Thương Hải

Chương 12-1: Lục triều kim phấn (1)



Thích Kế Quang cao giọng nói:

– Chính là Thích mỗ, trước mặt có phải là Lô du kích không?

Đội quan binh tiến lại gần, một viên quan râu chữ bát nhìn hai người, ngạc nhiên nói:

– Tham tướng đại nhân sao lại chán nản như vậy? Những người khác đâu?

Thích Kế Quang buồn rầu thuật lại việc toàn quân bị tiêu diệt.

Lô du kích thở dài nói:

– Thích tham tướng, là ngài không phải rồi. Đã biết Hải phong tứ đại khấu là bọn đạo tặc vô cùng hung hãn thì không nên truy kích bọn chúng. Nếu đại nhân ở lại thành, mọi việc đã không xấu như vậy rồi.

Thích Kế Quang nói:

– Nuôi binh ngàn ngày, dùng binh một giờ. Phá tặc diệt khấu chính là chức trách của quan sở tại. Nếu ta chỉ cố thủ ở thành không làm gì thì chúng cũng sẽ đến cướp phá nơi khác thôi. Huống chi nếu chúng ta để bọn tặc khấu này tự tung tự tác thì không biết sẽ có bao nhiêu bách tính phải gia phá nhân vong, thê tử ly tán.

Lô du kích cười lạnh một tiếng nói:

– Tốt lắm, ta chỉ biết là chức trách của tham tướng đại nhân là phòng thủ đô thị. Hiện giờ toàn quân tan rã, nếu Hồ đại nhân hỏi tới, để xem ngài trả lời thế nào.

Thích Kế Quang mặc nhiên im lặng. Lô du kích tỏ vẻ hạnh tai lạc họa (cười trên sự đau khổ của người khác), đem đại đội nhân mã bỏ đi. Lục Tiệm không kìm được tức giận nói:

– Hắn xuất thành làm gì vậy? Oa khấu đang tàn hại bách tính, nếu hắn gặp phải sẽ bị chúng cắt đầu lập công.

– Không phải đâu – Thích Kế Quang nói – Kẻ này đảm lược cực nhỏ, tuy không nhũng nhiễu lương dân nhưng lúc giao chiến luôn lùi lại phía sau, vì vậy có ngoại hiệu là “toản địa lão thử” (con chuột chũi). Nếu hắn gặp Oa khấu tất sẽ lên ngựa chạy ngay.

– Hắn nói thật chứ? – Lục Tiệm nghe vậy không nhịn được cười, nhưng rồi lại lo lắng nói – Nghe hắn nói đại ca lần này bại trận, tình hình có vẻ bất diệu.

Thích Kế Quang cười cười không nói, đi vào trong quân doanh thông báo tình hình với giám quân, đồng thời để quân trung đại phu chữa trị vết thương.

Hai người ăn xong liền ngồi uống trà trong trướng. Thích Kế Quang trầm mặc cầm chén, lòng đầy tâm sự. Chưa được bao lâu, ngoài trướng vang lên tiếng bước chân vội vã, Lục Tiệm có dự cảm bất thường, lập tức đứng bật dậy, đột nhiên thấy cửa trướng mở ra, một đám quan sai dài bước tiến vào, kẻ đi đầu cao giọng nói:

– Thái Châu tham tướng Thích Kế Quang có ở đây không?

Thích Kế Quang đã chuẩn bị sẵn, liền uống nốt chén trà rồi từ từ đứng dậy nói:

– Chính là ta.

Viên quan sai cao giọng nói:

– Ta đến bắt ngươi.

Hai bên hắn vang lên tiếng khóa tay, thủ hạ bước lên trước để bắt người.

Lục Tiệm đại nộ, tiến lên một bước, song thủ phân ra chụp trúng hai cái khóa tay, hai tên quan sai cầm khóa gặp một luồng đại lực, chân đứng không vững, không tự chủ được lùi lại hai bước.

Tên quan sai đứng đầu kêu lên rầm rĩ, không ngờ Lục Tiệm thân hình nhất động, hữu thủ chụp vào cổ hắn quát lớn:

– Tại sao ngươi đến bắt người?

Thích Kế Quang không chờ viên quan sai trả lời, vội nói:

– Lục Tiệm, ngươi không cần phải làm vậy. Ta bại trận nhục quốc, lý đương nhiên phải tiếp thụ quân pháp.

Lục Tiệm run lên một cái, buông tên quan sai đó ra nói:

– Nếu làm như đại ca mà bị phạt thì sau này ai còn dám cầm binh xuất trận nữa.

– Huynh đệ, ngươi có điều còn không biết – Thích Kế Quang thở dài nói – tướng quân dụng binh tất phải cầu thắng. Một khi thất bại, lại làm mất đi tính mệnh của bao người, nếu như không chịu hình phạt thì làm sao đối diện với những binh sĩ đã tử trận.

Lục Tiệm không biết nói thế nào, hữu thủ từ từ buông ra.

Tên quan sai đó mặt mày thất sắc, vừa sợ vừa giận gào lên:

– Tốt lắm, Thích Kế Quang ngươi dám công nhiên chống lại à?

– Quan gia quá lời – Thích Kế Quang lắc đầu nói – nghĩa đệ của ta không biết quy củ quan trường, mong ngài rộng lượng.

Tên quan sai đó cười lạnh nói:

– Muốn bỏ qua cũng được

Nói xong đưa tay ra quát:

– Đưa đây.

Thích Kế Quang run lên một cái nói:

– Cái gì?

Tên quan sai liếc y một cái, lạnh nhạt nói:

– Óc ngươi là bã đậu chắc, ta nói thế chưa đủ hay sao?

Thích Kế Quang hoảng hốt nói:

– Ngươi muốn bao nhiêu?

