Tới nơi, thể theo ý của Cha Hoàn, nguyên nhóm chọn cái bàn nằm gần đài phun nước ở sau hè quán nhỏ; lúc bấy giờ chỗ này không có khách nào ngồi trước nên hết sức thuận tiện trong việc nói chuyện riêng.
Đôi “vợ chồng một thuở” Tuyết Mai – Duy Khánh vừa ca xong bài “Các anh các chị”, sáng tác này của nhạc sĩ nào không rõ.
Cha Hoàn kêu một ly chè “Sương Nguyệt Ánh”, ở trỏng bỏ sương sâm, sương sa, sương sáo, hột lựu, bánh lọt và đá bào rồi chan nước cốt dừa và rắc đậu phộng rang giã nhuyễn lên trên; trước đây chủ quán bán chè theo kiểu “Buffet”, tức muốn ăn sao thì biểu quán làm vậy, về sau có cự nự mắc – rẻ nên chủ quán đặt tên riêng cho từng cách bỏ và định giá sẵn cho khỏi mất công lôi thôi.
Còn bốn người kia gọi cho mình một món ăn chơi đơn giản.
Nguyễn Chí Công nhỏ nhẹ hỏi:
– Thưa Cha, Cha có thể cho con biết vì căn cớ nào mà Cha phải gửi con lên Sài Gòn không?
Matthias Hoàn trầm ngâm một đỗi, rồi mới thở hắt ra và giãi bày:
– Cha không nuôi nổi con, vì con gái của Cha đang cần tiền để học Đại Học.
Vả chăng, “má Hai” của con đã phái người tới ám sát con nên Cha phải nhờ cảnh sát Tống Nhạn lo giùm.
Ai ngờ đâu Nhạn gãy cánh mà Kỳ Lân cũng mất đuôi luôn.
– Bác sĩ Pháp Y Lê Vĩ Kỳ, cha của Mục sư Martino Lê Vỹ Khiêm, có phải không Cha? – Lê Đức Hoàng nghiêm mặt hỏi.
– Gia đình đó đó.
Rồi Matthias Hoàn lại thở dài thườn thượt.
Đức Hoàng khoanh tay trước ngực mà hỏi:
– Vậy còn Linh mục John the Baptist Trương Tấn Khải thì sao Cha?
– À, nó hả? Cha là thủy thủ, mẹ làm trong hãng nước mắm Phú Quốc, quanh năm hôi mùi cá, mắm và sống đời cơ cực, nhọc nhằn.
Tới khi mẹ nó sinh thêm đứa thứ tư, nhận thấy đi biển và làm công cho người ta không khá, hai người mới tom góp vốn liếng mà lên thành phố mướn nhà ở và mở quán bán cơm bình dân.
Lần đó Cha Thành ghé quán ăn trưa, rồi bị lẫn sao đó mà không mang theo tiền; trong lúc ổng đang ngồi nghệch mặt ra không biết phải ăn nói thế nào cho người ta tin đặng chạy về xứ lấy tiền, thì nó tưởng ổng là diễn trò ăn quỵt nên tính chạy đi méc ba mẹ, rồi tự nhiên nó nhớ tới cảnh ông nội nó đã từng ăn cơm thiếu người ta nên động lòng trắc ẩn mà lại nói, “Thôi, ông về đi.
Có gì con nói lại với ba mẹ cho.” Ông sợ thằng nhỏ vì mình mà bị đập oan nên mượn điện thoại rồi gọi cho Cố Toàn tới “cứu giá”.
Cù cưa đến hơn hai tiếng đồng hồ, mọi chuyện đã được giải quyết êm đẹp.
Về sau, trong một lần đi giao cơm cho khách, hai cha con ghé qua xóm Đạo thăm Cha Thành, và có lẽ do Chúa gọi nên nó đã trở thành một người Công Giáo…
Nhân viên bưng món ngọt và đồ uống ra bàn nên Matthias Hoàn ngừng kể.
Vừa lấy muỗng xắn bánh flan dừa, Đức Hoàng vừa đưa mắt ngó nghiêng khoảng sân rợp bóng cây xanh.
Có thể do xăng tăng giá quá cao nên người ta ngại chạy xe tới đây ăn uống, tiền xăng bằng tiền ăn uống một bữa rưỡi luôn thành ra ngán cũng phải.
– Í…
Cũng may dĩa bánh flan dừa không bị đổ.
Nguyễn Chí Công nhân đó chửi thằng bạn Bảy Núi:
– Trời ơi, coi nó ngu như con bò không? Xắn bánh mà hai con mắt để ở Cung Trăng á.
Matthias Hoàn bật cười khinh khích.
Xấp nhỏ giống hệt ông và thằng Thành hồi còn trẻ dại, cũng ăn nói “hàm hồ” và giỡn nhây với nhau như vậy.
Tống Ngạn hỏi Matthias Hoàn:
– Dạ, Cha kể tiếp đi Cha.
– Ờ há…!Nãy Cha nói tới đâu rồi mấy con?
– Dạ, tới khúc Linh mục Khải theo Đạo rồi Cha…
– À…
Rồi Matthias Hoàn thuật chuyện Lm.
Khải trở thành Linh mục sau khi Cha Thành đổi tánh đổi nết để điều tra coi tại sao lại trở nên như vầy.
Nó xin Đức Cha Thái bổ nhiệm về Giáo xứ St.
Pio và được toại nguyện chỉ sau hai tuần.
Làm được đâu vài năm, kẻ giả mạo kia phát hiện nên cử người theo rình nó để tìm cơ hội khiến nó bị treo Chén.
Đức Hoàng đặt câu hỏi:
– Vậy giờ ổng được phục chức chưa Cha?
Vầng trán của Matthias Hoàn nhăn lại, đôi mắt ông vô tình ngước lên trên, khuôn miệng cũng mím chặt lại, chừng như ông đang suy nghĩ lung lắm.
Trong khi chờ câu trả lời của ông, xấp nhỏ ăn cho xong món ngọt của mình.
– Hình như chưa, con.
Khán Bình hỏi trong lúc múc một muỗng xôi xoài chan nước cốt dừa:
– Giờ ổng sống ̣đâu Cha?
– Không biết luôn…!Nó chắc đang làm “Hành trình trên đất phù sa”.
Khán Bình gật gù:
– Vậy là cũng sướng quá rồi.
Con chỉ sợ ổng buồn quá nghĩ quẩn thôi.
Matthias Hoàn vừa liếm muỗng vừa gật, gật đầu:
– Phải, hồi đầu Cha cũng lo giống con.
Sau nó xuôi xị mà lên đường đi du ngoạn chơi, Cha với mấy thằng bạn đồng tu biết nó bị oan mừng lắm.
Ngồi tâm sự to nhỏ chừng thêm một tiếng nữa, đôi bên mới ra về.
Bận về bị kẹt xe nên tốn thời gian hơn bận đi.
Chiếc xe cà-lết cà-lết theo dòng xe cộ chật nứt, rủi Chí Công mắc chứng huyết áp thấp nên bị lâu lư rồi sanh ra muốn ói.
– Nương tử ơi xin nàng đừng ói trên xe của ta nghe nương tử…!- Tống Ngạn rên bằng cải lương.
– Tao hổng có mắc ói, mày hát tao mới muốn ói đó…
Đức Hoàng càm ràm:
– Bình, mày lái xe hay chơi lắc vòng mà cái xe nó “chao dao” dữ vậy?
– Chê quá lên đây lái đi con.
– Mày muốn “về dưới” sớm thì tao cho toại nguyện.
Thả Matthias Hoàn về tận cổng trường Dòng Chúa Cứu Thế, nguyên nhóm mới an tâm tới tòa soạn “Nếp Sống Mới” làm việc.
– Ê, chủ biên kiếm mấy người nãy giờ kìa.
Tống Ngạn nhướng cao đôi lông mày rậm, mỗi lần thằng cha chủ biên “triệu hồi” là y như rằng bài của bọn họ bị yêu cầu sửa lại và sửa bỏ những đoạn phê bình nặng lời.
Phòng của chủ biên nằm trên lầu Hai, nằm đối diện với bờ sông Sài Gòn, ấy vậy mà quanh năm cửa đóng then cài, rất hiếm hoi mở ra để đón khí trời và ánh sáng tự nhiên.
Trong phòng bày một bộ bàn ghế gỗ xoan đào, về phần ghế có lót thêm nệm nhung để ngồi đỡ ê mông.
Chỉ có một dãy tủ – kệ kê sát tường ở mé tay trái, tay mặt và sau lưng bàn làm việc của chủ biên để trống đặng lắp cửa sổ chạm trần.
Máy điều hòa chạy êm tới nỗi không biết nó đang hoạt động.
Ở đây còn có tủ lạnh và máy làm nước nóng – lạnh riêng.
– Thưa chủ biên…!- Đức Hoàng xụ mặt cất lời.
Một người đàn ông mắt lé kim, dáng người nhỏ con, nụ cười y chang mấy con mèo chiêu Tài bán đầy ngoài chợ, tướng đi hèn ơi là hèn, bước lại xun xoe mời bốn đứa ngồi.
– Thôi khỏi…!Muốn chúng tôi sửa thế nào? – Khán Bình vô thẳng vấn đề.
– Hi hi, sao nóng tính thế? Mời các cậu ngồi.
Chí Công chắp tay và cười mơn nói:
– Dạ thưa chủ biên, chúng em không muốn làm chủ biên mất thời gian ạ.
Giờ chủ biên muốn chúng em sửa ra sao, nói mau lên để chúng em về sửa bài ạ…
Chủ biên nhìn Chí Công bằng ánh mắt sửng cồ.
Ông cố gắng dằn cơn nóng xuống, rồi húng hắng giọng bảo:
– Tôi khuyên các cậu mãi mà các cậu không chịu nghe.
Viết như thế này là chết tòa soạn rồi.
Gì đâu mà vạch mặt thẳng tưng, thiếu điều muốn lột luôn đồ lót của người ta ra viết.
Đức Hoàng gằn giọng:
– Nó tham nhũng thì kêu mẹ là nó tham nhũng.
Hay phải viết văn chương bóng bẩy là “Gây thất thoát nghiêm trọng”, người hay cái thủy điện xả lũ mà gây thất thoát?
– Tôi van các cậu…!Làm ơn làm phước sửa bài lại đi mà…
Tống Ngạn biết ông Bắc Kỳ này có vợ đang ở cữ nên đang rất cần chỗ làm ổn định, thành ra gã day qua khuyên mấy thằng bạn thiết về sửa bài.
Tuy trong lòng vô cùng bất mãn nhưng đứa nào cũng gượng nghe theo lời của gã.
Trước lúc rời khỏi phòng làm việc của chủ biên, Đức Hoàng buông xuống một câu:
– “Nếp Sống mới” mà chủ trương lại là “Nếp Sống hèn”.
oOo
Henrico Thạnh đang ngồi nghêu ngao hát bài “Nếu đời không có em” của nhạc sĩ Hoàng Trang cho nhỏ bạn thân nghe:
“…!Nếu biết anh nghèo, em yêu anh không!
Mai sau nếu mộng đôi ta nằm chết, vì mẹ cha không đồng ý, chúng ta cách biệt không em?”
Rồi anh kết luận:
– Bài này tui chỉ mới thấy có “Nhạn trắng Gò Công” Phương Dung ca, chớ không tìm được ai hát nữa.
Giờ người ta toàn biểu diễn bài “Nếu đời không có anh”, rồi ngộ nhận bài này với bài “Nếu đời không có em” là một.
– Ở Việt Nam có ai viết cốt truyện na ná “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” không ông?
– Có cuốn “Tóc mây” của nữ sĩ Lệ Hằng.
– Hình như mấy người viết chuyện tình giới cấm toàn là phái nữ.
– Ai biểu mấy bà hay mơ mộng hơn tụi tui?
– Ừ, yêu quá hóa hận thì tụi tui lãnh nhiều.
Nói chuyện chơi thêm vài câu nữa, cô Tư Lành cáo từ để về nhà nấu cơm cho gia đình.
Cô vẫn chưa kết hôn vì cha mẹ đau yếu liên miên nên không muốn làm dâu nhà người.
Hễ bà bếp bận là cô lại đem cơm qua mời thằng bạn thiết.
Cũng có nhiều lời xì xầm không hay, song cô và nó vẫn tỉnh queo bởi hai đứa có gì với nhau đâu mà phải sợ miệng lưỡi thiên hạ?
Còn lại mình ên, Henrico Thạnh đi tưới mấy liếp rau cải trồng ven con mương sau hè.
Anh trồng xà-lách xoong, một số giống cải bẹ xanh và rau om, rau ngổ; có người bà con thương tình mà mua rau của anh rồi đem ra ngoài chợ bán lại kiếm lời chút đỉnh.
Anh thích ăn giá nên cũng ương vài thùng, tuy hình dạng xấu quắc nhưng được cái rất sạch và tươi ngon, đem nấu canh chua đã lắm.
Chợt con Pull sủa lên vài tiếng, nó thường ngày hiền khô như đất, chỉ khi nào có người lạ xớ rớ ngoài cổng mới cất giọng báo động.
– Pull, nín nghen mậy? Sủa hoài vậy?
– “Con ơi mở cửa cho Thầy vào/ Thầy đứng ngoài rào Thầy mỏi chân ghê”.
Henrico Thạnh phì cười:
– Tối ngày Thầy cứ ghẹo tụi con.
– Tao đâu có vợ con gì nên phải ghẹo tụi bây đặng “lấy hơi” cho bớt buồn chớ.
Augustino Dương mặc thường phục xuống đây.
Ông vẫn vậy, lúc nào cũng cười như thể tiền luôn rủng rỉnh túi và đời nhàn tản vô cùng.
À, xém nữa quên mất, ông còn mua hai trái sầu riêng Cái Mơn thiệt ngon; xuống Bến Tre mua sầu riêng làm quà biếu chẳng khác nào “chở củi về rừng”.
– Sao không mua thanh trà, Thầy?
Augustino Dương chỉ vô cái bịch nylon màu đen nằm nép dưới trái sầu riêng vỏ đã rất hườm:
– Đây nè…!Hai ký.
Đủ ăn móp mỏ chưa?
Henrico Thạnh cười ngỏn nghẻn và nói lời cảm ơn Thầy thật nồng đậm.
– Cây quách, cây bình bát có trái chưa? Vô dầm một ly cho tui uống thông giọng coi.
– Dạ, quách có, mà bình bát chưa.
Để con dẫn Thầy đi lụm vài trái vô dầm sữa đặc với đá bào ăn chơi.
Cây quách, có nơi còn gọi là cây gáo, thường thấy nhiều ở vùng Trà Vinh và nó cũng là đặc sản của mảnh đất hiền hòa này.
Nó là một bài thuốc quý mà ít người biết nhưng cũng đừng nên lạm dụng kẻo rước họa vào thân.
Thời gian cho trái của nó khá dài, từ tháng Mười Âm lịch cho tới khoảng cuối tháng Một Âm lịch, nhưng cũng có cây kéo dài đến tháng Hai.
Mùi vị của nó giống với sầu riêng, ai ưa thì ghiền lắm mà không ưng rồi bịt mũi chạy không kịp.
– Chỉ còn cái cây này cho trái thôi Thầy.
Nó đã hơn sáu mươi năm rồi, nên “sung” lắm.
Thường ngày, có người khác, hai người sẽ xưng hô Cha – Con, nhưng tới chừng gặp riêng như vầy họ lại gọi nhau là Thầy – Con.
Đó cũng là một cách ra ám hiệu để họ biết hoàn cảnh này ra sao để mà sửa lại cách ăn nói cho đúng hơn.
Hai thầy trò thi nhau lượm những trái quách có hình dáng giống hệt trái dừa.
Chợt xương sống của Augustino Dương kêu “Răng rắc”, ông ngồi bệt xuống đất cho đỡ đau lưng, mồ hôi trên trán bắt đầu tươm ra như đi xông hơi.
– Chết, có sao hôn Thầy?
– Ui, già cái nó trở chứng đau lưng ấy mà.
– Đau lưng hay cột sống có vấn đề? Thôi, Thầy vô nhà lên võng nằm nghỉ đi.
Để…!Trời ơi! Bỏ cái giỏ đệm xuống! Nặng gần chết mà cứ ham xách giùm hoài hà!
Augustino Dương cười cười bỏ cái giỏ đệm xuống, rồi đi một hơi ra hàng ba nơi nhà sau mà leo lên võng nghỉ mệt.
Chừng nửa tiếng sau, ông Linh mục nghe có tiếng bào đá vang lên trong chái bếp.
Ban nãy ông có mở tủ lạnh ra coi, thì thấy có lon sữa Ông Thọ đã khui sẵn và giữ trong túi zip có dây kéo; hồi nó còn nhỏ, Cha Thành hay pha sữa cacao nóng cho nó và mấy đứa kia chấm với bánh mì ăn lót lòng sau giờ học Giáo lý, tưởng mới đây thôi ai dè đã xa xuôi lắm rồi…!
– Thầy, uống cho mát đi Thầy.
Vừa nhận ly quách dầm từ tay con trai, Augustino Dương vừa cười tủm tỉm:
– Ờ, cảm ơn con.
Henrico Thạnh ngồi xuống cái đôn cây không có chạm trổ hay cẩn – nạm chi hết, rồi vắt tréo chân.
Gió chướng làm những tàng cây, tán lá sau hè lay động dữ dội.
Lá rơi dám chừng nhiều hơn lúc vào Thu.
Hai thầy trò được phen hít bụi cát no bụng, ai nấy thi nhau giấu mặt vô cánh tay mà ho và nhảy mũi sặc sụa.
– “Biên cương lá rơi Phước Thạnh con ơi…!Hai cái ly này còn ăn được không đây?”
– Thầy ơi, Thầy soạn câu kiểu gì mà ca trật nhịp hết trơn.
– Tui đâu phải soạn giả Viễn Châu hay Sáu Lầu đâu mà anh bắt bẻ này nọ.
Henrico Thạnh đánh trống lảng:
– Con nghĩ bụi xíu chắc hổng sao đâu.
Ở dơ sống lâu mà Thầy.
Augustino Dương bĩu môi và lườm con trai mà nói:
– Vậy hen?
Rồi ông lệnh:
– Ca chơi một bản coi bây.
– Thầy thích bài gì nè?
– “Chân dung” của nhạc sĩ Anh Việt Thu, mà tôi đã từng nghe qua giọng ca của Nhật Trường.
Henrico Thạnh cười trừ, biểu “Không biết”.
– Vậy thôi ca bài “Vang bóng” do nhạc sĩ Anh Việt Thu phổ từ thơ của thi sĩ Tường Linh đi, bài này chỉ thấy có mỗi mình Lệ Thu trình bày trong băng nhạc “Diễm Ca 5”.
Henrico Thạnh cất giọng “hát chay”:
“Ở đó có còn không anh?
Tháng Giêng mưa bụi tiếng trống chầu hát bộ Lễ Kỳ Yên…”
Augustino Dương để ly quách dầm lên cái đôn cây gần đó, rồi đứng đậy và đi lấy cây đàn guitar.
Trong lúc ấy, tiếng ca của Henrico Thạnh vẫn còn đang cất lên.
Anh gởi gắm tâm tình vào cơn gió chướng đang trêu ghẹo mảnh vườn con nơi sau hè.
Vòm trời xanh ngọc bích báo hiệu trưa nay nắng sẽ rất gắt và thời tiết thì vô cùng oi nồng.
Mùi hoa sứ nồng nàn ướp hương thơm cho khoảnh đất đầy cây lành trái ngọt.
– Hồi đó, mỗi bận Thầy chơi đờn guitar là nguyên đám bỏ chạy tán loạn.
– Còn giờ sao Thầy?
– Y chang.
Henrico Thành tỏ ra “long thể bất an”.
– Yên tâm đi, bây đàn, tao hát.
Sau vài lượt chỉnh lại phím bấm, coi lại dây đờn, Henrico Thạnh mới mời Thầy chọn bài để anh khảy.
– Con đờn cho Thầy bài “Mười sáu trăng tròn” của Nhật Trường – Trần Thiện Thanh đi.
Tự nhiên nghe Thầy ca xong nhạc phẩm trên, Henrico Thạnh buột miệng bình phẩm:
– Thấy thương cho Stephen Mỹ quá…
– Gì có thằng Mỹ ở đây nữa?
– Đâu có.
– Có, con mới nhắc tên nó mà.
– Có đâu.
– Giờ khai thiệt hay không? Hay đợi tao thọt cù-lét hửm?
Bất đắc dĩ Henrico Thạnh đành thuật lại chuyện cô Xuân mến Stephen Đoàn cho Thầy hay.
Nghe xong, Augustino Dương ngã vật xuống võng oán than:
– Hổng chịu đâu…!Hổng chịu đâu…
Ráng dằn cơn tức cười xuống, Henrico Thạnh hỏi Thầy anh:
– Sao hổng chịu vậy Thầy?
Augustino Dương ngồi bật dậy mà chỉ thẳng vô mặt con trai nuôi:
– Tao sợ là sợ Antonio Vũ bị làm hại.
Ta nói nó đẹp hơn Tiêu Ân Tuấn, da trắng hơn Cổ Thiên Lạc hồi trẻ, tướng tá đâu có thua Hà Gia Kính hay Lữ Lương Vỹ; hễ nó tới nhà Giáo dân là tao phải đi theo hộ tống vì tao sợ nó bị người ta thương quá hóa khùng mà chơi hàng gài.
Rồi ông buông tay xuống, và nhìn về hàng dừa cao vút xa xa mà kể lể:
– Tao cũng sợ Ignacio Cường bị dụ luôn.
Mặt mũi nó khôi vĩ quá mà, lại đường hoàng, chững chạc và có học thức.
Henrico Thạnh che miệng cười trộm, làm đôi mắt anh cong lại thành hình bán nguyệt.
– Còn mày nữa…!Mặt mày cũng bảnh tỏn, ăn nói có duyên, dù kiếm lòi hai con mắt mới thấy cái duyên, cái dùng của mày.
Rồi JB Khải, diện mạo tợ ngọc trác, bởi hồi nghe người ta đồn nó lẹo tẹo với nhỏ Theresa Thảo, tao tưởng thiệt không, tại nó đẹp đẽ quá mà.
Henrico Thạnh hết nhịn cười nổi nên đứng dậy vịn tường và ôm bụng cười rũ rượi.
Thầy của anh hãy còn đang “Tâm sự đời tôi”:
– Chúa ơi, con ngừa hết bốn thằng bô trai nhứt, còn thằng xấu từ đầu tới chân con ỷ y không để tâm, dè đâu nó…
– Trời ơi, Cha ơi Cha, anh Mỹ với cô Xuân đâu có chà lết gì với nhau đâu mà Cha làm quá lên vậy?
– “Lửa gần rơm, lâu ngày cũng bén” con ơi.
– Lửa bị điều lên giữ Giáo xứ St.
Pio rồi, còn Rơm đã tự dội mấy gáo nước mưa lên đầu mình.
Hết cháy nổi rồi Thầy ơi.
– Thầy vẫn lo con ơi.
– Thôi giờ mình lo kiếm gì ăn đi Thầy…!Trưa trờ trưa trật rồi…
Mặc cho cái lưng còn đau, Augustino Dương vẫn nằng nặc đòi đi bộ.
Sợ giữa đường “than ôi rụng cánh đại bàng”, Henrico Thạnh bèn dụ ông Cha nhiều chuyện đâm bang để mình chở vòng quanh thành phố một chuyến coi cảnh có bằng một góc quê Thầy không.
Ông chịu liền ngay tắp lự.
Vì ông không có sẵn nón bảo hộ nên Henrico Thạnh phải cuốc bộ ra đầu đường mua cho ông một cái.
Anh chọn màu xanh – vàng cho hợp với tánh tình rạng rỡ như nắng và tươi sáng như vòm trời ban trưa của người Cha Đạo.
Ở nhà, Augustino Dương vô nhà tắm sửa soạn một chút trước khi theo con trai “đi ngựa”.
Đợi khoảng hơn nửa tiếng, con trai ông mới lót tót xách nón về.
– Cha, Thầy xức dầu gì mà thơm dữ vậy?
– Chanel đó con.
– Trời đất ơi!
Augustino Dương ngoắc con trai vô phòng, rồi mở ba-lô lấy ra hộp chai dầu thơm của nam thuộc hãng “Versace”.
Ông hớn hở giới thiệu:
– Cái này là quà của con gái Cha Hoàn.
Mỗi người một chai, dựa trên tính cách của từng đứa.
Tuy mắc cỡ nhưng Henrico Thạnh vẫn xịt thử một chút để thử mùi.
Thực sự rất thơm và quyến rũ, mà lại không quá gắt và “phô trương”.
Dọc đường đi, Augustino Dương kể cho con trai nghe chuyện xưa tích cũ:
– Hồi đó, Đức Cha Trung cũng hay bị vậy.
Thầy quá đẹp trai và nổi bật nên khi không khoác áo dòng, lần nào cũng bị thiên hạ hay mấy bà, mấy cô mở lời gắm ghé cho mình.
Sau một sự hiểu lầm đáng tiếc, Thầy đã quyết không rời xa áo chùng thâm một lần nào.
Henrico Thạnh giựt bắn mình:
– Đáng tiếc với ai hả Thầy?
– Con thực sự muốn biết?
– Muốn.
– Cô ta bỏ thuốc vô ly nước của Đức Cha Trung, uống một hớp rồi Thầy mới hay nhưng…
Chiếc xe gắn máy phân khối lớn chở hai cha con băng qua một con lộ tráng nhựa mới coóng, hai bên đường cây trái sum sê, hương bông bưởi trắng và ổi xanh thoang thoảng khắp không gian.
Vì gần mương nước nên cây bần trổ bông – trái đặc rật: Những trái bần chín muồi rụng đầy dưới đất; còn hoa thì thưa thớt hơn, có lẽ là chúng quá nhẹ nên bị thổi rớt hết xuống mương nước.
Bên một bờ đất, một người đàn bà mặc đồ bộ, khoác áo mỏng tay dài để che nắng và đội nón lá đang đứng chẻ củi; “Làm dâu miệt vườn có buồn không cô?”, tự nhiên Augustino Dương muốn hé môi hỏi vậy ghê.
– Thầy ơi, sao Thầy không kể nữa…!Bộ…
Augustino Dương cười khì một cái thiệt lớn, rồi húng hắng giọng trước khi kể tiếp:
– Cũng may chưa có chuyện gì quá đáng.
GB Thành và Matthias Hoàn đã tới cứu Thầy kịp.
– Tại sao bả phải hại Đức Cha vậy Thầy?
– Để “hợp thức hóa” đứa con trai của cô ta và người tình giàu có, nên cô ta mới lấy Đức Cha Trung ra làm vật thế thân.
Henrico Thạnh lại hỏi danh tánh của đứa con của đôi tình nhân đó.
– Ernest Nguyễn Chí Công.
Đứa nhỏ đã lấy hết sự lương thiện và trong sáng về mình; còn bao nhiêu cái ác, khốn nạn, tàn tệ, thủ đoạn và nhục dục của cha mẹ mình, nó không bị nhiễm dù chỉ chút xíu.
Xe đang chạy ngon trớn thì phải ngừng lại để đậu vô lề đường đặng rộng chỗ cho chiếc xe hơi ngược chiều chạy.
Nhân đó, Augustino Dương bèn đứng đây hứng gió và nắng đường vườn.
Dưới đất không có chỗ nào sạch hết nên hai cha con không ai biểu ai mà tự giác dựa lưng vô cây bần cho đỡ mỏi lưng.
Vừa nhìn con cá tóp quẫy đuôi tranh ăn bần, Augustino Dương vừa hỏi con trai:
– Con biết ai là người đã đốt nhà dằn mặt mẹ con cô ta không?
Henrico Thạnh cho rằng đó là một người Giáo dân quá khích nào đó.
Augustino Dương giơ bàn tay phải lên, ngụ ý anh chỉ nói đúng có phân nửa.
Rồi ông thủng thẳng giải đáp:
– Tổng Giám Mục hiện thời đó.
– Trời đất ơi!
– Hồi đó Thầy còn là một tên du đãng, nhưng rất may không có tiền án – tiền sự, vì một lần bị gãy giò không có tiền chữa trị nên đã quen biết với GB Thành.
GB Thành lo lắng hết mực, coi như em trai trong nhà, nên “mưa dầm thấm lâu” đã cảm hóa được trái tim sa ngã của Thầy.
Henrico Thạnh tặc lưỡi như con thằn lằn.
– “Vết thù trên lưng con ngựa hoang”, cũng may con ngựa bị gãy giò nên mới hồi tâm tỉnh trí về lại đường ngay.
– Năm đó Đức Cha Thái bao nhiêu tuổi hả Cha?
– Hình như mới hơn mười lăm tuổi.
– Rồi sao xì ra được?
– Đức Cha Trung biết được tin này thông qua lần Xưng Tội của Thầy.
Cha đã khuyên Thầy nên đi đầu thú và chịu trách nhiệm về việc làm sai trái của mình.
Henrico Thạnh nhăn trán:
– Dạ, Đức Cha tính vậy rất đúng…
Augustino Dương ngó sở đáy đóng ở bờ đất tuốt tận đằng kia một đỗi, rồi vòng tay trước ngực mà nói:
– Ai ngờ đâu, ông cảnh sát trưởng vốn ghét hai mẹ con nhà đó nên đã phớt lờ lời đầu thú của Thầy.
Ổng ghi trong báo cáo với đại ý như sau, “Cậu đây sợ cha nuôi phát hiện mình hút thuốc nên ra cột đèn nhà hai má con này làm vài điếu, rồi vô ý vụt tàn thuốc vô can xăng do ai đó bỏ quên trên vỉa hè, rồi sau đó cơn gió vô tình mồi lửa gây cháy nhà, suy ra cậu này không có tội.”
Henrico Thạnh lại được dịp cười sặc sụa.
– Cái bản báo cáo trơ trẽn tới mức độ hai mẹ con nhà đó lên thẳng đồn tụng cho ổng một bài kinh dài gần nửa ngày trời.
Đợi cho con trai bớt cười, ông mới nói tiếp:
– Cha giảng Đạo có một buổi mà còn bị khan tiếng, ấy vậy mà hai mẹ con nhà đó đứng nói suốt mấy tiếng liền không hề hấn gì.
Võ công thâm hậu thiệt!
– Còn ông cảnh sát sao Cha?
– Kể từ dạo ấy, ông cảnh sát chết danh “Vô Thường”.
Chủ nhà ở bờ đất đối diện con mương chắc tưởng hai người là quân gian tà nên bước ra “coi mắt”.
Ông mặc độc cái quần đùi vải bố xanh lơ, nước da đen như màu bánh ít lá gai, mái tóc hớt cua sát rạt, còn chân thì mang đôi dép mủ rẻ tiền.
– Trời, thằng Thạnh ở trên Sài Gòn chớ ai! Đứng đây chi vậy con? Kiếm bác hả?
Henrico Thạnh cười tươi và thưa rằng:
– Dạ không, Thầy con thấy cảnh đẹp nên muốn đứng hóng gió xíu thôi.
Chừng ấy, ông mới nhìn kỹ hơn người khách đứng kế bên cạnh thằng Thạnh:
– Ờ, biểu anh đây nếu quởn thì lên nhà nhậu với bác nghen? Hổng có món gì quý giá hết nhưng cũng mong ghé chơi để làm vài ly với nhau ấy mà.
Augustino Dương ngắm thân hình nhỏ thó nhưng chắc nịch vì làm lụng cực nhọc của ông bạn trạc tuổi một đỗi, rồi khất rằng tháng sau mới xuống ăn nhậu được do phải về Sài Gòn vào sáng mơi.
– Trời ơi, nhậu nữa hả? Tính luyện “Xơ gan thần chưởng” hay gì?
Chị nhà ra cằn nhằn vài câu rồi bỏ đi vô nhà một hơi.
Ông bạn cười hề hề, nhìn hiền thật hiền, rồi nói nhỏ:
– Ẻm nói lẫy vậy chớ ẻm cưng tui lắm…!Anh được mấy đứa rồi? Có làm đám cháu nào chưa?
– Dạ, tôi là tu sĩ Công Giáo, nên không lập gia thất.
– Mèn đét ơi…!Vậy tui bậy quá ồi…!Thôi, mốt quởn anh đây lên ăn lẩu cháo cua đồng đập hột vịt lộn với nhà tui nhen?
Augustino Dương xoa xoa hai lòng bàn tay vào nhau:
– Dạ, vậy thì được.
Có gì tôi sẽ hùn vô một mớ.
– Ôi…!Qua ăn chơi với tui là tui vui rồi.
Bày đặt hùn hạp chi cho tốn tiền.
– Ăn nhậu riết tướng như con khô.
Vô nhà ăn cơm nè, xấp nhỏ đợi ông muốn xỉu luôn.
– Tui lợi liền nà…!Rầy tui hoài…
Đợi cho ông bác vô nhà rồi, Henrico Thạnh mới thuật lại:
– Bác Hai trai dễ bị viêm bao tử nên bác Hai gái rất lo, không ngày nào mà bà không cằn nhằn cử nhử ổng.
– Thầy mà lập gia thất thì không biết sao nhỉ?
– Thầy lại nói giống nhà văn Mai Thảo rồi…
– Thế thì trò cũng phải nói lại cho “ăn rơ” chứ?
– Dạ thôi, con là thằng miền Tây da nhuộm màu phù sa, sống kiếp tự do như lục bình trôi nổi trên Cửu Long Giang, không quen làm hoa thơm xứ khác đâu.
– Thành ra, Đức Cha Thái mới an tâm đưa con về đây làm việc.
Con là con, chẳng có hùa theo đứa nào hết.
Nói thiệt, có bữa Thầy ghé qua một Giáo xứ Nam Kỳ thấy họ nấu nồi bánh chưng to tổ bố thay cho nồi bánh tét bự tổ chảng, tự nhiên Thầy thấy dị gớm.
Mùi canh chua trái giác nấu cá rô đồng thơm phức bay lựng ra con mương nước.
Một đôi vợ chồng trẻ rời sở đáy mà lên bờ đất kế bên nhà vợ chồng bác Hai ăn trưa.
Trên tấm bạt màu xanh nước biển đã bày sẵn một mâm cơm gồm có một tượng canh chua, một dĩa trẹt đựng cá lòng tong chiên giòn và cà-ràng tép kho tiêu quéo với thịt ba rọi.
Vừa bới cơm vô chén của chồng, người vợ vừa càm ràm mấy đứa con đi học sao lâu dìa quá, hổng biết tụi nó có trốn ra quán Net chơi không.
Mới nói xong cái sột, từ sau lưng hai người có tiếng trẻ con, “Thưa ba, thưa má, con đi học mới dìa.” Thằng nhỏ và con nhỏ máng cặp của mình lên tay cầm xe đạp, rồi rửa tay sạch sẽ với gel diệt khuẩn – sát trùng mau khô.
Lúc bấy giờ người chồng mới dám mở miệng binh hai đứa con cưng, còn trách yêu vợ chú rằng sao mình hay rầy oan mấy đứa nhỏ quá.
Hai cha con sực nhớ tới cái bụng đói meo của mình nên quày quả trở lên xe để đến quán hủ tíu nhà cô Xuân.
Cài nón bảo hộ xong, Augustino Dương nói:
– Con biết tên Thánh của Cha Thái bắt nguồn từ nguyên cớ nào không?
Henrico Thạnh lắc đầu trong lúc ngó hai bên lộ coi có xe nào không để biết đường mà đi.
– Từ việc Đức Cha Trung đã bảo hộ các trẻ em cơ nhỡ và thai nhi bị phá nhưng chưa chết trong suốt cuộc đời phụng vụ Chúa và nhân loại của mình.
Hành động đó đã làm Cha Thái liên tưởng tới Thiên Thần Gabriel, nên đã chọn cái tên này để làm kỷ niệm với người cha nuôi dấu yêu.
Xui rủi sao có chiếc xe hàng né bốt thu phí nên chạy vô đường này nên hai thầy trò phải đứng lại nán chờ cho nó chạy khuất.
– Con có thấy đôi mắt của bức tượng Thiên Thần Gabriel giống ai không?
– Hình như…!giống Đức Cha Trung.
