Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt

Chương 177: 177: Hồi Ba Mươi Bốn Nắng Xuân Đã Tàn Rồi Mùa Cũng Sang B



Những gì mà Matthias Hoàn nói về John “Tẩy Giả” chỉ đúng một nửa.

Cha mẹ ruột của cậu ta đều quê ở Kiên Giang; còn ba nuôi, tức cậu khờ, là người Hoa sống ở Chợ Lớn.

Sau khi JB Khải chào đời, bà đinh ninh rằng nó là con ruột của cậu khờ nên đã để nó lại cho cậu nuôi, rồi trốn đi cùng người tình.

Được một thời gian, hai người khổ quá nên đã chịu muối mặt mà lại nhà cậu xin giúp đỡ.

Vốn là một đứa khờ nên cậu không hận cũng chẳng oán, chỉ biết vui vẻ giúp vốn cho họ làm ăn.

Tưởng đâu dòng đời cứ thế chảy xuôi, ai dè cậu bị trợt chân té xuống cầu thang gây xuất huyết não.

Trước lúc mất, cậu căn đi dặn lại đôi tình nhân ấy rằng nhớ đưa nó đi Lễ đều đặn, họ gật gật dạ dạ lia lịa, còn trấn an cậu hãy yên tâm mà ra đi thanh thản.

Sau cái chết của cậu, họ quên phứt lời nhắn nhủ năm xưa, không những vậy còn cấm ngặt nó giao du với những người đồng Đạo.

Nhưng có lẽ đó là ơn gọi của Chúa mà nó đã may mắn gặp lại Cha Giuse – Blanc Thành, nên đã quay gót trở về…
– Bác, bác ơi…
– Dạ? À, xin lỗi…!Cho bác xin lỗi nghen, có bánh mì chả cá thêm dưa chua nhiều rồi hả con?
– Dạ, của bác đây.

Hai chục nghen bác.
Trả tiền xong xuôi, Matthias Hoàn quày quả trở ra bến xe ngồi đợi chiếc xe đò mà mình đã đặt trên mạng.

Cách khoảng một quý hay tam cá nguyệt, ông lại ghé thăm người đó…
oOo
Vì đang bận việc nên Thừa Tân mở luôn băng nhạc “Du ca: Nguyễn Hiền” cho đỡ mất công chọn bài.

Mất gần tiếng mấy mới hết một cuốn, thành ra anh sẽ tha hồ vắng mặt ở nhà trên.
Nhưng chưa được nửa tiếng, đã nghe tiếng khách í ới đòi phát ca khúc theo yêu cầu của mình.

Hóa ra vị khách đó muốn nghe một bài nào có sự đồng sáng tác giữa hai nhạc sĩ.

Thừa Tân trả lời liền:
– Được.

“Cung thương ngày cũ” của đôi nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông – Mạnh Phát.

Có hai cô Thanh: Một tên Lệ Thanh và hai là Hà Thanh, nghe cô Thanh nào?
– Hà Thanh đi.

Lệ Thanh không ưng giọng cổ lắm.

Thấy đứa nhân viên mới vô ưa nghe “Đi-vô” ca quá, Thừa Tân hỏi nguyên nhân thì cậu ta trả lời rằng khoái nghe ca sĩ hát nốt cao.
– Vậy nghe “Nhắn nhủ” của Khánh Băng, do Duy Khánh ca nhe?
Rồi Thừa Tân đi một hơi xuống nhà sau đặng quét dọn phòng để băng cối, dĩa than và đĩa nhạc.
Chừng trở lên, anh nghe mấy vị khách phàn nàn vì vặn tiếng lớn quá nên lúc Duy Khánh lên nốt cao muốn điếc lỗ tai.

Vừa đem trà ngon ra tạ lỗi với họ, anh vừa day qua hỏi đứa nhân viên:
– Đủ cao chưa?
Đứa nhân viên xoa xoa hai lỗ tai:
– Muốn lủng màng nhĩ luôn.

– Bài này chẳng ai dám hát lại đâu.

Bởi sao qua nổi Duy Khánh.

Những vị khách ở bàn khác cất giọng xin trà.