Tên quan sai cười nói:

– Ngươi là tham tướng, chức vị không nhỏ, ngoài lương bổng còn ăn chặn của lão bách tính, trong túi không có một ngàn lượng thì cũng tám trăm. Ta không lấy nhiều, chỉ cần hai trăm lượng.

Thích Kế Quang nhín mày, chuyển mình vào trong lấy ra một cái hòm gỗ, mở hòm lấy ra một ít bạc vụn, không kìm được cười khổ nói:

– Thích mỗ trong tay chỉ có hai lượng bạc, nếu quan gia cần xin thu lấy toàn bộ.

Tên quan sai biến sắc, lật tung hòm khiến bạc lẻ tung tóe khắp mặt đất, lạc giọng nói:

– Thích Kế Quang, ngươi quả là to gan, tang sư nhục quốc, công nhiên chống đối không khai, lại còn hối lộ quan sai, tội tăng gấp hai lần. Đợi đến Nam Kinh xem Hồ đại nhân xử lý ngươi thế nào …

Thích Kế Quang mày rậm nhíu lại, trong mắt hiện sắc giận. Lục Tiệm tiến lên một bước, cầm lấy cái túi trên bàn cười lạnh nói:

– Ngươi muốn ngân lượng sao? Có đây.

Tên quan sai đó nhận túi, cảm thấy thập phần trầm trọng, mở ra chỉ thấy trắng xóa quả là quan ngân, không kìm được cười sung sướng, liền ra lệnh cho thuộc hạ, bản thân cũng cúi xuống nhặt hết bạc rơi trên mặt đất cho vào tay áo, cười ha hả nói:

– Nói hay lắm, hay lắm, có ngân lượng nói gì cũng hay.

Rồi chuyển thân gọi gia nhân nói:

– Khóa tay tham tướng đại nhân lại, nhưng đừng khóa chặt quá. Lỏng một chút là được.

Chúng gia nhân ứng tiếng khóa tay Thích Kế Quang đưa ra ngoài trướng, chỉ thẩy trước trướng tụ tập toàn tướng sĩ đứng hai bên xem nhiệt náo, thấy Thích Kế Quang đi ra thì chỉ chỉ trỏ trỏ, hi hi ha ha.

Lục Tiệm thấy quan binh như vậy, trong lòng nổi lên một nỗi bi phẫn không tên, nghiến chặt răng đi theo sau đám quan sai.

Sau khi rời khỏi quân doanh, tên quan sai thấy Lục Tiệm vẫn đi theo phía sau liền nổi giận nói:

– Ngươi muốn đi đâu?

Lục Tiệm nói:

– Ta đi Nam Kinh.

Tên đầu mục nghi hoặc nói:

– Nói càn. Bọn ta đi Nam Kinh, sao ngươi cũng lại đi Nam Kinh.

Lục Tiệm cười lạnh nói:

– Đường lớn mỗi người một bên, ta đi có việc của ta, ngươi ngăn cản được sao?

Tên đầu mục phùng râu nói:

– Ngươi mà muốn cứu y, thật đúng là tự đi vào tử lộ.

Lục Tiệm nói:

– Nếu ta muốn cứu người, bằng vào đám phế vật các ngươi liệu có ngăn cản được không?

Tên đầu mục đại nộ, định cất lời thóa mạ, lại nghĩ đến thân thủ của Lục Tiệm, lời nói chưa ra đến miệng đánh nuột vào, nhìn Lục Tiệm tỏ vẻ khiếp sợ. Đột nhiên nghe Thích Kế Quang thở dài nói:

– Huynh đệ, ngươi nói muốn hồi hương mà, cần gì phải đi theo ta chứ.

Lục Tiệm lắc đầu nói:

– Ta không hồi hương nữa. Số tiền 120 lượng vừa rồi chính là tiền để hồi hương. Hiện giờ đã không thể quay về, ta cũng đi cùng đến Nam Kinh, dọc đường có thể nhờ quan gia kiếm cơm ăn.

Tên quan sai đó miệng méo xệch, chỉ hận không thể chửi Lục Tiệm mấy tiếng, thực ra cũng không có khả năng làm chuyện đó, duy trong tâm bực bội không thoát được.

Thích Kế Quang biết Lục Tiệm nói một hồi như vậy, thực ra là vì lo lắng thương thế của mình chưa lành, sợ trên đường quan sai ám hại nên cố ý đi cùng để bảo vệ, bất giá trong lòng cảm đổng, thở dài một tiếng.

Chúng nhân trong khi thượng lộ, cứ có cá thịt gà vịt là Lục Tiệm đoạt lấy cho Thích Kế Quang ăn trước, uống nước cũng uống thử trước rồi mới đưa cho Thích Kế Quang uống, lúc ngủ cũng ở bên phòng bị, thấy gì tốt đều bằng vào võ công để cường đoạt quá lai cho Thích Kế Quang dùng.

Chúng quan sai tức giận thóa mạ, Lục Tiệm cười nói:

– Ta đã đưa cho sai gia 120 lượng bạc đó thôi. Quan sai tiền nhiều khí lớn, không ngại tiếp tục mua rau ngon thuê phòng tốt, đi cùng với tù phạm khiến ta mở rộng tầm mắt.

Y không phải là tù phạm, võ công lại cao, huống hồ chúng quan sai thực đã lấy tiền của y trước đó, bọn chúng ít người nên dù phẫn nộ cũng không dám làm gì bất lợi.

Thích Kế Quang nhíu mày nói:

– Huynh đệ, ngươi có đến Nam Kinh cũng vô bổ, hà tất vì ca ca mà phải chịu tội.

