỗ nhất định báo đáp”.
Mao Hải Phong toàn thân còn chưa hết tê dại, được thuộc hạ dìu đỡ, nghe thấy lời này, hổ thẹn căm phẫn không kìm được, lại bị một cây trúc của Lục Tiệm làm khó, nộ khí đầy bụng, nhưng lại không có cách gì.
Hai người đi được hai ba chục dặm, đến gần thành trì, đám Oa khấu mới không dám đuổi theo, tức giận thu binh rời đi. Thích Kế Quang thấy kẻ địch rút khỏi, thân hình nhè nhẹ lắc lư, chầm chậm dịch bước, ngồi lên một tảng đá lớn, thần sắc mệt mỏi vô cùng.
Lục Tiệm thấy vết thương trên vai y sâu vô cùng, một nửa áo bào đều bị máu tươi nhuộm ướt, lập tức vứt cây trúc xuống, bắt mạch cho y, truyền kiếp lực ra, cảm thấykinh mach của Thích Kế Quang hư nhược tắc nghẽn, rồi đem kiếp lực chuyển hóa thành nội lực, truyền vào trong kinh mạch, chỗ nào rỗng thì bù vào, chỗ nào đầy thì tiết ra.
Chân khí di chuyển vài vòng như vậy, vết thương của Thích Kế Quang ngừng chảy máy, tinh lực mạnh dần, chỉ là mất máu quá nhiều, sắc diện lộ ra vẻ tái trắng, mỉm cười nói: “Tại hạ Thích Kế Quang, tự Nguyên Kính, hôm nay bại trận, may được các hạ cứu giúp, xin được hỏi tôn danh?”.
Lục Tiệm buồn bã nói: “Ta tên là Lục Tiệm, tự cái gì thì không có. Việc hôm nay, đều trách ta. Ta chỉ cho rằng Oa khấu xấu xa, quan binh còn xấu xa hơn, biết rõ là Oa khấu mai phục, cũng không muốn quan tâm. Nếu như sớm biết ngươi là một tướng quân tốt như vậy, ta đã ra tay trước, các ngươi cũng không đến nỗi toàn quân chết hết.
Thích Kế Quang nhìn y, ngạc nhiên hỏi: Tại sao các hạ nói Oa khấu xấu xa, quan binh còn xấu xa hơn?”.
Lục Tiệm đem những điều nghe thấy dọc đường kể ra, rồi nói: “Đó gọi là Giặc qua như lược thưa, binh qua như lược bí, lão bách tính sợ Oa khấu, nhưng còn sợ quan binh hơn, thậm chí không ít người đầu nhập tứ đại khấu, quay lại đối đầu với quan binh”.
Thích Kế Quang đứng dậy đi hai bước, than: “Việc mà ngươi nói, tuy rằng ta đến đây chưa bao lâu, cũng có nghe qua, nhưng không ngờ lại đến mức như vậy. Xem ra, quân ta không chỉ đối đầu với Oa khấu, mà còn kẻ địch của bách tính đông nam, há có cái lý không bại chứ? Đáng hận là, đám Oa khấu này còn được lòng dân hơn quan quân Đại Minh ta, chẳng trách nào có thể bị tiêu diệt rồi lại nổi dậy, rốt cuộc không cách gì dẹp yên.
Hai người im lặng một hồi, Lục Tiệm hỏi: “Nghe khẩu âm, Thích tướng quân là người Sơn Đông?”.
Thích Kế Quang đáp: “Thích mỗ là người Bồng Lai ở Sơn Đông, xin đừng nhắc đến hai chữ tướng quân, Thích mỗ lớn hơn vài tuổi, nếu ngươi không chê bỏ, gọi ta một tiếng đại ca là được”.
Lục Tiệm cười nói: “Quê của đệ rất gần Sơn Đông, Thích đại ca, huynh người SơnĐông, tại sao lại làm quan đánh trận ở Chiết Giang?”.