Dĩ nhiên, Thừa Tân chiều ý hết thảy; còn mời họ ăn mứt và bánh – kẹo, những thức quà trên đến từ dịp Tết Âm Lịch và Lễ Valentine.
– Đưa “Đi-vô” của cậu vô ca là banh bài.
– Tại sao?
– Khoe tài học thanh nhạc giỏi nên hát cứ gò theo khuôn khổ đâm ra mất đi sự truyền cảm của ca khúc.
Một người khách lên tiếng phụ họa:
– “Tiếng hát vọng từ dãy Trường Sơn” mà lị.
Người bạn của ông cũng góp lời:
– Thời xưa được khen “Tiếng hát” này nọ là có thớ trong làng văn nghệ rồi, đâu phải như bây giờ mà suốt ngày “Đi vô…!đi ra…!đi về…”
Ông ta tiếp lời:
– Nhiều người ưa gọi Nhật Trường là “Tiếng hát của Lính”.
Thừa Tân giới thiệu với người nhân viên mới vô làm:
– Năm loài chim: Bạch Yến, Sơn Ca, Hoàng Oanh, Họa Mi và “Nhạn trắng Gò Công” Phương Dung.

Trong số đó có cô Họa Mi giọng cao lảnh lót y chang con họa mi,điều đó càng thể hiện rõ khi cô ca bài “Em về thăm lại quê anh” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ.

Nhạc sĩ Lê Dinh trong một bài phỏng vấn đã nói rằng ca sĩ bây giờ bắt chước theo cách trình diễn của ca sĩ Phương Tây mà không nghĩ rằng lối biểu diễn đó không phù hợp với ngôn ngữ Nước mình.

Có nhiều bài chẳng cần luyến, không cần láy, cũng chẳng cần hú hay rống để khoe giọng hay, chỉ cần hát đúng theo với giai điệu mà nhạc sĩ đã soạn là được rồi.

Cậu nên tự đọc hết bài để hiểu rõ hơn, chứ tôi chỉ thuật lại theo cách diễn đạt của mình thôi.

– Anh Hai.
– Chi?
– Anh nghĩ ca sĩ có giọng cao có thể hát bè được không?
– Được chớ.

Như Thái Thanh, Duy Khánh, Sơn Ca,…!nè.
– Vậy sao em coi trên mạng người ta nói không được?
– Đâu, đầu cua tai nheo sao, thuật tôi nghe đàng hoàng coi?
Rồi cậu nhân viên kể cho anh nghe về một nữ ca sĩ hát bè lấn luôn phần hát chính của người bạn đồng nghiệp, và chuyện hai ca sĩ cùng song ca mà ca sĩ được mời hát trước lên giọng quá cao nên người bạn đồng nghiệp không bắt theo kịp.
– Cái đó là ích kỷ, vô duyên và thiếu khiêm tốn chứ không phải do quá giỏi thanh nhạc.
Cậu nhân viên nghiêng đầu lắng tai nghe ông chủ nói.
– Hồi xưa, bà Thái Thanh và ông Duy Khánh cùng nhau song ca, hễ người nào hát chính thì người kia ráng dằn giọng xuống để hát bè theo, nhờ vậy mà tiết mục nào của hai người cũng rất hay.

Còn Nhật Trường, nhiều lần tham gia hát “Trường ca” của nhạc sĩ Phạm Duy, ông chỉ được giao cho vai hát bè mà ông vẫn vui vẻ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Chẳng vì sĩ diện mà phá nát nhạc phẩm.

Chưa kể tới là những màn song ca với những người bạn đồng nghiệp kém nổi danh hơn, ông vẫn chia đều “đất diễn” cho người ta chứ không ỷ mình là người có thớ để lấn át hết.
Ông khách ban nãy lại lên tiếng:
– Cậu cứ để ý thử coi, phần đông ca sĩ thuộc thế hệ trước 75 ở miền Nam hễ hát chung với người ái mộ nào mà thấy người ta hát không lại mình, họ sẽ hạ giọng xuống và nương theo giọng của người đó luôn để người đó đủ hơi hát hết bài.

Có nhiều ca sĩ thời nay hát cùng với người ái mộ mà ráng phô trương giọng cao, giọng khỏe.

Rồi những người ái mộ hát theo đâu có nổi, chỉ biết đứng đó cười gượng cho xong.
Người bạn của ông lại nói:
– Tôi nhớ có màn hai nữ ca sĩ hát mà cái miệng hả bự còn hơn cá nhà táng chết ngợp, thì ra bà nào cũng đang thi triển khả năng hát cao và cho “chuẩn”.
– Rồi một trong hai bà quên lời luôn.
– Cái cần “chuẩn” thì không “chuẩn”, cái chẳng cần thì cứ chăm chăm bám víu.
Trước lúc ra về, ông khách hiếu chuyện nhờ Thừa Tân bật bản thật hiếm.