Lục Tiệm nói:

– Đại ca và ta lúc kết bái chẳng phải đã nói đồng cam khổ, cộng hoạn nạn, chút gian khổ trên đường này có đáng gì. Khi đến Nam Kinh không biết đại nhân đối với đại ca công bằng hay bất công. Nếu là bất công ta sẽ nhập lao cướp đại ca ra, chúng ta ra giang hồ tiêu diêu khoái hoạt.

Thích Kế Quang nghiêm mặt nói:

– Vạn lần không thể, Thích gia của ta từ khi khai quốc đến nay là một trong sáu đại tướng môn, nhiều đời chịu quốc ân, sống là minh thần chết là minh quỷ, hơn nữa đích thực đã ra quân bại trận, có bị Hồ đại nhân chém đầu cũng xứng đáng. Việc vượt ngục đào tẩu không được nhắc đến nữa, nếu không hai người chúng ta sẽ ân đoạn nghĩa tuyệt, vi huynh nhất định sẽ không nhận nghĩa đệ nhà ngươi nữa.

Lục Tiệm nghe y quyết liệt như vậy bất giác ách khẩu, trong lòng biết rõ kiếp nhân kiếp ngục là như thế nào, nhưng lại không thể nói gì, trong lúc khẩn cấp lại nghĩ nếu Cốc Chẩn có ở đây tất nhiên sẽ nghĩ ra được biện pháp nhất cử lưỡng đắc, chỉ là không biết giờ này hắn đã ở đâu rồi, nhớ tới ngày hôm đó chỉ vì lời nói của Doanh Vạn Thành, chưa minh bạch sự tình đã bỏ Cốc Chẩn mà đi, giờ đây ngoài hối hận còn thực sự rất đau lòng.

Đoàn người cứ thế đi, không biết đã qua bao ngày nhưng cũng gần tới được Nam Kinh. Ngày hôm đó đột nhiên thấy phía trước xuất hiện một tòa lương đình, bên cạnh đình là một quán trà đón khách đường xa. Chúng nhân đúng lúc đang khát nước thì lại gặp quán trà, tức thì nhốn nháo reo lên, tiến vội về phía đình, gọi lấy trà uống.

Thích Kế Quang tay chân bị trói, hành động không được tự nhiên, Lục Tiệm liền cầm hai ấm trà tới, một ấm đưa cho y, một ấm tự mình uống. Trong lúc uống trà đột nhiên nghe có tiếng xe ngựa, nhìn ra thì thấy một cỗ xe song mã đang tiến tới, trên xe là một văn sĩ áo xanh, mặt vuông dài, thiên đình nở rộng, môi đỏ râu đen, có vẻ như người chuyên nghề vẽ.

Lục Tiệm trong tâm chợt động, cảm giác như đã gặp người này ở đâu đó, nghĩ lại quả nhiên nhớ ra được, chính là nam nhân đứng bên phải chiếc ghế trong họa tượng tổ sư, bất quá người trong họa tượng trên mặt có vết sẹo, thần thái phi thường, anh hùng hơn văn sĩ này nhiều. Dong xe là một nam tử vấn khăn, áo tơi giày cỏ, ngoài ra còn có một lão già đi bộ theo. Lão già này đầu to cổ nhỏ, trán đầy nếp nhăn, mình mặc nho sam nhưng phía trên vắt chéo, phía dưới cắt ngắn như đoản y, trông chẳng ra chủ hay tớ, khó mà hiểu được.

Lục Tiệm nhìn thấy hai người này bỗng có cảm giác bất an, hận không thể chạy ngay khỏi nơi này, trong lúc đang cố gắng đè nén cảm giác quái dị đó thì ba người kia đã tiến đến gần. Thanh y văn sĩ tuy tuấn tú nhưng niên kỷ không nhỏ, khóe mắt đã có nhiều nếp nhăn, ngồi trên xe, chỗ đáng lẽ là hai chân y thì chỉ thấy trường sam bay bay theo nhịp xe. Lục Tiệm thấy vậy, trong lúc đang cảm khái “người này là một thư sinh tốt, không ngờ lại là một phế nhân” chợt nghe tiếng động, nhìn ra thì thấy lão già đầu to đó hai môi máy động, đang nói gì đó, chỉ có người mặc áo tơi là thủy chung giấu mặt sau mũ tre, không nhìn được diện mục.

Thanh y văn sĩ đến giữa đình, thở phào nhẹ nhõm nói:

– Vị Quy, lấy cho ta một chén trà.

Người áo tơi liền từ sau xe lấy ra một chiếc chén nhỏ, bên ngoài vừa mỏng vừa trắng, sáng như ngọc, bên trong chén màu xanh phỉ thúy như nước chè, màu trắng thì yên tịnh, màu xanh thì thanh tân, vừa nhìn đã khiến cảm giác nóng bức tan biến mất. Văn sĩ tiếp lấy trà, vui vẻ cười một tiếng nói:

– Nếu có Bích Loa xuân mới hái thì tốt quá. Hiện giờ qua mùa lạnh đã lâu, dư hương mất đi, tư vị không được như cũ.

Lão già đầu to đột nhiên nói:

– Bích Loa xuân được xưng là Động Đình sơn trà. Trong Trà kinh của Lục Vũ đời Đường nói về tám loại trà đã viết: “Tô châu Trường châu sinh Động Đình sơn”. Cư Cận nhân Tùy Kiến Lục cũng viết “Động Đình sơn có trà, nhìn giống như giới trà nhưng nhỏ hơn, vị đậm, có hương thơm, tục gọi là “hách sát nhân”, trồng trên núi Bích Loa nên gọi là Bích Loa xuân …

Thanh y văn sĩ không chờ y nói xong đã quát lên:

– Nói lăng nhăng. Ta bất quá tùy khẩu nói về trà vị chứ đâu có hỏi về lai lịch trà.