– Cô thợ đó yêu thầm Đức Cha Trung nên đã tạc đôi mắt của bức tượng giống hệt đôi mắt của Cha.
Tới chừng hoàn thành nguyên xứ mới bật ngửa, dì Năm lúc đó gặng hỏi cổ mới khóc nức nở và tỏ bày nguyên nhân.
Henrico Thạnh cởi nón bảo hộ ra để gãi cái đầu đầy mồ hôi.
Mớ tóc cắt ngắn của anh thơi thới để mặc cho gió chướng hà hơi mát rượi.
– Cha làm con nhớ tới bài nhạc Nga “Million roses” của nhạc sĩ Andrei Voznesensky…
– Bản Việt là “Triệu đóa hoa hồng” của nhạc sĩ Trung Kiên?
Sau nụ cười hóm hỉnh với con trai, Augustino Dương ngửng đầu nhìn lên vòm trời xanh diệu vợi mà nói với giọng buồn rười rượi:
– Thương thay cho những ai đã có tất cả lại tham lam đòi hỏi hơn thế nữa.
Tại sao không tô điểm cuộc đời này bằng màu sắc diễm lệ của triệu đóa hoa hồng, mà lại dụng tới máu nhân loại?
– Cô thợ đó sao Cha?
– Cổ có tất cả con à.
Nhưng vì tình yêu đơn phương với Đức Cha Trung, cổ đã đánh mất hết tương lai của mình…!Cũng may, cuối đời của cổ còn có một người đàn ông thương cổ hết mực…
Augustino Dương hồi tưởng lại dung mạo của người chị năm xưa.
Chị hay mượn ông làm “giao liên” để biết thêm tin tức của Đức Cha Trung; năm đó ông hãy còn ngờ nghệch nên chị hỏi gì đáp nấy chứ không biết mình đã vô tình làm cho Cha bị hiểu lầm và tổn thương danh dự.
Thành ra, sau này ông đâm ra sợ phái nữ, không dám thân cận hay nói chuyện với họ.
– Mà nè con…
– Sao Cha?
– Bản gốc là bài “Davaja Marina meitenei muzinu” của hai tác giả người Latvia Raymonds Pauls và Leons Briedis.
– À, vậy mà ai cũng nói là nhạc Nga.
– Nước người ta dù nhỏ xíu cách mấy thì cũng có chủ quyền con à.
Phải biết tôn trọng tác phẩm thuộc sở hữu trí tuệ của họ.
Henrico Thạnh cười tươi và gật đầu thật mạnh.
– Con thấy đó, một cái sai không sửa liền sẽ trở thành cái đúng được “mặc định” bởi đám đông.
– Nhưng rất khó để con biết đâu là mình sai và đâu là người đúng.
– Thì con phải chịu khó học nhiều, đọc nhiều và khai phóng đầu óc của bản thân.
Thiên hạ đâu có mắc nợ – mắc nần gì con mà phải bố thí kiến thức và chỉ đường dẫn lối cho con hoài.
Rồi Henrico Thành kể cho ông Cha yêu quý nghe chuyện tham dự “Lễ Mừng Thánh Bổn Mạng” của Giáo xứ: Số là như vầy, anh được Cha cố, Cha Sở và Cha Phó mời lên giảng Đạo.
Dẫu đã được “mời lơi” trước, nhưng anh vẫn bị khớp do không ngờ các vị đó biểu mình lên “nắm chánh quyền” thiệt.
Chắc trong lịch sử Kitô Giáo ở Nước này chưa có ông Linh mục nào đứng giảng mà run như cầy sấy giống anh, báo hại Giáo dân vừa ráng nín cười vừa hò nhau vỗ tay khích lệ tinh thần cho anh.
Augustino Dương góp vui:
– Hồi xưa, Đức Cha Trung hay gọi Giuse – Blanc Thành và Gabriel Thái là “Thành Thái niên chế”.
Henrico Thạnh cười mủm mỉm.
Anh theo Đạo thì Đức Cha Trung đã về với Chúa nên anh không biết chút gì về người Giám Mục đáng kính ấy, may nhờ còn có các Thầy nói cho biết.
– Sáng mơi con muốn ăn chi Cha làm? Hay là Cha với con xuống đìa tát cá, tép?
– Chưa tát đìa được đâu Cha…!Với lại, mình đang vô Mùa Chay mà?
Augustino Dương vỗ đùi cái đét:
– Ờ há, Cha quên.
Cô Xuân đã đi dạy học, nhà chỉ còn vợ chồng chú thím Năm.
Nhờ mấy sở đất phì nhiêu và màu mỡ mà gia đình khá dư dả, nhưng ngó tới cái nhà lụp xụp và xa xưa thì dễ khiến đám “trưởng giả học làm sang” xếp vô diện nghèo hèn.
Sẵn ê hề rau cải – trái cây, nên hai người bày quán nấu nướng cho vui.
Chú Năm đang chẻ củi trước sân.
Vừa làm vừa nghe Giao Linh ca bài “Khổ qua” mà nhạc sĩ Hoàng Trang viết tặng vợ mình, tức là bà Nguyễn Thị Hồng.
Sau khi cất tiếng chào chú Năm, hai cha con bước vô quán nhỏ.
Thím Năm đang xắt xá-xíu thành từng miếng mỏng, gương mặt bà hãy còn khá trẻ đẹp và nom hết sức có duyên.
Hai cậu học trò lớp Tiểu Học đang vừa ăn vừa “gạo bài” – chắc có lẽ chiều nay hai đứa có giờ kiểm tra.
– Dạ, anh đây ăn chi?
– Tụi tôi kiêng thịt…!
Thím Năm bật cười:
– Vậy giờ ăn gì được? Hay tui chạy ra đầu lộ mua tô hủ tíu chay cho anh với cháu đây nghen?
– Í, làm vậy coi kỳ chết.
– Chớ hai chú cháu kêu vậy tụi tui biết mần răng?
Augustino Dương phổng mũi:
– Tui trẻ dữ vậy hả chị?
Thím Năm chỉ đứng chống nạnh một bên hông và chúm chím cười chứ không ừ hử gì.
Chú Năm đứng ở ngoài sân nói vọng vào:
– Sẵn có mớ tép mòng tui mới trúm được dưới sông hồi sớm, để vợ chồng tui vô đãi anh với cháu một bữa bánh canh bột lọc – nước cốt dừa nghen?
Augustino Dương cười mà như mếu:
– Nào giờ tôi mới nghe bánh canh hến có bỏ nước cốt dừa thôi, món này ăn được không anh Năm?
Chú Năm pha lửng:
– Ngáp ngáp thôi, chớ hổng tới nỗi chết đâu.
Thím Năm cũng đơm vô:
– Ở đây ăn theo kiểu “Ngũ bửu”: Cơm dừa, nước dừa, nước cốt dừa, nước màu dừa, củ hũ dừa.
– Ăn xơ dừa được không anh chị?
– Ăn hôn? Tui xào cho một dĩa với bông dừa và vỏ dừa; cho đủ bộ “Bát bửu” luôn.
– Chú Năm cười giòn mà bẹo lại.
Thím Năm biết Thạnh là bạn thiết của cậu Mỹ nên cất giọng thân mật:
– Bánh xèo pha bột với nước cốt dừa rồi chiên với củ hũ dừa xắt sợi.
Xui cái anh xuống nhằm đợt chưa vô mùa nấm mối, chớ không tui đổ cho chục cái ăn móp mỏ rồi.
Chú Năm lại ghẹo:
– Người ta có câu, “Không tiền thì cạp đất ăn”; chứ dân xứ này không tiền thì cạp dừa với bẻ chuối – mít ăn.
Rồi day sang vợ, ông nói:
– Thôi mình đừng đía nữa, vô mần tép cho sạch rồi làm bánh canh cho hai chú cháu đi.
Thím Năm dạ nhỏ.
Có lẽ do lạ miệng và cà kê dê ngỗng dằng dai nên Augustino Dương “quất” sạch bách tượng bánh canh bột lọc nấu với nước cốt dừa và ăn kèm với tép mòng, chả cá thác lác và nấm rơm.
Chú Năm hỏi hai đứa học trò “ốc tiêu” có muốn ăn thêm nữa không, chúng đều nói có.
Vậy là chú làm thêm mỗi đứa một tô miễn phí đầy vung có bỏ thêm trứng cút luộc bùi béo.
Đoạn ông nói vui:
– Ở đây có Ông Hai Đạo Dừa…
Augustino Dương hướt lời:
– Vậy mốt An Giang có Ông Ba Đạo Thốt-Nốt.
Nguyên nhà nhìn nhau cười lớn.
Trời đang nắng bỗng dưng chuyển tông sang màu xám mây mù, vì cô Xuân đang dắt xe gắn máy vô nhà.
Chiếc Attila màu hường đời xửa đời xưa nhưng cổ vẫn để xài do cảm thấy đổi cái mới không đáng.
Bởi tánh cần kiệm quá đáng của mình nên đã bị gắn mác “Con nhà nghèo”; tưởng đâu không bị thằng Sở Khanh nào chú ý, ai dè vẫn bị hại như thường.
Trước lúc xuống nhà sau rửa tay – rửa mặt, cô Xuân đứng trước mặt hai người khách mà cúi đầu thưa.
Augustino Dương ngắm gương mặt chưa già mà đã có nét lão của cô gái tên Xuân.
Kể ra nếu đường tình của cô suôn sẻ, ắt hẳn dung nhan cô sẽ sáng rỡ và tươi nhuận hơn bây giờ nhiều.
Cô Xuân không ăn hủ tíu, chắc có lẽ xuống nhà sau ăn cơm, bởi hai cha con nghe thím Năm biểu, “Má có chừa cho con khứa cá thu kho khóm…!Xíu ăn xong nhớ múc cơm, canh vô cà-mên đem qua nhà bà cố nhen?” Và tiếng cô dạ nhỏ thật nhỏ.
Đợi cô ăn uống xong xuôi, Augustino Dương mới hỏi:
– Con cho chú hỏi nè…
– Dạ?
– Con thấy Linh mục Stephen Đoàn Ngọc Mỹ ra sao mà ưng nó?
Đôi mắt cô Xuân ướt rượt.
Môi cô mấp máy mấy lần mới có thể nói thành lời:
– Dạ, con thấy ảnh dễ thương hết sức, càng nhìn càng có cảm tình.
Augustino Dương hỏi cơ:
– Tướng thì cao nhòng, ốm nhách.
Mặt thì xấu ma chê quỷ hờn.
Tánh tình thì lầm lì, khó gần.
Ăn nói giữ kẻ, “nghìn trùng xa cách”…
Henrico Thạnh có cảm tưởng Thầy đang mô tả một nhân vật phản diện trong phim điện ảnh Hollywood.
Anh nhận ra cô Xuân đang cười mỉa Thầy.
– Thưa chú, con không hiểu tại sao hai chữ “Dễ thương” thường được người đời gán lên vẻ bề ngoài, chứ không chịu dành tặng tâm hồn của ai đó…!Ảnh không đẹp thiệt, nói chuyện theo kiểu “Khổng Phu tử”, bề ngoài cũng không thuộc hàng quý tướng, nhưng tánh tình ảnh không lầm lì, khó gần như chú tưởng đâu…
– Chứ sao?
– Ảnh mắc cỡ, và chắc vì trọng trách của mình nên ảnh đâm ra phải giữ kẻ suốt.
Có nhiều tu sĩ bị hại chỉ vì một bức hình từ trên trời rớt xuống mà…
Bây giờ Augustino Dương mới thấm thía câu “Thương nhau trái ấu cũng tròn/Ghét nhau trái bồ hòn cũng méo”.
Rồi vừa bới cơm vô cà-mên, cô Xuân vừa tâm tình:
– Mấy đứa nhỏ nhớ ảnh dữ lắm, nhứt là mấy đứa lì lợm và thiếu tình thương gia đình, tụi nó hỏi anh Mỹ đi đâu rồi cô, con nói ảnh lên thành đô rồi, không về được đâu, tụi nó la rần trời.
– Tụi nó la hay cô la?
Chú thím Năm ngó sững ông khách ba trợn.
– Tụi nó la, còn con buồn, con khóc một mình.
Augustino Dương trình thẻ chứng nhận của mình ra cho cô gái muộn Duyên coi.
Đợi cô coi xong – trả lại, ông mới chắp tay và thủng thẳng tỏ bày:
– Thưa cô, tôi là Thầy của Linh mục Stephen Đoàn Ngọc Mỹ, tên đầy đủ là Augustino Hà Nhựt Dương.
Người này cũng là học trò của tôi, tên đầy đủ là Henrico Nguyễn Phước Thạnh.
Tôi nghe trò Thạnh kể về khúc mắc giữa cô và trò Mỹ nên tới đây lựa lời khuyên ngăn trước khi xảy ra nhiều điều hiểu lầm đáng tiếc giữa đôi bên.
– Dạ, con xin nghe, mời Cha tỏ tường.
– Rất cảm ơn cô.
Rồi đó, cô Xuân và hai ông Cha vô phòng khách ngồi nói chuyện.
Nơi thờ tự được đặt ngay trong phòng khách, và được sắp xếp như sau: Bàn thờ chân móng nằm mé tay trái, tủ thờ lớn thờ cúng Cửu Huyền Thất Tổ được đặt chính giữa, phía trên là trang thờ Chư Phật và Chư Vị Bồ-Tát, còn bên tay mặt để tủ thờ nhỏ thờ Thần Tài – Ông Địa.
Hai cây cột cái đều treo liễn đối.
Bộ trường kỷ đóng bằng cây ván hương được đặt đối diện tủ thờ lớn, và cách một khoảng chừng năm mét mấy.
Hai cha con bên Tả, còn cô ngồi băng bên Hữu.
Cô chế trà vô chung sành cho từng người, rồi dịu dàng mời họ thưởng trà.
Augustino Dương kể vắn tắt về chuyện vì hiểu lầm với một người Giáo dân nữ mà một người bạn đồng tu với Stephen Đoàn đã bị treo Chén oan, chính Stephen Đoàn đã viết huyết thư đệ đơn đi khắp nơi kêu oan cho bạn mình.
Tới đây, cô Xuân bụm mặt khóc nức nở.
Đợi tiếng khóc của cô gái muộn Duyên lắng xuống, Augustino Dương mới đưa khăn giấy, mà ông mới mua ở tiệm tạp hóa trong xóm, cho cô lau lệ.
Bất thần, Henrico Thạnh liên tưởng tới bài hát “Giòng dư lệ” của nhạc sĩ Trường Sa mà cô Hoàng Oanh đã từng hát và ngâm một vài câu thơ của thi sĩ Nguyễn Bính:
“Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên…”
Ông Bính viết bài thơ “Dòng dư lệ” để cảm tác cho chuyện tình của nữ sĩ T.
T.
Kh và bài thơ “Hai sắc hoa ti-gôn” của bà.
Bản nhạc của ông Sa cũng có thể được coi là sáng tác dựa trên nội dung bài thơ của bà Kh và ông Bính.
Cô Xuân chợt ngưng bặt tiếng khóc.
Rồi đổi buồn thành vui mà nói đã tới giờ đi đem cơm cho chú Ba rồi nên xin phép ngưng ngang cuộc nói chuyện.
Không đợi cho ai kịp phản ứng, cô đã đi tuốt nhà sau để sửa soạn đôi chút trước khi đi giao cơm.
– Sao con chưng hửng vậy Thạnh?
– Sao…
– Người ta đau lòng quá thường hay hóa sảng.
Con tưởng họ bị điên chớ kỳ thực ra họ đang gắng gượng để chống chọi lại với cơn mê tình.
– Phải, con tui hổng có bình thường đâu, muốn cười là cười – muốn khóc là khóc hà.
Chú Năm mời hai thầy trò ăn bánh phồng sữa.
Rồi áp ngón trỏ vô bình trà.
Ông chặc lưỡi khi thấy cái bình nguội ngắt, bèn chắt hết nước cốt vào một cái ly cối rồi lui xuống nhà sau súc bình trà đặng hãm trà mới.
Cô Xuân đã lên xe đi mất hút, dù có đeo khẩu trang và kiếng râm, cô vẫn để lộ ra mình đang khóc vì tiếng nấc nghẹn lâu lâu lại phát ra nơi cửa miệng.
Hai thầy trò ăn hết mấy cái bánh phồng sữa thì chú Năm bưng mâm trà nóng hôi hổi lên chiêu đãi.
Ông còn đem lên một dĩa mứt dừa ngũ sắc và me chua ngào đường.
Augustino Dương bắt chuyện:
– Anh nghĩ sao về chuyện làm bờ kè và xây đập giữ nước ngọt?
– Rất ngặt cho cái xứ này.
– Sao?
– Không làm bờ kè thì sạt lở đất, không xây đập thì vô mùa khô lấy giống gì tưới cây.
Nhưng nếu làm thì ảnh hưởng hệ sinh thái quá nặng nề.
Sau vài hớp trà lài nhân nhẩn đắng, chú Năm trầm tư trình bày:
– Tôi tính, nếu có thể, chánh phủ nên xây nhiều con rạch nhân tạo để làm nơi trữ nước mưa.
Không chỉ có vai trò trữ nước, nó còn giảm ngập cho đường sá và hạn chế nước lớn gây thiệt hại cho huê màu.
– Chắc tương lai nên xây nhà sàn giống An Giang cho nó chắc cú.
Hai ông già nhìn nhau cười phớ lớ.
Rồi đó, Augustino Dương hỏi về bệnh tình của cô Xuân.
Chú Năm thiệt tình “khai” hết ráo trọi, chẳng thèm suy tính mặt mũi của cô, có lẽ ông cảm thấy càng giấu giếm càng hư chuyện thì phải?
– …!Đó, hồi đó nó điên tới độ, bác sĩ Tâm Thần nói dóc nó bị u não nó cũng tin, nên chịu nghe lời uống thuốc.
Nó mới tỉnh ra hồi năm trước, nhưng lâu lâu lên cơn lại tưởng tượng mình bị bịnh nan y sắp chết, mỗi lần như vậy nó thường tươi cười vì nghĩ rằng mình sẽ bị chết bất đắc kỳ tử thành ra vui được lúc nào hay lúc nấy.
Cậu Mỹ làm nó hết bịnh luôn, cẩu ngồi cẩu tỉ tê tâm sự sao mà nó ngộ ra cái dại của mình, nên không còn nghĩ quẩn nữa…!
– Ông bác sĩ nào chơi chiêu này thiệt là ác đạn…!- Henrico Thạnh bình phẩm.
Chú Năm đùa:
– Chắc ổng bị mẹ ruột hay con vợ bắt coi phim dài tập riết nên rắp tâm trả thù đời.
Đến khoảng một giờ trưa, hai cha con kiếu từ.
Chú Năm cũng mệt nên không cầm chân, ông tiễn họ ra tới tận ngoài rào, rồi mới ra sau hè vót tre làm trúm để tối đặt nom.
Thay vì chở Cha Dương về thẳng nhà, Henrico Thạnh lại đưa ông đi một vòng thành phố rồi chạy luôn ra Cầu Bắc dạo chợ Tân Thạch và đi viếng các nhà thờ Kitô Giáo trong vùng Tân Thạch.
Đi tới đâu cũng thấy bóng dừa xanh mát vẫy những tàng lá rậm như điệu vũ Hạ Uy Di, nói không ngoa chứ dám dừa còn nhiều hơn số dân cư của cái tỉnh lỵ nhà quê này.
Bà con trong tỉnh hãy còn nhiều gia đình nghèo rớt mồng tơi – nghèo rơi lá mướp, cái cảnh những căn nhà khang trang, đẹp đẽ nằm chen lộn với những căn nhà lúp xúp mái tole rách nát nhiều vô số kể.
Cha Dương chạnh lòng nhìn những người già và em nhỏ cầm xấp vé số đi bán khắp mọi nẻo đường, rồi ông bỗng nhớ về nhạc sĩ Lam Phương…
– Quê hương con đó Thầy, được cái thành phố coi sung túc, phú cường vậy thôi; chớ tản vô các Ấp, các Xã nhìn…!thê lương lắm.
– Bổ nhiệm về đây con có buồn không?
– Chỉ có thứ dòng vong bản mới từ chối và không thừa nhận nơi chôn nhau cắt rún của mình.
Rồi Henrico Thạnh nói mà như sắp khóc:
– Quê hương con tầm thường quá, chẳng có mấy ai tìm thấy cảm hứng để sáng tác cho một bài.
– Cái bài “Dáng đứng Bến Tre” của Nguyễn Văn Tý thì sao?
– Cái bài đó ra đời khi ổng xỉn quắc cần câu lúc đang ngồi nhậu với mấy ông cấp lớn trong tỉnh, nên nội dung lẫn giai điệu cái bài đó nó dở chưa từng thấy.
– Còn “Cây cầu dừa” của Hàn Châu?
– Bài này dở ngang ngửa với bài trên.
Augustino Dương hỏi con trai ưng bài nào.
– “Chiều mưa xứ dừa” của Thanh Sơn.
– Í, hình như ông Sơn chưa sáng tác riêng bài nào về Mỹ Tho?
– Nhạc sĩ Thanh Sơn nói chưa viết về Mỹ Tho là vì chữ “Mỹ Tho” khó gieo vần khi soạn nhạc.
Con cũng hổng biết ổng đã sáng tác chưa nữa.
À, có bài “Áo trắng Gò Công”, thôi thì coi như đây là bài viết riêng về Mỹ Tho – Tiền Giang đi.
Tới Cầu Bắc, Henrico Thạnh gởi xe ở nhà một thằng bạn trong xóm Nhà Máy, rồi cùng ông thầy quá giang đò máy để đi qua cồn Tân Vinh và những cù lao khác du ngoạn một chuyến.
Giọng ca của Hương Lan trong bài “Em về qua bến Bắc” của nhạc sĩ Thanh Sơn gợi cho Augustino Dương những nhớ thương một thời thơ ấu.
Da dẻ ông đã trổ đồi mồi, tóc hoa râm, mắt trũng sâu dù không nặng gánh kim tiền hay nặng nợ trần gian, duy chỉ còn nụ cười của ông là còn tươi mãi với sóng biếc thời gian.
– Mặc áo phao vô chú.
Trời ơi, chú ngồi không vậy lỡ tụi nó thấy nó phạt tụi con lút cán luôn.
Chàng tài-công phụ tỏ ý không hài lòng.
Anh ta đang cầm áo phao ở tay trái, một cái cỡ lớn và có lẽ vửa khít với người Linh mục già.
– Ờ, cho chú xin lỗi.
Nói rồi, Augustino Dương luống cuống nhận cái áo phao rồi lính quýnh tròng vô người.
– Cảm ơn con.
Lúc bấy giờ, chàng trai mới cười thiệt dễ thương.
Anh ta biểu:
– Dạ, không có chi, chú.
Qua cồn Thới Sơn, Henrico Thạnh mời Augustino Dương lên chơi.
Bạn của anh là một nhà Nho già “sanh bất phùng thời” nên giờ lui về đây vui thú điền viên một mình; sau nhà của ổng có hàng bần rất dày như hàng rào nên vô cùng dễ kiếm.
Vừa đi đường, Henrico Thạnh kể cho cha nghe:
– Hồi xưa rất xưa, cư dân trên cồn này toàn bị chết trẻ vì ung thư.
Không hiểu sao Trời thương hay sao đó, mà chứng bịnh quái ác đó ngày nay không còn hạnh hạ cư dân nữa.
– Ông Trời vốn có đức hiếu sinh mà con.
Chưa tới nhà bạn hiền, mà tiếng đờn kìm đã vang lên réo rắt.
Ông sống bằng nghề soạn ca cổ nhạc và biểu diễn cho những khu du lịch ở hai đàng Mỹ Tho – Kiến Hòa; cộng thêm nghề gia công tai lưới, trúm và sửa chân vịt – động cơ cho các loại xuồng – ghe nên ông sống rất mực thảnh thơi và rủng rỉnh túi.
– Kỳ này ai rớt – ai đậu anh Bảy?
Ông Bảy cười xòa, rồi lắc đầu biểu, “Không biết.”
Rồi theo chân ông Bảy “Cửa Khổng sân Trình”, hai cha con tới một vườn trái cây trên cồn để mua ủng hộ cho một người cháu của bạn ông; người này hiện đang mắc nợ ngân hàng do vay tiền mở khu du lịch sinh thái.
Độ chừng năm giờ chiều, hai cha con tót về “Giáo xứ” nghỉ ngơi.
Ý là mua có mấy trăm đồng mà thiếu điều chủ vườn muốn quỳ xuống lạy tạ ơn hai người, vì vậy trưa mơi họ sẽ ghé đây dùng bữa để giúp anh ta trả được đồng nào hay đồng nấy.
Trên đường về, Henrico Thạnh hát cho cha nghe bài “May the Good Lord bless and keep you” mà anh đã từng nghe Perry Como ca.
Augustino Dương gật gù khen hay, rồi cũng ê a hòa giọng theo; một bản nhạc xứng đáng được xếp vô thể loại Thánh Ca.
Hai cha con thay phiên nhau đi tắm gội.
Bữa nay nắng nóng nên xài nước lạnh, giội nước tới đâu đã tới đó, bởi có nhiều người tắm mát quá cứ đứng xối nước hoài nên bị trúng nước sanh cảm mạo rồi có trường hợp không may còn bị chết nữa.
Thân thể đã gột rửa bụi đường và ăn bận cũng sạch sẽ rồi, hai cha con mới lên nhà trên đọc Kinh Chiều.
Bàn thờ Chúa sơ sài quá, hai người Mục Vụ bèn thắp ly nến rồi sắp đặt chúng trên bàn thờ và để một cái trước mặt mình cho thêm phần trang nghiêm.
Ánh nắng hoàng hôn nhẹ nhàng hắt bóng qua chấn song của khung cửa sổ bên phải của phòng khách.
Trong không gian hôn ám vì đèn điện chưa bật ấy, tiếng kinh cầu của họ hốt nhiên trở nên diệu vợi không tưởng…
Đám trẻ nhỏ tan trường không có việc gì làm nên ghé qua gian nhà tranh của ông Tía kiếm chuyện chọc ghẹo ổng chơi.
– Tía…
– Rồi, bầy vịt trời kiếm con nữa nè Cha.
Xấp nhỏ đòi chơi trò đi dã ngoại.
Mỗi đứa đã đem theo một phần thức ăn của mình để hùn hạp, bởi chúng còn chút xíu nên chúng không phải kiêng thịt như anh và Cha.
Cha Dương giúp xấp nhỏ Dự Tòng trải bàn ăn.
Đứa thì đem tới gà xác chiên, nhỏ thì mang xôi ế của ngoại nó bán hồi chiều, thằng lại rinh kết nước ngọt trong tiệm tạp hóa của gia đình nó…!Ôi thôi đủ hết!
Con nhỏ tết tóc đuôi sam cười tươi mà năn nỉ Tía Thạnh ca chơi một bản.
Vậy là Henrico Thạnh bèn biểu diễn bài “Dã ca 1 – Ngày mùa êm ru” của nhạc sĩ Phạm Duy, mà anh đã từng nghe qua giọng ca của Duy Quang và ban “The Dreamers”:
“Ầy-dô, ây-dô, ấy-dô, ta đi vô vườn dừa
Ấy-dô…!Ây-dô…!Ây-dô…
Nhịp nhàng khoan thai bước khẽ, đi trong mưa nhè nhẹ
Ấy-dô…!Ây-dô…!Ây-dô….
Gà chuồng le te gáy rõ, ta nghe ta đợi chờ
Ấy-dô…!Ây-dô…!Ây-dô…
Ngoảnh nhìn quanh ta vẫn nhớ
Ôi êm ru ngày mùa…”
Xấp nhỏ hào hứng hát bè theo:
– “Ấy-dô, ây-dô, ây-dô…!Ngày mùa…!Ấy-dô, ây-dô, ây-dồ…!Êm ru…”
Rồi Augustino Dương cất giọng hợp xướng với bầy con.
– “…!Ầy-dô, ây-dô, ấy-dô, ta đi trong vườn đời
Ấy-dô…!Ây-dô…!Ây-dô…
Gặp nhiều bông hoa kết trái, hương hoa, hương cỏ dại
Ấy-dô…!Ây-dô…!Ây-dô…”
Ngọt, nhạt hay chua cũng khoái, ta yêu khu vườn này…”
Lớp học Dự Tòng trễ hơn thường nhựt vì bữa tiệc linh đình của xấp nhỏ.
Biết vậy Augustino Dương đã xách theo cây vĩ cầm để đàn cho tụi nó nghe.
Trong lúc đợi tụi nhỏ làm bài thi thử xong, hai cha con ra ngoài ngồi đợi để thử tánh trung thực của mấy đứa nó.
Bữa nay gần trăng tròn, ánh vàng mông lung buông tỏa xuống mặt đất thật dịu dàng.
Muôn vàn ánh sao đêm thi nhau chớp tắt theo điệu luân vũ của riêng chúng.
Cây kiểng, hoa cỏ khoác lên sắc màu đen huyền u uẩn và buồn tênh.
Dạ lý hương vẫn chưa tỏa hương, nó cứ đứng im lìm cạnh cái chỏng tre mà hai cha con đang ngồi.
Chung quanh hai người, nhà dế và dòng họ lưỡng cư đang hợp ca với nhau mà tạo thành một bản hòa tấu thiên nhiên tuyệt diệu, chừng có ve sầu rồi bài nhạc này sẽ càng mê hồn hơn.
Henrico Thạnh mời Thầy nghe Sĩ Phú ca bản “Tan vỡ (Lạnh hương nguyền)” do nhạc sĩ Đỗ Huyền phổ từ thơ của thi sĩ Huyền Linh, mà anh đã từng nghe Stephen Đoàn hát nho nhỏ một mình ở mé sông Giáo xứ trên Sài Gòn.
Augustino Dương nói mà như mếu:
– Nó “Tan vỡ”, còn Thầy “Tan nát”.
Henrico Thạnh khoát tay:
– Đâu, ảnh khoái tình ca mà Thầy.
– Ờ, tui biết rồi.
“Tình ca, những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời nhất của một đời người.
Bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó, một Quê Hương, một Dân Tộc, như người ta đã yêu và nhớ nhau…”
– Thầy thuộc văn của ông Nguyễn Đình Toàn ghê!
Augustino Dương tủm tỉm cười.
Bỗng dưng, hai cha con nghe có tiếng lào xào trong lớp nhỏ.
Henrico Thạnh húng hắng biểu:
– E hèm…!Làm gì đó? Cập-dê phải hôn?
– Đâu có đâu Tía.
– Làm gì có đâu Tía.
– Đứa nào chớ con hổng có nghe Tía.
– Có khát nước hôn tui đãi cho mỗi trò một ly nước mía hạnh – cam – khóm – đậu phộng?
Nguyên lớp la làng như nhà lồng chợ bị cháy.
– Thôi, im, có ai kề dao vô cổ đâu mà la rùm trời vậy?
Rầy xong, Henrico Thạnh gọi điện cho cô bạn thân mà đặt mua bốn chục ly nước mía thập cẩm.
Trong lúc chờ đợi cô bạn giao thức uống, hai cha con vô trông coi lớp học.
– Con tính chừng nào mới cho xấp nhỏ đi thi?
Henrico Thạnh cau mày:
– Thư thư đã Thầy.
Sử nước nhà tụi nó còn trật vuột, huống hồ chi là Giáo lý Kitô.
Học riết “Tẩu hỏa nhập ma” luôn.
– Ờ…!Tùy con liệu định vậy…
Một đứa trai ú nu giơ tay xin phát biểu.
Henrico Thạnh liền mời nó nói.
– Dạ, sao lâu có nước mía quá vậy Tía?
– Chớ con nghĩ làm một lúc bốn chục ly sao kịp được?
Thằng nhỏ tiu nghỉu ngồi xuống.
Chừng hơn một tiếng nữa, thầy trò mới thấy cô Tư Lành đem nước mía tới.
Vừa bước vào cửa, đã nghe cô Tư Lành than rằng:
– Thằng quỷ, bữa nào tui ế – ông hổng mua, tới chứng bán đắt như tôm tươi thì lại gọi điện đặt nước.
– Mua ủng hộ cho bà mà bà còn chê.
Augustino Dương ngó cô Tư Lành bằng ánh mắt ngỡ ngàng.
Hiểu Thầy đang lo xa, Henrico Thạnh huých vai con bạn.
– Dạ, con tên Trân, thưa Cha.
Ba má với anh – chị trong nhà cùng họ hàng, bà con lối xóm ưa gọi là Tư Lành.
Không thấy ông Cha ừ hử gì, cô Tư Lành giương mắt mà cười hỏi:
– Con đâu phải Huyền Trân công chúa đâu mà Cha nhìn con dữ?
– Vậy ra con tên Nam Trân?
Cô Tư Lành cười giòn như pháo nổ:
– Nam Trân là trái bòn bon Cha ơi.
– Vậy con “Trân” gì?
– Dạ, Nguyễn Ngọc Quế Trân, thưa Cha.
– Tên gì giàu dữ bây? Toàn hột xoàn dí cà-rá không hà.
– Chòi oi, con toàn lụm bạc cắc không hà.
Henrico Thạnh bẹo:
– Hồi nhỏ, mấy đứa bạn toàn gọi nó là “Mai Quế Lộ” đó Thầy.
Cô Tư Lành quắc mắt nhìn thằng bạn thiết.
Chuyện xa lơ xa lắc mà nó cũng đem ra đâm thọt mình.
Augustino Dương cười dàn hòa:
– Mày thì Nguyễn Phước Thạnh, nó thì Nguyễn Ngọc Quế Trân, cha…!số tao toàn quen với “kim chi – ngọc diệp” không hen?
Henrico Thạnh cười giả lả:
– “Kim chỉ – Ngọc bẹt” Cha ơi.
Gác nỗi lo vương mang trai gái của thằng con đẹp mã, Augustino Dương “coi tướng” cô Tư Lành.
Cô cắt tóc kiểu “Tomboy”, nước da bánh mật, mặt lấm tấm tàn nhang, dung mạo dễ coi chớ không mặn mòi hay có nét đẹp đáng để lưu tâm; còn về phần trang phục, cô mặc áo tay dài và bận quần jeans đen, mang đôi dép xỏ ngón loại hay rao giảm giá ngoài chợ trời.
Từ vẻ bề ngoài của cô, ông không thể đoán được tương lai cô có thể trở thành hiền mẫu hay hiền thê hay không, chỉ nhận định được rằng cô là một người hết sức bình dân và bải buôi, thương – ghét lẫn buồn – vui đều để lộ ra mắt.
Tiếng chuông báo hiệu hết giờ học làm ông Cha già bừng tỉnh.
Mãi lo nghĩ ngợi về chuyện cô Xuân và thằng Mỹ mà ông quên dời mắt khỏi Tư Lành, chắc con nhỏ và thằng con mắc cười dữ lắm mà không dám nhắc nhở ông.
Đứa nào nộp bài xong thì được ra về.
Có gần chục đứa mặt mày ủ dột, vài đứa trong số đó phải phụ việc nhà hay bán buôn với gia đình nên không có thời giờ ôn bài và đọc tài liệu Henrico Thạnh đưa.
– Mấy đứa đừng có buồn, hai năm nữa mới đi thi lận.
Xấp nhỏ làm bài không tốt nghe vậy cũng được an ủi phần nào.
Chúng vòng tay thưa anh và Cha cùng cô Tư Lành trước khi lủi thủi ra về.
– Chúa đặt ra thử thách, còn chúng ta đặt ra kỳ thi.
Thử thách của Chúa rất công bằng, còn kỳ thi của chúng ta lại không được như vậy.
– Tại sao vậy Thầy?
– Con coi đó, tụi nó rất ham theo Đạo, nhưng lại bị kỳ thi ngăn trở.
– Nhưng nếu như không tổ chức thi cử, Đạo mình sẽ rất luông tuồng, tức là người ta muốn ra thì ra – muốn vô thì vô tùy theo tâm trạng và hôn nhân.
– Thầy biết…!Thầy thừa biết con à…!Nên Thầy mới nói các kỳ thi trên trần thế này phần đông không được công bằng…
Trước lúc kể cho con trai và cô Tư Lành nghe một kỷ niệm không vui của Đức Cha Trung, Augustino Dương biểu Henrico Thạnh giúp mình thu dọn phòng ốc và sắp lại ghế – bàn.