Anh trả lời liền:
– Ở trên mạng đâu còn chỗ nào đăng bài “Phiên buồn tháng Tư” của nhạc sĩ Hoàng Trang do Kim Loan ca nữa.
Chưa yên được bao lâu, một người khách trạc tuổi Thừa Tân bước lại gần và hỏi:
– Anh nghĩ sao về phát biểu của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ về hoàn cảnh hình thành ca khúc?
– Tôi thấy giống một đứa con nít chơi mánh mun rồi về khoe lại với cha mẹ.
Trước lúc nói tiếp, Thừa Tân quay sang đưa mấy ly nước cho người giao hàng của một hãng tư nhân trong Nước.
Rồi anh làm một hơi:
– Không phải ai cũng không biết đâu.

Vì sợ bị phiền phức nên khi bị tra hỏi có phải là người đã sáng tác ra bài “Dư âm” không, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã chối đây đẩy và một mực khẳng định nó không phải “đứa con” của mình.

Rồi bài hát đó theo dòng người Bắc 54 vô Nam, nơi đây đã tiếp nhận và trân trọng nó, cũng như tên của cha nó, dù thừa biết cha nó là ai.

Sau năm 75, thấy êm xuôi rồi, ổng mới lên tiếng nhận cha – con.
Kế, những nhạc phẩm phổ từ bài thơ “Màu tím hoa sim” của thi sĩ Hữu Loan, “Tiếng còi trong sương đêm” của nhạc sĩ Lê Trực, “Sơn nữ ca” của nhạc sĩ Trần Hoàn, “Đường về Việt Bắc” và “Gửi người em gái miền Nam” của đôi nhạc sĩ Đoàn Chuẩn – Từ Linh, “Hướng về Hà Nội” của nhạc sĩ Hoàng Dương, “Đường lên sơn cước” của nhạc sĩ Lê Bình, “Nụ cười sơn cước” của nhạc sĩ Tô Hải và, “Tình Nước” do nhạc sĩ Vũ Hòa Thanh phổ từ thơ của thi sĩ Chính Hữu, “Đôi mắt người Sơn Tây” do nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ từ thơ của thi sĩ Quang Dũng cũng được người miền Nam đón tiếp nhiệt liệt, và hầu như ai cũng rành sáu câu vọng cổ rằng người lính trong mấy bài trên thuộc phe nào.
Tại sao họ nhìn nhận ư? Vì chúng hay và mang nội dung đẹp, nói cụ thể hơn là giàu tính nhân văn, ca ngợi tình yêu lứa đôi và khát vọng hòa bình.

Xin lặp lại một lần nữa, người ta đón nhận vì những điều trên chứ không phải vì chính thể hay quân đội nào cả.

Thành ra sự hả hê vì nghĩ mình đã qua mặt được người khác của ông Mỹ làm cho tôi cảm thấy mắc cười quá chừng.

– Mấy cái bài anh liệt kê ở trên là nhạc Đỏ hả anh?
– Không, vì hai lý do: Một là nội dung của nhạc phẩm và Hai là thời điểm sáng tác; nên chúng sẽ rơi vào nhạc Vàng hoặc nhạc Tiền Chiến.
– Mà sao tôi thấy mấy cái bài anh giới thiệu bối cảnh phần đông là rừng rú, hang hốc hay đồi nương không vậy?
– Ai biết đâu cha? Hỏi câu nghe cắc cớ quá!
– Anh có biết ai hát những bản này hay không?
– Chỉ một người có thể trình bày dạt dào cảm xúc bài “Đôi mắt người Sơn Tây” là ca sĩ kiêm luật gia Duy Trác.

Đó là ước nguyện hồi hương của nhạc sĩ Bắc 54 nên phải để người đồng hương của ông ca mới hay.

– Còn bài “Sơn nữ ca”?
– Sĩ Phú, chỉ có tiếng nhung mềm ấy mới thể hiện được cái hay của ca khúc.
Người khách còn khá trẻ đó bình phẩm:
– Tôi thấy mấy cái học viện thanh nhạc hiện nay nên đưa nhạc của Trầm Tử Thiêng, Lam Phương, Hoàng Thi Thơ, Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng, Nguyễn Hiền, Anh Việt Thu, Trần Thiện Thanh,…!vô giảng dạy, hơn là chăm chăm thiên vị cho mấy ông nhạc sĩ nhạc Đỏ.

Đọc mấy cái bài mà họ tán tụng mấy ông nhạc sĩ nhạc Đỏ mà tôi thấy lố gần chết.
Thừa Tân góp lời:
– Nếu muốn luyện thanh, tôi sẽ đề cử bản “Vọng ngày xanh” của nhạc sĩ Khánh Băng, “Đưa em vào Hạ” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng và “Kiếp hoa” của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước; bài sau chỉ có mỗi bà Kim Tước là trình bày hay mà thôi.