Lão già đầu to nói:

– Đại quan trà luận của Tống Huy Tông có nói “Trà thì vị là quan trọng nhất. Mùi thơm có thể không đậm, chỉ cần có vị là đủ toàn diện. Chỉ có sản phẩm của Bắc Uyển là … “

Văn sĩ đó mặt hiện thần sắc khó chịu, lạnh nhạt nói:

– Ta nói về trà vị không phải nói về vị (uống) mà là về hương vị.

Lão già đầu to nói:

– Cũng theo Đại quan trà luận: “Trà có mùi hương riêng, không phải long xạ thì không so bì được. Phải chưng cất nghìn lần, đồng thời phải có dụng cụ uống đẹp đi cùng.” Chu Quyền của bản triều cũng có quyển Trà phổ, viết về “Huân hương trà pháp”: “trăm hoa có hương đều có thể dùng. Đang lúc hoa nở rộ thì dùng giấy bao bọc, trên đặt trà dưới đặt hoa, để vào chỗ kín gió, hoa héo thì thay hoa khác. Như vậy khi uống trà tự nhiên có hương khí khả ái …”

Văn sĩ biết rằng bất kể y phát hạ thế nào cũng không ra khỏi được đống trà kinh ngàn năm của Trung Hoa, bất giác cười khổ nói:

– Mạc Ất, ngươi im đi. Nếu ta không hỏi thì cấm không được nói một tiếng.

Lão già đầu to tức giận im tiếng, nam nhân áo tơi đột nhiên đặt bình trà xuống, quay người bỏ đi, chỉ một bước đã ra ngoài hai trượng, một bước nữa lại vượt thêm bốn trượng, lúc đầu còn có dáng đi bộ, nháy mắt đã chuyển sang tư thế chạy, nhân ảnh hóa thành một điểm lưu quang chớp mắt đã biến mất.

Người trong quán trà thấy thế sợ hãi, tưởng như đang nằm mộng. Lục Tiệm thất kinh, trong lòng tự nghĩ dù trước đây có Bắc Lạp Sư Môn hỗ trợ cũng không thể nào có được cước lực như y. Người này mới động thân đã như vậy, đến khi viễn phi bôn bào thì thật khó có thể hình dung, chắc chắn nhanh không kém gì chim bay trên trời. Thanh y văn sĩ bất giác lắc đầu thở dài, liếc Thích Kế Quang một cái, đột nhiên cười nói:

– Tướng quân trông rất uy vũ, không hiểu sao lại bị khóa lại như vậy, là phạm quân pháp hay tham ô …

Mạc Ất không nhịn được, chen vào nói:

– Về quân pháp, trong “Chu lễ” của Tảo Kiến Vu, quyển thứ tư “Ti mã”, phần “Ti mã pháp” viết …

Thanh y văn sĩ nhíu mày nói:

– Ai hỏi đến ngươi?

Mạc Ất lúng túng, hổ thẹn cúi đầu. Thích Kế Quang cười cười nói:

– Ta đâu dám tham ô. Thích mỗ truy khấu bất thành, bại trong tay Oa khấu, coi như phạm quân pháp.

Thanh y văn sĩ cười nói:

– Binh pháp có nói, cùng khấu vật bách (giặc cùng đường chớ đuổi) …

Mạc Ất vội nói tiếp:

– Câu này là từ Tôn Tử binh pháp, phần Quân tranh thiên. Tôn Tử viết: phàm là phép dụng binh …

Nói đang say sưa, đột nhiên nghe thanh y văn sĩ ho khan to một tiếng, thất kinh vội khép miệng lại.

Thích Kế Quang xua tay nói:

– Thích mỗ không phải gặp cùng khấu mà là bọn tặc khấu tinh nhuệ. Trong số tướng lĩnh không có ai chịu xuất binh nghênh chiến, chỉ cố gắng cố thủ kiên thành, ngồi xem giặc hoành hành. Thích mỗ tuổi ít khí thịnh, xuất sư truy kích, không ngờ bị trúng mai phục, thủ hạ binh tốt yếu nhược, bị Oa tặc phá tan, thật là xấu hổ.

Thanh y văn sĩ hơi trầm mặc, thở dài nói:

– Có câu “duệ tốt vật công, nhị binh vật thực” (gặp quân tinh nhuệ thì đừng tấn công, gặp quân đánh nhử thì đừng đuổi theo), ông phạm phải hai điều đại kị của binh gia, bảo sao không bại.

Thích Kế Quang bình sinh thích võ, ít nói đến binh pháp, lần này ra ngoài lại gặp một thư sinh lắm chuyện, buông lời nghị luận binh pháp, bất giác cười dài nói:

– Tiên sinh không lời nào không nói tới Tôn Tử binh pháp, e rằng không biết Tôn Tử binh pháp tuy có mười ba chương, từ ngữ tuy nhiều nhưng chân chính đắc dụng bất quá chỉ có một câu.

Văn sĩ nén không được, cười phá lên nói:

– Như tướng quân nói thì trừ một câu đó, còn lại binh pháp cái thế của Tôn Vũ toàn là lời thừa à?

– Thích mỗ sao dám nhục mạ tiên hiền – Thích Kế Quang thở dài nói – bất quá Tôn Tử binh pháp viết ra không phải cho chính mình mà dành cho đám vương hầu tướng quân tầm thường. Thực ra ông ta thiên phận dụng binh cực cao, chỉ là con ông ta sợ rằng người khác đọc không hiểu, nên lúc viết lại ngôn từ đã cố gắng viết chi tiết tinh tường. Lúc hành quân bố trận phải dựa vào từng cá nhân mà tính toán mới có thể không gặp thất bại, nếu như câu nệ từng chữ thì đâu phải thường thắng bất bại chi pháp. Tự cổ thường thắng bất bại chi tướng đều là những người nghĩ những điều người khác không nghĩ tới, làm những điều người khác không làm, có như vậy mới đánh là thắng, thắng không nhờ may mắn. Kẻ câu nệ binh pháp sẽ chết vì ngôn từ mà thôi.