Còn phần Trân, ông nhờ cô lau bảng giùm.
Xong xuôi đâu đó thì đồng hồ cũng điểm tám giờ kém mười phút.
Mẹ của cô Tư Lành đã gọi điện tới hỏi thăm coi cô đang ở đâu, có xảy ra chuyện gì không; cô trấn an bà rằng hiện mình đang ở nhà của Thạnh nên bà mới bớt lo vài phần.
Trăng chưa Rằm mà đã sáng vằng vặc.
Cảnh vật nhờ vậy mới bớt thâm u, tịch mịch.
Bặt tiếng cú đêm và chim heo nên bầu không khí đỡ đáng sợ và ghê rợn.
– Con muốn dìa sớm thì cứ dìa.
Chuyện riêng bên Đạo thôi nên cũng không có gì gấp để nán lại ngồi nghe.
– Dạ, vậy con về nghen Cha? Con mà ở lại chừng nửa tiếng nữa chắc ba mẹ với anh chị con qua đây đón dìa luôn.
Augustino Dương cười hiền:
– Ờ, vậy về đi con.
Đợi chiếc xe gắn máy của cô Tư Lành đi khuất, Augustino Dương mới nhỏ to tâm sự:
– Số là vầy: Có một thằng nhỏ bị bịnh khờ muốn vô Đạo nhưng không đủ khả năng học tập.
Thánh Lễ nào nó cũng tham dự với tư cách người Lương và say sưa uống từng bài giảng của các Thầy.
Đức Cha Trung thương nó vô cùng và đã tự ý cho nó miễn trải qua lớp Dự Tòng cũng như thi cử.
Sau vài phút ngập ngừng, ông kể tiếp:
– Sau này, vợ nó ngoại tình và đẻ ra một đứa con mang dòng máu của nhân tình.
Vì nhân tình kia vứt bỏ bà ta nên bà ta khoáng trắng thằng nhỏ cho cậu khờ sau khi ra tòa ly dị.
Cậu khờ thương nó hết mực và cũng muốn nó theo Đạo như mình.
Nhưng vì bị rối nên một vài Giáo xứ trong vùng không muốn thực hiện Lễ Rửa Tội cho thằng nhỏ.
Cậu khờ ôm con tới khóc lóc thảm thiết và van xin Đức Cha Trung giúp mình, và một lần nữa, Đức Cha Trung đón nhận thằng nhỏ như đã từng đưa cậu khờ đến với Chúa.
Henrico Thạnh nhìn thấy ông Cha già rơi nước mắt.
Anh nào hay những giọt lệ cũng đã vương trên mắt anh.
Rồi trong niềm xúc cảm miên man, anh hỏi khẽ:
– Có thể cho con biết người đó là ai không?
– John the Baptist Trương Tấn Khải.
Nói tới đây, Augustino Dương òa khóc nức nở:
– Đức Cha Trung đã bảo vệ nó, còn mấy Thầy thì không.
Mấy Thầy đã ép buột nó treo Chén chỉ vì sự phiến diện – hàm hồ của mình và thanh danh của Giáo hội.
Tại sao mấy Thầy lại tàn nhẫn với nó như vậy kia chứ?
Henrico Thạnh cũng thổn thức theo.
Nhưng anh không khóc nhiều và dai như Thầy anh vì anh chẳng phải người trong cuộc, nhứt là nguyên nhân đã khiến JB Khải bị treo Chén.
Anh đưa đôi mắt còn mờ hơi lệ nhìn ra sau hè.
Giờ này dạ lý hương đã nở, hương thơm thanh khiết đặc sắc ấy lan tỏa khắp cuộc đất um tùm bóng cây sắc lá.
Một đàn đom đóm hiếm hoi tụ lại thành đám mây lớn dưới gốc cây trứng cá.
Một vì sao lạc xuống phương Đoài, rồi mất hút sau những tàu dừa đứng câm lặng…!Những tiếng nấc nghẹn của Thầy anh cứ thế rơi vào buổi đêm oi bức.
oOo
Lên đồn làm việc với công tố viên họ Huỳnh mới có một tuần mà Đặng Thừa Tân mất bốn ký-lô.
Rốt cuộc chẳng ai khởi tố anh hết, bởi anh có liên quan cóc khô gì với cái bao tải chứa đầy ống quyển đó đâu.
Người ta có câu “Vắng chủ nhà, gà mọc đuôi tôm”, còn trường hợp của anh lại là “Vắng chủ tiệm, quán thành ra bãi tha ma”.
Các khách quen mắng vốn cà-phê pha cho có, uống vừa lợt vừa lợn cợn xác cà-phê; kẻ thì chê đá viên có phẩn dơ lẫn vào và phục vụ ơ hờ như thể họ là người vô hình.
Anh chửi cho nhân viên một chập, nhiều người ghét anh nên xin nghỉ việc rồi lên mạng xã hội viết bài đặt điều đủ thứ, nhóm trung thành với anh chấp nhận bị trừ lương để đền tiền.
– Cà-phê vợt mà cái vợt này dơ như vậy thì hỏi sao người ta uống vô không bị đau bụng? Còn mấy cái hộc nước đá nữa…!Trời ơi! Có mỗi việc lau chùi sau giờ bán mà cũng làm biếng làm nhác.
Bữa nay quán nghỉ bán một bữa để chỉnh đốn lại đội ngũ nhân viên và tổng vệ sinh khuôn viên của quán.
Tuy vậy, anh không kéo cửa sắt thật khít mà để hở một khoảng trống vừa đủ một người thanh niên be con lách vô, đặng nếu ai hữu duyên ghé thăm thì sẽ được mời ăn uống miễn phí.
Nhằm thử loa của máy Akai, anh mở bài “Hoa học trò” do song ca Duy Quang – Ngọc Lan trình bày, nhạc sĩ Anh Bằng phổ từ thơ của thi sĩ Nhất Tuấn, bác Thanh cũng có song ca bài này nhưng với cô Hoàng Oanh.
“…!Lên trời hai đứa hai nơi
Thôi em chỉ muốn làm người trần gian…”
– Có khách anh Hai ơi…
Người khách hỏi anh về Trịnh Công Sơn và Trần Thiện Thanh không hiểu sao bữa nay lại tới.
Anh ta diện đồ công sở, chân mang giày da thuộc dòng nhãn hiệu thượng phẩm, tay trái xách cặp da cũng thuộc hạng sang luôn.
– Bữa nay anh muốn nghe bài gì?
– Một bài nào hiếm người biết của Nhật Trường – Trần Thiện Thanh.
– Nghe hết băng nhạc “Nhật Trường 9: Yêu – Ghen – Mơ” rồi hả? Trong đó toàn bài hiếm không đó.
– Rồi.
– Vậy nghe bài “Tìm thương” do Nhật Trường ca, đây là sáng tác của nhạc sĩ Hà Nguyên Vũ.
Rồi người chủ quán tứ tuần ấy mời vị khách số hưởng hôm nay tự nhiên ăn uống.
Anh ta chẳng thèm đẩy đưa khách sáo, liền lại quầy kem và chọn cho mình một hũ kem “Haagen-Dazs” vị Chocolate Peanut Butter Pretzel cỡ trung, không quên tự lấy cái muỗng nhựa rất chắc để múc kem ăn.
Nhân viên trong quán đang hăng hái lau chùi, quét dọn, kê lại tủ và bàn – ghế.
Vì vậy vị khách đó dù muốn dù không cũng phải ngồi tại quầy thu ngân, mặt đối mặt với anh chủ quán ốm như ma cây.
– Cho tôi nghe thêm một bài do ông Thanh ca đi.
Đặng Thừa Tân bèn mở bản “Một mai mai một” của nhạc sĩ Anh Việt Thu và lẽ dĩ nhiên, người trình bày là Nhật Trường.
Đây là những nhạc phẩm hiếm người biết của người trai Mỹ Tho một thời Đại Phố.
Ngoài trời đột nhiên mưa đổ, Sài Gòn chợt nắng – chợt mưa cứ vậy đi vào thế giới văn chương miền Nam trước 75.
Hàng cây me buông thùa những chiếc lá lục sắc của mình theo chiều gió trong cơn mưa bóng mây.
Có tiếng nữ sinh chửi nhau inh ỏi vì đứa thì đòi chạy lẹ về, còn đứa thì biểu hồi nãy nán lại quán bánh nậm thì tao đâu bị ướt đầu; rồi không hiểu bàn tính với nhau như thế nào, bầy bướm trắng đó rủ nhau vào quán cà-phê này đụt mưa.
– Ủa chú ơi…!Chú có bán cà-phê hôn chú? – Cô bé cắt tóc demi garcon nháy mắt hỏi.
Đặng Thừa Tân tức cười hát ghẹo:
– “Đừng gọi anh bằng chú…!Sợ ngăn cách đôi ta…!Em làm công chúa nhé? Anh tráng sĩ hiên ngang, tung hoành trên bốn biển…”
Cô bé đó tuy biết bài “Đừng gọi anh bằng chú” của chàng Hải Quân Anh Thy nhưng vì mắc cỡ nên đứng im ru ôm cái cặp học trò mà cúi mặt cười ngỏn nghẻn thiệt dễ thương.
Mấy đứa bạn của nhỏ thúc cáy nhỏ cất lời đối lại, nhưng nhỏ chỉ chu môi phụng phịu.
– Bữa nay chú đãi khách hữu duyên ăn uống miễn phí, mấy…!mấy…
– Mấy em! – Ba nhỏ dạn miệng nhứt đồng thanh nói.
– Ờ, mấy em muốn ăn gì thì tùy hỷ.
Nhỏ tóc thắt bím cong môi hỏi:
– Ông chú hổng có được…!dụ con nít nghen? Lát đòi tiền tụi em khóc bắt đền bây giờ.
– Nghe rồi con nít quỷ để tóc bính.
– Chớ chẳng lẽ con nít gái húi cua giống như anh.
Bầy bướm trắng đó liền a thần phù lại quầy kem chọn cho mình một hũ kem Haagen-Dazs cỡ lớn như vị khách ban nãy.
Món kem xa xỉ đối với đám học trò “bình dân học vụ”.
– Chú…!- Nhỏ “Demi-garcon” e thẹn hỏi.
– Chú cho tụi…!tụi em mấy ly trà đá uống giải khát đi.
– Phải a…!Ăn kem khát nước lắm chú.
– Lại là nhỏ tóc thắt bím.
– Đúng, ̣đúng, hồi nãy chú nói ăn uống miễn phí mà.
Sao thiếu nước được, như vậy là xí-gạt tụi em rồi.
– Cặp chị em song sinh nhau nhau hùa theo.
– Mấy cô sợ khát thì để kem chảy ra rồi uống cũng được mà.
Bầy bướm trắng “biểu tình” thiệt xôm tụ.
Duy có một con bướm có mái tóc demi-garcon là phản đối nhỏ rí trong miệng.
Muốn lấy le với những cô nữ sinh nên chẳng cần lệnh của ông chủ, mấy cậu nhân viên đã tự đi sắp bàn – ghế cho họ ngồi.
Nhỏ nào nhỏ nấy cảm ơn rối rít, không quên đơm thêm vài câu mát ruột mát gan vô lỗ tai đám nhân viên “Việc chủ giao thì nhác, việc gái nhờ thì siêng” này.
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông…”
Quỳnh Như, cô nữ sinh để tóc demi-garcon, dịu dàng hỏi:
– Chú ca bài chi mà ngọt quá vậy chú?
– “Áo lụa Hà Đông”, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ từ thơ của thi sĩ Nguyên Sa, mà chú rất thích nghe “Tiếng hát đại hồ cầm” Duy Trác trình bày.
Thi sĩ Nguyên Sa viết tặng cho bà Lý Lệ Hằng, người tình của vua Bảo Đại.
Vị khách đã ăn hơn phân nửa hũ kem mà vẫn chưa bị ngán ngấy.
Anh ta lại yêu cầu một bài hát do Nhật Trường ca.
Sau một lúc cân nhắc và tìm kiếm, anh chủ quán chọn bài “Thú đau thương” do song ca Nhật Trường – Thanh Vũ biểu diễn, nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ thơ của thi sĩ Lưu Trọng Lư.
– Đôi song-ca này có bài “Nàng” của ca – nhạc sĩ Trung Chỉnh hát nghe cưng lắm.
– Quê quán người sáng tác ở đâu vậy anh?
– Ông Trung Chỉnh là dân Mỹ Tho rặt.
Tên thật của ông là Huỳnh Văn Chỉnh; trước kia là Quân Y, còn hiện nay là bác sĩ gia đình ở tiểu bang California.
– À, hình như có ca sĩ nào cũng quê ở đó nè, nhưng không phải cô Hoàng Oanh.
– Cô Trúc Ly là dân Mỹ Tho.
– Đúng rồi!
– “Mỹ Tho đại phố” có nhiều soạn giả, nhạc công, nghệ sĩ, nhạc sĩ và ca sĩ tài hoa mà.
Quỳnh Như ngại ngùng hỏi:
– Chú có bài nào tặng cho tụi em không?
– Tặng mày thì có, bày đặt giả bộ lồng tụi tao vô.
– Cô bé cột tóc đuôi gà trề môi.
Vậy là anh bật bài “Tuổi Mười ba” do nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ từ thơ của thi sĩ Nguyên Sa, qua phần trình bày của “Tiếng nhung mềm” Sĩ Phú.
Song ca Duy Quang – Ngọc Lan có trình bày bà̀i này qua hình thức liên khúc, liên khúc đó mang tên ” Màu kỷ niệm – Tuổi Mười ba”; bài đầu là sáng tác của nhạc sĩ Phạm Đình Chương.
Ngoài trời mưa đã nặng hạt hơn ban nãy, đường sá chỉ còn lác đác vài bóng xe cộ, đôi quang cảnh thân ái đã nép mình vào một hiên nhà nào đó mà đụt mưa như đàn bướm trắng mực tím vương tay này.
Không có đèn đường thắp sáng, con đường trở nên u buồn đến lạ.
Lẩn trong màn mưa lâm thâm ấy, đôi chim câu đang kêu “Gù”, “Gù”…!tìm nhau.
Trước lúc xuống nhà sau dọn dẹp kho hàng, anh tặng cho đàn bướm trắng bài “Tóc mây” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ và cũng do Sĩ Phú ca.
Quỳnh Như nghe đâu được vài câu, ánh mắt nhỏ đã biết mang sầu vào tim, nhỏ ngắm bóng lưng cái ông chú già có lối nói chuyện dễ mến đó mà vui vui một mình.
Tới chừng trở lên nhà trên, đàn bướm trắng đã bay đi theo cơn mưa bóng mây.
Để lại những hũ kem sạch trơn và những chiếc ly thủy tinh còn lưng chừng trà đá.
– Nãy giờ nhượng bộ mấy cô nữ sinh phát toàn bản cũ, giờ chọn bài mới nghe anh?
Đặng Thừa Tân gật đầu cười, thay cho một lời đồng ý.
Đoạn nói:
– “Xe tang và Con phố tuổi thơ” là sáng tác của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, nằm trong băng nhạc “Trường Sơn 9 – Nhặt lá bàng rơi”.
Trong băng nhạc này có rất nhiều bài hiếm lạ, tôi sẽ để nó phát luôn đặng rảnh tay xuống nhà sau quét dọn…!À, muốn uống gì không?
– Một ly trà sen thật đắng thật nóng để giải vị ngấy của kem.
– Okay.
Anh mới vừa ghim điện cái bình nước, chợt có một ông già bán vé số xin vào đụt mưa.
Vẫn như lệ cũ, anh mời ông già ăn uống miễn phí.
Ông già mừng rơn kêu liền một ly rau má – đậu xanh và xin một dĩa cơm nguội để ăn.
– Ông ăn chi? Con sai đệ tử của con đi mua.
Ông già ngại ngần nói từng tuổi này rồi chỉ xin một món gì ngon ngon.
Anh bèn mua cho ông già một hộp cơm chiên gà xối mỡ và hột gà ốp-la ăn kèm với chén canh bún.
Biểu nhân viên đi mua xong, anh đi pha trà sen cho vị khách đầu tiên.
Không có khách thì thôi, hễ có là vô ào ào làm chẳng ai trở tay kịp.
Đặng Thừa Tân vui miệng nói với vị khách đầu tiên:
– Giới sáng tác miền Nam vẫn hoan nghênh những tác phẩm của miền Bắc, dù rằng phần đông giới sáng tác miền Bắc thời đó luôn ong ỏng miệng chửi giới sáng tác miền Nam rất nặng lời và độc địa.
– Tôi cần bằng chứng.
– Okay.
Đây là sáng tác của sĩ quan Chiến tranh – Chính trị Nguyễn Ngọc Thương, tức nhạc sĩ Song Ngọc, phổ từ thơ của Xuân Diệu, mang tên “Than thở”, người trình bày là ca sĩ Julie Quang.
Rồi anh tiếp, trong lúc xắt chanh đặt pha thức uống cho một người trong nhóm khách mới tới:
– Người trai đất thiêng An Giang ấy không mượn cớ khác biệt quan điểm chính trị để chiếm đoạt ý thơ của ông kia, ông Ngọc vẫn ghi rất rõ ràng trong tờ nhạc rằng lời này do đâu mà thành hình.
– Sao anh biết được bài hát gốc của những bài nhạc ngoại lời Việt vậy?
Đặng Thừa Tân tủm tỉm cười:
– Có một trang nhạc do người nước ngoài lập ra mà tôi tìm thấy trên Facebook, tạm dịch là “Nhạc tình bay trên khung trời cũ”, đã giúp tôi biết được cái gốc của những bài hát nhạc ngoại lời Việt trước năm 75.
– Còn bài nào “Hai đàng kết hợp” không anh?
– “Lời người ra đi” của đôi tác giả Trần Hoàn – Hoàng Thi Thơ.
Kỳ cục thay, sau này nhiều người chỉ đề tên Trần Hoàn mà phớt lờ nhạc sĩ đồng sáng tác Hoàng Thi Thơ.
Và nghiễm nhiên, việc làm này sẽ biến bài hát thành nhạc Đỏ, trong khi nó thuộc thể loại nhạc Tiền Chiến.
Vào năm 1954, tại Sài Gòn, ông Thơ đã phát hành tờ nhạc của bài hát này và vẫn ghi rất rõ ràng rằng mình và ông Hoàn đều là đồng tác giả, chứ không chiếm đoạt làm của riêng.
Không đợi người khách yêu cầu bài hát do Nhật Trường ca, Thừa Tân đã mở bản “Đừng hỏi tại sao” của bác, tức nhạc sĩ Trần Thiện Thanh.
Có một đứa nhỏ thò tay vô tủ kem mà lấy ra một hũ kem Haagen-Dazs cỡ trung, chắc có lẽ là vị “Triple Chocolate Fudge Cookie”, anh đoán được là bởi đã nhìn thấy bao bì mẫu mã quá nhiều bận.
Bữa nay anh lỗ nặng rồi.
Điện thoại của Thừa Tân đổ chuông nên anh giao phần việc pha chế cho nhân viên rồi ra con hẻm sau quán nói chuyện.
– Bây giờ, không một ai trình bày xuất sắc bài “Vọng ngày xanh” của nhạc sĩ Khánh Băng như cô Thái Thanh, cô Lệ Thu và bác Hùng Cường.
– Nhạc của ông Băng nào giờ không được mấy người hát nổi đâu, nên đâm ra chìm nghỉm so với các bạn bè đồng nghiệp Nam Kỳ.
– Nhạc sĩ Khánh Băng là dân Vũng Tàu chánh cống.
Ông cũng là một nhạc công rất giỏi.
– Với lại bài “Trường ca Hòn vọng phu” của nhạc sĩ Lê Thương nữa, rất khó hát.
– Nhờ vậy mà không ai đem ra hát karaoke.
Tôi tưởng tượng một người không có hơi hám gì mà ca bài này chắc đứt dây thanh quản luôn.
– Tôi thấy nên đem bài này vô làm hình phạt cho những người hát karaoke “búa lua xua”, bất kể không – thời gian và bà con lối xóm.
– Phạt sao?
– Bắt hát bài này với bản “Vọng ngày xanh” cho tới khi nào lên nổi nốt cao, đúng giọng và hay thì thôi.
– Thôi đi ông nội, chắc người ta trụy tim chết tươi quá.
Vì đang đứng ở hành lang dẫn vào nhà vệ sinh và hướng ra lối thoát hiểm nên Thừa Tân không hiểu ai đang nói với ai và có cả thảy là mấy người.
Có thể do làm việc quá sức đâm ra tai anh bị lãng nặng chăng?
– Ông chủ ơi…
– Ơi?
– Vặn bài nào mới mới đi…!Nghe bài cũ nhàm quá.
– Được.
“Đêm nay ai đưa em về” của nhạc sĩ Nhật Ngân, do tam ca Thanh Sơn – Lệ Thanh – Hồng Phúc trình bày.
Thanh Sơn này là nhạc sĩ Thanh Sơn.
Đợi tôi một chút nghen?
– Ờ.
Nhạc Vàng có gần mười ngàn bản.
Mà bài hát thịnh hành thì chưa tới một ngàn.
Thú vui của Thừa Tân là đi phổ biến những ca khúc ít ai nhớ hoặc còn biết đến, chứ trên đài ngày nào cũng ra rả một bài rồi, ra đây mình lại mở bài đó nữa, khách sẽ chán mà không ghé uống nước.
Để chiều lòng khách, anh bật bài “Nhớ về Đà Lạt” do Jo Marcel ca, nhạc sĩ Hoàng Trọng phổ từ thơ của thi sĩ Hồ Đình Phương.
– Đà Lạt giờ còn bao nhiêu nét đẹp như trong bài nhỉ?
– Mất hết rồi còn đâu…
Một người bạn trong đoàn của họ phản bác:
– Ô hay nhỉ? Hay là các cậu muốn Đất Nước mình không phát triển, để hoang vu như rừng rậm Amazon thế mà coi được à?
– Gì mà nóng thế chứ lị? Cậu thấy Singapore không? Rừng nhân tạo, thiên nhiên cũng nhân tạo nốt,…!bởi vì quỹ đất của họ hạn hẹp nên hệ sinh thái của họ không được phong phú như bên mình, thành ra họ phải xây lên.
Còn mình, mình có sẵn tất cả, tự nhiên lại san rừng – lấp núi – vùi bể rồi cất lên mấy cái buy-đinh lòe loẹt và dựng mấy con đường trồng hoa theo khuôn khổ, cậu nghĩ có dại dột không?
Người trai đó nín thinh.
Xây dựng nhân tạo thì rất nhanh chóng, nhưng hệ sinh thái muốn tái tạo phải mất hàng trăm năm.
Một người khách bàn bên quay qua bắt chuyện:
– Mấy cậu thuộc diện “Ở lại” hay “Vô Nam chơi”?
Một trong số họ trả lời:
– Chúng con thuộc diện “Ở lại”.
Rồi thôi người khách đó không hỏi nữa.
Ông nhờ chủ quán kiếm bài gì là lạ cho mình nghe.
Và Thừa Tân đã không phụ lòng mong mỏi của ông, tiếng hát dung dị của Diễm Chi trong bài “Vui cảnh mùa Hè” của đôi nhạc sĩ Hoàng Trọng – Hoàng Dương đã làm quán nhỏ bừng sắc tưng bừng.
– Quả không hổ danh “Ông hoàng Tango”.
– Ông khách già cười hể hả.
– Có bài nào về đất Bắc không anh? Mà phải hiếm thật hiếm nhé.
– “Bến đò xưa” của nhạc sĩ Đào Thừa Liệt, người trình bày sẽ là Nhật Trường.
Rồi vui miệng, Thừa Tân giới thiệu cho nhóm khách Bắc Kỳ biết:
– Có bốn bản đều có chung chữ “Cố đô”, nhưng hai bản viết về Hà Nội và hai bản viết về Huế.
Bản về Thăng Long là “Vọng Cố đô” của đôi nhạc sĩ Nhật Ngân – Đan Thọ và “Tình Cố đô” của đôi tác giả Lam Phương – Mạnh Thường.
Bản về Thần Kinh là “Sầu Cố đô” của ca – nhạc sĩ Duy Khánh và “Chiều Cố đô” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ…
Anh chưa nói hết câu, tin nhắn từ luật sư gởi sang đã khiến cho anh phải bỏ dở câu chuyện và chạy thục mạng ra sau con hẻm để…
oOo
Stephen Đoàn đang sửa soạn cho giờ Xưng Tội.
Anh hãy còn băn khoăn vì những gì mà Đức Tổng Giám Mục nói về Ignacio Cường; có lẽ sau bao nhiêu biến cố, Giáo xứ cần một người bản lĩnh và quyết đoán hơn là một kẻ thày lay như anh.
Bên tai anh, “Phượng Hoàng band” đang trình bày ca khúc “Vào Hạ” của nhạc sĩ Lê Hựu Hà.
– Anh Mỹ.
Henrico Thạnh được Cha Thành mời lên đây tham dự giờ Xưng Tội để tập dợt cho quen.
Ngày mai tới phiên của Ignacio Cường, còn ngày chót thì để Cha Thành và anh ta chia nhau làm việc.
Chàng Linh mục xứ dừa mời anh bạn đồng tu nghe thử bài “Mẹ Maria” do Ngọc Lan biểu diễn cùng ca đoàn bên Hoa Kỳ, đây là một sáng tác của nhạc sĩ Tâm Bảo.
Anh tính mời ca đoàn nữ trình bày bài này trong Thánh Lễ Chúa Nhựt.
– Được thôi.
– Stephen Đoàn cười thật tươi.
– Để tôi thổi thử một đoạn nghen?
Tiếng kèn của Stephen Đoàn coi mòi còn hay hơn là phần hòa âm phối khí trong bản Thánh Ca ấy.
Có lẽ là vì âm thanh đơn nên giai điệu không bị rối và hỗn.
“Nắng Xuân đã tàn
Rồi mùa cũng sang
Tình ta vỡ tan
Theo muôn trùng năm tháng…”
Đọc xong bài thơ trên, Henrico Thạnh ướm hỏi người bạn đồng tu rằng ai là người đã sáng tác.
Stephen Đoàn lắc đầu cười trừ, mấy bài thơ tình sến súa – nước máy như vầy anh chẳng thường đọc mấy.
– Đoán trúng, thưởng một chầu lẩu cá nóng hổi.
Stephen Mỹ chống tay đỡ má mà cười hiền biểu:
– À, vậy ra không phải tác giả nổi tiếng, mà là người quen của chúng ta…!Để thư thư tôi trả lời nghen?
– Daccord.
oOo
Trì Thương đang ngồi đọc cuốn “Nửa tháng trong miền Thất Sơn” của văn sĩ, ký giả, nhà khảo cứu và phê bình gia Nguyễn Văn Hầu.
Nếu ai muốn tìm hiểu các đời vua Nguyễn và huyền sử xoay quanh các danh tướng – trung thần thời đại đó thì đây là một đề cử hết sức xứng đáng.
– Thảo.
– Dạ? À, đệ không sao đâu…!
– “Vạn pháp do Duyên khởi, nhưng do Tâm diệt”.
Chấp Niệm là do mình tạo ra, chẳng phải ai đem lại hết.
– Tại sao anh Hai đệ lại thương cô gái đó dữ vậy không biết? Tới nỗi chiều theo mọi yêu sách của cổ rồi nhận về hai tiếng “Sở Khanh”?
– Một bên cầu, một bên cung.
Hai bên không đồng đều nên tự khắc vỡ mộng.
Thế thôi.
Tôi cũng từng có người yêu nên dư sức biết.
– Huynh được cái gì khi yêu? Nhục dục hay hạnh phúc ái ân?
– Cả hai.
– Còn bây giờ?
– Sự trống rỗng.
– Sadhu.
Hoàng Kỳ bước đến thông báo đã tới giờ thọ thực.
Hai người hiền huynh chắp tay mà nói lời cảm ơn chú.
Một bà già gốc Cao Miên đem cơm lên cúng dường, toàn bộ thịt cá là đã mần rồi mới chọn mua chứ không phải tự tay bà đặt mua từ hôm trước.
Bà chế biến món cá Amok, cà-ri Đỏ nấu với thịt bò, khoai tây chiên giòn với mỡ heo rồi đem xào sơ trên chảo, gỏi sầu đâu chay và cơm gạo dẻo.
Bà ngồi khép chân theo hình chữ Z, tức là đầu gối hướng phải và gót chân quay về phía bên trái, hai tay bà chắp trước ngực, ngồi cách nhóm Tăng sĩ khoảng đâu sáu mét.
Đợi vãn hồi Kinh nguyện, bà thưa:
– Bạch Thầy, đồ ăn con nấu có vừa miệng không?
Huynh trưởng chắp tay trả lời:
– Dạ, rất ngon, thưa thí chủ.
Tín cũng xác nhận đồ ăn ngon thật.
Anh cũng được mời ra đây ăn trưa.
Người thí chủ tưởng đâu Tín là Sa-di nên đối đãi rất ân cần và niềm nở.
Thường thường Sa-di sẽ mặc đồ trắng theo kiểu đơn giản và có người thậm chí còn phát tâm cạo đầu, Tín hội đủ hai điều ấy nên mới gây dựng được lòng tin nơi bà già.
Bà già nhờ Châu Lợi đưa ra lời khuyên về cách gỡ rối cho bà và cháu dâu.
Ông bèn mời bà lên Chánh Điện để nói chuyện riêng.
Tín đưa mắt nhìn hai người lom lom như thể muốn săm soi coi có điều chi bất minh để viết bài vu khống.
…
– Tôi giúp Tín trả nợ để Tín có bằng cớ vu khống cho Quý Tâm ư?
– Ông, đáng ra đừng nên làm thầy chùa, mà phải làm cố vấn cho tổng thống, mà phải tổng thống Hoa Kỳ mới được.
Ông đi guốc trong bụng người ta hết rồi.
Trì Thương chỉ đứng lặng thinh nhìn Tín mà không hé miệng nói một câu.
Khi một con người xấu xa, tàn tệ đã bị lật tẩy hết mọi mưu ma chước quỷ của họ, thì chính sự đa nghi của họ sẽ biến thành đòn tra tấn họ, thành ra chú không cần phải tốn công làm gì nữa.
– Tín sao vậy nhị sư huynh?
Trì Thương day sang trả lời Hoàng Kỳ:
– “Kinh Pháp Cú – 3.
Phẩm Tâm: Số Bốn mươi Hai”.
Hoàng Kỳ sửng sốt nhìn Hỷ Tín.
Châu Lợi đằng hắng.
Rồi cất giọng đánh tiếng mời các hiền đệ đi khất thực.
Đoạn hỏi:
– Tín, có muốn đi chung không?
– Mấy người muốn đi đâu thì đi đi.
Tôi nhức đầu quá.
Chưa kịp mở miệng nói hai chữ “Đ* má”, Tín đã bị Trì Thương nắm áo lôi xềnh xệch vô Chánh Điện.
Tiếng cái áo bị tét đường chỉ vang lên nghe sao lồng lộng.
Vừa tới ngạch cửa thì cái áo của Tín cũng ca xong bản “Áo anh sứt chỉ đường tà” của Hữu Loan và Phạm Duy, anh mình trần ngồi cố lì ở đó với sắc mặt chù ụ như mới bị giựt hụi cái sột.
– Chúng ta đi thôi.
– Trì Thương hờ hững thông báo.
Châu Lợi thở dài.
Ông lệnh cho các sư đệ ghé nhà cư sĩ Bửu Sơn thọ thực, bữa nay đừng nên đi khất thực ở đâu hết vì tâm trạng không tốt sẽ dễ thốt ra những lời thừa thãi và xích mích.
Xuống tới đó thì đã hơn mười giờ sáng.
Nhóm cư sĩ Hòa Hảo hối hả dọn cơm cúng dường cho đoàn Tăng sĩ Theravada.
Bữa ăn trưa nay có món gà quay chảo, canh bún, đậu rồng xào hột vịt, nghêu kho sả – ớt và rau sống hái ngoài vườn; tráng miệng với chuối chiên thơm ngọt.
Trì Thương hỏi mượn Trần Bảo Sơn điện thoại di động, chàng cư sĩ mày tằm mắt phụng đồng ý ngay tắp lự.
Người Tăng sĩ đó bèn ra vườn thanh long đặng nói chuyện riêng với anh Hai.
Nơi đây hết sức vắng vẻ dù thanh long đã trĩu cành.
Ế quá mà, còn lòng dạ đâu mà chộn rộn ra hái.
Trì Thương ngồi xuống cái băng ghế kê dưới gốc cây gáo, rồi mới gọi điện cho người anh sinh đôi.
– Gì đó em trai?
– Anh có dư một trăm ngàn không?
– Trời đất ơi! Em tưởng anh giàu dữ vậy hả Thảo? Ráng ky cõm mười mấy năm nay mới “mót” được gần trăm.
Rồi Trần Kim Thương ngập ngừng hỏi em Út:
– Ủa mà em tu mà, làm cái gì mà cần nhiều tiền dữ vậy? À, hay là muốn tu bổ tịnh thất?
– Có một người muốn hoàn lương nhưng bị nợ nần ngập đầu cản bước.
Khốn nỗi ở chỗ, người này lại muốn gieo tiếng ác cho ân nhân của mình để lập công với chủ.
– Đ* má vậy giúp làm chi? Cho nó chết mẹ cho rồi…!Ơ, cho anh Hai xin lỗi.
Trần Mộc Thảo phì cười:
– Dạ, hổng sao đâu anh…!Nhưng em thấy người này còn chút căn lành do hiền mẫu tích cóp hằng bao năm qua, nên không nỡ để người này bị chết.
Vả chăng, đó cũng là di nguyện của Thầy Như Phong.
Trần Kim Thương cắn móng tay cái một đỗi, mới mệt mỏi lên tiếng:
– Thôi, để anh đi kiếm anh Bảy Hẹ, ảnh là dân cho vay có tiếng ở Chợ Lớn, chắc ảnh sẽ thương tình mà cho ứng trước một trăm.
– Đừng có ngu, anh Hai.
“Đồng tiền đi liền khúc ruột”, huống hồ chi ổng là người trong giang hồ.
– Chớ cậu nghĩ tôi đào đâu ra một trăm ngàn? Cướp nhà băng hay nhà của mấy thằng tham nhũng?
– Anh Hai, anh liên lạc với cố vấn tổng thống là cụ Lạc Tương Giang, cụ sẽ giúp anh kiếm đủ một trăm ngàn trong vòng nửa tháng đổ lại.
– Ông nội ơi…!Người ta trong Bộ Nội An, chớ đâu phải ông già giữ xe ngoài chợ mà muốn gặp là gặp.
– Anh Hai, chỉ cần anh nói, “Có thể giúp cậu kia trắng án” là cụ Giang sẽ giúp liền.
– Trời, “Mật mã Da Vinci” nữa hả? Thôi, tôi sẽ ráng hết sức…!Mà nè, đừng hy vọng nghen, bởi đời không như là “Tam Quốc Chí” đâu mà ngồi đó rung đùi làm Gia Cát – Khổng Minh.
Trần Mộc Thảo nhếch miệng cười:
– Anh Hai, em không mộng làm tôi tớ bày mưu – hiến kế cho bất kỳ ai đâu, em chỉ mộng Niết Bàn mà thôi.
Tự nhiên một khoảng lặng vô hình nào đó len lỏi vào cuộc nói chuyện giữa hai anh em giống nhau như lột.
Trì Thương thấu hiểu được nguyên cớ nào đã dẫn đến hiện tượng trên nên im tiếng đợi anh Hai định tâm.
– Thảo, em tự do hơn anh rất nhiều.
Chẳng có một gông cùm – xiềng xích thế gian nào vây hãm được tâm thức em.
Có thể, sẽ có ngày em bị “bắn hạ”; nhưng như tôn giả Mục Kiền Liên vậy, họ chỉ hành hạ được xác thân Ông nhưng không thể tiêu diệt được tâm thức thong dong, tự tại của Ông.
– Cái khốn khổ lớn nhứt của loài người, theo thiển ý của em, là sợ mích lòng và hùa theo ý kẻ khác để giữ sự hòa hảo.
– Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Trì Thương nở nụ cười đầy an nhiên vô ngần.