Thích Kế Quang nói: “Oa loạn ở Phúc Kiến, Chiết Giang hung hãn nhất, quan quân địa phương không có sức chống giặc, vì vậy triều đình điều động tinh binh thiên hạ đến tăng cường ở Phúc Kiến, Chiết Giang. Nghe nói quan binh trong vùng Chiết Giang, gần thì đến từ Sơn Đông, Giang Tây, xa thì đến từ Lưỡng Việt, Quý Châu, ta vốn ở Sơn Đông phòng Oa, hai năm trước mới đến đây, còn như cầm binh đánh trận, cũng là chuyện trước đây chưa lâu…”. Nói đến đây, y dường như hiểu ra điều gì đó, trau mày, bỗng nhiên chìm vào suy nghĩ.
Lục Tiệm thấy y bỗng nhiên im lặng không nói, ngạc nhiên hỏi: “Thích đại ca, huynh nghĩ gì vậy?”.
Thích Kế Quang thở dài một tiếng, than: “Ta bỗng nhiên nghĩ tới một việc quan trọng. Lục huynh đệ, ngươi võ công cao cường, lực địch nghìn người. Nếu như có hai đạo Oa khấu, một đạo xâm phạm xóm làng của ngươi, một đạo xâm phạm xóm làng bên cạnh, ngươi cứu xóm làng mình trước, hay là cứu xóm làng bên cạnh trước?”.
Lục Tiệm buột miệng nói: “Tự nhiên là cứu xóm làng của mình trước”. Thích Kế Quang hỏi: “Vì sao?”. Lục Tiệm đáp: “Bởi vì ở xóm làng có gia gia đệ, còn có nhiều bà con quen biết, nếu như thấy chết mà không cứu, há không phải không có thiên lý sao?”.
Thích Kế Quang gật đầu nói: Nói rất đúng, đó chính là người không vì mình, trờ tru đất diệt, tuy rằng có chút khó nghe, nhưng cũng là cái lý thường tình. Người có thể xem xét kỹ càng đại thế của thiên hạ, suy cho cùng cũng không nhiều; bách tính quê hương đối diện với cái họa diệt vong, tự cứu còn không có thời gian rảnh, há có thể quan tâm đến người khác? Quan binh vùng Chiết Giang quân kỷ bại hoại, sai là ở chỗ quan binh đa phần là đến từ nơi khác, cha mẹ con cái, bạn bèn thân thiết của những người này đều ở quê hương, tự nhiên là cảm thấy bách tính Phúc Kiến, Chiết Giang không liên can gì dến mình, khi đánh trận, đều tham sống sợ chết. Thêm nữa là tướng lĩnh ước thức bất lực, còn có kẻ vô liêm sỉ, ỷ ở nơi đất khách xa xôi, không có người đốc thúc, làm những việc còn ác độc hơn Oa khấu gấp mười lần”.
Lục Tiệm bỗng nhiên hiểu rõ, buột miệng nói: “Đúng vậy, đệ trên đường đi, thấy quan binh tác ác, nói chuyện đều không phải là tiếng địa phương Ngô Việt, giọng nam điệu bắc, vùng nào cũng có”.
Thích Kế Quang gật đầu nói: “Cho nên nói, nếu như dùng binh, không bằng dùng bà con địa phương, bọn họ tuy không hiểu quốc gia đại nghĩa gì, nhưng nếu như canh giữ quê hương, an nguy của cha me vợ con gần ngay trước mắt, Lục huynh đệ, đổi lại là ngươi, ngươi sẽ làm gì?”.
Lục Tiệm khảng khái nói: “Đệ tất nhiên thề chết khổ chiến, tuyệt đối không lùi lại nửa bước”.
“Nói rất hay”, Thích Kế Quang vỗ tay nói: “Đó gọi là đánh hổ phải cần huynh đệ ruột thịt, ra trận phải cần cha con. Muốn dẹp yên Oa khấu, việc đầu tiên là giải tán binh mã bốn phương, luyện một đội quân con em vùng Chiết Giang, nếu như có một đội tinh binh như vậy trong tay, đám Oa khấu không đáng để nói.
Lục Tiệm nghe vậy sóng lòng trào dâng, nhất thời cũng không biết nói gì mới tốt. Chợt thấy Thích Kế Quang vì quá kích động, động đến vến thương, lộ ra vẻ đau đớn. Lục Tiệm cuống quít bước lên, truyền nội lực vào. Thích Kế Quang đau đớn giảm đi, mỉm cười nói: “Lục huynh đệ, lại phiền ngươi rồi”