Văn sĩ cười nói:

– Nói hay lắm, nhưng chưa biết câu duy nhất trong binh pháp của ngài là gì?

Thích Kế Quang cười nhẹ, cao giọng nói:

– “Năng nhân địch biến hóa nhi thủ thắng giả, vi chi thần” (dựa vào biến hóa của quân địch để thủ thắng mới là thần).

Văn sĩ chưa kịp đáp lại, Mạc Ất đã tiếp lời:

– Đó là câu thứ hai trong đệ lục thiên “Hư thật thiên” của Tôn Tử binh pháp.

– Trí nhớ các hạ tốt thật – Thích Kế Quang thở dài nói – khi lâm trận quyết chiến, sinh tử chỉ cách nhau một đường, thống lĩnh quân sĩ không có nhiều thời gian để nghĩ về binh pháp, chỉ có cách dựa vào hư thực để tùy nghi ứng biến. Thích mỗ đọc binh thư không biết bao nhiêu, nhưng chân chính nhớ kỹ chỉ có câu đó mà thôi.

– “Năng nhân địch biến hóa nhi thủ thắng giả, vi chi thần”, câu này hay lắm – văn sĩ cười to nói – nếu ngài không phải là bại quân chi tướng thì lời này thật động lòng người.

Thích Kế Quang không kìm được cười khổ. Văn sĩ đó cười xong hỏi:

– Thế nào, ngài không hài lòng sao? Nghe ngài nói rõ ràng am hiểu binh pháp, vì sao không liệu được mai phục? đã biết không địch lại được kẻ địch sao còn truy đuổi để tự chuốc nhục vào người?

Thích Kế Quang lắc đầu nói:

– Sở luận của túc hạ ta cũng biết, bất quá đạo của binh gia, truy hay không truy còn vì quốc gia đại nghĩa. Oa khấu hoành hành vô địch ở phía đông nam, quan binh Đại Minh chúng ta tham sinh úy tử, nghe phong thanh tặc phỉ đã bỏ chạy. Hiện giờ chư tướng thúc thủ, vạn dân oán khổ, nếu Thích mỗ chỉ tham giữ tính mệnh, thủ thành túng địch, thả cho tặc khấu hoành hành thì sao bằng loài chó lợn. Thích mỗ tuy không phải là thư sinh nhưng cũng biết đạo thánh hiền đã nói: “tự phản nhi súc, tuy thiên vạn nhân ngô vãng hĩ” (tự xét lại thấy mình làm đúng thì dù phải đối đầu với nghìn vạn người cũng coi như không). Nghìn vạn người còn không sợ, hà cớ gì phải sợ bọn Oa khấu con con.

Văn sĩ nghe xong, nhíu mày trầm ngâm không nói một lúc lâu. Lúc này chúng quan sai nghỉ ngơi đã xong liền gọi nhau lên đường. Văn sĩ đó đột nhiên lấy trong tay áo ra một nén bạc, cười nói:

– Chư vị quan gia, xin cứ nghỉ ngơi tiếp, tệ phó thủ đã mang trà chạy đi, khi y trở về tại hạ muốn được cùng các vị tướng quân đối ẩm một chung.

Chúng quan sai nhìn thấy ngân lượng không thể chối từ. Thích Kế Quang lại nói:

– Không dám khiến túc hạ phải phí tổn. Đường đến Nam Kinh không còn xa, Thích mỗ cũng muốn đến nhanh một chút, dù sống dù chết cũng một lần cho xong.

Văn sĩ cười cười, chỉ tay về phía đằng xa nói:

– Nhìn kìa, chẳng phải hắn đã về đấy thôi.

Chúng nhân nhìn ra, thấy phía cuối đường một điểm ảnh như gió tiến lại, trong khoảng khắc đã nhìn rõ hình trạng, đúng là nam tử mặc áo tơi lúc nãy, trong tay cầm một cái bình bôn đáo đến trước lương đình đột nhiên dừng chân lại. Y đang bôn tẩu như cuồng nhưng nói dừng là dừng được, thực khiến Lục Tiệm cảm thấy hãi dị. Văn sĩ cười nói:

– Châm hai chén trà.

Nam tử áo tơi cẩn thận đặt bình trà xuống, trong tay xuất hiện hai cái chén thận trọng rót trà.

Thích Kế Quang nhận chén trà, thấy nước trà một màu bích lục, nước vẫn sôi chưa dừng, phía trên bọt nước đang nổi lên, bất giác ngờ vực nói:

– Trà này lấy tại vùng phụ cận phải không?

Nam tử áo tơi không nói một lời, chỉ có văn sĩ cười nói:

– Trà này lấy từ trong thành ra.

– Nực cười – một tên quan sai cười nói – từ Nam Kinh đến đây ít nhất mười dặm, đi về phải mất hai mươi dặm, dù có công phu từ thành lấy được trà quay về đây thì trà sao có thể còn đang sôi được.

Thích Kế Quang lại cười nói:

– Thế gian thiếu gì kỳ nhân, dù có làm được như vậy cũng đâu có gì kỳ quái.

Nói xong nhẹ nhàng hớp một ngụm trà, từ từ thưởng thức rồi tán thưởng:

– Trà ngon, có điều Thích mỗ thô lỗ, không hiểu trà đạo, không biết xuất xứ của nó.