Rồi chú nhỏ nhẹ hỏi:
– Anh Hai, anh có muốn theo Kitô Giáo không?
– Ơ…
– Đừng bán Chúa như Judas hay chối Chúa như Phêrô.
Hãy thương Chúa như Matthias và Stephen.
Đôi mắt của chú Thương mở lớn hết cỡ:
– Sao em biết hả Thảo?
– Thủy Diệu nói cho em biết.
Chợt có con chim ruồi lảng vảng quanh một cây thanh long đã chín muồi, Trì Thương bèn ngừng nói để quay phim cho anh Hai coi.
Hồi nhỏ, hai anh em đã từng trốn học để chạy ra vườn bông của gia đình hàng xóm hòng rình bắt nó, song đã không bắt được mà lại còn bị ba má cho ăn roi mây sưng mông.
Chú Thương khụt khịt mũi, như đang bị hồi ức tuổi thơ khuấy động tâm thần.
Làm trẻ con không tơ vương ái tình – nhục dục sướng biết mấy, đời sẽ xám nhẹ đôi tiếng rồi tức thì rạng rỡ ánh dương; chẳng như người lớn, nhìn đâu cũng chỉ thấy Tam Bành – Lục Dục trong một thế giới biến động cấp kỳ.
– Anh ơi, đức tin không phải là một giao kèo hay thỏa thuận của hôn nhân nơi trần thế đâu.
Nếu anh tin kính nơi Ngài, thì hãy kiên tâm đi tiếp; còn không thì thôi.
Em tin các Cha của cổ không ép buộc anh theo Đạo nếu như anh chưa sẵn sàng đâu.
– Ừ, là anh sai, anh đã bất nhã với Chúa.
– Chú Thương ngại ngùng hỏi.
– Còn em, em tin Chúa chứ?
– Em tin vào những ai có thể giúp thế gian trở nên tốt đẹp, cải hối và lương thiện hơn nhờ vào hình tượng của họ.
– Lành thay.
Nói tới đây thì mợ Hai xuống kêu chú Thương nhào bột làm thêm bánh mì bông cúc, thành ra chú đành phải kết thúc cuộc gọi sớm.
Trước lúc tạm biệt em trai, chú hứa sẽ ráng liên lạc với cố vấn họ Lạc sớm nhứt có thể.
Đáp lại lời chú, em trai chỉ cười khì một tiếng và khuyên chú đừng nên hấp tấp kẻo “hư bột hư đường”.
– Ai gọi mà con nói chuyện gần cả tiếng đồng hồ vậy?
– Dạ, là thằng Thảo…
Mợ Hai đập nhẹ lên cánh tay trái của thằng con trưởng:
– Mèn đét ơi! Sao bây hổng kêu má?
– Chời ơi…!Chuyện riêng tư, hổng phải chuyện gia đình đâu má…
Mợ Hai càng thêm lo, bà hỏi dồn:
– Nó gặp chuyện ngặt hả con? Hả con? Hả…
Chú Thương chắp tay xá người má hay lo vẩn vơ ba cái, rồi chỉ vô cái tủ đựng bánh trống huơ trống hoác.
– Rồi, tui biết rồi, mấy người lớn rồi nên bày đặt “chuyện riêng tư”, cho tui ra rìa phải hôn?
– Hông.
Chừng nào “đại công cáo thành” rồi con, con hứa sẽ kể rành mạch, rành mạch hơn cụ Hồ Biểu Chánh viết văn nữa.
– Định cướp chánh quyền hay gì mà xài chữ nghĩa đao to búa lớn thấy mà ghê dzậy?
– Dạ, giờ con nói má nghe ha? Má lên nhà trên làm “chủ tiệm nước” giùm con há.
Lát mất tiền hay khách ăn quỵt lại đổ thừa ngày xui – tháng rủi nữa.
– Biết rồi.
Từ ngày đưa hai cha con họ Vệ về đây phụ trông coi quán, việc buôn bán của hai má con họ Trần coi bộ phát đạt hơn xưa.
Nhờ kinh nghiệm trong thương trường mấy mươi năm mà Vệ Thu đã chỉ cho bà ghệ cách quảng cáo thương hiệu vừa hữu hiệu vừa sanh lời, mà lại ít chi phí đầu tư.
Bù lại, Vệ Thương được Trần Kim Thương hướng dẫn cách làm bánh, sên mứt và pha chế đồ uống.
Sau một hồi nhào bột và nặn bánh, rốt cuộc chú Thương cũng đã làm xong một mẻ bánh hết sức dễ thương.
Giờ chỉ cần bỏ lò và đợi bánh chín thôi.
Xong xuôi đâu đó, chú lên nhà trên coi sóc quán với má, bác Hai và mấy người con của ông.
Chú rất thích nghe bài “Tiếng buồn” do Duy Quang ca, tiếc là không rõ ai đặt lời Việt từ bài hát “Feelings” của tác giả Morris Albert; ít có ai biết bài hát gốc của hai ca khúc trên đến từ nước Pháp, do nhạc sĩ Louis Gaste sáng tác và đặt tên là “Pour toi”.
Nhưng bữa nay chú sẽ không nghe bài đó mà đổi sang nghe Don Hồ ca bài “Đại lộ Hoàng Hôn” do nhạc sĩ Nguyễn Hoàng Tâm đặt lời Việt từ bài “Boulevard” của ca – nhạc sĩ Dan Byrd; ngoài bản Việt trên còn có “Con đường tình” của ca sĩ Ngọc Lan và “Con tim buồn” của nữ nhạc sĩ Khúc Lan đã được Tuấn Ngọc trình bày rất hay.
Chú Thương ngó Vệ Thương mà cười mơn, hỏi:
– Trưa nay ăn gì Út Tiều?
Vệ Thương vừa xắt chanh thành từng lát mỏng vừa cười đáp:
– Dạ, mợ Hai nấu gì em ăn nấy.
– Ăn được hôn đó?
– Ưm…!Nhắm ăn hổng nổi thì em đặt món qua mạng…
Mợ Hai tặc lưỡi, biểu:
– Thôi con đặt luôn đi.
Trưa nay mợ kho mắm, chiên cá hường, làm tôm rim dừa và nấu canh lá cách với đùi ếch…
– Trời ơi, sao mà toàn mấy món con hổng ăn nổi không vậy?
Biết Vệ Thương nhõng nhẽo nên mợ Hai cười rần.
Tội nghiệp thằng nhỏ, nó muốn ăn cơm chung món với gia đình cho vui nhưng cái miệng và bao tử không nghe lời.
– Thôi, mợ thương, chiều nay mợ làm món cơm đỏ ăn cặp với gà rô-ti cho con nghen?
– Dạ được.
Vệ Thu bồi thêm:
– Còn ba, ba sẽ đãi nguyên nhà món bánh Hoa mang tên “Lá liễu”.
Chú Thương “nổi máu” học nghề:
– Cha, bánh gì ngộ vậy bác? Nào giờ con mới nghe nha.
– Ui, dễ ẹt hà con, để chiều nay bác chỉ con cách làm.
Bánh này chánh gốc Triều Châu đó con, giờ ít ai làm bán lắm.
Nghe tới tiền, hai mắt mợ Hai sáng rực, bà liền dặn ông bồ chiều nay nhớ dạy mẹ con bà cách làm bánh.
Rồi bà chợt vỗ trán mà hỏi:
– Ủa mà ông là Tiều, mà sao tiếng Hoa lơ lớ như người Việt mới chập chững học vậy?
– Ba tui Tiều – mồ côi, má tui Việt, ba tui đi lính bỏ mạng nên đâu có ai dạy tiếng Hoa cho tui nữa mà tui biết.
Hổng có má tui nhắc cái gốc của nhà nội chắc tui cũng quên phứt luôn.
– Vậy sao ông biết nấu món Tàu?
– Có sách của ông già để lại…!Thuở còn sanh tiền, ông là đầu bếp của một nhà hàng Tàu rất nổi tiếng trong khu Chú Hỏa.
Ổng rất siêng năng ghi chép công thức học được nên giờ đây tui rất rành món Tàu.
Tui sợ mình qua nước khác không có nghề ngỗng gì nên đem theo cuốn sổ tay cho chắc ăn.
Qua đó làm phụ bếp vài năm có vốn rồi sẽ mở gánh hàng rong kiếm sống, ai ngờ đâu…
Tình cờ có một cuộc thi Toán học tổ chức trong trường Đại Học gần nhà, sẵn đang thất nghiệp nên tui men ra tham dự.
Vì đây là một cuộc thi nhằm gây quỹ giúp đỡ cho các bịnh nhi mắc ung thư nên không cần bằng cấp gì, chỉ cần giấy tờ hợp lệ thôi.
Hôm đó tui đạt được điểm số rất cao, nhưng xếp hạng thứ ba mươi bảy trong tốp một trăm thôi, chứ không phải là điểm tuyệt đối gì; lý do đơn giản là tui dốt tiếng Anh nên không hiểu đề và không biết trả lời một vài câu thành ra phải bỏ trống.
Trời xui Đất khiến sao ông hiệu trưởng chấm bài của tui cảm thấy khó hiểu nên đi kiếm tui, và hỏi nguyên nhân nào đã khiến tui không làm mấy câu lý thuyết dễ ẹt này, trong khi những bài Hình học – Không gian thật khó thì làm hết ráo và đúng hết trơn.
Tui mới thú thiệt là tui dốt tiếng Anh, không biết diễn giải những câu lý thuyết đó bằng tiếng Anh như thế nào.
Có lẽ thương tui có tài mà không có phận, nên thầy giúp tui ghi danh lớp ESL và khuyên tui ráng học tiếng Anh cho giỏi để vô Đại Học, vì thầy nói tui rất giỏi Toán và dư sức tốt nghiệp ngành Công nghệ – Thông tin, đây là một ngành rất dễ làm giàu và thành công bên xứ này.
Nhờ ơn dìu dắt của thầy mà ngày nay tui có tất cả mọi thứ trong tay…
– Rồi ông có trả ơn không?
– Tui mua tặng thầy một căn biệt thự dưỡng già và hai chiếc xe: Một chiếc Ferrari và một chiếc Bugatti.
Ngoài ra, còn cấp dưỡng cho vợ chồng thầy mỗi người mười ngàn đồng Mỹ kim mỗi tháng, chừng nào họ chết mới ngưng.
Ngừng một đỗi, Vệ Thu tiếp:
– Ai có ơn tui trả bội hậu lắm, ai có oán tui trả sát ván luôn.
– Ông kể cho tui nghe kỷ niệm những năm đầu tiên ở Mỹ đi.
– Bà cụ theo Phật Giáo Hòa Hảo, qua tới Mỹ rồi vẫn cử ăn thịt bò theo lời Đức Thầy và ngày nào cũng nghe Sấm Giảng.
Quê quán của ngoại chánh gốc An Giang.
Tôi ở cùng nhà với bà nên ngày nào cũng bị nghe chung, riết muốn thuộc lòng luôn.
– Vậy Đức Thầy phải tốt dữ lắm ngoại mới tin kính ghê vậy.
Vệ Thu chỉ cười cười mà không đáp.
Rồi ông thở dài mà tâm sự rằng:
– Bởi, nhiều đứa du học sinh thì đầu tắt mặt tối đi làm để gởi tiền về lo cho gia đình mà còn bị chê ít chê keo.
Còn đám con ông cháu cha xài tiền phá của lại được gia đình cùng bầy đàn bao che, tưng tiu và hết lòng binh vực.
Chú Thương hỏi:
– Trời, vừa học vừa làm sao kham sao nổi bác ha?
– Ờ, nên nhìn tụi nó tội lắm.
Gặp khứa nào biết tụi nó qua đây du học mà chọn con đường làm lậu trốn thuế là khứa đó được nước sấn tới hành hạ đủ điều, nhứt là chuyện trả lương rẻ mạt trong khi số giờ làm thì quá cao.
Một người khách đứng gần đó tò mò hỏi ở bên đó có khổ dữ không mà mấy bữa rày đọc tin trên báo nghe thấy ghê quá.
Vệ Thu tủm tỉm cười, rồi trả lời rằng:
– Khổ? Đúng, khổ với mấy người xí xọn, “xà lọn xảnh xẹ”; vì họ xài thẻ tín dụng trả trước nên rất dễ bị mua những thứ mắc tiền không cần thiết, dẫn tới việc tháng nào cũng thủng túi hoặc thậm chí là sau này bị nợ nần ngập đầu.
Còn với những ai ăn xài tiết kiệm và không chưng diện thái quá thì cuộc sống của họ rất thong dong và dễ chịu.
Còn về chuyện luật pháp và thuế má ở bển ra sao phải ở bển mới biết, có nói ra anh cũng không tin đâu.
…
Trở lại vùng Thất Sơn kỳ vĩ, đoàn Tăng sĩ Theravada đang ngồi đàm đạo với nhóm cư sĩ Phật Giáo Hòa Hảo ở trong căn nhà mát mà hôm bữa nhóm này dành làm nơi đãi tiệc chàng Linh mục xấu trai.
Vân Châu đặt câu hỏi:
– Tại sao xây chùa thời nay phần đông chỉ tạo Nghiệp chứ không tạo Phước?
Châu Lợi trả lời:
– Trưởng lão Cấp Cô Độc mua đất của Thái tử Kỳ Đà một cách sòng phẳng và xây cất đúng cách nên khi chết được thác sanh Cõi Trời.
Còn ngày nay, phá rừng, san núi, cưỡng chiếm đất đai,…!nên không những chẳng được Phước mà còn lãnh Nghiệp.
Phú Lâm bổ sung:
– Tự nhiên muông thú đang sống yên lành, mình kéo tới cướp chỗ ở của nó, rồi lập nơi kiếm tiền dựa trên bức bình phong tôn giáo há coi có hợp lẽ không?
Một người cư sĩ hỏi lịch sử thành hình của Phật Giáo.
Và Châu Lợi trả lời rằng:
– Ban đầu chỉ là một tấm bảng dán bản đồ chỉ đường tới Niết Bàn giữa đồng không mông quạnh, sau những người thắp lửa Đạo bắt đầu làm đường bằng phẳng để đi.
Rồi Đức Bổn Sư lập bảng không còn tại thế nữa nên nhóm đệ tử nảy sinh chia rẽ: Một theo Tân Tiến và một theo Bảo Thủ.
Trải qua được đâu một khoảng thời gian êm đềm, một đạo binh do vị vua theo Hồi Giáo kéo tới và sự trỗi dậy của Ấn Độ Giáo đã khiến cho vùng đất đó tơi bời; theo dòng chạy nạn của Tăng sĩ, Phật Giáo lớp thì bị hòa trộn với Đạo Giáo bản địa, và lớp thì kiên quyết giữ Theravada.
Buồn thay, vùng đất đó đã bị Ma Tăng xâm chiếm, chúng xây cất những cung điện nguy nga thay vì tuân theo giới luật và ngang nhiên sửa đổi giới luật mà vẫn còn bô bô, “Phật tại Tâm”.
Chưa kể tới là thấy tín đồ của vùng đất đó đông đảo, rất nhiều người kéo đến dựng làng – lập ấp để bán vật phẩm kiếm lời, khiến cho chúng sanh cả tin sa lầy trong mê muội và dị đoan.
oOo
Hác Đăng Khánh đang ngồi nghe bản nhạc “Rasputin” do ban “Boney M” trình bày trong lúc chờ máy fax gởi tin.
Một bài hát châm biếm khá vui của thập niên Bảy mươi.
Lạc Tương Giang bưng hộp thức ăn liền mua tại một nhà hàng Tây Phương lại bàn cậu học trò.
Bữa ăn xế yêu thích của cậu ta là sandwich phi-lê gà tẩm bột chiên, khoai tây chiên và mực nướng sa-tế sốt phô-mai.
– Ukraine là Ô Khắc Lan phải không?
– Dạ.
– Nga La Tư, Phú Lang Sa, Tân Tây Lan, Gia Nã Đại, Ba Tây, Tân Gia Ba, Tích Lan, Úc Đại Lợi, Ý Đại Lợi, Vương quốc Anh, Vạn Tượng, Hung Gia Lợi, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai Á, Bảo Gia Lợi,…!Ôi, cái thời hoa niên của tôi!
Hác Đăng Khánh bật cười.
Thời hoa niên của chú chẳng có gì vui để mà cất kỹ trong tim.
Vốn không ưa và quen ăn món Tây nên người cố vấn già ăn bánh mì heo quay chan mỡ hành và uống cà-phê đen đá.
Sau khi xác nhận người đó đã nhận được tin gởi qua máy fax, hai thầy trò ra ngoài sân ăn uống cho mát.
– Con luôn quan niệm, “Bản thân anh là một lãnh đạo có Đạo riêng thì đừng nên gây ra một cái chết hay bản án cho bất kỳ chức sắc ở tôn giáo khác.” Thành ra, con vẫn còn e ngại trong chuyện điều tra Giáo xứ Saint Pio.
– Tôi nghĩ Đức Cha Thái sẽ sẵn lòng hợp tác mà.
– Bên Phật thì con dễ “xử” hơn.
Thầy cũng thấy đó, mỗi bận bên Phật có chuyện gì sai quấy hay phát biểu gây hấn thì đều bị báo chí đăng hà rầm và bàn dân thiên hạ nhào vô chỉ trích nhiệt liệt.
Rất dễ dàng, ít sợ bị nói là đàn áp.
Hác Đăng Khánh hướng đôi mắt nâu ướt rượt lên vòm cây mà trầm giọng biểu:
– Con nghĩ con nên mời Đức Cha Thái một lần nữa.
Con không muốn bị vu khống là đàn áp Kitô Giáo đâu.
Người mật vụ Số Ba và Số Bốn cất giọng thông báo về sự có mặt của mình.
Hác Đăng Khánh niềm nở mời hai người cận thần ngồi xuống.
Về phần cố vấn Giang, ông trở vô bếp lấy đồ ăn – thức uống đãi đằng họ.
Trong lúc đó, người tổng thống ngũ tuần hỏi hai anh cận vệ:
– Cái chùa Đan Thanh?
Số Ba nhếch miệng cười:
– Cái chùa đó vốn là động đ* mà.
Gã ma tăng trụ trì chùa đó là một tay tham nhũng, mượn cớ xuất gia để thoát án tử hình; khứa cũng là một trong những người bị tình nghi ám sát cố tổng thống Bàng Đông Quân.
Chú cau mày:
– Vậy là khứa đã bắt tay với kẻ mạo danh Cha Giuse – Blanc Cao Nhật Thành để làm cầu nối chăn dắt và buôn bán nạn nhân.
Sau khi trình bày xong xuôi chuyện chùa Đan Thanh và ăn uống no bụng, hai người mật vụ xin phép cáo từ để đi dò la tin tức tiếp.
Chú cũng không cầm giữ, bèn giở giọng thân tình ra mà biểu họ đừng lao lực quá sức hay liều mình vào chốn hiểm nguy mà mất đi tính mạng.
Không quên cho mỗi người chút đỉnh tiền lận lưng.
Đời này ai làm không công cho ai bao giờ.
Đợi hai người đó đi khỏi rồi, Lạc Tương Giang mới ghi số tiền mà cậu chủ quán cà-phê “Giấc mơ Mùa Đông” khuyên nên chi ra lên tờ giấy trắng.
– Trời ơi! Bằng ba năm tiền lương của con luôn! Rồi con lấy tiền đâu mà trả giúp?
Ngồi nhăn trán một hồi, Hác Đăng Khánh vỗ đùi cái đét.
Chú reo lên:
– Ủa? Nghe đâu Vệ Thu là triệu phú Hoa Kỳ mà, sao cậu này không nhờ ổng giúp giùm.
– Ờ há! Sao lạ vậy cà?
– A…!Thôi con hiểu rồi, chắc cậu này muốn nhờ mình nói giùm với ông đó, có thể nếu cẩu đứng ra nói thì sẽ bị ai đó hãm hại nên mượn hơi mình đây mà.
– Vậy là nó “đẩy cây” sang mình?
– Dạ, chắc là cẩu muốn giữ bí mật nên không thể ra mặt được.
– Ngày mốt con sẽ mời Vệ Thu tới đây dùng cơm…!Nhưng trước hết con sẽ cử người dò la mối giao hảo của ổng với mẹ của cẩu, để tiện bề lựa lời đối đáp.
Ngồi bàn bạc với nhau thêm một tiếng nữa, người cố vấn già cất giọng kiếu từ.
Ngang qua một con hẻm nhỏ dẫn lối vào nhà học trò của Lạc Tương Giang, bài “Con đường mang tên em” của nhạc sĩ Trúc Phương do song ca Duy Khánh – Hoàng Oanh trình bày vọng tới tai ông; nhạc phẩm trên rất dễ bị lộn với ca khúc “Con đường xưa em đi” của nhạc sĩ Châu Kỳ và thi sĩ Hồ Đình Phương.
Con hẻm mà ông cần tới là con hẻm kế bên con hẻm này.
Chỉ cách nơi đó chừng mười mấy mét mà mùi sườn nướng, gà nướng, nem lụi, bò lá lốt, chả cây,…!đã men tới chỗ ông.
Đây là nơi bán cơm tấm rất nổi tiếng, xe đậu kín hai bên đường, khiến cho con hẻm ra – vô hết sức khó khăn; thấy quán ăn phát đạt, gia đình bèn mua đứt hai căn nhà mé tay mặt rồi sửa chữa thành bãi đậu xe cho thực khách, ấy vậy mà vẫn không đủ chỗ cho xe đậu.
Vừa đi, ông vừa miên man suy nghĩ về nguyên cớ nào đã khiến cho hung thủ phải đẩy Thường Khán Cảnh vô con đường chết.
Từ đây, ông lại bắc cầu sang cái chết của tên tham quan Lê Hoài Sang, mà họ thật là họ Trịnh, mọi người đều đặt biệt danh cho khứa là “Vua Lê – Chúa Trịnh” vì cải từ họ Trịnh sang họ Lê để đổi đời.
Và Lương Thái Anh hiện giờ ra sao? Liệu ông ta có giữ được tính mạng sau lần bắt cóc ấy không? Bao nhiêu câu hỏi cứ thế xoay vần trong đầu người cố vấn già, khiến ông rối trí đến độ suýt nữa lủi đầu vô chiếc xe lam đang chạy ra đầu hẻm.
…
Nhận được thiếp mời trang trọng của tổng thống xứ Việt, Vệ Thu vừa vui như hội vừa phập phồng lo âu có gian kế.
Ông không nói lại cho bất kỳ ai hay, chỉ kể qua loa rằng có người bạn cũ mời tới nhà ăn cơm nên sẽ về hơi trễ; ông còn nhắc chừng, nếu sau mười hai giờ đêm mà không thấy tăm hơi của ông thì hãy báo cảnh sát đặng dễ bề kiếm ông.
Mợ Hai cười hỏi, “Xỉn quắc cần câu quên “Đường xưa lối cũ” mà cũng phải kêu cảnh sát chở dìa giùm hả?” Ông chỉ nói trớ, “Vậy cho bà và xấp nhỏ đỡ tốn công chạy vòng vòng kiếm tui.” Trước lúc lên xe tới tư dinh của Hác Đăng Khánh, ông giao cho bà một cái két sắt đã được căn hẹn giờ, biểu đúng không giờ nó sẽ mở khóa.
Tưởng đâu ông ghệ tặng quà bất ngờ nên mợ Hai ngỏn nghẻn cười duyên, rồi giục ông mau sớm lên đường kẻo tội nghiệp cố nhân.
– Lạy Trời cho con đừng ca bài “Một người đi” của nhạc sĩ Mai Châu: “Tôi tiễn anh lên đường, trời hôm nay mưa nhiều lắm…”
Người cận vệ thân cận nhứt với Vệ Thu lo lắng nhìn chủ.
Dây vào đám chánh khách là tự đưa đầu vô miệng cọp, không biết bị chúng “thịt” lúc nào.
Tư dinh của ông tổng thống đương nhiệm không nguy nga, lộng lẫy bằng tư dinh của Vệ Thu.
Nó chỉ được cái bề thế mà thôi, chứ kiến trúc không có gì đặc sắc và đáng khen.
Cũng may phước vườn thượng uyển và ao cá khá đẹp nên khung cảnh không tới nỗi xấu.
Bữa nay tổng thống Khánh mặc thường phục, với áo thun trơn và quần jeans xanh, chân mang giày thể thao Adidas.
Anh ta đang cắt tỉa cây mai kiểng, vừa làm vừa khe khẽ hát tình ca, tác phong rất giống con trai trưởng của Vệ Thu.
– A, ông Thu, mời ông vô phủ chơi.
Vệ Thu ghẹo:
– Sao không nói vô nhà mà biểu vô phủ?
– Đây đâu phải là nhà của tôi đâu mà dám thậm xưng.
Bữa ăn có bốn món, gồm có: Sủi cảo tôm, mỳ Tiều thập cẩm, chè hột gà – trà và cao Quy Linh.
Chỉ cần nhìn thực đơn, Vệ Thu đủ hiểu mình bị người này điều tra kỹ cỡ nào.
Trí óc ông bắt đầu “thảo trình” phương cách đối phó.
Bộ đồ mà thằng đáng tuổi con ông đang mặc là một thế “tâm lý chiến”, nó cố tình tỏ ra đây là bữa ăn vui vẻ và không dính dáng chánh sự, hòng làm cho ông lơ là cảnh giác.
Lát nữa thể nào nó cũng hỏi ông ở mô, rồi vin vào đó mà kể lể kỷ niệm ở cố hương của nó, sau đó dẫn dắt một hồi mới vô đề.
– Ăn đi ông Thu…!
– Dạ.
– Tôi bị đau lưng nên mặc thường phục cho thoải mái, có bất nhã với ông quá không thưa ông?
– Vậy tôi mặc âu phục có quá trịnh trọng không thưa tổng thống?
– Dạ không, chừng nào diện khăn đóng – áo dài mới đáng nói, bởi lúc đó tôi chẳng biết ai là tổng thống và ai là khách mời.
Hai cái đầu đầy sạn nhìn nhau cười xảo.
Biết trước thể nào Vệ Thu cũng sẽ đề phòng khi mình hỏi quê quán của ông, nên Hác Đăng Khánh lảng sang chuyện khác:
– Tôi ăn bận như vầy chơi vũ cầu được không ông Thu?
– Nên đổi sang quần short hoặc quần lửng thì hợp hơn, mặc quần jeans khó cử động lắm.
– Còn cá độ đá banh thì mình mặc gì ông hén?
Vệ Thu sững lại vài giây nghĩ ngợi.
Ông đâu có tham gia hay tổ chức cờ bạc phi pháp đâu mà cẩu lại hỏi như vậy.
Hay đây chỉ là câu thử phản ứng của ông? Nghĩ vậy, ông cười mơn mà đáp:
– Mặc sao cho dễ mượn nợ nếu lỡ thua độ quá nhiều.
Hác Đăng Khánh lấy tay đỡ má phải và nghiêng đầu sang hướng ấy:
– Chà, ông có thể nói rõ hơn không, thưa ông Thu?
Vệ Thu nói xẵng:
– Tôi đâu có tham gia vô đâu mà biết ăn bận sao cậu.
– Hình như ông đang bực mình?
Vệ Thu nói xuôi xị:
– Tôi ghét cờ bạc lắm.
Nên dễ bị quạu mỗi khi nghe ai nhắc tới.
– Vậy chắc ông ưa thiện nguyện theo hạnh Bồ Tát hén?
Vệ Thu vừa chan nước tương ớt vô tô mỳ vịt tiềm, vừa cười nhạt đáp:
– Dạ, làm phước để đức cho con ấy mà, chớ đâu dám vọng ngữ – lộng ngôn mà so sánh với Bậc Đại Từ – Đại Bi.
– Dạ, lành thay.
Tôi có một người bạn quen kể chuyện nhà hàng xóm mà nghe tội nghiệp hết sức: Số là như vầy, dỉ là một Phật tử thuần thành, ưa ăn chay niệm Phật và thương yêu gia đình hết mực.
Nhưng đáng giận làm sao, con trai của dỉ lại chơi cá độ đá banh tới nỗi phải làm chuyện bất nhân thất đức để có tiền trả nợ và phụng dưỡng cha mẹ.
Dỉ nghĩ tại mình nghèo nên con mình mới ham làm giàu bất chấp lương tri, nên lại càng ra sức tu tập đặng hy vọng sẽ chuyển hóa Nghiệp xấu nơi cẩu.
Cẩu tâm sự với bạn rằng nếu có ai trả hết nợ giùm và cho mượn vốn làm ăn thì sẽ hoàn lương, thậm chí sau đó sẽ xuất gia để sám hối với người thân; nhưng nhiều quá, mà cũng “hiu” quá, nên không ai dám dang tay giúp đỡ…
Vệ Thu thấy ánh mắt của Hác Đăng Khánh buồn rượi, cơ hồ như sắp khóc, ông bắt đầu đâm ra hoảng sợ người này.
Xưa giờ ông chỉ biết có Tư Mã Ý và Nhạc Bất Quần là diễn được khuôn mặt ấy.
– A, tôi xin lỗi, tự nhiên tôi lại làm phiền lòng ông…
– Dạ, không sao đâu, xin tổng thống cứ tâm tình cho nhẹ gánh buồn thương.
– Dạ, rất đội ơn ông.
– Hác Đăng Khánh lấy ngón trỏ tay phải quẹt giọt nước mắt đang đọng nơi mi mắt trái.
– Ngồi ở cương vị này, muốn tìm người tâm sự khó như hái sao trên trời, mò kim đáy bể, ngậm ngải tìm trầm…!Gặp bạn của chú Thương, tôi mừng quá nên không khống chế được cảm xúc, mong ông rộng lòng bỏ qua…
Nghe tới tên con trai ghệ mình, Vệ Thu càng rầu thúi ruột, ông không biết cậu Thương đẹp mã có dính líu tốt hay xấu với khứa gian hùng này.
– Chú Thương không có tiền giúp người này nên cậy tri kỷ của tôi nhờ tôi giúp giùm.
Đáng ra, ảnh đã hỏi ông rồi, nhưng…
– Nhưng sao?
– Cái người này nè, biết được một số…!Ưm…!Nói sao ta? Chỉ là mấy cái sai lầm vặt vãnh một thuở thanh niên thôi mà, nhưng…
– Nhưng sao?
– Nhưng mà có thể khiến má của ảnh lên cơn đau tim…!
– Rồi sao nữa?
– …!đâm ra ảnh sợ nói với ông, rồi ông về hỏi lại mợ Hai cho chắc cú, rồi mợ Hai tái phát bịnh thần kinh – tim thì khốn nên ảnh…
Đợi cho Vệ Thu sắp sửa nổi xung thiên, chú mới nói hết câu:
– …!ảnh…!ảnh…!ảnh mới nhờ tôi giúp giùm.
Vệ Thu thở hắt ra.
– Tôi bối rối lắm ông à.
Tại tôi đâu có tiền đâu.
Nên đành phải thất hứa với ảnh mà…!mời ông tới đây nhờ giúp đỡ…!Do tôi nhớ tới hiền mẫu đã khuất của mình, nên động lòng thương cảm với người trai đi lầm đường kia…
– Cậu kia nợ bao nhiêu?
– Hơn một trăm ngàn đồng.
Không biết cộng lãi rồi hay chưa.
– Bằng mười mấy năm đi làm của dân xứ mình.
Ăn cái giống gì mà phá của dữ rứa.
Hác Đăng Khánh vẫn trưng ra gương mặt “Yêu Nước – Thương dân”.
Chú chợt ngoảnh mặt nhìn con họa mi hót muộn trên cây Vô Ưu, miệng khe khẽ huýt sáo theo tiếng hát của nó.
Vệ Thu nói sẽ trả lời sau.
Ông cần phải thăm dò tình trạng sức khỏe của bà ghệ và hỏi lại Trần Kim Thương.
Ăn xong mỳ vịt tiềm, bụng đã no căng mà tổng thống Khánh vẫn nài ông thương gia quốc tịch Mỹ ăn vị bụng vài muỗng chè hột gà – trà.
Chủ đề được dời sang âm nhạc ở miền Nam trước năm 75.
Tiếng hát của Duy Khánh trong bài “Trăng tàn trên hè phố” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã làm trái tim già nua của Vệ Thu nhói đau.
Ôi, con người lật mặt còn hơn lật bàn tay, đểu cáng hơn loài tu hú, giả nhân giả nghĩa tài tình hơn cáo – chồn.
– Thành ra tôi mến Nhật Trường – Trần Thiện Thanh hơn.
– Vệ Thu tâm tình.
– Ông thích bài nào?
– “Biển mặn”.
Rồi Vệ Thu bùi ngùi nhớ lại một thuở “Và từ khi anh khoác áo treili” của mình, mà nói:
– Hồi xưa, nghe ổng riết, tôi nói chữ “Biển” y chang ổng luôn.
– Hồi xưa, tôi yêu một người tới nỗi, tôi học cách nấu hủ tíu bò viên – gân luôn.
Ngồi cà kê dê ngỗng chừng một tiếng nữa thì Hác Đăng Khánh cáo lỗi phải về thư phòng làm việc tiếp, sáng mai Quốc hội có cuộc họp hết sức quan trọng nên chú cần chuẩn bị kỹ càng.
Trước lúc chia tay, người tổng thống ngũ tuần tặng cho ông thương gia luống tuổi một bó hồng nhung, một hộp nữ trang bằng kính mi-ca trong đựng sợi dây chuyền bạch kim có mề đay hình trái tim và một hộp chocolate hảo hạng đủ mùi vị, với lời nhắn, “Xin ông cứ nói với mẹ ảnh mấy món này là của ông mua.” Đương nhiên là ông chịu liền, gì chứ lấy le với người yêu mà không tốn tiền thì dại chi mà không đồng ý.
Trên đường trở về ngôi nhà thân yêu nằm ở đầu một con hẻm ở Quận Nhứt, Vệ Thu biểu tài-xế đưa mình ra Bến Nghé để ngắm con nước trôi ơ hờ.
Xa Quê Hương gần nửa đời người, nay tìm về chốn cũ mong gặp lại cảnh xưa mà đâu thấy chi, chỉ thấy sự xô bồ của nhịp sống tân thời và màu xanh đang biến mất khỏi khung trời Gia Định mến thương.
Rạch kia dơ hơn hồi trước, mất rồi những bãi đất rộng thênh thang rậm cỏ, những buổi chiều tan học có mày – có tao xưng nhau chiến hữu ra đây nhảy rạch tắm sông đùng đùng, tiếng cười giòn tan hơn chảo mỡ trên bếp.
Cánh diều tuổi thơ đã thôi tung hoành trên nền trời diệu đợi vì dây điện chằng chịt; hơn nữa, lấy đâu ra đất để bắt đà cho diều nương theo gió mà phi lên.
Ý là không đứng gần, mà mùi hôi thúi của nước sông đã xộc lên tận óc; ông ngậm ngùi quay gót trở về xe, để cho chút kỷ niệm đẹp còn giữ nguyên vẹn trong lòng.
– Mấy cậu muốn ăn gì hôn, tôi bao?
Một người cận vệ lên tiếng trả lời thay:
– Dạ, chúng tôi sẽ ăn cơm nhà chú Thương.
Vệ Thương gãi cằm cười:
– Ừ, bà ghệ tôi giỏi nấu nướng lắm.
Dù đường sá ít xe cộ qua lại nhưng tới mười một giờ Vệ Thu mới về nhà tới nhà, bởi ông muốn ngắm cảnh đêm đô thành.
Phận làm công đâu dám than van chi, chỉ biết thầm kêu Trời trong tâm tưởng.
Đứng ở ngoài cổng rào dòm vô, Vệ Thu đã thấy bà ghệ ngồi ở trên bậc thềm tam cấp đợi mình.
Bà này chắc hồi xưa cũng háo sắc lắm nên mới ưng cha của Thương – Thảo, bởi ảnh chẳng có gì ngoài mấy miếng đất vườn.
Nghĩ tới đây, ông ngẫm tới “nhan sắc” của ba đứa con, rồi tự phồng mũi hãnh diện hồi trẻ mình cũng bảnh tỏn chẳng thua kém ai.
– “Hai mùa mưa nắng” ngủ chưa bà?
– Hả? À…!Út Thương đang ngồi stream game trong phòng ngủ của con tui…!Mấy con ăn gì chưa? Nhìn mặt đứa nào đứa nấy “Buồn vương màu áo” là biết bị chủ bây bỏ đói rồi.