Văn sĩ cười nói:

– Trà này lá nhỏ như lưỡi chim sẻ, chính là đặc sản Bích Loa phong của Động Đình, nước trà có hương vị, ngoài nước từ suối Thạch Thanh của Vô Tích Huệ sơn không đâu có được. Ta không thích rượu, chỉ thích trà, xin lấy chén trà này để khích lệ tướng quân, chúc tướng quân sớm có ngày thoát xuất tù lung, lời nói hôm nay xin vạn lần đừng quên.

Thích Kế Quang cung tay cười nói:

– Đa tạ lời chúc, xin hỏi đại danh các hạ?

Văn sĩ lắc đầu cười nói:

– Ta chỉ là một phế nhân, ngài cứ gọi là thư sinh, tiện danh không tiện nói ra.

Thích Kế Quang khí vũ hiên ngang, văn sĩ không muốn thông danh y cũng không miễn cưỡng, cười một tiếng thoải mái rồi chuyển mình quay đi. Lục Tiệm đi theo phía sau, được hai bước đột nhiên sau lưng ớn lạnh, vội quay lại nhìn, thấy hai mắt nam tử áo tơi từ dưới chiếc mũ tre phát ra một đạo lệ mang như có đao phong rạch tới.

Mắt Lục Tiệm cảm thấy đau nhói, vội vàng chuyển nhãn, lại thấy Mạc Ất miệng đang lẩm nhẩm, hai mắt xuất hiện thần thái tự kỷ. Lục Tiệm trong tâm chấn động, không kìm được lùi nhanh về phía sau hai bước, vội vàng đứng chắn phía sau Thích Kế Quang. Không ngờ hàn khí đó thủy chung bất tán, đến khi họ đi được vài dặm, không còn nhìn thấy nam tử áo tơi và Mạc Ất nữa mới dần tiêu tán.

Thích Kế Quang thấy vậy ngạc nhiên nói:

– Huynh đệ, sắc diện sao lại khó coi như vậy?

Lục Tiệm nói:

– Đệ cũng không hiểu, chỉ thấy trong lòng bất an.

Thích Kế Quang trong lòng cũng có tâm sự, tiện miệng nói:

– Đã tới Nam Kinh, mọi việc đều do trời quyết định.

Lục Tiệm mặc nhiên không đáp, trước mắt thủy chung vẫn như thấy ánh mắt lạnh lẽo dưới nón tre của nam tử áo tơi, nhăn mặt nghĩ “ hai người đó là ai? tại sao khi ta thấy họ liền cảm thấy bất an, hận không thể chạy ra ngoài ngàn dặm”

Lục Tiệm đang lúc trong lòng trăm mối thì đã đến gần thành trì. Đoàn người sau khi vào thành liền thấy nhà cửa ngang dọc kín cả mười dặm, chu môn vạn hộ, toàn thành sáng rực. Gió thổi lạnh lẽo, ngày vừa tàn, trăng đang lên, bồi hồi nhìn bóng người qua lại, phảng phất có sự phồn hoa của Giang Nam. Đến tổng đốc nha môn, quan sai giao người hoàn tất, Thích Kế Quang nhập lao thẩm vấn, Lục Tiệm phải chia tay, trong lòng bất nhẫn, nắm chặt hai tay Thích Kế Quang mắt đỏ lên.

Thích Kế Quang thở dài nói:

– Tống quân thiên lí, chung tu nhất biệt (đưa người ngàn dặm rồi cũng phải chia tay). Huynh đệ, ngươi đưa ta tới đây, đại ca đời này kiếp này không thể nào quên.

Lao đầu thúc giục, hai người không biết làm thế nào đành sa lệ ly biệt. Lục Tiệm nhìn Thích Kế Quang nhập lao môn trong lòng trầm xuống, đi đi lại lại trước cổng tổng đốc phủ, nhìn quan viên ra ra vào vào thật không biết có thể nhờ ai giúp đỡ.

Đi qua lại suốt nửa ngày đã đói bụng, sờ khắp người không thấy gì, bây giờ mới nhớ ra là bao ngân lượng đã đưa cho đám quan sai, nhất thời cảm thấy bất lực, chuyển người đi đến đầu đường, chỉ thấy hai bên đường quán xá san sát, mùi cơm thịt thơm phức, bất giác không nhịn được nuốt nước miếng đánh ực. Trong lúc đang luống cuống bỗng bắp chân bị người ta đá phải. Nhưng Lục Tiệm linh giác thần thông, dù giữa vạn người vẫn có thể tiến thoái như thường, tuyệt không dễ bị người ta đá vào chân. Y kinh ngạc quay đầu nhìn lại, chính là “Kim Quy” Doanh Vạn Thành, trên trán đang dán thuốc cao, hai bên má đầy vết trầy xước, Lục Tiệm giật mình vui mừng nói:

– Ông đấy à, Cốc Chẩn đâu?

Doanh Vạn Thành sắc diện âm trầm, giận dữ hừ một tiếng, nói:

– Hắn chưa đến tìm ngươi sao?

Lục Tiệm ngạc nhiên nói:

– Hắn chẳng phải bị ông bắt giữ đấy sao, sao lại hỏi ta?

Doanh Vạn Thành vận khởi thần công “Quy Kính”, hai mắt nhìn khắp người Lục Tiệm vài lượt, cười nói:

– Thằng bé này tốt đấy, so với Cốc Chẩn thành thật hơn nhiều. Ngẫu nhiên gặp lại ở đây, chúng ta tới tửu lâu uống hai chung nhé?

Lục Tiệm hơi do dự, nhưng hắn một lòng muốn tìm nơi hạ lạc của Cốc Chẩn nên đành đáp ứng, đột nhiên thấy Doanh Vạn Thành cất bước đi trước, chân trái cà nhắc từng bước một. Lục Tiệm thấy y toàn thân thụ thương, trong lòng kinh nghi “võ công của y cao cường như thế, lại có thần công “Quy kính”, kẻ nào có thể đả thương y đến mức này. Y rõ ràng ở cùng một chỗ với Cốc Chẩn, hiện giờ y ở đây, Cốc Chẩn có thể đi đằng nào chứ?

Doanh Vạn Thành đi đến chỗ rẽ liền đi vào một tửu lâu lớn nhất, ngang nhiên ngồi xuống gọi tiểu nhị:

– Lão gia điểm thái (gọi đồ ăn).

Tiểu nhị thấy hắn y phục hoa lệ trong lòng đã cung kính ba phần, vội vàng cười nói:

– Lão viên ngoại xin cứ gọi.

Doanh Vạn Thành nói:

– Trước tiên tam bạch tam tiên, một đem chưng, hai đem nấu cách thủy

Tiểu nhị nghe vậy cười cầu tài nói:

– Lão viên ngoại xin nói minh bạch?

Doanh Vạn Thành cười nhạt nói:

– Uổng cho người làm tiểu nhị của một đại tửu lâu. Tam bạch là Thái Hồ tam bạch: tiểu ngân ngư, bạch tài ngư, bạch hà. Tam tiên là Trường Giang tam tiên: đao ngư, thì ngư, hà đồn. Hà đồn và bạch hà đem chưng, còn bốn loại kia nấu cách thủy.

Tiểu nhị do dự nói:

– Cả sáu món thì không ít đâu.

Doanh Vạn Thành cười lạnh nói:

– Sao, ngươi sợ ta ăn không hết chăng. Ăn không hết thì ta đem đi.

Tiểu nhị ứng tiếng chuẩn bị quay đi, Doanh Vạn Thành lại nói:

– Chậm đã, nếu có lấy cho ta một bát thang Ngọa Long Phượng Sồ.

Tiểu nhị lộ vẻ khó khăn, ngượng ngập nói:

– Lão viên ngoại, loại thang đó chưa từng nghe qua, xin hỏi cách làm như thế nào?

Doanh Vạn Thành cười nói:

– Dùng hai cân hoạt bảo (chỗ này có lẽ phải là bào ngư), bỏ lòng chỉ lấy thịt, lại thêm năm đôi cánh gà non rút xương thái nhỏ, trộn đều mấy thứ này với hạt tiêu, hành nghiền, vài loại rau mùi. Đun nửa giờ cho đến khi nước trong, vớt hết cái ra, chỉ giữ lấy nước. Bào ngư chính là ngọa long, cánh gà non là phượng sồ, vì vậy mới có tên gọi như thế. Ngươi đừng tưởng mang thứ linh tinh nấu lòe ta, vật liệu không đúng, lão gia ta nếm cái là biết.

Tiểu nhị đó vội cười đáp:

– Bản điếm mở đã có trăm năm, sao dám lừa gạt.

Tiểu nhị lộ vẻ khó khăn, ngượng ngập nói:

– Lão viên ngoại, loại thang đó chưa từng nghe qua, xin hỏi cách làm như thế nào?

Doanh Vạn Thành cười nói:

– Dùng hai cân hoạt bảo (chỗ này có lẽ phải là bào ngư), bỏ lòng chỉ lấy thịt, lại thêm năm đôi cánh gà non rút xương thái nhỏ, trộn đều mấy thứ này với hạt tiêu, hành nghiền, vài loại rau mùi. Đun nửa giờ cho đến khi nước trong, vớt hết cái ra, chỉ giữ lấy nước. Bào ngư chính là ngoạ long, cánh gà non là phượng sồ, vì vậy mới có tên gọi như thế. Ngươi đừng tưởng mang thứ linh tinh nấu loè ta, vật liệu không đúng, lão gia ta nếm cái là biết.

Tiểu nhị đó vội cười đáp:

– Bảm điếm mở đã có trăm năm, sao dám lừa gạt.

Doanh Vạn Thành gật gật đầu, nói tiếp:

– Ta còn muốn gọi một đôi chân ngỗng, mai rùa ninh nhừ, một bát rượu thuốc, một đĩa sò nướng, một bát phấn quyết Giang Dao Trụ, sò, hoa quả tươi cũng của Giang Dao Trụ, nơi khác lão gia không cần. Lại thêm thịt nướng Phổ Giang. Còn cua nữa, lão gia phát ốm vì cua biển rồi, cua đất chưng bốn con. Bướu lạc đà sa mạc một cái, hấp trong mật ong. Tay gấu Liêu Đông một cái, rang kỹ với hành tươi Sơn Đông. Nghêu lớn ở Tam Giang, mang đến cho lão gia một đôi để hấp rượu. Hừm, lão gia sợ đồ sống, thôi không gọi óc khỉ nữa. Mứt quả dính răng, thôi bỏ đi. Hai đĩa dưa tây, dưa tây phải là loại lấy ở Hàng Châu, nhớ phải cắt nhỏ cẩn thận, không được dính một chút cùi nào. Lại thêm nước ép hoa đào, đun sôi lấy 8 phần, ngào với đường, nhớ là phải theo đúng thứ tự như vậy, ngàn lần không được nhầm lẫn.

Nói xong, lại chọn thêm một bình Trạng Nguyên Hồng, hai bình danh tửu Tứ Xuyên. Lão vô cùng lão luyện làm cho tiểu nhị đổ hết cả mồ hôi đầu, đợi cho lão nói xong mới run rẩy đáp:

– Những thứ này quả là cần rất nhiều nguyên liệu, tiểu điếm không có đủ, phải sang các tửu lâu khác lấy về, vạn lần cũng không dám giấu diếm lão gia.

Lục Tiệm hỏi:

– Nhiều đồ ăn thế này, ăn sao cho hết?

Doanh Vạn Thành cười lạnh:

– Ăn không hết thì mang cho chó ăn.