Vệ Thu bị bà ghệ nhéo cánh tay một cái đau thấu xương.
Chú Thương mời ba chàng ngự lâm vô bếp ăn cơm.
Chú đã chiên sơ con gà trong chảo mỡ, chừng nào họ về mới chiên kỹ.
Nghe gà chưa chín, họ đành tiu nghỉu lên phòng tắm gội.
Mợ Hai mừng rỡ đón bó hồng nhung diễm lệ và những món quà khác từ người tình.
Đã lâu lắm rồi bà mới có quà do người yêu tặng.
– Cái két sắt của tui đâu?
– À, tui để ở trong phòng ngủ của tui.
Đợi Hai Thương làm cơm cho nhóm cận vệ xong, Vệ Thu mới biểu anh ta đi uống cà-phê với mình.
Dù không hài lòng, nhưng mợ Hai làm thinh, rồi quày quả bỏ lên phòng riêng coi phim dài tập do Thái Lan sản xuất.
Chiếc xe Cadillac màu đen bóng lộn dù đã được tân trang và sửa chữa ở tại hãng của thương hiệu, nhưng nó vẫn không thể chạy tốt như hồi đầu.
Vệ Thu đang nghĩ cách tặng xe hơi cho con trai bà ghệ, sao cho cẩu chịu nhận mà không có cảm giác tự ái hay mắc nợ mình.
– Đi đâu nói chuyện giờ bác Ba?
– Ra Đài Vinh danh Petrus Ký đi.
Ở đó yên tĩnh lắm.
– Dạ.
Đến nơi, vì cơn mưa ban chiều nên không khí hãy còn khá lạnh, thành ra hai chú cháu ngồi nói chuyện luôn trong xe.
Lúc bấy giờ quảng trường lặng ngắt, ngay cả sự có mặt của những người vô gia cư cũng không giúp nơi này thêm phần chộn rộn và huyên náo.
– Con có thiếu nợ thiếu nần ai hôn? Trả lời thiệt cho bác nghe đi, bác dư sức giúp mà.
Chú Thương đưa mắt nhìn bác Ba đầy bối rối.
– Nói đi con…
– Dạ, con có người bạn bị mắc nợ của tụi cá độ đá banh.
Muốn giúp lắm mà không có tiền trả giùm.
Đó, bác thấy hôn? Cái xe của con mới sửa cái sột, rồi cái lò nướng bánh trong tiệm bị chập mạch phải mua cái khác, ra tiền nhiều như ri thì lấy đâu ra tiền cho mượn?
– Nhiêu mà con không có vậy? Chừng năm chục ngàn không?
– Nếu chừng năm chục ngàn, con bán rẻ cái xe là đã dư xăng rồi.
Đằng này hơn một trăm mấy…!Có nước cầm nguyên cái tiệm cho nhà băng thì may ra mới đủ.
– Í, con tính vậy là chết rồi.
Người dưng mà, không giúp được thì thôi.
Mắc gì phải vô ngân hàng thế chấp tài sản.
– Nếu con không giúp thì thằng Thảo sẽ bị làm hại…
– Trời đất quỷ thần thiên địa ơi, gì vô duyên vậy? A, hay là Thảo vay tiền giùm ai nên…
– Không, không có chuyện đó đâu bác.
Rồi chú Thương kể sơ về cuộc đối thoại giữa mình và em trai cho Vệ Thu nghe.
– Gặp bác là bác xán vô mặt nó mấy bạt tai rồi, chớ đừng hòng cứu với cánh.
Thôi được, bác sẽ cho phứt hai trăm ngàn, coi như tiền mua lại nhân cách cho nó.
Chú Thương khui chai nước suối, rồi mời Vệ Thu uống giải khát.
Nhưng ông khoát tay từ chối.
Vậy là anh uống luôn một ngụm lớn.
– Mà, con có quen với ai trong giới chính khách không?
– Dạ, sơ thôi, không thân lắm.
– Thôi bác hiểu rồi.
Vậy là khứa gian hùng kia cũng nói thiệt được một chút.
Mấy chi tiết không thật không tới nỗi quá đáng lắm.
Thay vì theo người yêu của má về nhà, chú Thương quành xe trở ra đường lớn để dạo vài vòng hóng gió đêm.
Không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào, chú Thương lại ghé thương xá Đakao – Đây là nơi làm việc của người mà chú yêu thương vô cùng.
Đã hơn mười một giờ rưỡi mà cô ấy vẫn còn làm việc trên lầu Hai.
Chú ngước mặt ngóng đợi một phép huyền nhiệm nào đó sẽ làm cô mở tung cánh cửa sổ và cười thật tươi khi nhìn thấy chú.
Chỉ cần gặp lại cô một lần thôi, chú cũng đã giải chứng tương tư rồi…
Đến mười hai giờ, cô đã xong việc, hiện đang đứng đợi người bạn thân tới đón ở bốt trực của đội bảo an của tòa nhà.
Không để lỡ dịp may hiếm có, chú hớt ha hớt hải chạy thục mạng tới chỗ cô.
Những người bảo an tưởng đâu chú là phường biến thái nên rút côn ra dọa nạt.
– Mấy anh…!bạn…!bạn của em…!Em nhờ ảnh tới rước về…
Một người bảo an nhướng mày hỏi:
– Bạn gì mà vồ vập thấy ghê vậy cô?
Cô lúng túng bào chữa:
– À, đã lâu không gặp lại em nên ảnh mừng vậy mà.
Một người bảo an khác xin phép chụp lại biển số xe của chú Thương cho chắc ăn, lỡ có chuyện gì xảy ra với cô này thì họ sẽ bớt bị người ta đổ thừa – chỉ trích và điều tiếng hơn.
Chú đồng ý ngay tắp lự.
Trên đường trở ra xe, hai người lặng câm như tượng sáp.
Để thay đổi bầu không khí ngượng ngập, chú Thương mở bài “Nơi mặt trời buông xuống” do song ca Ưng Đại Vệ – J.
Lee biểu diễn cho “Người đi qua đời tôi” nghe.
– Tôi tưởng đâu anh không nghe nhạc tân thời chớ?
– Được một bài vài thôi.
Cô kéo khóa đặng mở túi xách để lấy ra một viên kẹo ngậm ngừa ho vị chanh – mật ong, rồi cho vào miệng.
Hồi còn bên nhau, hai người chưa một lần đi quá giới hạn; cô bảo vệ đức tin của mình, còn chú, chú bảo vệ cảm tình mà cô dành cho mình.
– Từ năm 2015 đổ lại, tôi mới nghe, mà cũng chỉ có một số bài.
Còn sau thời điểm này thì không.
Rồi chú Thương mở bài “Cỏ dại nơi ven đường” do Lương Bằng Quang ca.
Mải lo chỉnh nhạc, chú đã xém vượt đèn đỏ, cú thắng gấp bất thần đã khiến đầu của người chú thương đập mạnh vào ghế, xém chút nữa cô đã bị mắc nghẹn chết vì lỡ trớn nuốt trọng viên kẹo cứng.
Lau miệng và nhả viên kẹo ra xong, cô tức tối la lên:
– Anh không thể nào điềm đạm, từ tốn như anh Thảo được sao?
– Tại sao em không bao giờ nhìn thấy tôi, mà chỉ nhìn thấy thằng Thảo vậy?
Lệ rơi lã chã trên gương mặt thất thần của Trần Kim Thương tự bao giờ mà chú không hay.
Chú nhìn người mà mình yêu hết cả con tim chờ đợi, chờ đợi một câu trả lời của nàng.
– Coi chừng!
Xém chút nữa là chú đã lủi vô xe hàng chạy ngược chiều.
– Cho tôi xuống, anh khùng quá rồi, tôi không thể giao du với một thằng tâm thần như anh thêm một giờ, một khắc nào hết!
– Vậy coi như hai ta đoạn tuyệt.
– Phải.
– Cô ôm đầu khổ sở.
– Tắp vô lề lẹ lên! Đừng có kéo tôi chết chung với anh!
Chú cười phá lên trong khi nước mắt vẫn rơi.
Rồi ngoảnh mặt sang trái, ngắm những cây đèn đường đang đổ bóng nhạt nhòa xuống vỉa hè nhiều ô đã vỡ.
Bên tai chú là những tiếng chì chiết của nàng, nàng đang kêu gào chú hướng con mắt về phía trước để tránh khiến nàng chết oan mạng.
Một người vị kỷ như nàng mà sao chú yêu được nhỉ? Nói như giọng của nhà văn Nguyễn Đình Toàn thì là thế đấy.
Cụ Toàn diễn giải về tình yêu rất nhiều, không hiểu cụ có phân tích nổi cái ngu nào đã dẫn đến chuyện chú yêu người con này thống thiết như vầy không hén?
Chiếc xe vẫn chạy phăng phăng trên xa lộ cô liêu.
Cô mệt quá nên nghỉ nói, hiện giờ đang nhắn tin cho gia đình biết đặng chuẩn bị tinh thần đón nhận tin bất trắc về mình, không một lần nào cô đưa mắt ngó coi tâm trạng của người đàn ông kia ra sao.
Chú đã ráo nước mắt, cũng thôi né tránh ánh nhìn của nàng, đầu óc của chú trống rỗng như vừa bị tẩy não, chẳng hiểu suy nghĩ và ý niệm về thời Không – Thời gian đã bay biến đi đâu mất khỏi tâm tưởng chú.
Chừng thấy bên đường có cây xăng đang sáng đèn, khách ra – vô nườm nượp.
chú bèn thả “Người phụ tình tôi” xuống.
Trước lúc về nhà, chú nhờ nhân viên đổ xăng giùm rồi bước vô nhà vệ sinh chỉnh trang lại sắc diện và sẵn đi tiểu luôn.
– Anh ơi…!Đầy bình rồi!
Chú nói cảm ơn nhỏ rí, rồi hào phóng cho người nhân viên đó ba chục đồng để ăn khuya lót lòng.
Cậu ta mừng rơn cảm ơn lại, đoạn lấy giẻ lau sạch chùi vòng quanh nắp bình xăng đôi lượt rồi mới đi vô lau chùi nhà vệ sinh.
Cửa hàng tiện lợi bán khá nhiều mặt hàng, giá hơi mắc một chút.
Sau vài vòng dạo qua dạo lại, chú chọn được một dĩa đùi gà tỏi nướng, một tô mỳ gói Đại Hàn mang nhãn hiệu “Paido” vị kim chi chua cay và một lon “Redbull” hương thanh long, không quên mua kèm một ly tẩy để làm loãng vị chua hơi gắt của loại đồ uống.
Xong xuôi rồi, chú lại quầy nấu mỳ làm cho mình một tô nóng hôi hổi.
Ban “Hợp ca Thăng Long” đang biểu diễn bài “Buồn đêm mưa”, nhạc phẩm Tiền Chiến này do nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ từ thơ của Huy Cận mà thành, bài hát trên nằm trong băng nhạc “Mây Hồng 6 – Nhạc phẩm Phạm Đình Chương”.
Chú tính sẽ lên núi ở với em trai và chúng Tăng dăm bữa nửa tháng để tịnh tâm.
Có lẽ quán cà-phê sẽ đóng cửa trong khoảng thời gian ấy, nhưng vẫn sẽ trả lương đầy đủ để “nuôi quân”.
Má cũng rất nhớ thằng Thảo, chắc má sẽ gật đầu đồng ý liền với lời ngỏ của chú.
Bên ngoài gió lao xao, đem theo hương bồ kết man man buồn.
Những dòng xe tới – lui tạm thời giúp chú bớt chú tâm nghĩ lung tới nàng.
Cậu nhân viên được chú cho tiền boa ban nãy thấy chú thì vẫy tay chào lia lịa với một nụ cười tươi rói trên môi.
– Đi khách không anh?
– Không…!Tôi sợ dây vào đàn bà quá rồi…
– Bị người ta bỏ thì tìm em tâm sự cũng được mà.
Chú Thương quay qua nhìn cô gái ăn sương mà nhếch miệng cười hỏi:
– Sao cô biết?
Cô ta cười mơn trả lời:
– Đoán chơi ai dè ngay chóc…!Rồi anh có đi hôn nè?
– Không.
Cô ta bèn nhún vai, rồi bỏ đi tìm khách mới.
Giờ thì anh đã hiểu tại sao nơi này lại rộn rịp nhường vậy…
Đang lúc anh rộn trí, chợt có bác Hai gọi điện thoại tới.
Chưa kịp ừ hử thì bác đã hỏi:
– Sao má con gọi con mà con không bắt máy vậy?
Chú đăm chiêu suy nghĩ một hồi, rồi vỡ lẽ ra mà hỏi lại:
– Rồi, con hiểu rồi…!Bác Ba coi giùm má con có bấm lộn nút “Chặn” số máy của con không?
Vệ Thu bèn kêu bà ghệ đưa điện thoại cho mình kiểm tra.
Một chốc sau, ông cười tủm tỉm báo lại:
– Ẻm chặn con đó.
Có tiếng má của chú léo nhéo:
– Tui có biết đâu, tại gấp quá nên lộn chớ bộ.
– Con khuyên má con đi cắt kiếng lão hoài mà má hổng chịu nghe.
Cứ bấm lộn hết cái này tới cái khác.
Xài hư hết mấy cái điện thoại rồi.
Vệ Thu cự:
– Ai biểu bây kêu kiếng lão, kêu kiếng là được rồi.
Đàn bà người ta kỵ chữ lão, dù người ta lão thiệt…!Ui da đau bà!
– Bác Ba nói với má con tối nay con ngủ ở nhà bạn nghen?
Chú lại nghe mợ Hai léo nhéo mấy tiếng trách móc và than thở, và nghe vọng sang tiếng trấn an dịu ngọt của bác Ba.
– Má à, con đâu phải thục nữ mà sợ mất trinh?
– Tao sợ mày bị bạn bè bỏ á phiện vô đồ ăn – thức uống rồi trở thành thằng xì-ke thôi con.
Thời bây giờ thiên hạ “hỏa lên” nên chuyện gì mà tụi nó hổng dám làm chỉ để có tiền.
– Con có đem theo thuốc ngừa, sẽ an toàn mà má.
Mợ Hai nguýt dài một cái, rồi khoán trắng cho bác Ba nói chuyện với thằng con trai trưởng.
Đoạn ngoe nguẩy bỏ đi một hơi xuống bếp.
– Bác Ba thương má con ở chỗ nào vậy bác?
– Hàng hiếm đó con, viện bảo tàng thế giới còn từ chối nhận.
Chú bật cười ngặt nghẽo, khiến những người xung quanh nhìn chú như một kẻ tâm thần.
Rời khỏi cây xăng, chú lái xe tới một xóm lao động ven một con rạch thuộc nhánh sông Sài Gòn.
Bạn bè của chú không sống ở đây; chỗ này là địa bàn của đàn em dưới trướng chú, không biết giờ này còn thằng nào thức không.
Đậu chiếc xe đại dưới gốc cây quách, chú bước thêm mấy bước nữa là tới khu nhà trọ bình dân của ông chủ đất tên Liêm.
Ở đây có mười hai căn, mỗi bên sáu căn và nằm đối diện nhau, chủ nhà tin phong thủy nên dù đất còn khá rộng vẫn không làm thêm căn thứ Mười ba hay Mười bốn.
Chủ nhà bị chứng mất ngủ nên còn ngồi ở nhà mát coi truyền hình với hai con cú đêm trong xóm, thành ra anh không phải mất công gọi cho thằng đàn em ra đón.
Vừa mở cửa rước anh vô, ông Sáu Liêm vừa cười hỏi ông chủ lò bánh đi kiếm thằng em kết nghĩa hả; chú gật đầu xác nhận, rồi xin phép đi gặp nó liền.
Căn nhà trọ của thằng em kết nghĩa nằm ở mé tay mặt, là căn đầu tiên hết, diện tích chỉ chừng ba mươi mét vuông và cao khoảng năm mét mốt.
– Ủa anh Hai? Sau giờ này đập cửa nhà em.
Người trai có kiểu tóc chôm bôm đó đẩy cửa sắt về phía tay trái thật mạnh.
Bề ngang cửa chính chỉ đủ hai người nhỏ con bước qua cùng một lúc, gặp chuyện bất trắc mà trong nhà có nhiều người thì không biết làm sao thoát thân cho mau hơn, nhưng biết sao giờ vì vốn dĩ đây là căn nhà trọ giá rẻ.
– Cho tao ngủ ké một đêm nha mày?
Anh ta phá lên cười:
– Tưởng mượn tiền thì em không thể, chớ ngủ nhờ thì có chi mà em nỡ từ chối.
Cái mùi hỗn tạp của nhà bếp ám khói – dầu, nhà vệ sinh kiêm luôn chỗ tắm rửa – thay đồ và nơi ngủ nghê trộn lẫn do không gian liên thông với nhau đã khiến chú hắt-xì liên tục.
Chú nói trong hai hàng nước mắt:
– Mốt, tao mua cho mày cái máy hút khói và máy lọc không khí.
– Tốn tiền điện nhiều hôn anh Hai?
– Tao sẽ cho tiền mày trả.
Thằng em trai buồn hiu kể lể:
– Sau này lập gia đình, em sẽ dọn về quê ở với ông bà già.
Đất này khó sống, khó làm ăn quá.
– Phải, ở đây riết con mày sẽ bị èo ọt và vợ mày sanh nở dễ bị mắc bịnh “hậu sản”.
– Dạ, anh dạy phải.
Rồi thằng em trai trải chiếu cói cho chú nằm.
Dù nó đã cố gắng sắp xếp, đầu nằm của chú vẫn hướng về phía cầu tiêu – nhà tắm.
Chú cười xòa biểu không sao, rồi tự nhiên ngả lưng nằm xuống.
Chú được cái nết dễ ngủ nên chẳng mấy chốc đã say trong giấc nồng, thằng em trai cũng đã ngủ ngáy vang rền.
oOo
Bữa nay nguyên đám xuống nhà anh Ba Hói chơi.
Miếng đất hương hỏa của gia đình anh nằm ở dưới Vũng Tàu, ba mẹ chừa sẵn một vuông đất để xây nhà cho gia đình anh ở mỗi dịp Lễ – Tết.
Vợ con anh đã về trước ba ngày, anh muốn đi chung xe với những người bạn đồng nghiệp.
– Đại Hàn có “quốc nạn” phô-mai, còn Nước mình có “quốc nạn” trứng muối.
Nói xong, Đức Hoàng cắn một miếng chả cá nhân phô-mai mua ở nhà hàng Đại Hàn trên thành đô.
Xương Tuyết nói mốt coi phim ma – kinh dị Thái Lan “Krasue: Inhuman kiss”, ai nấy đều đồng ý ngay tắp lự.
Đoạn trả lời câu hỏi của Chí Công:
– Ba mẹ tôi nói ngày trước kêu là “Bến Bắc”, gọi “Cầu Bắc” là địa danh của chỗ đó thôi vì thuở trước có con rạch bắc qua cái chợ này và chạy dài tới Cổng Số Hai.
“Bac” trong tiếng Pháp có nghĩa là “Phà”, người mình đọc trại thành “Bắc” thôi.
Chí Công lại hỏi:
– Vậy bến phà với bến bắc có gì khác nhau?
– Hỏi tôi tôi biết hỏi ai?
Rồi gã điên biểu:
– Nếu muốn tìm hiểu thêm về cách gọi tên, có thể đọc tác phẩm “Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương” của nhà văn Bình Nguyên Lộc.
Cũng ngộ ở chỗ, lối hành văn và nhân vật của ông Lộc không phải Nam Kỳ rặt mà tâm hồn của ổng rặt Nam Kỳ; còn nhà văn Sơn Nam giọng và nhân vật thì rặt Nam Kỳ còn tâm hồn của ổng ở tuốt ngoài đàng nào.
Anh Ba Hói hỏi:
– Bến Tre thay tên mấy lần hả mày?
– Trước cái tên Kiến Hòa, vùng này kêu là Tổng An Hóa.
Sau 75, cái tên Bến Tre được xài “chết” luôn; còn trước thời điểm này thì xài xen kẽ với cái tên Kiến Hòa.
Xương Tuyết đặt câu hỏi:
– Biết tại sao tôi không bao giờ gọi Sài Thành không?
Không ai hiểu ý anh sao.
– Vì Sài đồng âm với chữ “Sài” trong “Sài lang”, gọi “Sài Thành” có khác nào biểu “Thành phố sài lang” đâu.
Có những chữ ghép được và những chữ thì không nên.
Tống Ngạn hỏi Xương Tuyết:
– Anh nghĩ sao về chữ “Tiêm thuốc” hả Tuyết? Anh có biết chữ này xuất từ đâu không?
– Không.
Tôi có thấy chữ “Tiêm thuốc” trong cuốn “Tân Phong nữ sĩ” của cụ Hồ Biểu Chánh, nói cụ thể hơn là ở chương Bốn; tôi không hiểu sao cụ lại xài chữ này thay cho chữ “chích” và “trồng” thuốc.
Cuốn đó phát hành năm 37, cho nên tôi đoán đây là thời gian phổ biến chữ này, còn do ai bày ra trước thì mù tịt.
Mà, cụ Chánh vẫn xài chữ “Đến”, “Vào”, “Dừng” như thường, nên nhiều người nói ai xài những chữ này không phải dân Nam Kỳ tôi thấy thiệt ngộ.
Đức Hoàng hỏi:
– Có tác phẩm nào cụ viết thành hai cuốn không Tuyết?
– Cuốn “Từ hôn” có trước, cuốn “Nợ tình” là phần kết.
Trước lúc bưng hộp mỳ xào lên ăn, Đức Hoàng hỏi chữ “Bính tóc” hay “Bím tóc” mới đúng.
– Chữ đúng là “Bín tóc”, không phải “Bính tóc” hay “Bím tóc”; chữ này đã có mặt trong cuốn “Việt ngữ chánh tả tự vị” của Lê Ngọc Trụ xuất bản năm 1959, nằm ở trang 22,.
Chỉ có Bắc 75 mới xài chữ “Bím” theo hai nghĩa: Một tục và một thường; còn Bắc 54 thì xài đồng nghĩa với chữ “Bín tóc”, muốn kiểm chứng cứ tìm đọc bất kỳ cuốn nào của nhà văn xứ Bắc trong tập truyện “Tủ sách Tuổi Hoa” và những tiểu thuyết diễm tình khác vào thời điểm trước 75.
Khán Bình cắc cớ hỏi:
– Vậy chỗ đó trong này kêu cái gì?
– Cái bẹn.
Ghi chú ở trang 46, “Đại Nam Quấc Âm Tự Vị” của Huỳnh Paulus Của, tập Một.
Xe chạy ngang qua biển Vũng Tàu.
Những đứa quen ở đồng bằng và núi non ít gặp cảnh trùng dương lấy làm thích thú vô cùng.
Nhưng anh Ba Hói dập tan niềm hăm hở tắm biển của họ bằng câu nói, “Xuống tắm đi thì biết tối về có ngủ được không.”
– Mai mốt lỡ bị bệnh về mắt như tôi, nhớ cắt kiếng đo độ sao cho không sát với độ thực tế đặng cho mắt đỡ mỏi.
Thí dụ như mắt bị tám độ, cắt cái kiếng chừng bảy độ rưỡi đến bảy – bảy lăm thôi.
Nhiều người cắt kiếng sát với độ thực tế nên về sau bị lé luôn…!Gì cười dữ vậy?
Khán Bình run giọng nói:
– Ai từng đời mới nghe cắt kiếng sát với độ gốc mà bị lé luôn…
Rồi Đức Hoàng hỏi, đặng đánh trống lảng khỏi chuyện ban nãy:
– Tại sao sách của Duyên Anh lại bị cấm phát hành vậy anh Tuyết?
– Chỉ cần đọc cuốn “Nhóc tì phản động” của Duyên Anh – Vũ Mộng Long là tự khắc biết tại sao sách ổng bị cấm phát hành ở xứ mình.
Chí Công hỏi về lối viết văn của Duyên Anh và Xương Tuyết trả lời rằng:
– Lối viết văn của ổng là “dọn từ đường người ta”, đôi lúc quá đáng như kiểu Quang Trung dọn từ đường nhà Gia Long xuống sông.
– Vậy rốt cuộc ổng theo ai?
– Không phải theo ai, mà là theo ổng.
Hầu như người của bên nào cũng bị ổng “dọn từ đường”.
Và gã điên pha lửng:
– Ổng mà còn sống chắc cũng “dọn từ đường” tôi luôn.
Tống Ngạn bật cười hỏi:
– Hình như anh không ưa Duyên Anh?
– Duyên Anh có tài tôi công nhận, và cái tánh của ổng làm tôi ưa ổng hổng nổi.
Chỉ vậy thôi.
Anh Ba Hói bồi thêm:
– Cho nên mới có tin đồn, hồi còn làm ký giả Thương Sinh, ổng đã bị chặn đường đánh không biết bao nhiêu lần, có chập phải ăn cơm tháng ở bệnh viện luôn.
Chiếc xe đã đi vào một con lộ “đường vườn” rợp mát bóng phượng.
Chỉ cần băng qua bốn cái xóm là đã đến nhà của anh Ba Hói.
Cái xóm đầu tiên cũng có vài nhà trồng cây ăn trái và rau cải, coi bộ huê màu năm nay trúng đậm lắm.
– Lời bình Sử của ổng gần như đồng quan điểm với đa số dân Bắc 54.
Đó là một trong những nét làm nổi bật lên sự khác biệt quá rõ về tư tưởng chính trị giữa Nam Kỳ và Bắc Kỳ, tính theo tỷ lệ số đông.
Tống Ngạn hỏi:
– Có bằng chứng không anh?
– Chương “Chép sử”, cuốn “Ngược giòng chữ nghĩa”.
Đó là bằng chứng.
Rồi gã điên tâm tình:
– Có những chuyện nếu nói bằng chứng ra sẽ gây phương hại tới người khác nên thà tôi bị mang tiếng dóc láo còn hơn gián tiếp giết người.
Thành ra tôi ưa kể phong long hơn là nói thẳng tưng.
Anh Ba Hói chợt biểu:
– Phần đông Bắc 54 bình Sử thiên về Kitô Giáo, còn Nam Kỳ lại thiên về Phật Giáo và những đức tin khác ở Đàng Trong.
Tống Ngạn hỏi:
– Còn anh, anh nghĩ sao hả Tuyết?
– Với những gì mình biết về Ông Hai Đạo Dừa, thì tôi tin rằng Hòa Hảo, Cao Đài, Bửu Sơn Kỳ Hương Phái,…!đang bị rất nhiều người bôi nhọ và nhận xét phiến diện, nhứt là dân Đàng Ngoài.
Người lớn trong nhà tôi đã từng gặp gỡ các chức sắc của các tôn giáo trên và nhận xét họ sống rất đàng hoàng, hảo tâm, tử tế và hiền lành.
Vậy anh nghĩ tôi nên tin người đánh giá các đức tin đó dựa trên sự kiện lịch sử hay là người “bắt tận tay, day tận mặt”?
– Vậy tại sao lại có xung đột tôn giáo hả anh?
– Giống như chuyện trồng cây hoa sữa trong này, năm – mười cây thì người ta còn du di được, đằng này ồ ạt trồng thì ai mà chịu cho nổi? Chuyện hòa nhập tôn giáo cũng vậy, bất thình lình làm một cái ào thì hỏi sao không xảy ra xung đột cho được?
Nếu muốn tìm một góc nhìn khác dựa trên hình thức tiểu thuyết, hãy tìm đọc cuốn “Bản Tango cuối cùng” của nữ sĩ Lệ Hằng, nói cụ thể là chương Bảy.
Có lẽ các anh sẽ thấy được một giả thuyết mới, về việc tại sao Kitô Giáo và Phật Giáo lại xảy ra xung đột dữ dội vào thời kỳ ấy.
Khán Bình hỏi:
– Nếu như giả thuyết đó là Sự Thật thì chẳng lẽ hai bên đều đã hiểu lầm nhau sao?
– Tôi không biết.
– Anh đọc bao nhiêu cuốn sách rồi hả Tuyết?
– Chưa đủ để tôi tìm ra chính sử.
Thành ra, rất xin lỗi vì tôi chỉ có thể cung cấp dã sử và tài liệu tham khảo cho mọi người mà thôi.
Đột nhiên, anh Ba Hói kêu dừng xe.
Tưởng tới nhà rồi nên Tống Ngạn mừng rỡ thắng xe lại, rồi chưng hửng nghe anh Ba biểu ngồi im.
Té ra ổng tắp vô tiệm tạp hóa để mua bánh đậu xanh nặn hình trái cây và một hộp hột bàng về cúng gia tiên và Trời – Phật, ổng còn mua nhang thượng hạng và một cái hộp quẹt nhỏ xíu nữa.
Chừng thấy đủ rồi, ổng mới trở lên xe và ra hiệu chạy tiếp.
Xương Tuyết trình bày quan điểm:
– Tôi thấy Duyên Anh thật là kỳ cục khi trách người dân thời ấy coi trọng cải lương, kép hát và ca sĩ lẫn nhạc sĩ nhạc Vàng, trong khi đó lại không chịu thích giới văn sĩ – thi sĩ như ổng.
Trái ngược với vế kia, ổng lại đề cao quá xá các ca sĩ và nhạc sĩ nhạc Tiền Chiến xứ Bắc.
Đức Hoàng phì cười:
– Vậy chắc ổng quên ổng đang sống ở trên đất Nam Kỳ, cái nôi của nền Kịch nghệ – Cải lương.
Chí Công biểu:
– Cũng may ổng chưa trách người ta không coi trọng ca trù, hát Quan Họ.
Xương Tuyết kết luận:
– Cho nên tôi đâu có ưa Duyên Anh.
Nói tới đây, Xương Tuyết giở sách ra đọc tiếp.
Tuần trước ông bạn Văn Chương từ trần nên người nhà thể theo di chúc đã trao cho anh một rương sách hiếm của ổng, nên giờ anh có thêm sách xưa để đọc.
Bấy giờ anh Ba Hói mới lên tiếng:
– Nhiều người không hiểu tại sao nhạc Vàng còn sống tới bây giờ, thôi thì tôi xin góp một ý kiến nho nhỏ: Đơn giản là vì nó “đồng điệu” với tâm trạng người nghe nên họ nhớ hoài nhớ mãi rồi đâm ra mến thương nhạc sĩ lẫn ca sĩ của bài hát.
Còn thơ hay văn thì khó lòng tạo dựng cảm xúc như vậy, có khi đọc xong chương kết bao nhiêu niềm thương với nhân vật hay tác phẩm bay biến hết vì một chi tiết nào đó.
Thành ra, sự chê trách của Duyên Anh là quá nặng thiên kiến cá nhân và mâu thuẫn với những gì ông nói về hai tiếng “Tự do”.
Xương Tuyết bình phẩm:
– Văn Chương có hay đến đâu cũng không thể thắng Âm Nhạc được.
Bởi vì một người nhạc sĩ giỏi cô đọng nội dung tác phẩm chỉ trong vỏn vẹn vài phút, mà còn làm khán giả phải thổn thức theo tiết điệu và cung đàn do họ phổ ra, thậm chí có thể khán giả đó sẽ thương ca khúc ấy liền dù chỉ mới nghe xong một lần.
Văn Chương thì không được phước phần này đâu, số người sáng tác may mắn hưởng trọn điều này chắc chưa đếm được mấy mống.
Đức Hoàng nhếch miệng cười:
– Đời này có thể không biết Võ Phiến, Duyên Anh hay Hồ Hữu Tường.
Nhưng chắc chắn phải có lần nghe vài câu trong một bản nhạc Vàng, nhạc Tiền Chiến hay Tân nhạc Hải Ngoại.
Xương Tuyết cười thật tươi:
– Văn Chương trong Nước vốn dĩ đã thua Âm Nhạc từ rất lâu rồi.
Trần Cảnh Chiêu bật cười theo:
– Anh không buồn sao Tuyết?
– Đó là Sự Thật.
Và tôi không bao giờ buồn khi biết Sự Thật.
Đức Hoàng cười buồn mà biểu:
– Mà, nếu không có những người cố công tìm hiểu lại nhạc Tiền Chiến, ắt hẳn những nhạc sĩ và ca sĩ Bắc Kỳ mà Duyên Anh mến mộ đã rơi vào quên lãng.
Mỉa mai thay, những người đó đa số lại là dân Nam Kỳ.
Anh Ba Hói trầm ngâm:
– Duyên Anh là một nhà văn giỏi, nhưng ổng không chịu kiềm chế cảm xúc cá nhân nên thành ra tác phẩm của ổng biến thành nơi hạch tội người này – xỉa xói người kia.
Tính ra cốt truyện không được bao nhiêu, mà biếm nhẽ đã chiếm hết trơn “thời lượng” rồi.
Phải chi cuốn nào cũng được như “Con sáo của em tôi”, “Cầu Mơ”,…!thì hay biết mấy.
Vợ của anh Ba Hói bị hội chứng trầm cảm sau sinh nên không thể ra đón mừng khách.
Hiện cô đang trốn ở từ đường với đứa con lớn.
– Mẹ, nghĩ sao hôn nhân của tao như cái nùi giẻ rách mà thằng cha chủ biên kêu tao phụ trách chuyên mục “Tình yêu và Cuộc sống”.
Bốn đứa kia ôm bụng cười bò.
Nói rồi, anh Ba Hói dẫn nguyên đám qua từ đường thưa người lớn trong nhà.
Hai bên đường trồng toàn cây sa-kê cao lớn.
Lối đi được tráng xi-măng sạch sẽ, nhưng hơi tiếc vì nó chỉ được cái mã vì gặp hôm nào trời mưa sẽ trở nên rất trơn và dễ trợt.
Những luống rau mọc rải rác khắp nơi, gia chủ không cần tốn công tưới nước và đắp vồng mà chúng sanh sôi, nảy nở rất nhiều và tươi tốt.
Còn cách khoảnh sân trước của ngôi từ đường mươi mét, cả đoàn đã thấy hai bác đứng chờ sẵn ở gần chỗ bàn thờ Thiên.
Bác trai đầu cũng hói họi, đeo kiếng lão, dáng gầy và dong dỏng cao, đứng chắp tay sau đí* và nghiêm mặt nhìn từng đứa.
Còn bác gái thì tóc hãy còn đen, mắt cũng còn sáng, mặc bộ đồ bông dành cho các bà, các cô thường thấy ở xứ Nam Kỳ, nét mặt tươi nhuận và dễ thương hết sức.
Bác gái niềm nở hỏi:
– Nay con dẫn sáu đứa xuống chơi hả?
Da gà, da vịt không biết từ đâu chạy dọc khắp sống lưng anh Ba Hói.
Anh nuốt nước miếng mấy bận trước khi ướm hỏi:
– Có năm đứa hà mẹ, sao mẹ thấy tới sáu vậy?
Mấy đứa em của anh cũng sởn tóc gáy.
Lòi đâu ra một đứa vậy Trời?
Vẫn giữ nụ cười trên môi, bác gái biểu:
– À, mẹ lộn, mẹ tính luôn con nên thành sáu.
Anh Ba Hói trách:
– Mẹ mà nói cái vong đó đứng cạnh con chắc con xỉu quá.
– Bậy…!Ăn nói phỉ phui! – Bác trai nạt lớn.
– Vô nhà thắp nhang viếng ông bà lẹ lên.
Năm đứa đứng đợi anh Ba Hói thắp nhang viếng Cửu Huyền Thất Tổ xong, mới vào phòng khách ngồi chơi.
Lúc này chị Ba đang cho đứa kế bú trong buồng, biết chị đang bị trầm cảm nên ba – mẹ chồng không bắt phải ra nói chuyện với bạn bè của ảnh.
Ở chơi đâu được ba ngày, có lẽ vì buồn chuyện riêng nên anh Ba Hói mời mấy đứa em xuống Đồng Tháp lại nhà nhạc sĩ Thương Hận “ăn hại”.
Dẫu được cha mua cho bộ xếp hình Lego yêu thích và những món đồ chơi cùng sách truyện khác, nhưng con trai của anh mặt mày chù ụ.
Vậy là anh phải ở thêm hai bữa để hai cha con rộng thời gian đi chơi riêng với nhau, nó mới đổi buồn làm vui.
Ngày cuối cùng ở Vũng Tàu, chị Ba bỏ tiền túi ra mời gia đình cùng đàn em của chồng đi ăn buffet tại một nhà hàng sang trọng bậc nhứt.
Thấy mẹ đã thôi u sầu và xa cách cha, con trai lớn của hai người mừng rớt nước mắt, tuy chỉ mới tám tuổi mà vì hoàn cảnh xô đẩy nó đã già đầu rồi.
Bản nhạc “Chiều Vũng Tàu” do nhạc sĩ Hoàng Trọng sáng tác được nữ ca sĩ đã chìm vào dĩ vãng Túy Nga trình bày nghe thật buồn thật hay.
Đáng tiếc thay, người dân bản địa ít ai còn biết bài hát ca ngợi cảnh sắc xứ mình này.
Vốn ăn chậm nên Xương Tuyết lãnh phần trông coi đứa nhỏ.
Anh vừa ăn vừa ngó chừng thằng nhỏ ú nù đang nằm trong nôi bú sữa bình chùn chụt.
Đức Hoàng và anh Ba sợ anh ăn lỗ nên đem đồ ăn lại bàn giùm.
Rời khỏi nhà hàng với cái bụng no căng, nguyên nhà đi dạo mát trên bờ biển.
Hết người này lại tới người kia tỉ tê chuyện đời mình.
Vừa đi vừa tán gẫu hăng say nên trời đã tối mịt lúc nào mà chẳng ai hay biết, tới chừng thằng con lớn của anh Ba kêu buồn ngủ, ai nấy mới tá hỏa bây giờ đã quá chín giờ rồi.
Ngày mai cả đoàn không còn ở đây nữa nên gia đình anh Ba Hói chẳng ai chịu đi ngủ.
Chị Ba bày bếp than đặng nướng khô mực một nắng, khô cá chỉ vàng và hàu.
Vì ngày mai đi đường dài nên chẳng ai dám uống rượu, vả chăng cũng không nên nhậu nhẹt trước mắt con trẻ.
Cái thằng này cũng thiệt tình, ban nãy đòi vô mùng ngủ, giờ thấy đồ ăn lại tươi tỉnh như mèo thấy mỡ.
Lối khoảng mười một giờ trưa, nguyên đoàn mới khởi hành.
Đi gần tới một bệnh viện trong tỉnh, chợt Đức Hoàng tinh mắt thấy Trần Cảnh Chiêu đang đứng chờ ai đó dưới gốc cây bàng già đời sum sê.
Hắn hô hoán:
– Ê, lại nói chuyện với thằng chả xíu coi.
Tống Ngạn nạt:
– Mẹ mày vẽ chuyện quá Hoàng.
Hỏi ra mới biết pháp y Cảnh đang đón taxi đặng về Bạc Liêu.
Tuy không hiểu căn cớ nào đã khiến anh ta không đặt xe qua ứng dụng thịnh hành hiện nay, nhưng cả đoàn vẫn đồng ý cho anh ta đi quá giang.
Trên đường ghé quán cháo hải sản, Trần Cảnh Chiêu biểu Đặng Xương Tuyết kể chuyện ma nghe chơi.
Và gã điên đã cho anh toại nguyện:
– Tôi đã từng có một giấc mơ rất lạ: Tôi thấy mình đi lạc vào một bãi đất hoang lạnh, kế đó có một đôi nam nữ đứng hai bên cây chuối – Nam bên Tả, Nữ bên Hữu.
Bỗng nhiên hai người đồng thanh nói, “Còn hai ngày nữa cây chuối sẽ trổ bông.” Tới đây, tôi giựt mình tỉnh dậy.
Việc đầu tiên tôi làm là bật điện thoại lên coi ngày, hôm đó là ngày 26/10.
Tôi cho đó là mộng mị vẩn vơ nên chỉ cười xòa rồi làm lơ luôn…
Ai ngờ đâu, hai ngày sau, cũng tức là ngày 28/10, bà Hai bên mẹ tự nhiên đột quỵ trong lúc đang ngồi nói chuyện chơi với hai người bà con.
Sau hơn một ngày nằm nhà thương, bà Hai tỉnh lại và bộ dạng khỏe mạnh như thường, lại còn cười đùa rối rít và đòi ăn cái này – biểu nấu cái kia.
Ai ngờ đâu, tới chiều tối cùng ngày, bà Hai lại mê man bất tỉnh.
Sau khi hội chẩn, bác sĩ kết luận bà đã bị chết não, sẽ sống như người thực vật tới lúc chết, muốn để máy thở hay để bà ra đi là tùy ý gia đình.
Ngặt nỗi gia đình bên ngoại đâu có dư dả và rảnh rang để nuôi bà tới chết, nên phải cho bà ra đi sớm.
Nếu tôi nhớ không lầm, hôm bà Hai từ trần là đúng dịp Halloween.
Tôi đã bị sang chấn tinh thần suốt mấy tháng liền, bởi vì tôi đã hiểu giấc mơ kia là điềm báo cho tôi hay về cái chết của bà Hai.
Đức Hoàng e dè hỏi:
– Rồi sau đó anh sao?
– Tôi năn nỉ bà Hai hãy hiện hồn cho tôi thấy một lần để tôi được nói lời xin lỗi.
Chiếc xe quẹo sang trái rồi đứng im ru luôn, vì con đường này đang bị kẹt xe do va quẹt giữa hai chiếc xe gắn máy, vẫn chưa thấy tăm hơi của cảnh sát Công Lộ đâu.
– Đêm hôm sau, tôi nằm mơ thấy bà Hai.
Tôi thấy mình trở lại hình dáng lúc còn năm tuổi, đó là thời điểm tôi hay qua nhà bà Hai chơi nhứt, còn bà Hai thì vẫn y như vậy nhưng có xách thêm cái giỏ đệm đi chợ.
Tôi chạy a lại bà Hai và khóc mà nói xin lỗi.
Bà Hai xoa đầu tôi cười, biểu, “Ôi, tao chết rồi, tao khỏe.
Chớ tụi bây còn sống mới khổ…!Thôi, tới giờ rồi, mày ở lại mạnh giỏi, tao đi nghen.” Tôi mới hỏi bà Hai đi đâu, bà Hai nói, “Đi đầu thai chứ đâu.”
Còn chị họ của tôi thì nằm mơ thấy bà Hai hoài, nên phải đặt con dao trên đầu giường.
Từ đó tới nay, chỉ không còn thấy nữa.
Trần Cảnh Chiêu nhíu mày:
– Vậy bà Hai có đi đầu thai không anh?
– Hồn của bà Hai còn lưu lại ở nhà bà vì Chấp Niệm giữ của quá lớn.
Rồi trước ánh mắt kinh ngạc của mọi người, gã điên kể tiếp:
– Số là vầy: Cái ông phụ rẫy bà Út biết bà Hai đã già nên men tới chắp nối đặng về sau chiếm nhà.
Từ ngày bà Hai mất, đêm nào người thân của tôi cũng nghe tiếng xích đu kêu cọt kẹt ở phòng khách và tiếng bước chân đi lên – đi xuống cầu thang.
Ai nấy đều hiểu bà Hai không chịu Luân Hồi vì sợ bị mất của, thành ra cái nhà thành từ đường luôn.
Từ đó tới nay, tôi dẹp luôn việc học Kinh Dịch, Phong Thủy và Nhân Tướng Học.
Tôi cũng đã thấu hiểu cảm giác của tôn giả Mục Kiền Liên khi không thể cứu dòng họ của Đấng Thế Tôn thoát khỏi sát-na của Nghiệp lực.
Đức Hoàng tò mò:
– Anh có thể chỉ tôi một vài điều được không?
– Vậy, tôi sẽ chỉ cho mọi người về Nhân Tướng Học.
– Cứ để ý, những ai càng già miệng càng nhọn khi nói chuyện thì sẽ rơi vào hai trường hợp: Một là do nói quá nhiều trong suốt cuộc đời và Hai là do bụng dạ bất minh.
Các anh thử coi ai nói chuyện mà cái miệng nhọn hoắc tánh tình ra sao?
Tiếp, tướng mắt, tôi coi tướng người khác thông qua ánh nhìn và anh quang của hai con ngươi.
Có nhiều người hay nói, “Cái mặt hiền vậy mà giết người”; cái mặt họ hiền mà ánh mắt họ không hề hiền, bởi nhìn tổng thể nên không quán sát được cái hung quang ẩn tàng trong tia mắt.
Cuối, những ai có được tướng mũi đẹp tự nhiên thường may mắn.
Đôi bên đang tranh cãi với nhau hết sức gay gắt.
Cơ hồ chẳng ai nhường ai.
Chiếc xe Honda đỏ bị bể đầu, còn chiếc xe Nouvo kia thì quẹo bánh.
Có tiếng còi hụ từ đằng xa, ắt hẳn là của cảnh sát Công Vụ hoặc xe cứu hỏa.
Chàng pháp y xứ biển hỏi:
– Sửa sắc đẹp có cải số được không anh?
– Sửa sắc đẹp cũng giống như diện y phục mắc tiền để che đậy cơ thể ghẻ lở.
Anh chỉ có thể cải số được một khoảng thời gian, rồi đâu cũng vào đó…
Chợt bên kia đường có quán nước phát nhạc tân thời, Đức Hoàng che miệng cười ngặt nghẽo.
Không đợi mọi người lên tiếng hỏi, hắn đã cất lời:
– Tôi nhớ một “Đi-ra” hiện nay biểu hát phải hả họng thiệt lớn để cho âm vang và hay hơn.
Bởi lo hả họng hát riết mà bả thường bị hát sai lời, tiêu biểu nhứt câu: Em sẽ là người đàn ông của đời em.
Tống Ngạn nhếch miệng cười:
– Thời đại gì mà suốt ngày chỉ chăm chăm vô chữ “Chuẩn”.
Trần Cảnh Chiêu góp lời:
– Sao nhiều người bây giờ không lấy giọng của các nam ca sĩ thành danh ở miền Nam trước 75 ra so sánh với giọng của các nam ca sĩ đang nổi tiếng hiện thời hén?
Anh Ba Hói lắc đầu:
– Thể nào cũng bị những người hâm mộ ca sĩ đương thời viện lý do mỗi thời mỗi khác, và thậm chí có đứa sẽ còn lấy chính trị ra để phản biện lại nếu người họ thích bị thua.
Xuống Đồng Tháp thì trời đã tối mịt tối mù.
Vốn có ý định trước nên nguyên đám ghé “xóm đèn mờ” rồi mới chịu kiếm chỗ nào nghỉ ngơi.
Những tiếng chào mời gợi tình của bọn buôn hương bán phấn chẳng mấy chốc nhiều như ong bướm vườn Xuân.
Cũng may cái miệng của Lê Đức Hoàng đủ cứng để khước từ mọi tiếng rao của họ mà không gây một xỉu xiu mích lòng.
Tới một khúc quanh vắng vẻ, nguyên đám nhìn thấy một cô gái điếm đang ngồi ôm bụng rên hừ hừ ở dưới một gốc cây sanh già.
Xương Tuyết đánh tiếng hỏi:
– “Tới tháng” hả?
– Ờ, sao biết hay vậy?
– Từng có nhỏ em nên rành.
Tôi có đem sẵn thuốc “Cataflam” giảm đau bụng kinh đây.
Đau nhiều thì uống hai viên.
– Thôi đi cha, lỡ chuốc thuốc kích dục thì coi như tôi hết sống qua đêm nay…
– Tôi thích đàn ông, nên không có hứng với cô đâu.
Cô gái điếm tròn mắt:
– Vậy ra anh đây bê-đê?
– Ừ.
Nghe vậy, cô gái điếm mới chịu nhận vỉ thuốc của Xương Tuyết.
Nhưng hãy còn dè dặt mấy người kia.
– Chừng nào thuốc mới thấm?
– Khoảng nửa tiếng.
– Lâu quá…!Chắc Má-mì chửi tôi chết luôn.
Chí Công nhăn mặt hỏi:
– Bị vậy mà còn kiếm khách nỗi gì?
Đức Hoàng cảm thấy tồi tội nên biểu mấy thằng bạn hùn tiền cho cô gái đáng bằng tuổi chị mình.
Được đâu bốn trăm, cộng thêm tiền của anh Ba Hói, Xương Tuyết và Cảnh Chiêu góp vô ba trăm mấy, vừa đủ để cô nghỉ mấy đêm.
Đi được một đỗi, may thay nguyên đoàn gặp một gã trai bao ế khách nên mời anh ta ra quán cà-phê nói chuyện.
Nhác thấy Xương Tuyết, anh ta cười mơn:
– A, thì ra là “Đồng chí của Xuân Diệu”.
“Bốp.”
Xương Tuyết xán vô mặt gã trai bao một bạt tay.
Anh Ba Hói nhếch miệng cười:
– Nó ghét Xuân Diệu.
À, còn Xuân “Tóc đỏ”, Xuân Quỳnh,…!luôn.
– Trời ơi, cùng…!Thôi, tui im, đừng có tán tui nữa, chừa cái mặt người ta ra để người ta làm ăn chớ?
Gã trai bao đó xin Xương Tuyết điếu thuốc hút cho đỡ lạt miệng, rồi nhờ anh ta mồi giùm luôn.
Sau khi nhả khói vài lần, chàng ta mới chậm rãi kể những gì mình biết về bạn bè của Tín: Có một số tên vì đại nghĩa nên phải diệt thân đi làm cái nghề bất nhân thất đức ấy, phần còn lại là những kẻ vô công rỗi nghề hoặc làm biếng làm nhác.
Xém chút nữa là chàng đã bị trở thành con tốt thí của chúng.
– Cưng, cưng cười lên cái coi, cái mặt có lúm đồng điếu thấy thương ghê chưa mà cứ ục xuống như ai ăn hết của hoài.
Gã điên nhếch miệng cười:
– Giờ muốn bị dọng vô mỏ không?
– Cái mặt giống ai cười méo xẹo hoài vậy?
– Tôi giống ba tôi được không?
Chàng rùn vai, rồi di di đầu thuốc xuống mặt đất sình lầy.
Anh Ba Hói xen vô:
– Thiệt, bác trai toàn cười như vậy không hà.
– Trời đất quỷ thần thiên địa ơi, giống gì hổng giống, giống cái này người ta “ưa” lắm nè.
Đương nhiên muốn anh ta khỏi làm phiền nữa thì phải cho tiền chia tay.
Anh ta mừng rơn nhận món tiền rất khá từ tay của anh Ba Hói.
Trở lên xe rồi, Đức Hoàng mới nhăn nhó:
– Trời ơi…!Tao mà còn ở đó thêm một phút nào nữa chắc tao bị ung thư mũi quá…!
Trần Cảnh Chiêu hỏi Xương Tuyết về những gì mà anh đã nói với cô gái ăn sương.
Anh ta xác nhận rằng:
– Thiệt.
– Tôi ở gần anh mà tôi nhìn hổng ra.
– Coi ba cái kịch – phim tào lao rồi tưởng người đồng tính đi đâu cũng phải phô ra cho thiên hạ biết xu hướng tính dục của mình.
Đức Hoàng hỏi:
– Ăn chi đây mấy cha?
Tống Ngạn đề nghị:
– Ăn hủ tíu ngán rồi, đổi qua cơm tấm Sa Đéc cho lạ miệng.
Quán cơm tấm đêm nằm gọn ơ trong bóng mát cây si.
Để dễ thấy đường buôn bán, vợ chồng chủ quán bắt mấy cái bóng đèn tròn để thắp sáng.
Cái quán lụp xụp vậy mà đắt khách ghê, đứng đợi chừng hơn nửa tiếng mới có bàn.
Trần Cảnh Chiêu đã vô Mùa Chay nên chỉ ăn cơm tấm với chả trứng và hai cái trứng cút chiên.
Sẵn thấy chả cá ngon quá nên anh mua một miếng nhỏ đặng ăn cho chắc bụng.
– Tuyết.
– Hửm?
– Anh có ăn chay không?
– Có lúc tự nhiên ngửi mùi thịt cá thấy tanh quá nên đổi sang ăn chay cả tháng.
Chứ không phải là do đầu tháng, cuối tháng, ngày Rằm hay phát tâm chay tịnh gì.
À, với hết tiền nữa, hết tiền tự khắc “trường chay” hà.
– Anh kể gốc tích của anh cho tôi nghe được không?
– Sau khi Thành Hoàng đình Tân Thạch cùng những người thời đó khai khẩn đất Bến Tre được một thời gian, ông cố tổ bên nội tôi từ miền Trung chèo ghe vô đây ở.
Lúc bấy giờ, Cầu Bắc được gọi là làng Tân Thạch; gọi là làng Tân Thạch vì đá tảng nằm phủ kín mé sông, nhiều đến độ chạy dài vô đất liền gần chục mét, cộng thêm chỗ này mới được thành lập nên họ lấy chữ “Tân – Mới” ghép với chữ “Thạch – Đá” thành cái tên “Tân Thạch”.
Không biết ai là người đã đào con rạch bắc qua ngôi chợ ven bờ sông Tiền và kéo dài tới Cổng Số Hai mà người đời sau đổi thành “Cầu Bắc”, nhưng chắc chắn không phải là do người Pháp làm, dù rằng ở đây hổng có cây cầu nào hết; con rạch này có tác dụng lưu thông nước để nuôi dưỡng mùa màng trong vùng.
Còn cái tên Tân Thạch thì được chuyển thành đơn vị hành chính Xã.
Cũng trong con rạch này, có một cái miễu thờ Bà rất thiêng nên sau khi Pháp xây cất bến phà thì địa danh này được đặt tên là “Bắc Rạch Miễu”; rồi sự đời xoay vần, sau năm 75, con rạch bị lấp, miễu Bà bị “tụi nó” dời vô khúc đường gần trường Tam Dương, cũng không được yên bao lâu, “tụi nó” bứng miễu Bà đi mất đất, tới tận bây giờ chẳng ai hay biết miễu Bà còn nguyên vẹn hay là đã bị đem bán ve chai nữa.
Về chuyện dòng họ tôi, trong số bà con bên nội tôi có người kết duyên với con cháu Ông Thành Hoàng nên mỗi bận cúng Đình người trai này thường được mời làm Chánh Hương Bái, lần nào cũng được bà con biếu chõ xôi và cái đầu heo quay.
Khán Bình bật cười hỏi:
– Vậy ra gốc của anh là từ ngoài Trung vô?
– Ờ…!Bây giờ đã không còn nói tiếng mang âm hưởng ngoài đó, cũng chẳng còn giữ lề thói và nếp sinh hoạt ở ngoải nữa.
Hai bên nội – ngoại tôi đều là lưu dân hết, chỉ khác bên nghèo – bên giàu thôi.
Rồi gã trai Thần Kinh lại hỏi:
– Vùng này trước đây của ai vậy?
– Trước đây, Kiến Hòa là đất của người Cao Miên, dân Miên gọi nó là “Sóc Tre”; trong tỉnh có một nơi gọi là Sóc Sải – Hàm Long, sau đổi thành “Hàm Luông”.
Theo lời người lớn trong nhà tôi kể, thì người Miên đánh với triều Nguyễn bị bại trận nên chạy lên lánh nạn ở Vũng Liêm – Trà Vinh và các tỉnh lỵ khác như Sóc Trăng chẳng hạn.
Ông Tư bên ngoại tôi đã từng đào được trong vườn nhà rất nhiều đồ gia dụng của người Cao Miên cổ như lu, chum, hũ sành,…!Riêng bên nội tôi, thì tìm thấy mả của họ; ba tôi cho rằng những cái mả này rất bền là do họ ngào vôi, mật đường và cây ô dước thành gạch xây sau đó để phơi nắng khô thật khô mới đem ra sử dụng.
Đức Hoàng ghẹo:
– Sao anh biết tiếng Trung Kỳ?
– Tôi học, nên biết, có vậy thôi.
Tống Ngạn hỏi:
– Còn chuyện chi lạ không anh?
– Cồn Tân Vinh nổi lên vào khoảng thời gian 54 – 55, không hiểu tại sao nó lại thành hình nữa và trước đó cái cồn này nằm ở đâu dưới lòng sông Tiền thì ít ai rõ.
– Còn cồn Phụng thì sao?
– Ông Hai Đạo Dừa là chủ sở hữu hợp pháp của khu đất đó.
Ông đã tự bỏ tiền túi ra mua đứt cái cồn, vậy mà sau này nó chẳng còn thuộc về ai trong gia đình Ông.
Bảng hiệu và công trình ở trển là do một tay Ông thiết kế và chỉ biểu xây cất – lắp ráp.
Ông vốn có tiếng là “ông Bác Học” mà.
Ông đã tiên tri trước được nhiều việc nên đã khuyên nhóm đệ tử ruột đi trốn sau năm 75 để bảo toàn mạng sống, giờ ai tự xưng là đồ đệ của Ông phần đông xạo nhiều hơn thiệt.
Nói tới đây, Xương Tuyết bới bới dĩa cơm và múc một muỗng lớn vừa cơm vừa thịt mà đưa lên miệng ăn.
Nhân chuyện thời sự gần đây, Trần Cảnh Chiêu mới hỏi ý kiến của Xương Tuyết về một chữ.
Gã điên trả lời rằng:
– Là “Sô-Viết”, không phải “Xô-Viết”.
“Soviet” rành rành chữ “S” mà.
Nói tới đó, Xương Tuyết xin phép ra ngoài gọi điện thoại.
Ai nấy vui vẻ đồng ý.
– Nó yêu ai chưa sao tôi biết?
Đức Hoàng pha lửng:
– Nghĩ cũng mắc cười, có nhiều nữ văn sĩ giọng văn y chang “đàn ông đích thực”, tới chừng hội ngộ mới bật ngửa “nường là liễu yếu đào tơ/mình dây thước hạc, đứng ngồi như nhung”.
Chí Công nói:
– Hèn gì ảnh rành nữ công gia chánh và chuyện tủn mủn của đàn bà – con gái.
Chừng Xương Tuyết trở lại, người nào người nấy đã ăn xong dĩa cơm của mình.
Sợ chủ quán nóng ruột, những người bạn của gã điên bèn kêu thêm vài dĩa chả cây ăn chơi; chả cá thu được quết vô cọng sả rồi đem nướng chín trên lửa than, chỉ đơn giản có vậy thôi mà làm cho chủ quán ngày một giàu thêm.
– Có ba văn sĩ Bắc Kỳ mà tôi ưa gọi “Sĩ phu Bắc Hà” là Nguyễn Đình Toàn, Dương Nghiễm Mậu và Mai Thảo.
Ba vị có đức tính như những gì mà rất nhiều người miền Bắc hiện nay tự nhận nhưng thật ra chưa từng có: Học thức, thanh lịch, đàng hoàng và biết mang ơn nơi đã giúp mình thành danh trong sự nghiệp.
Ông Mai Thảo có cuốn tiểu thuyết phóng tác “Ánh sáng miền Nam” và quyển “Nhân cách Bình Nguyên Lộc” rất hay.
Rồi gã điên kể:
– Đây là một dòng trong quyển “Nhân cách Bình Nguyên Lộc” mà tôi cảm thấy rất đắt giá:
“Kế đó, ông thuật cho tôi hay về số phận của cuốn thiên biên khảo lịch sử, mà nguồn gốc dân tộc Việt, theo sử quan và chứng minh Bình Nguyên Lộc, không từ miền Bắc xuống mà từ biển ngoài vào.”
Anh Ba Hói kể cho nguyên đám nghe một giai thoại, mà hư nhiều hơn thực, nói cho vui chớ đừng bỏ bụng mà tin:
– Nhà văn Bình Nguyên Lộc cũng từng đi điều trị ở Dưỡng Trí Viện Biên Hòa; nhưng do con trai làm Giám đốc ở đó nên ông được miễn mặc “đồng phục” và được tự do đi lại mọi lúc – mọi nơi.
Có lần cụ Bùi Giáng bị lên cơn nặng quá nên người nhà đưa vô điều trị, nhằm mấy bữa sau có tổ chức văn nghệ, cụ nổi hứng đòi chơi đánh trận với một ông bệnh nhân cùng phòng, cụ đòi làm Trần Hưng Đạo và ông kia thì biểu, “Vậy tui sẽ làm Tôn Sĩ Nghị.” Hai đàng rượt đánh nhau té khói, các bệnh nhân thi nhau reo hò cổ vũ.
Các bác sĩ và y tá hớt hải chạy lại can ngăn.
Một trong số bác sĩ thấy ông Lộc đang đứng gần đó mới hỏi, “Thưa bác, ai đang đánh nhau trong trỏng vậy?” Ông trả lời tỉnh queo, “Trần Hưng Đạo đánh với Tôn Sĩ Nghị.” Ông bác sĩ đó ngó ông Lộc lom lom, rồi về méc lại với con trai ông sao không biết, mà sáng hôm sau con trai ông hốt hoảng chạy đi kiếm ông và đưa cho ông coi bệnh án, trong đó ghi rằng, “Bệnh nhân có dấu hiệu chuyển biến nặng, đã bị Tâm Thần Phân Liệt gây ra hội chứng Hoang Tưởng.”
Sau khi tiếng cười lắng xuống, Đức Hoàng mới hỏi căn cớ nào đã khiến gã điên mến Mai Thảo.
Và gã trả lời rằng:
– Ông Mai Thảo là một trong những người đã đỡ đần và lên tiếng bênh vực nhà văn Nam Kỳ Hồ Trường An trong sự nghiệp cầm bút.
Với chủ trương, “Nam – Bắc một nhà”, ông đã nói và ông đã làm.
– Nói rõ hơn được không anh?
– Ông Hồ Trường An vốn là người đồng tính nên bị những người kỳ thị tổ chức tẩy chay ổng lẫn tác phẩm của ổng.
Vậy mà ông Mai Thảo vẫn đứng ra nhận xuất bản và phát hành sách của ổng, không quên nói vài lời khuyên nhủ đám đông kia hãy bớt phẫn nộ và mở lòng đón nhận người em đồng nghiệp.
Trần Cảnh Chiêu bấy giờ mới hỏi:
– Còn về Dương Nghiễm Mậu?
– Nhà văn Bắc Kỳ Dương Nghiễm Mậu rất hâm mộ phương pháp viết văn của cụ Hồ Biểu Chánh, muốn kiểm chứng thì kiếm bài “Từ đó đến nay” trong cuốn “Văn (số 80)”, trang 57 – Phát hành vào năm 1967.
Ông là người đã bênh vực giọng văn của cụ Chánh và thổ lộ rằng đã và sẽ đến thăm những địa danh có trong tác phẩm của cụ Chánh để thỏa lòng ngưỡng mộ.
Rồi gã điên chợt nói nhỏ rí:
– Tôi “gồng” giùm con em tới đây là đứt gánh.
Giờ tôi sẽ viết theo ý tôi.
Trước đây còn sử dụng tên tuổi và thiết lập nhân vật do nó tạo ra, giờ thì dẹp.
Đức Hoàng hỏi Xương Tuyết:
– Anh có chỉ vẽ ai mua đất theo phong thủy không?
– Không.
Nếu để cho một người kém Phước mua được miếng đất tốt là sẽ khiến cho đời sau của họ tanh bành vì họ không xứng đáng được hưởng chỗ này.
Rồi gã điên trầm giọng:
– Mấy ông quan chức bây giờ hay bị đám thầy – bà vẽ chuyện mua đất mà không biết rằng mệnh mình không kham nổi miếng đất đó thì đời sau sẽ gặp chuyện bất tường, đần độn hoặc yểu mạng.
Thay vì đi săn đón mấy miếng đất nơi trần thế, tại sao không làm Thiện tích Đức để được hưởng một miếng đất phước lành trên Trời? Thành ra, tôi phản đối chuyện mua đất Long Mạch.
Trần Cảnh Chiêu không mướn cùng chỗ trọ mà thuê khách sạn ở riêng.
Dẫu sao anh cũng là pháp y và đang điều tra thảm án “Hai Mươi”, nên ở chung hết sức bất tiện.
Từ bên trong chiếc xe taxi đậu bên kia đường vẳng ra tiếng nhạc của bài “Bên nhau đêm nay” do Don Hồ ca; không rõ ai đặt lời Việt từ ca khúc xứ Phù Tang “Dancing all night” của hai tác giả Yoshinori Monta (nhạc) và Keiji Mizutani (lời), theo một nguồn tin thì nhạc sĩ đặt lời Việt tên là Anh Tài Huỳnh.
Bài này Duy Quang song ca với Lynda Trang Đài cũng rất hay, nhưng giai điệu không được sôi động bằng bản hòa âm phối khí của Don Hồ.
– Bác tài.
– Dạ?
– Tôi muốn kiếm khách sạn ngủ đỡ một đêm…!Kiếm gì vậy? À, hổng có má nào hay ba nào đâu.
Người tài-xế xoa đầu cười trừ, rồi nghiêng người sang phải để mở cửa xe bên phía ghế phụ cho người khách có khuôn mặt “bạch diện thư sinh”.
Vô xe rồi, Cảnh Chiêu mới ngửi thấy mùi bánh mì nhưn mặn thơm nức mũi.
– Ăn hôn? Bà thím còn ế một ổ nên cho luôn.
– Thôi, tôi đang kiêng thịt.
– À, dân Công Giáo.
Người tài-xế bật bản nhạc “Tiếng Kinh đêm (Inch Allah)” do Don Hồ ca, chẳng biết ai đặt lời Việt từ bài hát cùng tên “Inch Allah” của ca sĩ kiêm nhạc sĩ Salvatore Adamo:
“…!Em ơi hãy yêu như là đã yêu
Em ơi hãy tin như là đã tin
Đôi ta đứng lên như con sông đang vươn lớn
Ta vươn lên hỡi những nhánh sông triền miên!
Tiếng Kinh đêm…!Tiếng Kinh đêm…!Tiếng Kinh đêm…!Xin bình yên…”
Vừa cài dây an toàn, Trần Cảnh Chiêu vừa hỏi:
– Hình như có mấy lời Việt thì phải?
– Phải, bản Việt khác có tựa đề là “Tiếng kêu trầm thống” do Duy Quang và Billy Shane song ca, không rõ ai đặt lời nữa.
Còn một bản của nhạc sĩ Phạm Duy do Elvis Phương hát mang tên “Đường về đất Thánh”…
Trước khi chạy tới khách sạn, người tài-xế tắp vô một cây xăng để đổ thêm xăng đặng cho xe đừng “hụt hơi” mà mau bị hư máy.
Từ trong cửa hàng tiện lợi, tiếng hát chân phương của “Quái kiệt” Trần Văn Trạch trong bài “Ba giờ khuya” của nhạc sĩ Đức Quỳnh vọng ra đầy mùi mẫn.
Cảnh Chiêu băng qua lộ.
Anh tìm được một chỗ khá sạch sẽ nơi vỉa hè rồi quỳ xuống lần chuỗi Mân Côi và lầm rầm đọc bài “Kinh Lạy Cha”.
Nơi “Giáo đường im bóng”, tượng Chúa chịu khổ nạn trở nên nổi bật vô ngần, ánh nhìn bác ái đó soi rọi một niềm Kitô trong tâm can người pháp y xứ biển Bạc Liêu.
oOo
Tòa soạn “Nếp Sống Mới” bỗng gởi thư mời nhân viên đi hiến máu cứu người, dù muốn dù không thì ai nấy đều phải tuân theo để tránh mất sở làm.
Nguyễn Chí Công bị giữ lại trong phòng khám, tra tới hỏi lui cặn kẽ, thậm chí có khứa còn tự tiện lấy lược chải đầu cho y luôn.
– Mấy bây có bị chải đầu như tao hôn?
Đức Hoàng uể oải nói có.
Tống Ngạn đặt câu hỏi:
– Tự nhiên kêu vô chải đầu để làm chi?
Khán Bình trả lời:
– À, cây lược đó là cây lược massage, cái ông chải đầu là nhân viên của công-ty đó, theo lệnh cấp trên nên ổng tới đây chải đầu cho mình đặng thử sản phẩm.
Đức Hoàng nhếch miệng cười:
– Lược mát-xa gì mà giống lược chải chí chết mẹ.
Chí Công xuýt xoa:
– Mà, chắc tao sẽ mua một cây, ổng chải có mấy cái mà cái đầu tao nó rãn ra dễ chịu ghê…!Mày cười cái gì vậy Hoàng? Đang nghĩ tới chuyện bậy bạ gì phải hôn?
– Ờ.
Tống Ngạn chau mày:
– Công-ty này coi bộ tự tiện ghê.
Người ta chưa đồng ý mà dám làm.
Đức Hoàng gạt phăng:
– Kiếm gì ăn đi mấy bây, tao sắp sửa chết đói rồi.
Trụ sở công-ty bán sản phẩm massage nằm trên đường Bông Giấy.
Sở dĩ con đường mang tên loài hoa vì số đánh dấu quá khó nhớ.
Ở đây có xe bán món Tiều của một thím xẩm sống mình ên, đôi lúc ế quá thím ngồi hát vu vơ vài câu tiếng Quảng, giọng ca của thím vô lỗ tai mấy đứa mù chữ Tàu như bọn “Nhạn – Vàng – Bình – Công” thì luôn được tụi nó khen rằng nghe hay không thua gì tài nữ Đặng Lệ Quân.
Đức Hoàng ghẹo:
– Thím ơi, thím ca cho tụi con nghe bản “Bình thản trên đường đời” đi.
Thím Huê cười giòn:
– Mấy đứa xúi ác, đang bán đắt sao ca được, ca lỡ văng nước miếng tùm lum sao?
– Thì…!ngọt…!béo chứ sao?
– Gớm! Hoàng không sửa miệng mốt ở giá như thím giờ.
Người đàn bà ở giá đó bèn mở bài “Thằng Tàu lai” do Jimmy Nguyễn trình bày; chú cũng là người đặt lời Việt của ca khúc này từ bản nhạc tiếng Hoa “Dui mian de nuu hai kan guo lai (Kan guo lai)” của nhạc sĩ Malaysia Tang Khen Seong (Ah Niu).
Dọn món cho bàn Số Năm xong, thím Huê lại bàn của cả đám mà đon đả hỏi:
– Mấy cưng ăn chi thím làm? Hoàng chắc lại ăn cháo “nhà Hồ” hả?
Đức Hoàng tủm tỉm cười.
Thím Huê ưa gọi cháo Tiều chỗ thím là cháo “nhà Hồ” vì con mực được thím làm kỹ nên khi luộc lên trắng phau như màu lông hồ ly.
– Dạ.
Với thêm một dĩa há cảo “tả pí lù”.
– Thím.
Nhớ trụng hủ tíu cho con thiệt mềm nghen? Mấy bữa nay con bị ê răng…!- Chí Công biểu.
Thím Huê cười giòn:
– Mấy cưng ăn uống cho cẩn thận, ham “cạp chùa” xí-quách chỗ thím quá mơi mốt chưa già mà đứa nào đứa nấy hết còn răng nhai trầu.
Tống Ngạn ăn bánh hẹ và chân gà hấp tàu xì, còn Khán Bình chọn món hủ tíu Hồ tô lớn nhứt.
Cả bốn đứa đều uống nước đá me chua ngọt thơm ngon.
Thím đâu dám nói thằng nhỏ đáng tuổi con mình có cái nết y hệt người thương năm cũ của thím, cả cái dáng đi – tướng ngồi cũng giống nữa.
Sau năm 75, theo phong trào vượt biển tìm đường sống, người đó đã lên tàu ra đi với đại gia đình.
Bặt tin hai mươi năm, bỗng đâu người đó dắt vợ con về thăm thím, rồi bẽ bàng nhận ra thím vẫn chờ kiệu hoa của ổng tới rước…
“Một người con gái đứng nghiêng nghiêng vành nón lá
Đường chiều bờ đê, lối xưa kỷ niệm thiết tha
Lòng nàng xao xuyến quá, hẹn hò một người đi xa
Mà năm tháng đã dần qua…”
Thím gượng cười hỏi:
– Bài gì mùi dữ vậy Hoàng?
– “Chờ người” của nhạc sĩ Khánh Băng, cô Như Quỳnh ca bản này buồn thúi ruột gan.
Thím vừa phe phẩy nón lá cho mát, vừa ca nho nhỏ theo tiếng hát châu ngọc đó.