Tiểu nhị thấy lão phóng khoáng như thế, không giấu được vẻ mặt hoan hỉ, vội vã đi vào bên trong.

Doanh Vạn Thành gật gật đầu, nói tiếp:

– Ta còn muốn gọi một đôi chân ngỗng, mai rùa ninh nhừ, một bát rượu thuốc, một đĩa sò nướng, một bát phấn quyết Giang Dao Trụ, sò, hoa quả tươi cũng của Giang Dao Trụ, nơi khác lão gia không cần. Lại thêm thịt nướng Phổ Giang. Còn cua nữa, lão gia phát ốm vì cua biển rồi, cua đất chưng bốn con. Bướu lạc đà sa mạc một cái, hấp trong mật ong. Tay gấu Liêu Đông một cái, rang kỹ với hành tươi Sơn Đông. Nghêu lớn ở Tam Giang, mang đến cho lão gia một đôi để hấp rượu. Hừm, lão gia sợ đồ sống, thôi không gọi óc khỉ nữa. Mứt quả dính răng, thôi bỏ đi. Hai đĩa dưa tây, dưa tây phải là loại lấy ở Hàng Châu, nhớ phải cắt nhỏ cẩn thận, không được dính một chút cùi nào. Lại thêm nước ép hoa đào, đun sôi lấy tám phần, ngào với đường, nhớ là phải theo đúng thứ tự như vậy, ngàn lần không được nhầm lẫn.

Nói xong, lại chọn thêm một bình Trạng Nguyên Hồng, hai bình danh tửu Tứ Xuyên. Lão vô cùng lão luyện làm cho tiểu nhị đổ hết cả mồ hôi đầu, đợi cho lão nói xong mới run rẩy đáp:

– Những thứ này quả là cần rất nhiều nguyên liệu, tiểu điếm không có đủ, phải sang các tửu lâu khác lấy về, vạn lần cũng không dám giấu diếm lão gia.

Lục Tiệm hỏi:

– Nhiều đồ ăn thế này, ăn sao cho hết?

Doanh Vạn Thành cười lạnh:

– Ăn không hết thì mang cho chó ăn.

Tiểu nhị thấy lão phóng khoáng như thế, không giấu được vẻ mặt hoan hỉ, vội vã đi vào bên trong.

Lục Tiệm đói đã lâu, ăn uống như lang như hổ, một hơi hết ba đĩa rau là no. Doanh Vạn Thanh ngược lại từ tốn cầm lấy đũa, gắp từng miếng một, nhai chậm rãi, mỗi món đều nếm qua, có điều bất luận là rau hay canh đều chỉ ăn một miếng, tuyệt không ăn nhiều, cách ăn rất khảo cứu, ăn cua lột vỏ, bỏ càng chỉnh tề, khéo léo bóc từng lớp từng lớp thịt như phi điệp, nếu miếng thịt quá lớn thì tách thành từng miếng nhỏ. Lục Tiệm không nhẫn nại được, hỏi:

– Doanh tiền bối, Cốc Chẩn đâu rồi?

Doanh Vạn Thành đang nếm thử món nghêu hấp rượu, nghe hỏi tới liền nói:

– Chạy rồi.

Lục Tiệm giật mình, trong lòng chợt đại ngộ “nguyên lai lão đầu này toàn thân thương tích, đích thị là do Cốc Chẩn gây ra.” Nghĩ đến việc Cốc Chẩn hý lộng lão kim quy này, Lục Tiệm bất giác không kìm được cúi đầu xuống cười thầm. Doanh Vạn Thành tức giận hừ một tiếng nói:

– Ta đuổi con thỏ con đó chạy về Nam Kinh, mấy lần gần bắt kịp đều bị hắn dùng gian kế trốn thoát, hừ, hiện giờ hắn trốn trong thành đông đúc, lão tử nhất thời không có trợ thủ nên chưa tóm được hắn.

Lục Tiệm thầm lược định tình hình, đột nhiên nhớ ra một việc liền hỏi:

– Doanh tiền bối, ta có một việc muốn thỉnh giáo, ngài là người nhiều kiến thức hoặc giả có thể giúp được chăng?

Doanh Vạn Thành đang cầm một miếng dưa, từ từ nhả hạt, liếc Lục Tiệm một cái hỏi:

– Việc gì?

Lục Tiệm nói:

– Ta có một người đại ca kết bái, đánh với Oa khấu bị bại trận, hiện đang trong lao lí, có cách nào cứu y ra không?

Doanh Vạn Thành giơ hai ngón tay lên, cười nói:

– Việc này dễ thôi, chỉ cần hai chữ.

Lục Tiệm ngạc nhiên nói:

– Hai chữ gì?

Doanh Vạn Thành cười ha hả nói:

– Ngân lượng.

Lục Tiệm không hiểu nói:

– Nói vậy nghĩa là sao?

Doanh Vạn Thành nói:

– Nếu người có ngân lượng, trước hết đút năm mươi lượng cho lao đầu (cai ngục), như vậy vị đại ca trong lao lí của ngươi sẽ không phải chịu nhục hình. Sau đó tới môn hạ của tổng đốc phủ đút một trăm lượng để được gặp nội phủ tổng quản, đút cho tổng quản ba trăm lượng để gặp sư gia, đút cho sư gia ba trăm lượng để gặp tổng đốc, đút cho tổng đốc hai ngàn lượng để gặp giám quân, đút cho giám quân hai nghìn lượng nữa, ha ha, tổng cộng chỉ mất 4750 lượng. Nếu thất bại có thể tìm đến thân nương của hoàng đế lão tử thì việc gì chẳng xong.

Lục Tiệm lắc đầu nói:

– Ngân lượng thì ta không có.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.