Rồi thím trách yêu:
– Hoàng ác với thím quá.
– Ác chỗ nào?
– Thím bị người ta bỏ mà còn mời thím nghe bản này.
Đức Hoàng kinh ngạc nhìn thím.
Hắn thấy bài hát hay thì mời nghe thôi chứ đâu biết mình đã khơi gợi mảnh tình riêng trong lòng thím.
– Hoàng ăn thêm quẩy hôn, thím xắt cho?
– Dạ được.
Rời khỏi xe Tiều, bốn người đi đến cửa hàng của công-ty bán đồ massage.
Chỉ cần đi thêm mấy mươi mét là tới chỗ đó, thời may có hàng me xanh đại thụ nên ánh nắng gắt đặc trưng của đô thành chẳng khiến tụi nó bị mệt nhọc.
Chí Công chợt hỏi thằng bạn Bảy Núi:
– Sao tao thấy thím Huê giống…!thương mày quá.
– Có lẽ tao giống ông đó ở chỗ nào đó thành ra thím thương.
…
Rốt cuộc cũng lấy được tóc và máu của ký giả Côn Lôn.
Vẫn chưa chắc ăn, Hác Đăng Khánh điều ông thầy già đích thân giám sát và giữ mẫu.
Người sẽ thực hiện xét nghiệm ADN với cậu ta là em trai cùng cha khác mẹ của lão tham quan kia.
Khoảng ba ngày nữa sẽ có kết quả chính thức.
oOo
Phạm Thành Nhân được đặt cách đi Xưng Tội ở nhà thờ Giáo xứ Saint Pio.
Người chủ trì là Ignacio Huỳnh Đức Cường.
Sau lời nói đầu, Ignacio Cường mời con trai thổ lộ nỗi lòng.
– Cha ơi, con có tội…
– Tội chi con?
– Con càng ngày càng nghi ngờ về sự hiện diện của Chúa…!Con có cảm tưởng như mình đã bị bỏ rơi…!Con đợi hoài đợi mãi mà chẳng có…!gì hết.
– Con nghĩ như vậy là không đúng.
Chúa dạy con đi đường ngay, con vì chút danh hão và tiền bạc thế gian mà sa vào đám con ông cháu cha ăn chơi trác táng…
– Vậy là con đã chối Chúa rồi hả Cha?
– Con nghe Cha nói hết rồi con hẵng nói.
Cái tật bộp chộp của con đã khiến con gặp họa ở tòa án, và khiến cho những người thương yêu con đã lao tâm khổ tứ biết bao nhiêu.
Con bỏ cái tánh nói leo đó được hay là không?
– Cha giận con?
– Nữa…
– Cha là Cha mà cũng giận con sao?
– Con bình tĩnh lại…
– Không có bình tĩnh con mẹ gì hết!
– Con…
– Anh có biết tôi đã chịu bao nhiêu điều tiếng từ hồi đầu tới giờ hay là không? Hả?
– Cho nên con coi Cha là nơi để con xả giận? Hòng khỏa lấp đi cái đớn hèn và nông nỗi của con…
– Anh thì hiểu cái chó gì chứ?
“Rầm.”
Anton Nhân xô cửa bước ra, rồi bất thình lình nắm cổ áo Ignacio Cường mà kéo anh ra bên ngoài.
Nghe tiếng xô xát ở trong giảng đường, toán cảnh sát ập vô khống chế Anton Nhân.
Rồi đứng khựng lại hết vì Anton Nhân đã kề lưỡi dao bấm vô cổ Ignacio Cường.
Trong lúc phía an ninh đang lúng túng, Antonio Vũ đã cướp súng của viên cảnh sát đứng gần anh, rồi chĩa về phía Anton Nhân.
Đoạn nói:
– Tôi chấp nhận chịu tội sát nhân, chứ không thể để Giáo hội mất đi một người Linh mục đáng quý như Ignacio Cường.
Không ngờ Antonio Vũ sẽ có mặt ở đây, thái độ của Anton Nhân trở nên hết sức bối rối và sợ sệt, bởi lẽ cậu không muốn bị thần tượng ghét bỏ.
– Là ai đã dụ dỗ cậu nếu đem Cha Cường ra làm con tin thì sẽ được trắng án?
Anton Nhân run rẩy trình bày:
– Anh rể của con đã mất tích rồi Cha ơi…!Chúng đã gửi lóng ngón tay Út của ảnh về, đe dọa gia đình rằng nếu con không chịu nói mình có tội thì sẽ bán hết nội tạng của ảnh…!
Đám nhân viên công vụ sửng sốt nhìn nhau.
– Chính con đã báo với giới chức cảnh sát nhưng không ai thèm tin…!Không một ai cả…!
Ignacio Cường nhíu mày suy tư chi đó mà chẳng ai thấu được.
Cổ áo Lễ của anh đã bị tét một đường dài.
Ánh nắng từ khung cửa sổ trên trần chiếu xuống lưỡi dao bén ngót, khiến mắt anh bị chói khó chịu vô cùng.
– Chúa ở đâu trong đời con hả hai Cha?
– Ở đâu có Bác Ái, ở đó có Ngài…
Giuse – Blanc Cao Nhật Thành vừa nói vừa tiến từng bước một về phía Cung Thánh.
– Con đã giao du với Quỷ Satan từ rất lâu.
Tưởng đâu con đã rời xa chúng khi vô tù.
Rốt cuộc, vẫn hoàn y vậy.
– Ông thì biết cái gì chứ? Không phải ông cũng thông đồng với chúng sao?
– Có Chúa chứng giám Cha chưa từng thông đồng với chúng, Cha chỉ lụy chúng thôi…!Bỏ dao xuống đi con…
Anton Nhân xô Ignacio Cường xuống Cung Thánh, rồi đâm dao vô bụng mình.
Máu tươi loang thấm chân bục giảng.
Trước lúc ngất đi, cậu gào lên:
– Hãy nói với chúng là tôi đã nhận tội!
Ignacio Cường lồm cồm ngồi dậy.
Mặc kệ cái trán sưng tấy, anh hớt hải chạy lại chỗ của con chiên trong xứ rồi kinh hoàng tri hô.
Cũng may để đề phòng bất trắc, xe cứu thương đã được điều động tới đây sẵn, nên Anton Nhân sẽ có cơ may sống sót cao hơn.
Ai nấy bàng hoàng nhìn theo bóng dáng chiếc xe cứu thương đang chạy đua với Thần Chết để giữ mạng người thanh niên có lớn mà không có khôn họ Phạm.
…
Quán cà-phê ven đường đang phát bài “Sỏi đá rồi cũng đau” do song ca Don Hồ – Khúc Lan trình bày, nữ nhạc sĩ Khúc Lan đặt lời Việt từ bài hát Nhật Bản “Nakanaide” của ca – nhạc sĩ Mayumi Itsuwa.
Bữa nay Cưỡng xuống Cần Giờ phụ đóng đáy với bà con bên mẹ, được họ trả công một hũ mắm tép thiệt ngon.
Qua Mùa Chay, anh sẽ làm một bữa bún Thái ăn cho đã thèm, giờ thì đành chịu cảnh “mỡ treo miệng mèo” thôi.
Anh tắm gội sạch sẽ với xà-bông thơm rồi mới lên xe đò về đô thành, chừng ba giờ chiều xe chạy.
– Nải chuối nì chội chội chưa chị?
Bà già bán chuối xéo sắc hỏi lại:
– “Chội chội” là mần răng?
– Là “Hườm hườm” đó thím.
– Cưỡng trả lời thay.
Rồi Cưỡng đứng dậy và đi lại bắt chuyện với “Người đến từ triều Huế”.
– Anh vô khi mô?
– Mới vô cái sột.
Tui đi kiếm người thân.
– Chừ anh ở mô?
– Mướn cái nhà trọ ở tê tề.
– Đâu chuyện răng há anh kể coi?
Anh chàng Thần Kinh tỉ tê tâm sự rằng anh ở ngoài nớ được người ta báo tin có ai bốc mộ nhà bác Hai “đi trớt”, ngặt mạ bị đau nên không thể tới đó cản lại, thành ra mất dấu.
Đợi lúc mạ mạnh lại, anh mới a tới đó trách gia đình hàng xóm.
Họ noái người đó xưng tên là Võ Kiến Tường, là con cháu của những người đang chôn đậu ở đây nên có quyền cải táng hài cốt của những người ni.
Đúng là trong tông tộc anh có người tên nì, nhưng đã đi biền biệt gần ba mươi mấy năm rồi, nếu đúng là con cháu thật thì chơ răng nỏ tới thăm nhà anh rứa?
– …!”Đã đan thì lận tròn vành mới thôi”, bỏ ngang răng mà coi được.
– Ê, trong xóm Đạo của tui cũng có người Mục sư tên Võ Kiến Tường, cũng nói tiếng Huế như anh, có khi nào là bà con thất lạc với anh không?
Đó là lý do tại sao mà Võ Kiến Hữu có mặt ở Giáo xứ St.
Pio vào buổi tối của cái ngày lộn xộn này.
Giáo xứ đã đóng hết bốn cửa chánh; nơi nào giáp với sông và lối đi tắt thì biểu trai tráng ra canh phòng nghiêm ngặt.
Riết rồi xóm Đạo y hệt khu tự trị.
– Mày dẫn ai về vậy Cưỡng?
– Trời ơi Trời, Giáo xứ đang lộn xộn mà mày còn…
Cố Phêrô Toàn di cái thân già lọm khọm mà lại giải vây cho Cưỡng và Võ Kiến Hữu.
Cụ dịu dàng hỏi:
– Con là ai? Vô đây có chuyện chi? Nếu không gấp thì mời con tìm nơi khác ở tạm.
Võ Kiến Hữu trình bày vắn tắt rằng mình đang tìm người em họ thất lạc tên Võ Kiến Tường.
– À, con lại nhà ông Sáu Giàu.
Cưỡng biết đường mà phải hôn con?
Cưỡng gật đầu.
Cố Phêrô Toàn chúc người trai Cố Đô vài lời tốt lành, rồi quày quả đi vô nhà thờ.
Trên đoạn đường tới nhà ông Sáu Giàu, Võ Kiến Hữu thuật chuyện nhà cho anh bạn mới quen hay: Kể từ ngày bác Ba theo giặc, ông nội đã từ mặt thẳng thừng bác và cấm con cháu bác lui tới thăm mình.
Nhưng cái lưỡi thì cứng, còn cái tâm nội trái ngược, ngày nào nội cũng đứng chắp tay sau đí* trước cổng nhà mà đợi thằng con “nay lớn khôn, mang gươm dao vào xóm làng” về với cha mạ.
Vì thằng “Bất hiếu nhi” mà số hàng xóm quay lưng với gia đình nội rất đông, song nhìn thấy nội đau khổ tới mức mắc chứng thổ huyết thì không ai nỡ tẩy chay nữa.
“Con dại cái mang”, vả chăng, đâu có ai ngờ được tương lai con mình Thiện hay Ác chớ?
Võ Kiến Tường đã tới lớp dạy Giáo lý.
Võ Kiến Hữu đành gởi hành lý và chiếc xe ở nhà ông Sáu Giàu, rồi theo Cưỡng tới nhà thờ Tin Lành.
Ngồi sau lưng Cưỡng trên chiếc xe gắn máy phân khối lớn của anh ta, Võ Kiến Hữu ngửa mặt hứng gió đô thành mà cười tươi bộc bạch:
– Ngộ ghê hỉ? Tự nhiên tôi lại gặp anh ở Cần Giờ và được anh giúp đỡ tìm thân nhân.
– Nỏ có chi mô mà anh làm quá lên.
“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ/Vô duyên đối diện bất tương phùng” mà lị.
– Răng nhìn anh giống “điệp viên 007” rứa.
Cưỡng phá lên cười sằng sặc.
Phải, là cười sằng sặc như một diễn viên bị giao vai phản diện nhưng do đóng dở nên đâm ra quá trớn.
– Eng muốn đân chi bầy tui mua cho đân, để tâm tưởng bớt “cuốn theo chiều gió”?
– Yêm muốn nếm thử hương vị phồn hoa đô hội, eng đủ tiền bao không?
– Dư sức qua cầu.
– Ở mô bán bi-kê hả Cưỡng?
– “Bi-kê”? À, gần đây thôi.
Rồi Cưỡng cười xòa:
– Trong Nam kêu “Hộp quẹt”, ngoài Bắc kêu “Bật lửa”, ở Trung kêu “Bi-kê” lấy theo chữ Pháp “Briquet”.
Võ Kiến Hữu hấp háy mắt cười:
– Miền nào ở yên miền nớ.
Khỏe nhất.
– Dạ, ở không hạp thổ nhưỡng rồi tru tréo lên nghe điếc con ráy.
– Cưỡng học tiếng Huế ở mô?
Cưỡng cười, biểu:
– Tính làm rể Vỹ Dạ nên ra sức học tiếng Huế.
Ai hay mô nàng đã có tình lang nên quành về đây ôm trăng làm đồ nhi của Hàn Mặc Tử, lấy tên theo thầy là Hàn Mặc Kệ.
Võ Kiến Hữu vỗ vai Cưỡng mà cười ngất ngơ ngất ngưởng.
Rồi run giọng hỏi:
– Cưỡng nói chuyện duyên quá, chắc ghệ nhóc hỉ?
– Bị chửi vô duyên hoài.
Chửi riết tai ù luôn.
– Ê, đằng tê có bán béng kìa…!Tắp vô mua vài cái đân chơi Cưỡng.
Hàng bánh của gia đình Minh Hương treo đèn kết hoa rực rỡ, người không biết còn tưởng đâu đây là rạp cưới của nhà nào.
Các món bánh được chủ tiệm khéo léo sắp xếp rất đẹp trong tủ kiếng, càng kích thích lòng hảo ngọt của thực khách tợn.
– Oa, béng nì bán răng?
– Ông nín.
Bên đây nói tiếng Việt giọng Hoa, ông nói tiếng Việt giọng Huế; hai đàng khỏi mua – bán gì luôn.
Võ Kiến Hữu và con gái chủ tiệm ngó nhau cười khúc khích.
Anh làm dấu OK và nói:
– Okay.
Không phải ở Huế không có bán bánh của người Hoa, cũng có nhiều chứ, nhưng theo cảm nhận của Võ Kiến Hữu thì bánh ở đây ngó bộ làm đẹp mắt và phong phú hơn.
Anh dốc chút tiền còm mua cho mình và anh bạn đường mỗi người một phần bánh hẹ và một cái bánh ú bá trạng.
– Hữu ăn bánh ú đi.
Tôi kiêng thịt.
– À…!Ủa? Sao nỏ noái tiếng Huế nữa.
– Mỏi mỏ rồi.
Võ Kiến Hữu lại được phen cười bắt đau bụng.
Ăn chưa hết nửa cái bánh ú là hai người đã tới nhà thờ Tin Lành.
Chiếc xe gắn máy phân khối lớn đậu đại dưới lòng đường, cặp sát mé vỉa hè.
Men theo lối nghĩa trang buồn rượi, họ tới nhà nguyện cổ kính đang sáng đèn và ồn ào như ong vỡ tổ.
Giảng viên Giáo lý của buổi tối hôm nay là Võ Kiến Tường và Dương Thoại Khanh.
– Ôi chu choa mạ ơi…!Răng mà hấn giống bác Ba như in.
Nom hấn đằm đẹ quá, may mô hấn không giống tánh tình bác Ba.
Cưỡng đằng hắng một tiếng, rồi khoai thai bước vào lớp học Dự Tòng của Hội Thánh Tin Lành.
– Ủa Cưỡng? Tới đây chi?
– Có người tự xưng là họ hàng với anh, tên ảnh là Võ Kiến Hữu, lên đây vì lộn xộn cải táng mồ mả chi đó.
Võ Kiến Tường cau mày, rồi bỏ viên phấn trắng lên khay đựng của tấm bảng đen và đi theo Cưỡng.
Đám học trò nhao nhao đứng dậy coi Thầy đang đi đâu, Bảy Khanh phải gõ gõ cây thước lên bảng đen mấy bận, chúng mới nín khe ngồi xuống.
– Dạ thưa anh là ai?
– Tôi là Võ Kiến Hữu, là dòng chánh của nhà họ Võ.
– Tôi là Võ Kiến Tường, trong dòng họ tôi cũng phân con trai trưởng của người nam sẽ lót chữ “Kiến”.
– Vậy con trai thứ sẽ lấy chữ gì?
– Chữ “Thiết”.
Dòng thứ Ba là “Sơn” và dòng Út là “Hà”.
– “Kiết Thiết Sơn Hà”, là bên nam.
– “Giang San Cẩm Tú”, là bên nữ.
Hai bên mở bừng mắt mà nhìn nhau rưng rưng lệ.
– Em Tường.
– Em đây, anh Hữu.
Vì đang còn giờ dạy nên Kiến Tường biểu Kiến Hữu ngồi đợi mình ở sân trong với Cưỡng.
Học theo vua Minh Mạng, nhà Nho nghèo họ Võ cũng bắt chước chia phả hệ theo chữ lót, nhưng sợ gặp rắc rối nên chỉ lấy đơn giản theo hai câu “Kiến Thiết Sơn Hà – Giang San Cẩm Tú”.
Con trai, cháu trai, chắt trai, chút trai, chít trai,…!của trưởng nam sẽ lót chữ “Kiến”, còn dòng giống của thứ nam sẽ lấy chữ “Thiết”, cứ tính vậy mà làm tới…!Và bên nữ cũng vậy.
Nhưng cái gì cũng có ngoại lệ: Nếu con gái theo họ chồng thì sẽ được tùy ý đặt tên; thành thử các con gái của cụ chẳng thể đặt chữ lót theo ý muốn của cha mình.
Có người hỏi cắc cớ, “Nếu nhà Nho này đẻ thêm thằng cu hay nhỏ gái thứ năm thì sao?”, thì sẽ lấy theo câu “Tề Quốc An Bang” và “Tâm Như Nhật Nguyệt”; song trường hợp này không xảy ra vì phu nhân của cụ đã “hết vốn”, đâm ra cụ đành gác lại ý định trên.
Ông sờ của hai anh em họ Võ được bà sờ cho năm đứa con: Hai trai, Ba gái; do đó hai chữ “Sơn Hà” và một chữ “Tú” chưa có đất dụng võ.
Tới tận bây giờ, tông tộc vẫn còn áp dụng cách lót chữ của ông sờ Nho Gia.
Xin nói thêm, nếu trưởng tộc đời này có hơn bốn đứa thì sẽ phá lệ đặt cho đứa thứ năm trở đi theo biểu mẫu “Tề Quốc An Bang” và “Tâm Như Nhật Nguyệt”.
Võ Kiến Tường mời anh họ và Cưỡng đi ăn hủ tíu chay ở xóm Chùa, nằm cách đây hai dãy phố.
Cưỡng làm mệt nên gởi chiếc xe gắn máy ở sân trong, còn bản thân thì đi quá giang chiếc xe hơi bảy chỗ hiệu Toyota – Highlander của chàng Mục sư Thần Kinh.
Dương Thoại Khanh không đi cùng vì muốn về nhà ăn cơm với gia đình.
– Em gái của anh là Võ Giang Mỹ Hòa.
Võ Kiến Tường tức cười:
– Ông sờ chơi chi ác rứa.
Con cháu mần răng đặt tên cho xuôi hỉ?
– Ừ, bắt nhức óc luôn.
Hãy còn cách quán ăn đó một đỗi mà ba người đã thấy dòng người đứng xếp hàng dài thườn thượt trên vỉa hè.
Hỏi ra mới hay quán này bán kiểu vừa bán vừa cho và ăn bao bụng nên dân lao động nghèo kéo tới đây rất đông.
– Chúa ôi, đông vậy chừng nào mới có chỗ anh?
Võ Kiến Tường chỉ tay vô con hẻm leo lét ánh đèn đêm, rồi cười nói:
– Mình vô đây ăn nè.
Té ra quán này chia làm hai phần: Một bên từ thiện và một bên cúng dường; khách ăn bên cúng dường trả tiền bằng giá với những nơi khác, nhưng được cái nhiều hơn mà thôi, tiền lời của bên này sẽ đem mua nhang đèn, trái cây, đồ cúng và nhu yếu phẩm cho Tăng sĩ của ngôi chùa gần đây.
Do cái xe bự chảng nên Võ Kiến Tường phải đậu nhờ trong sân chùa.
Đây đâu phải là chùa Bà Đanh mà vắng chi lạ, các Tăng sĩ chẳng thấy đâu cả, không gian im lìm mà rờn rợn sao đó.
– Đậu đay được không Tường? – Võ Kiến Hữu e dè hỏi.
– Chắc được…
– Thôi, anh vốn là cư sĩ tại gia, đã từng tu ở chùa Huệ Đăng ngoài nớ, để anh vô thưa vài lời cho đỡ phiền lòng đôi bên.
Men theo hàng cây bồ đề già cỗi, Võ Kiến Hữu tìm thấy một chú tiểu má phúng phính rất dễ thương.
Sa-di hứa sẽ nói lại với Trụ Trì, anh nghe vậy yên tâm quay trở ra.
Diện tích của gian “Cúng dường” nhỏ gấp đôi gian “Từ thiện”, thực khách lèo tèo vài mống, ba người tha hồ chọn bàn theo sở thích.
Theo ý của Cưỡng, họ ngồi cái bàn nằm sát hàng ba của quán, từ đây có thể nhìn ra con hẻm u tịch.
Sau khi bưng cho họ ba tô hủ tíu chay và ba dĩa hoành thánh chiên giòn rụm, vị Cận Sư – Nữ đó kéo ghế ngồi ở cái bàn đối diện mà cất giọng bắt chuyện với họ; đôi bên ngăn cách nhau bởi cái bàn hình chữ nhật kê ngang:
– Mới cúng chùa cái sột, lát ăn xong nếu thích mấy cậu cứ việc lại quầy lấy đồ ngọt ăn tráng miệng tự nhiên nghen?
Vốn hảo ngọt, Võ Kiến Hữu vồn vã hỏi:
– Dạ, có món chi hả Cô?
Thiện Năng bấm đốt ngón tay nhẩm tính:
– À, chè trôi nước, bánh bò bông, bánh thuẫn, bánh tổ, bánh mật mía,…!Hì, tôi chỉ nhớ được mấy món đó thôi.
Nếu muốn ăn chè nóng thì lại nồi múc, còn muốn ăn chè lạnh thì lại tủ mát mà lấy.
Nhân đó Võ Kiến Hữu mới kể về cuộc gặp gỡ với chú tiểu ở ngôi chùa đìu hiu, quạnh quẽ.
Thiện Năng thở dài:
– Nó là con ruột của thằng khứa Trụ Trì giả đó.
Thấy khuôn mặt kinh ngạc của ba người khách, Thiện Năng nở nụ cười méo xẹo:
– Tay đó vốn dĩ là một tên cường hào ác bá do sợ bị tử hình nên đã lẹ làng xuất gia trước khi bị khui ra.
Trụ Trì thật bị cưỡng ép nhượng chùa nên phải lên Cô Tô ẩn tu.
Một số người ở xa không biết nên đã tới đây Quy Y, để rồi bị hại te tua.
Rồi bà nói thêm:
– Đại đệ tử của Thầy tên là Thanh Liên, là người mà Tỳ-Kheo Châu Lợi phải gọi bằng Đại Trưởng lão mặc dù Thầy Liên chỉ mới bốn mươi mấy, còn Thầy Lợi đã gần bảy mươi.
Cưỡng phì cười:
– Sao kỳ vậy Cô?
– Trong Theravada, tiếng Trưởng lão không dành cho ai lớn tuổi mà là dành cho người trí huệ và đức hạnh đủ đầy.
Thí dụ như tôn giả La Hầu La chưa quá mười lăm tuổi mà đã được tôn xưng là bậc Trưởng lão đó thôi.
Võ Kiến Hữu đã ăn xong tô hủ tíu chay, anh lại quầy múc chè xôi nước.
– O cho con xin cái đoại.
Cưỡng nhanh miệng trả lời:
– Cô cho ảnh xin cái tô.
Về tới Giáo xứ thì đã hơn mười một giờ đêm, cũng bởi Cưỡng rủ hai anh em họ ra sân băng bên Quận Nhì để chơi trượt patin.
Anh đang có chuyện buồn trong lòng nên muốn ra ngoài vui chơi giải khuây.
Bác Hai vốn sẵn không thích Võ Kiến Tường nên chỉ gật đầu chào một cái rồi lầm lũi đi thẳng lên lầu.
Năm Tường bèn cùng anh họ đi một hơi xuống nhà riêng.
– Sau khi o Ba Thoa làm đám với Út Nhót rồi, em sẽ mướn nhà ở riêng, nhường chỗ nì cho họ.
– Hình như bác Hai nỏ có ưa yêm.
– E mô rứa đó…
Đoạn Năm Tường hối anh họ mau đi tắm kẻo trúng gió thì khốn.
Trong lúc đợi anh họ tắm gội, Năm Tường ra ngoài mua cho ảnh cái bi-kê.
Trai tráng trong xứ vẫn còn đứng gác, nhưng những nơi sáng đèn thật hiếm hoi.
Công quỹ của xóm đã bị Cha Thành giả mạo cùng đồng bọn bòn rút rất nhiều, dẫn tới việc quang cảng nơi đây kém sắc và không được an toàn.
Tiệm tạp hóa nằm ở khu Tây giờ này vẫn còn sáng đèn, ngoại vừa trông coi quán vừa thêu tranh chữ Thập.
Cháu gái của bà đang ngồi làm việc trên máy vi tính để bàn, cô mặc bộ pyjama dài tay màu hồng in hình Hello Kitty và mang đôi dép bông gắn đầu thỏ nhồi bông màu trắng thật dễ thương.
Còn con gái của ngoại đang ngồi tính sổ sách dưới sàn nhà lót gạch men trắng sứ, thấy có khách vô thì lật đật đứng dậy tiếp khách.
– Cha Cường sao rồi ngoại?
Ngoại cười móm mém:
– Trán Cha Cường y chang đầu cá La Hán.
– Trời, rồi có đi chụp CT hay kiểm tra tổng quát hôn?
– Rồi, chụp MRI luôn.
Hộp sọ được “vẹn toàn lãnh thổ”, không bị xơ múi miếng nào.
Thím Ba cười hỏi:
– Con mua gì Tường?
– Dạ, lấy cho con nửa ký mè láo, mè xửng với mứt mãng cầu.
Với cái hộp quẹt.
Nói vậy là thím Ba hiểu rồi.
Thím với tay lấy cái vá inox xúc mỗi thứ một ít vô cái bịch nylon, rồi bỏ lên cái cân coi đã đủ chưa.
– Nhà có khách hả Thầy?
– Dạ, bữa ni có anh họ lên chơi.
Tuy không hiểu anh Hữu xài bi-kê mần chi, nhưng Năm Tường vẫn mua giùm hai cái.
Sẵn đường, anh ghé vô ký túc xá để thăm Ignacio Cường.
Cha Cường đang ngồi dựa lưng vào tường trên giường bịnh của trạm Y Tế.
Cha Thành đang lăn hột gà trên trán anh để mau hết bầm.
Còn Antonio Vũ đang nêm lại nồi cháo chay trên cái bếp điện tử.
Nhác thấy mặt Năm Tường, Cha Thành mời anh ăn tô cháo chay.
Anh cười xòa dủ rằng mình mới ra ngoài ăn với Cưỡng và anh họ Kiến Hữu cái sột, nên hết chỗ chứa rồi.
Trước lúc tạ từ, anh gởi biếu một ký mận đỏ An Phước và mận da người Gò Công.
Trong khi đó, Võ Kiến Hữu ra ngoài sân ngồi ngắm sao chơi.
Lũy tre rậm rạp phần nào cho anh được khoảng trời riêng tư và không sợ bị gia chủ dòm ngó.
Cái chõng tre được đóng khá chắc chắn, các mối mọng ăn khớp nhau nên không phát ra tiếng kêu chói tai; tiếc rằng chủ đất là người dưng nên anh không thể thoải mái kê gối nằm ngủ.
– Tường hả con?
– Dạ không, con là Hữu.
Ông Sáu Giàu chưng hửng, rồi đi cà nhắc lại coi.
Nhìn cấu trúc gương mặt là một kẻ từng sống đời thương hồ như ông biết liền đây là dân Trung Kỳ.
Nhưng ông chưa rõ người này ở chỗ mô.
– Con ở đâu lại vậy?
– Dạ, con ở Huế mới vô, thưa ôn.
– Con nói tiếng Nam rành hôn?
– Mần răng mà rành ôn.
– Vậy thôi chừng nào Tường về thì hai ông cháu mình nói chuyện hén?
Võ Kiến Hữu cười ngất.
Rồi gật đầu nói:
– Ôn noái răng thì con nghe rứa.
– Ờ, con nói thì chưa chắc ông hiểu đâu.
– Dạ, không phải, ý của con là…
– Ảnh nói, “Ông nói sao thì con nghe vậy”, đó mà.
– Trời!
Năm Tường đặt bịch quà ngọt lên giữa hai đùa anh họ, rồi hỏi:
– Iêng đân ngọt rứa nỏ sợ bị bịnh răng?
Võ Kiến Hữu cười khoe hàm răng vừa đều lại trắng rồi cự lại:
– Yêm thấy chưa?
– Ý yêm là bịnh trong người kìa?
– Ui, nỏ có sợ mô.
Iêng làm túi mắt túi mũi thì mần răng bị mấy bịnh nớ được.
Mua quà gì về cho iêng rứa?
– Mè láo, mè xửng, mứt mãng cầu.
– Đâu mứt mãng cầu đâu? Cho iêng xin một méng đi.
Ông Sáu Giàu ngồi nghe hai anh em hót qua hót lại một hồi, mới mời:
– Có gì ở đây với em họ con nghen Hữu? Ra ngoài mướn nhà làm chi cho tốn tiền.
– Dạ, con cảm ơn ôn.
Nhà ni đại chang mà.
– Phiên dịch.
– Nhà này bự chảng mà.
Ông Sáu Giàu chợt nói một câu không ăn nhập gì:
– Có lẽ tiếng Trung Kỳ quá khó hiểu nên ít còn ai chịu viết theo giọng chôn nhau cắt rốn của họ.
Võ Kiến Hữu cắc cớ hỏi lại:
– Chơ răng rứa tiếng miền Tây – Nam Kỳ lại bị coi là quê mùa hả ôn?
Ông Sáu Giàu trề môi:
– Đám nào nói câu đó là đám “Uống nước sông, vọng nước biển”.
Trước lúc chia tay với hai thằng cháu họ Võ, ông Sáu Giàu phát biểu:
– Ngày xưa văn chương rất đa dạng thể loại và giọng điệu, như bông rộ ngoài vườn vậy, chẳng có thằng nào, chó nào chu cái mỏ lên phán, “Phải chuẩn” hết.
Võ Kiến Hữu theo em họ lên gác ngủ.
Vì nhà nhỏ nên trên đây chỉ trải một tấm nệm mỏng đủ một hai người nằm, nay có anh tới ở nên em họ phải dẹp bớt sách – tập và đồ đạc để trải thêm một tấm nữa.
Đã vậy đêm nay trời lặng gió nên không khí càng oi bức dữ.
– Yêm mua cây quạt nì ở mô rứa?
– Mua hồi còn ở bên Quận Nhì.
Cũng mấy năm rồi iêng.
Cha của Kiến Hữu đã mắc bệnh lão thị, đâm ra xài quạt có cánh nguy hiểm lắm.
Anh tính sẽ mua biếu cha một cây quạt không cánh cho an toàn, nhưng lần lữa hoài mà chưa có dịp đi mua.
…
Trời đổ mưa khi vừa tang tảng sáng.
Tiếng mưa lác đác rơi vọng qua hàng song không khép cửa đánh thức Võ Kiến Hữu.
Vốn có thói quen dậy sớm nên nhân đó anh dậy luôn.
Bên cạnh anh, trên tấm nệm màu xanh bạc hà mát mắt, em họ anh vẫn còn đương ngáy ngủ.
Bởi vậy nên anh phải rón rén trong từng hành động để tránh làm em họ tỉnh giấc.
Anh nhẹ bước xuống cầu thang sau khi đã súc miệng, chải lại tóc tai và tắm rửa – thay đồ.
Bên ngoài trời mưa mỗi lúc một lớn, cũng chẳng khác gì những cơn mưa rỉ rả quanh năm suốt tháng ở Huế.
Tuy vậy bình minh vẫn sáng rỡ như những ngày quang đãng, vầng dương hắt nắng một cách hững hờ xuống đây.
Vừa bật công-tắc để mở đèn cho sáng nhà, anh vừa nhìn ra ngoài cửa sổ vì bị tiếng lá tre rơi lả tả làm cho sanh tâm nghi hoặc có điều chi bất tường ở nớ.
Rồi không chịu được, anh đi một hơi ra ngoải coi.
– Ủa Hữu hả con? Mèn đét ơi, mới bốn giờ rưỡi hà, còn sớm bửng, sao hổng ngủ nữa đi cho khỏe?
Võ Kiến Hữu gãi đầu cười xòa:
– Dạ, con quen dậy sớm rồi ôn.
Ông Sáu Giàu chưa kịp hỏi thêm câu nào thì bác Hai gái gọi ông vô nhà ăn sáng đặng có sức uống thuốc cho đúng cữ.
Ông đành vẫy tay mà nói lời tạm biệt với anh họ cậu Tường trước khi theo con dâu xuống bếp.
Đợi trời ngớt mưa, Võ Kiến Hữu mới đi kiếm gì bỏ bụng.
Chắc ở đây có bán xôi mặn, nếu không có anh sẽ quay về lấy xe mà chạy đi tìm chỗ bán.
Công nhận cái Giáo xứ này đoàn kết thiệt, mưa như vầy mà vẫn mặc áo mưa đứng gác.
Nếu đổ về trước năm 63, ắt hẳn nơi đây sẽ được trao giải “Ấp chiến lược đoàn kết nhứt”.
Vài người không biết mặt Võ Kiến Hữu nên bước lại hỏi han danh tính và chỗ ở của anh, anh điềm đạm trả lời họ mà trong bụng bắt tức cười, hèn chi mà bầy quân nói chốn nì là “khu tự trị”.
Chừng gọi về nhà ông Sáu Giàu xác minh xong, họ mới thả cho đi.
Trước lúc chia tay với đám “Cảnh binh”, Võ Kiến Hữu hỏi họ ở đâu bán xôi, một người trong băng liền mau mắn cho địa chỉ gánh xôi của má cẩu.
Nghe xong, anh khá hối hận vì không chịu xách xe đi, báo hại giờ phải cuốc bộ xụi giò.
Ước gần một tiếng đồng hồ, Võ Kiến Hữu đã tới được gánh xôi của má anh kia, nằm mé tay mặt bậc thềm tam cấp dẫn vô một quán cà-phê đông khách.
Vì thím đang dở tay làm cho mấy khách tới trước nên anh bèn đi mua cà-phê trong lúc đợi vãng.
– Anh ở đâu tới vậy? – Ông chủ quán hỏi dò.
– Dạ, con ở nhà ôn Sáu Giàu với em họ con tên Võ Kiến Tường.
– Mấy ngày?
– Mới qua nay.
Ông chủ quán nghe “Tình báo” mật rằng lý lịch anh trong sạch nên thôi không tra khảo nữa.
Lúc này đây, ông đổi nghiêm làm tươi hỏi:
– Anh uống gì vậy?
– Dạ, một ly cà-phê ít đường, nhiều đá.
Rồi Võ Kiến Hữu ngồi xuống cái ghế đôi kê gần bậc tam cấp để tiện bề đợi xôi.
Thường ngày có thằng con thím ra phụ, nay nó mắc trực nên thím không làm sao xuể.
Giọng hát điệu đàng của Nhật Trường có thể không hợp với khúc ca bi tráng “Đa tạ” của nhạc sĩ Anh Việt Thu, nhưng cũng chưa tới nỗi lạc quẻ và cũng có cái ngồ ngộ riêng.
Bác trình bày trọn bài hơn bản của người bạn đồng nghiệp Duy Khánh.
Ấy vậy mà bài “Kỷ vật cho em” của nhạc sĩ Phạm Duy và thi sĩ kiêm quân nhân Linh Phương lại hợp với giọng bác vô cùng; nói không ngoa chứ còn xuất sắc và truyền cảm hơn phần biểu diễn của người trai đất Bắc Anh Ngọc.
Thím vừa lấy ống tay áo lau mồ hôi nơi vừng trán vừa thở hổn hển mà nói:
– Rồi, con ăn chi thím làm?
– Dạ, xôi mặn hộp lớn, thập cẩm.
– Rồi, có liền.
Soạn sẵn giùm thím hai mươi lăm đồng nghen?
– Dạ.
Ở Cố Đô, Võ Kiến Hữu thường ăn sáng với món xôi thịt hon của một o trong chợ Đông Ba.
Anh hảo ngọt nên hay bị mạ rầy là, “Mi bị con tinh nào nhập mà nết ăn giống con gái rứa?” Lúc bấy chừ, anh chỉ cười rửa đội chớ nỏ có cãi mạ một lời.
Từ đay, anh nhớ ra ông Trịnh Công Sơn có bài “Một cõi đi về”, có một câu viết là “Con tinh yêu thương…!”, sau ni ca sĩ tài lanh sửa lại thành “Con tim yêu thương…” “Con tinh” là tiếng mắng yêu của cha mạ Trung Kỳ dành cho con gái của họ, nó cũng vừa trớ trêu trùng nghĩa với một loài quỷ ma – yêu nghiệt.
Thím bán xôi một tay nhận tiền của Võ Kiến Hữu, một tay đưa hộp xôi cho anh.
Anh tính há miệng xin muỗng, thì đã thấy một cái muỗng nhựa đỏ chét để sẵn bên trong.
– Cha Cường, Cha Cường…!Cha sao rồi Cha? Tôi lo cho Cha quá chèn.
Ignacio Cường chắp tay thưa:
– Dạ, con bớt đau đầu rồi, thưa chú Sáu.
– Trời ơi, nó nỡ lòng nào mà xô Cha té một cái chí mạng.
– Rồi nó làm Samurai luôn.
– Ai mượn mày pha lửng vậy? – Ông chủ quán ký đầu thằng con một cái rõ đau.
Bà chủ quán ân cần hỏi:
– Cha uống chi? Tôi làm cho mà uống.
– Dạ, cho con xin một ly bạc xỉu.
– Cha ăn xôi hôn? Con làm cho Cha một gói?
– Dạ, bữa nay con ăn xôi không vô, thưa thím Ba.
Một bà cụ sốt ruột hỏi:
– Vậy lát con đi mua cho Cha tô cháo lòng nghe?
– Dạ, vậy cũng được, thưa bà Hai.
Stephen Mỹ vừa hay có mặt.
Rồi tới Henrico Thạnh.
Hai người mặc áo dòng, vóc dáng tràn trạc nhau nên ngó không kỹ tưởng đâu anh em ruột thịt.
– A, Cha Mỹ, Cha Thạnh, uống gì hôn tôi làm?
Hai ông Cha đều xin cà-phê.
Tính mạng của Anton Nhân vẫn chưa được tiết lộ nên chẳng ai biết cẩu còn sống hay đã chết.
Gia đình của cẩu có tới gặp Cha Thành và mong sẽ được thay mặt con trai mà cúi đầu tạ tội thay nó; Cha Thành không những chẳng trách mà còn dỗ ngọt gia đình đang lâm vào cảnh khốn cùng ấy.
Năm Tường cất tiếng chào Võ Kiến Hữu.
Em họ Kiến Hữu mặc trang phục điều dưỡng viên và đi giày không trơn, quải ba-lô vải không thấm ướt nơi vai trái.
– Tọa họa hết hả Tường?
Năm Tường nhỏ giọng nói:
– Chuyện tuế toái thôi mà.
– Nom bộ mấy iêng kia xách néc a rứa.
– Họ lo quá nên noái hơi xúc óc chút.
Rồi Năm Tường mời anh họ tới thăm viện dưỡng lão mình đương làm, nhưng anh ta từ chối và hẹn chiều nay hai đứa sẽ ra coi nơi chôn cất vợ chồng chú Ba và vợ chồng cụ (cậu) Hai.
– Dạ, vậy khoảng sáu giờ em rước anh hén?
– Ôi chu choa mạ ơi, răng trễ gớm?
– Dạ, nếu như không bị kẹt xe thì khoảng đâu năm giờ.
– Thôi, để iêng ra một chắc rứa.
– Biết đường hôn đó?
– Iêng sẽ nhờ Cưỡng chở giùm.
Có gì iêng đãi cụ một bữa bao bụng.
Nghe được đãi ăn bao bụng, Cưỡng liền chở Võ Kiến Hữu lên nhà thờ Tin Lành.
– Iêng không đân được thịt thì tính đân chi?
– Ăn bún Thái.
Ở trong chợ Bến Thành có chỗ này bán ngon lắm.
– Mỗi bựa iêng đân bao nhiêu?
– Sức ăn của tôi bằng bốn người.
– Anh yên tâm đi…!Vô Mùa Chay rồi, tôi chỉ ăn bằng sức một người mà thôi.
– Là mấy đoại?
– Hai.
Mười Anh đang ngồi chăm sóc những luống hồng nhung đỏ thẫm trồng trong bồn bông ôm lấy hàng ba của nhà nguyện.
Judas vẫn chưa về, nghe đâu anh ta sang Mỹ để lo một vụ kiện tụng của người bạn thiết.
Từ chuyện này y nhớ tới tấm bằng bác sĩ Tâm Lý bị bỏ xó nơi hộc tủ, mãi lo cho Hội Thánh nên y không có thời giờ hành nghề.
– Thầy ơi!
– Dạ?
Cưỡng niềm nở giới thiệu anh họ của Mục sư Võ Kiến Tường, rồi nói vắn tắt về nguyên cớ nào đã đưa ảnh tới đây.
– Thì ra là anh của anh Năm.
Để em đưa anh ra khu mộ của nhà ảnh.
Sau khi biết được em họ cải táng mồ mả theo nghi thức Kitô Giáo, Võ Kiến Hữu thôi không thắp nhang.
Anh ngồi xổm xuống mà đưa tay sờ lên từng bia mộ một, lòng thầm khen em họ mình có mắt thẩm mỹ.
– Cũng sắp trưa rồi, hai người có tính đi đâu ăn không?
– Ảnh định dẫn tôi đi ăn bún Thái bao bụng.
– Vậy tụi mình đi chung nghen? Có gì tôi phụ trả tiền ăn của anh Cưỡng nghen anh Hữu?
– Được rứa thì mừng quá.
– Hình như tiếng Huế của anh nặng hơn anh Năm hỉ?
– Vâng, tôi ít đi Ta-bà thế giới lắm, chỉ queng quẩn Nội Thành thôi.
Để tiện bề hàn huyên tâm sự, Mười Anh kêu taxi Uber năm chỗ ngồi.
Đợi đâu hai chục phút, một chiếc xe Honda Civic RS màu xanh ngọc “cập bến”.
Tài-xế là một người trai mặc đồ kiểu công sở, từ đầu tới chân sực nức dầu thơm, coi bộ điệu đàng và nữ tính lắm.
– Dạ, mấy anh chờ tôi lâu hôn?
Bảy Khanh tưởng đâu Tám Khiêm đi làm về nên chạy ra đón.
– Chời ôi, ai mà mặt mũi dễ cưng dữ thần vậy?
Cưỡng, Kiến Hữu và Mười Anh thi nhau cười lớn.
Bảy Khanh ngớ người nhìn chàng tài-xế mới vừa khen mình cái sột.
Rồi cũng tủm tỉm cười chào lơi một tiếng.
Có lẽ biết mình hơi làm quá, chàng tài-xế giả lả hỏi:
– Ủa đây là Tin Lành hay Công Giáo? Mà sao có gác chuông với áo dòng?
– Hội Thánh Tin Lành Lutheran.
– Nói xong, Bảy Khanh chỉ tay lên tấm bảng treo ở nhà nguyện.
– À…
Mười Anh giục chàng tài-xế mau khởi hành.
Càng về trưa, đô thành càng thêm ồn ã và tấp nập xe cộ̣ qua lại.
Đất đai đã bị dành hết cho bất động sản nên đường sá trở nên quá nhỏ so với quy chuẩn cần thiết cho một đại phố.
Nghĩ mà phục cho giới lái xe, đường vậy chạy sao cho khỏi đụng và va quẹt.
Bóng mát đã đi vào thi ca, nhạc họa, văn chương đã bị đốn hạ gần sạch, chẳng còn nhiều nữa những “Con đường có lá me bay”, “Hai hàng me trên đường Gia Long” hay “Con đường Duy Tân, cây dài bóng mát”; đời chợt khô hắt, héo hon buồn.
Không có nhiều hãng – xưởng hay văn phòng để làm, người dân bèn mở hàng ăn uống để mưu sinh, riết người bán còn đông đảo hơn người mua.
Chàng tài-xế mở bài “Vẫn tin mình có nhau” do song ca Quang Vinh – Bảo Thy trình bày, không rõ ai đặt lời Việt từ ca khúc tiếng Hoa “Ai de zhu xuan lu (Giai điệu chính của Tình Yêu)” của nhạc sĩ Trang Vân Cảnh.
Rồi cười buồn hỏi:
– Một thời Audition của tôi, mấy anh có vậy không?
Chỉ có Mười Anh gật đầu và trả lời, “Có.”
– Tôi đã ra đường ở sau khi công khai xu hướng tính dục của mình…!
Sau hơn một tiếng cà rà cà rề, nguyên nhóm đã tới được quán ăn yêu thích của Cưỡng.
Giờ này quán đã kín bàn, người tánh nóng có nước đợi mua về ăn chứ đứng chờ bàn không nổi đâu.
Ngó vô quầy hàng, từ bà chủ tới người giúp việc mặt mày đều đỏ ửng như Quan Ông; thau bún tươi bự như cái nia vậy mà chỉ còn lưng lửng, còn nước lèo thì đã thay mới lần thứ ba.
Từ bên kia đường, nơi sạp vải loe ngoe vài mống khách, giọng ca của Giao Linh trong bài “Cung buồn tháng Hạ” do nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng sáng tác, trong tình khúc này ba bác ký tên là Lê Dinh – Tôn Nữ Thụy Khương, vang lên não nề như tiếng khóc của người chinh phụ; đôi nhạc sĩ Hoàng Trang – Thanh Sơn cũng có một bản nhạc mang tựa đề y chang bài này, trước năm 75 có Giáng Thu trình bày rất mùi mẫn, sau này thì có Hương Lan:
“Nghe Hè về sao thêm đắng cay
Hè xưa người đã bỏ quê này
Rượu nồng pháo đỏ ai đưa tiễn
Xóa đi kỷ niệm còn đây
Cho tình tan như lá bay…”
Chừng chân sắp nhũn ra, nhân viên mới a lại và mời nguyên nhóm vô trong ngồi.
Cậu trai ấy sắp cho họ ngồi ở cái bàn sát cái cầu thang dẫn lên lầu; dưới chân cầu thang lắp một cánh cửa lưới sắt đã đổ màu cũ mèm.
Chỉ có Mười Anh và Cưỡng ăn bún Thái, còn Võ Kiến Hữu ăn bún măng vịt và chàng tài-xế tên Thịnh ăn bún mắm – heo quay Sóc Trăng; về đồ uống, mỗi người kêu theo sở thích nên không ai giống ai.
– Chỗ này bán ngon, nếu quởn chắc mai tôi sẽ ra ăn thử bún nước lèo Trà Vinh.
– Thịnh vừa với tay rút giấy lau miệng vừa bình phẩm.
Một phần vì nhìn thấy nét mặt hối thúc của đám nhân viên, phần vì muốn kịp giờ ghé Nguyễn Tri Phương ăn chè Thái nên bốn người kêu tính tiền rồi lên xe mà khởi hành sang Quận Mười.
Võ Kiến Hữu yêu cầu bài “Hương Giang còn tôi chờ” của nhạc sĩ Châu Kỳ với phần trình diễn của Hà Thanh.
Thịnh cười khổ:
– Tiếng Huế anh nặng dữ.
Anh nói mà tôi ráng nghe muốn chết.
Võ Kiến Hữu gãi đầu cười bẽn lẽn.
Rồi nói nhỏ rí:
– Tôi noái răng đặng những chữ trong ni.
Thịnh biết nếu dây dưa một hồi thì thể nào đôi bên cũng bị mích lòng nên đánh trống lảng:
– Mấy anh có biết cái “Khu tự trị” St.
Pio có chuyện chi mà hôm qua xe cảnh sát, xe cứu thương và xe cứu hỏa ra vô như chạy giặc không?
Cưỡng hấp háy mắt với anh bạn Thần Kinh, ra hiệu anh ta hãy giữ kín miệng.
Võ Kiến Hữu sáng dạ hiểu liền nên giả lơ không biết.
– Có lẽ là người già nào bị cao máu nên lên tăng-xông chăng? – Mười Anh nêu ý kiến.
– Vô lý! Nếu vậy xe cứu thương với xe cảnh sát là đủ rồi, chơi thêm xe cứu hỏa làm chi?
Rồi Thịnh bồi thêm:
– Cái xóm Đạo đó kỳ lắm nghen…!Có lần tôi gặp cái ông…!Ổng tên gì quên rồi? À, Mỹ! Nhớ ra rồi! Ổng đi vô cái xóm mà bà chị họ tôi đang ở, rồi cứ đứng nhìn lom lom lên căn gác nhà bà…!Bà gì ta? Thôi, cứ tạm kêu bả là bà bán hột vịt lộn đi…!Rồi cái ổng cứ ngó hoài, chừng nhỏ cháu của bả mở cổng dắt xe đi học ổng mới lên xe ra về…!Nhìn mặt mũi đã đáng sợ, mà còn làm hành động đáng nghi, hỏi sao người ta không cảm thấy tinh thần ổng có điều chi bất thường chứ?
Vụ này Cưỡng không có biết à nghen.
Cha Mỹ nào giờ đều được lòng Giáo dân trong xứ, còn mất lòng người ngoài ra sao thì anh không có đi rình mò nên không biết.
Người trai đó biểu:
– Đâu, anh chở tôi tới cái xóm đó coi thử coi.
– Mua chè xong đã nha? Cho tiện đường đó mà…
– Ờ, vậy cũng được.
Cái xóm đó nằm ở Quận Tám, những dãy nhà lúp xúp chạy dọc theo bờ sông Sài Gòn và một phần đất “nửa quê nửa phố”, bà con nơi đây giắt túi đủ thứ nghề để mưu sinh và lo liệu cho tương lai của con cháu.
Chiếc xe hạng khá của Thịnh đã gây ra một sự chú ý với đám trẻ con nghèo nơi đây, chúng hò nhau chạy theo xe anh mà la lối um trời dậy đất.
Gần tới đó, Thịnh cho xe chạy chậm thật chậm, mặc cho lũ trẻ sắp bám được chiếc xe.
– Đó! Cái nhà có cái gác lửng đó đó, trên có giàn bông giấy hồng rực…!Còn ổng đứng chỗ đó đó, dựng xe kế bên mé tay trái hàng rào sắt này nè, cái xe “Piaggio” của ổng màu ghi xám tôi nhớ mà.
Một cô gái mặc đồ mát bất thần đứng trên ban-công của gác lửng.
Cô có mái tóc dài thượt, đen nhánh như quết mực tàu lên trển, sắc mặt u uẩn khôn cùng.
– Quỷ sứ hà…!Làm chị mày hết hồn hết vía…!
Mười Anh cũng bị một phen đau tim trước sự hiện hình bất thình lình của cô gái xa lạ.
Cưỡng pha lửng:
– Ban ngày ban mặt chắc không có ma đâu há?
– Con tinh hỉ?
– Khùng, tinh đâu mà tinh, có lẽ cổ mới gội đầu cái sột nên đứng hong tóc thôi.
– Tự nhiên tôi thấy răng răng gớm.
Mười Anh khều Thịnh:
– Chạy đi Thịnh.
Đứng đây coi chừng bị hốt lên đồn hết cả lũ.
– Anh noái đúng á Thịnh.
Mình dzọt lẹ đi.
– Ờ, ờ…
Mãi tới hai chiều, ba người mới về lại nhà thờ Tin Lành.
Tiền cước taxi cao như đỉnh Thái, cầm hóa đơn mà tợ hồ gánh cả giang san Đại Việt, người nào người nấy nuốt lệ hùn tiền vô trả.
– Mấy anh thông cảm, giá xăng cao quá nên…
– “Thôi, thôi anh đừng nhắc nữa làm gì…” – Cưỡng hát mà như rên.
Trong lúc Thịnh đang tiu nghỉu vì tưởng đâu không có tiền boa, Ba Đức bước ra từ sân trong và thoăn thoắt tiến đến chỗ đậu xe của anh ta.
Sau một vài câu chào hỏi xã giao, Ba Đức mở bóp lấy tiền boa cho Thịnh.
Biết gặp trai đẹp là Thịnh đã ứ thèm ăn bún mắm rồi, ăn vô chi giờ phải nhai kẹo cao su gần chết.
Chở Võ Kiến Hữu về Giáo xứ xong, Cưỡng quành xe chạy tới một ngôi trường Tiểu Học ở bên Quận Nhì để gặp một người bằng hữu.
Bao nhiêu tiền mần vườn hôm qua bữa nay cúng hết cho tiền xăng và tiền cước taxi.
Ngôi trường đó nằm khuất sau mấy căn nhà dân có sân vườn biệt lập.
Đường vô trường uốn lượn theo hình thể những căn nhà ấy; hai bên đường trồng rặt cây hoàng điệp, mỗi độ hoa nở nhuộm vàng cả lối đi.
Cưỡng vừa dắt xe vừa hít căng lồng ngực hương tuổi thơ mà anh đã mất từ dạo trưởng thành.
Giờ này chắc các em đang học hoặc đang ngồi ngáp ngắn ngáp dài như lên đồng; anh phì cười khi nhớ lại cái lần mình ngủ gục ngon lành trong lớp, rồi ngậm ngùi nhớ ra rằng mình không còn cơ hội trải qua cảm giác đó một lần nào nữa.
“Tiếng hát đại trượng phu” Anh Ngọc trong bài “Sài Gòn nhớ, Sài Gòn thương” của nhạc sĩ Thanh Trang vọng ra từ một ô cửa sổ của căn nhà ven đường:
“…!Tôi đi trên đường phố Sài Gòn
Ngày hôm nay như một vùng chiếm đóng
Em yêu ơi, đường phố Sài Gòn
Ngày hôm nay tuy mọi người vẫn sống
Mà lòng vẫn thầm mong sáng tươi lên một ngày
Khi mà tiếng hát từ giọng cười, con tim
Lên nở thắm trên môi…”
Phượng đã lác đác nở trên những tàng cây già cỗi.
Ve sầu vẫn chưa thấy đâu.
Lưu bút ngày xanh đã thôi chuyền qua chuyền lại và dấm dúi trong cặp của bọn học trò.
Cổng trường màu xanh nước biển đóng chặt im lìm; bác bảo vệ đang ngồi đọc báo trong bốt trực, chắc chỉ cần la lớn lên là bác sẽ nghe thấy.
Sợ làm phiền đến người khác, Cưỡng gọi điện thoại cho bằng hữu ra rước.
Dè đâu nhà của chàng ta nằm sát vách trường học, là căn cuối cùng mé bên tay trái đây mà.
Tường rào là luống cây bông bụp cao chừng mét rưỡi.
Còn cổng rào là phên tre đã qua công đoạn ngâm dầu hôi nên không sợ bị hư hại do mối mọt ăn hay thời tiết, phía bên trên lắp giàn hoa giấy giống Cẩm Thạch vô cùng rực rỡ và xinh tốt.
Đứng từ ngoài dòm vô, thì thấy đây là kiểu nhà chữ Đinh có mái ngói Âm – Dương màu cam gạch tôm, hai bên hông nhà trưng bày một vài chậu kiểng và xây bồn bông dán gạch kiểu rất đẹp.
Phía trong cổng rào, nằm ở mé trái, một cây mai đại thụ đứng vươn cành che mát một khoảng sân trước, thời thế đổi thay nên vòng quanh thân nó quàng hai, ba vòng xích sắt dày cui để ngừa trộm bứng gốc.
Chợt có tiếng dép loẹt xoẹt vọng ra từ nhà dưới.
Rồi một người thanh niên mặc quần đùi quân đội, áo thun ba-lỗ trắng, trên vai vắt cái khăn tắm ướt sũng, cầm chìa khóa mà bước ra mở cổng rước bạn vô nhà chơi.
– Mẹ, mày nói ở trường học, làm tao tưởng ở trong này…
Vừa tra chìa vô ổ khóa, Huy vừa nhếch miệng cười và biểu:
– Tại mày ngu thôi con…!Thôi, vô nhà chơi với tao, hổm rày bặt tin mày, tưởng đâu mày có ghệ rồi lơ tao chớ…
Không biết nghĩ gì mà thằng bạn của Cưỡng lại mua căn nhà ở tuốt trong hóc bò tó như vầy.
Không bán buôn được, lại buồn thỉu buồn thiu.
Gặp lúc nghỉ hè thì càng hiu quạnh tợn.
– Tu rồi hay sao mà phải ra đây ở vậy?
– Tao mà tu con gái trong thiên hạ buồn lắm…!Mày tém cái mỏ lên cho tao! Gì đâu mà trề môi khinh bỉ tao dữ.
Men theo lối đi lót đá nhám giảm trơn, Cưỡng được dịp ngắm hai vồng hoa sao nháy nở rộ khoe muôn sắc.
Tuy vậy anh không mấy thích vì vồng hoa hơi cao, nếu sau này có con thì phải dẹp bỏ để bảo đảm an toàn cho xấp nhỏ, như vậy lại uổng công chăm sóc vồng hoa hằng bao lâu nay.
– Cái “Khu tự trị” của mày sao rồi?
Cưỡng ngớ người, rồi “À” lên một tiếng và cười xòa trước khi mở miệng trả lời:
– Y như nồi cám heo.
Đang yên ổn bỗng dưng can qua ập tới.
– Tổng thống mà dẫn xác tới thì chắc mày và bà con Giáo dân cũng xúm lại đuổi ra phải hôn?
– Ừ.
Kế, Huy mời Cưỡng ngồi nghỉ chân ở bộ bàn ghế bằng đá hoa cương kê dưới gốc cây xoài Cát Hòa Lộc.
Sắp vô mùa xoài rồi, có lẽ năm nay lũ chim trời bớt phần ăn vì sự có mặt của Cưỡng.
Nhìn xoài lại chạnh nhớ Mỹ Tho, vùng đất con con nằm dịu hiền bên bờ sông Tiền quanh năm ôm ấp phù sa.
Nhà bên lại mở ca khúc do Anh Ngọc trình bày, lần này là bản “Giọt lệ cho ngàn sau” của nhạc sĩ Từ Công Phụng.
Đây là một trong những bài hát mà phái nữ phần đông biểu diễn không hay bằng phái nam, vì nội dung dựa trên chính chuyện tình của tác giả nên phái nam sẽ truyền tải được tâm sự và nỗi buồn tốt hơn.
– Tìm đâu ra giọng Bắc như vầy ở thời nay hả mày? – Cưỡng cười hỏi thằng bạn thiết.
– Ừm, ông Anh Ngọc ca bài “Tôi ru em ngủ” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nghe đã dữ lắm, không bị bi lụy quá trớn như một vài ca sĩ cùng thời.
Rồi Huy rủ Cưỡng vô phòng khách chơi game Nintendo mà anh ta mới mua tuần trước.
Chiều nay Huy sẽ giữ Cưỡng lại để hai đứa nấu ăn đãi mấy thằng chiến hữu sống trong nội thành.
oOo
Hác Đăng Khánh đã phái người tìm tung tích của con rể chị Mai.
Chú đã cho xét nghiệm ADN ngón tay đó với con cái của anh ta thì thấy không trùng khớp, nên đã nhờ giới cảnh sát thân tín báo lại cho gia đình con chỉ hay để họ bớt lo.
oOo
Nơi đỉnh núi Cô Tô diễm tuyệt, Thanh Liên đang ngồi xếp bằng mà ưu tư ngẫm chuyện đời.
Chú rất hiếm khi khất thực, thường ngày hái trái cây rừng ăn cầm hơi mà sống, thành ra dáng người mảnh mai, yểu điệu như con gái.
Từ độ má của trò Thảo lên thăm, bữa trưa của chú đổi thành bánh, ngọt – mặn đủ hết.
Hỷ Tín chưa có vẻ thành tâm hối cải dù đã được trả giùm món nợ một trăm rưỡi.
Song không ai phiền trách vì đã thuộc nằm lòng câu “Giang sơn dễ đổi, bản tánh khó dời”.
– Sadhu.
– À, Lợi hả, gặp tôi có chuyện chi?
– Tôi muốn mời Thầy dùng bữa cơm mặn với huynh đệ tôi.
– Lành thay…!Hỷ Tín sao rồi?
– Chẳng khác gì lúc trước.
– Khác chớ.
Lúc trước cẩu tuyệt đường hoàn lương, bây giờ có cơ hội sống ngay thẳng và đức độ.
Rồi thôi không ai nói nữa.
Thanh Liên chậm rãi bước theo sau lưng Châu Lợi.
Bữa cơm trưa có món gà quay chảo, bông lục bình hái ngoài sông đã héo hon đi ít nhiều vì nắng nóng, rau sống, khô cá chỉ vàng nướng giòn và canh chua chay.
Gia đình thí chủ cúng dường ăn chung mâm với nhóm Tăng sĩ Theravada.
Để tránh làm chộn rộn buổi thọ thực của các Tăng sĩ, đôi vợ chồng miệt thứ bắt hai đứa nhỏ im lặng ăn cơm và hứa sẽ thưởng nếu ngoan.
Sau giờ cơm, Phá Vân và Phú Lâm đi rửa chén, còn Hoàng Kỳ và Châu Lợi ra nhà vệ sinh công cộng dọn dẹp và chùi rửa.
Thanh Liên, Trì Thương và Thủy Diệu ở lại tiếp chuyện với đôi vợ chồng miệt thứ.
Người má trẻ măng “tới ngày” nên ru con bằng giọng ca của Hương Lan trong bài “Nhịp võng đong đưa” do nhạc sĩ Bắc Sơn sáng tác.
Cô muốn mượn phòng tắm đặng thay đồ nhưng ngại ngần không dám hỏi.
– Thí chủ đi đi, để tôi ru em ngủ cho.
– Trì Thương mở lời giúp.
– Vậy phiền Thầy quá…
Miệng thì nói vậy, tay cô đã đặt thằng nhỏ vô lòng của người Tăng sĩ có dung nhan thanh nhã.
Rồi ba chân bốn cẳng ôm bộc đồ chạy vô nhà tắm.
Không phải Trì Thương soi mói nên biết chuyện ngặt của cô, mà bởi hồi nhỏ chú cũng đã từng trải qua cái cảnh nhìn má khổ sở khi “tới tháng”.
Đã nghèo, buôn gánh bán bưng ngoài chợ, lại xa nhà bà con thân thích, nên bà đi được một khúc lại ngừng bước ngó đầu lại coi có dây ra quần không.
Cái câu hỏi gây ám ảnh chú nhứt nó như vầy, “Thương – Thảo, hai đứa coi giùm má cái quần…!có bị gì hôn? Thấy phải nói liền nghe chưa? Đặng tao biết đường quành dìa…” Nếu như chú nhớ không lầm thì khoảng đâu mười mấy lần má phải chạy về nhà thay đồ; bữa cơm vào những ngày đó chỉ có mắm sống, ơ kho quẹt, tô canh rau đắng ngắt và trái dưa leo, nhằm khi dưa leo chưa có thì ăn với chuối chát hay chuối chín.
Có đợt bực quá, má chửi, “Mồ tổ cha bây…!Đẻ tụi bây ra chỉ có ông già tụi bây lời, còn tao lỗ sặc máu.
Phải chi tụi bây là con gái thì tao khỏe rồi, dù gì tao với nó cũng hiểu nết nhau nên đâm ra nói chuyện dễ.
Còn tụi bây…!y như nước đổ đầu vịt…!kêu đi mua cái giống ôn gì cũng trật lất hết…”
– Con vợ tôi làm gì mà chạy như ma đuổi vậy?
– Tôi nói ra kỳ lắm nên thôi thí chủ tự hỏi vợ đi.
Ông chồng cười vinh râu:
– À, vụ đó, quên…!Nay nó có lại rồi.
Hai đứa con của đôi vợ chồng nghèo thấy bánh trái ê hề trong tủ lạnh thì thèm thuồng xin.
Thủy Diệu bèn để mặc chúng tùy ý lựa chọn, không quên khuyên rằng ăn hết rồi hãy lấy thêm chứ đừng ham lấy nhiều rồi bỏ mứa mang tội.
Chúng vòng tay hỏi chú ăn loại nào ngon.
Rồi theo sự giới thiệu của vị Tăng sĩ tuyệt sắc, tụi nó ăn thử chocolate “Hersheys” nhân hạt hạnh nhân; ông lại dặn xấp nhỏ không được cười nói trong lúc ăn để tránh bị sặc chết.
Người chồng đang thao thao bất tuyệt về vụ lúa Đông – Xuân, anh ta khoe rằng năm nay trúng bộn, chắc năm sau ra Giêng ăn Tết lớn, sắp nhỏ sẽ được ở căn nhà mướn rộng hơn và ăn mặc xê xang hơn.
Đợi anh ta nói hả hơi xong, Trì Thương mới đề nghị:
– Nếu hôm nào thí chủ mệt, cứ nhờ người lên đây gọi Hoàng Kỳ ra đồng làm giùm.
Đôi mắt của người chồng sáng rực lên như bóng đèn pha xe hơi.
Trì Thương mường tượng lại vóc dáng khôi vĩ của hiền đệ mà phì cười.
Nhớ hồi nào mới gia nhập Tăng đoàn, cà-sa cái nào cũng quá ngắn để đắp lên người Hoàng Kỳ nên Đại Trưởng lão Thanh Liên phải ngồi ráp mấy miếng vải lại với nhau, nhờ đường kim – mũi chỉ khéo léo nên không ai hay biết cà-sa của đệ ấy vá đùm vá đụp như tai lưới rách.
– Dạ, Thầy Kỳ cao nhiêu mét vậy mấy Thầy?
Thanh Liên đáp:
– Hai mét lẻ một.
– Công nhận dân Châu Phi cao ghê!
Người vợ xong việc lại ngồi gần chồng và xin nhận lại đứa Út, song Trì Thương biểu nếu thí chủ mệt thì hãy để bé cho chú lo, vốn dĩ chú đã từng cùng Trưởng lão Như Phong và huynh trưởng nuôi dưỡng Phú Lâm nên rất giàu kinh nghiệm chăm sóc con nít.
– Phật Giáo có chữa bịnh tại thân không mấy Thầy?
Đó là câu hỏi của người chồng.
Thanh Liên lắc đầu:
– Không, chỉ có thể chữa bịnh tại tâm mà thôi.
Tâm đau yếu là căn nguyên dẫn đến mọi tật khổ nơi thân.
Thí dụ như khi mưu toan tính kế hại người, vì đầu óc luôn trong tình trạng căng thẳng nên tuyến thượng thận sẽ phải làm việc quá sức để điều hòa lục phủ ngũ tạng và nội tiết tố sẽ bị nhiễm độc do những chất xấu sản sanh trong máu, thành ra sau này về già dễ phát sinh chứng bịnh nan y.
Thanh Liên bèn ru đứa nhỏ bằng bài “Từ Bi Kinh – Karaniyametta Sutta”.
Tiếng ca trong trẻo và ngọt ngào như dòng sữa mẹ của chú đã làm đứa nhỏ bật cười khanh khách trong giấc ngủ.
Người vợ nhận chén thuốc sắc từ tay của Phá Vân, rồi uống một cái ực.
Thời may chị hay uống thuốc sắc nên đã biết ý bỏ liền vô miệng một viên kẹo chocolate vị phúc bồn tử.
Người chồng vui miệng thuật lại chuyện mình nghe từ một thằng bạn Sài Gòn:
– Cái chùa Đan Thanh ngộ dữ lắm mấy Thầy, tự nhiên khứa trụ trì có đứa con trai, mấy sư sãi ở đó bất mãn bỏ đi chỗ khác tu hết.
Chắc đợi sóng yên biển lặng rồi khứa sẽ san bằng ngôi chùa rồi xây tư dinh…
Thanh Liên giơ tay ra dấu xin phép ngắt lời.
Rồi từ tốn hỏi:
– Còn vị Cận Sư Nữ hiện thời ra sao rồi hả thí chủ?
Tuy không hiểu sao sư thầy biết ở đó có vị Cận Sư Nữ, song người chồng vẫn niềm nở trả lời:
– Dạ, Cô vẫn mạnh giỏi, vẫn bán cơm chay như thường.
Rồi người chồng kể:
– Nghe đâu Cô tức dữ lắm, nhưng ráng dằn xuống để tránh làm mất mặt Phật Giáo.
Không biết Cô nhịn được thêm bao nhiêu ngày nữa…
…
Bữa nay Tăng đoàn không đi khất thực vì một nữ thí chủ sẽ đem cơm lên đây cúng dường.
Châu Lợi và Trì Thương rủ nhau ra sườn núi Cô Tô ngắm cảnh.
Trời vừa mới tạnh mưa nên sương quang bao mờ khắp nẻo.
Vòm trời xám nhạt tựa màu lông chuột, thảng điểm vài áng mây màu khói bếp bảng lảng.
Những dãy núi kết lại thành dải ruy-băng màu lam thanh nhã.
Những giọt mưa sớm đọng trên hoa lá – cỏ cây.
Những thửa ruộng đã được gặt hái xong chỉ còn trơ màu loang lổ và trọc lóc.
Vẫn giữ nụ cười trên môi, Trì Thương nhìn Châu Lợi mà bạch:
– Nghĩ cũng mắc cười, nhiều người nữ thường hay đòi nữ quyền và công bình cho kẻ khác, tới chừng thấy ai bị lộ đoạn phim phòng the lại nhào vô xin đường dẫn để coi.
Châu Lợi phì cười theo hiền đệ.
Đoạn biểu:
– Cũng như nhiều người rất ưa đòi công lý trong các vụ án oan bên ngoại quốc, nhưng các vụ án trong Nước lại im như thóc vậy.
– Một số người mắc chứng bệnh “hài hước hóa mọi vấn đề trong cuộc sống”.
Họ không dám phản kháng bất công, chẳng dám tranh đấu vì lẽ phải.
Chuyện gì họ cũng ráng lắng dịu xuống bằng những từ hài hước, thí dụ như giá xăng lên quá cao thì họ nói đó là động lực để đi bộ giảm cân.
Họ đáng thương vì phải “cười trên chính sự đau khổ” của mình để có tinh thần mà sống tiếp.
– Và hễ ai lên tiếng, đám người đó liền hùa nhau quy chụp “Phản động”, “Kiếm vé đi Mỹ”,…
– Với những ai giàu kinh nghiệm sống, họ chẳng cần phải phí tiền hay thời gian để tìm đến sách Tâm Lý học.
Đệ chẳng cần cho đứa trẻ buôn gánh bán bưng ngoài chợ sách Tâm Lý hay Kinh Tế, nó đã tự biết cách kinh doanh sao cho lời và thuyết phục khách như thế nào để họ bỏ tiền ra mua đồ chỗ nó.
– Không phải sách nào cũng đáng để đọc.
Có cuốn chỉ cần đọc lướt là đủ rồi.
Không tìm thấy tảng đá nào để ngồi nên hai huynh đệ đi tới chỗ khác.
Vừa đi, Trì Thương vừa hỏi huynh trưởng:
– Huynh từng có bạn gái, huynh thấy họ sao?
– Lúc đó thấy vui và có chút hãnh diện, còn sau này thì chẳng còn xíu cảm giác hay phẩm bình gì.
– Anh Hai đệ mà cứ dằng dai với cô kia hoài thể nào ngày sau cũng xảy ra đại họa.
Châu Lợi nhíu mày:
– Đệ đang bị Ái Tình quấy rầy.
Tâm Ma của đệ đang vẽ nên viễn cảnh nếu đệ không đi tu thì sẽ được cái gì và mất cái chi..