Người nào cột hơi không khỏe không trụ lại nổi nửa bài đâu.
– Tôi muốn nghe một bài về cao nguyên giống như nhạc Đỏ, anh có không?
– Được.

“Anh lên rừng núi cao nguyên” của ca – nhạc sĩ Duy Khánh, phát hành năm 74.
– Vậy có bài châm biếm tổng thống không anh?
– “Huynh đệ chi binh” của nhạc sĩ Anh Bằng, mà ban nhạc hài “AVT” đã từng biểu diễn, ở trên mạng chẳng còn mấy nơi đăng bài này đâu.
Tuy là người “sinh ra giữa lòng miền Trung” nhưng nghệ sĩ Duy Khánh đã soạn nhạc theo giai điệu của người Cao Nguyên thật hay và đặc sắc.

Người khách đó thôi hỏi han để im lặng lắng nghe trọn vẹn bản nhạc.
– Còn câu hỏi nào nữa không? Đặng tôi còn xuống nhà sau dọn dẹp.
– Anh có thích bàn luận về đời tư của các nhạc sĩ không?
– Anh có biết bên Hồng Kông có nữ diễn viên tên Lưu Cẩm Linh bị đồn thổi rằng cổ từng bị dân có máu mặt cưỡng hiếp không? Cô Linh đã lên tiếng thanh minh rằng đó là tin thất thiệt hằng bao năm trường nhưng không có ai tin cổ.

Cũng vậy, chuyện riêng tư của nhạc sĩ tôi ít có khi lạm bàn vì sợ mình góp phần lan tin thất thiệt.
Thí dụ như ở nhà anh có cây mai đẹp, tôi thường đứng ngoài thưởng lãm và cảm hứng viết thành bài “Cây mai nhà anh”.

Rồi người ta đồn thổi tôi thích anh nên mới sáng tác bài trên, tin đồn đó không có gây ảnh hưởng nặng lắm tới đời tư và nhân phẩm giữa đôi ta nên không sao hết.

Mấy tiếng đồng hồ làm muốn bở tai đã khiến Thừa Tân mệt lả người.

Anh giao việc cho đàn em, rồi kiếm một bàn trong góc quán ngồi ăn xôi nếp cẩm đặng dằn bụng uống thuốc.

Tháng này tiền lời chỉ còn phân nửa vì phải lên lương cho tụi nó và bị xăng – điện – nước lên cao ngất ngưỡng.
– Chú.
– Gì đây nhỏ?
Quỳnh Như chọn cái ghế ngồi phía đối diện Thừa Tân, rồi để cái cặp lên cái ghế mé bên tay trái mình.
– Nắng quá chú ơi, cho con xin ngồi nghỉ xíu nghen?
– “Không”, được hôn?
Quỳnh Như phồng má:
– Hông.

Ông già keo kiệt.
– Tự nhiên đôn tuổi tôi lên hà.

Chưa kịp nhõng nhẽo với ông chú có giọng nói trầm ấm, êm êm, thì con nhỏ liền im bặt vì sự xuất hiện của hai viên cảnh sát công lộ.
– Ba.
Người đàn ông có đôi mắt hơi xếch nhướng mày nhìn con gái:
– Con đi đâu vậy? À, trốn học đờn phải hôn?
– Con xin nghỉ đàng hoàng chứ bộ.
– Bây uống gì hôn, bác bao?
Quỳnh Như lắp bắp nói:
– Chú…!chú…!làm…!cho…!e…!con một ly trà sữa sầu riêng bỏ thiệt nhiều trân châu trắng đi.
Có ông già nên con nhỏ không dám xưng “Em”, sợ chưa về tới nhà mà đã điếc lỗ tai với cha.

Thừa Tân che miệng cười, rồi cũng họa theo:
– Ừ, con đợi chú chút nha?
– Dạ.
Ông cảnh sát ngó theo cô con gái mới lên Cấp Ba trân trân.

Rồi ông hất cằm hỏi:
– Cô đây quen chú này hồi nào mà tôi hổng hay vậy?
– Dạ, lâu rồi ba, cũng cỡ nửa tháng hà.
– Quen theo kiểu mua nước uống chứ hổng phải…!
Quỳnh Như vùng vằng:
– Ba này, kỳ quá hà!
Ông cảnh sát vùng vằng lại:
– Tôi cũng sợ…!quá hà!
– Con nhỏ này làm thấy thương.

Ông làm thấy…!ghê quá hà!
Ông cảnh sát nhìn người khách nhại mình bằng đôi mắt mang hình viên đạn.

Những vị khách ngồi ở các bàn khác chứng kiến màn hài kịch trên nên thi nhau cười rúc rích.
Để dàn hòa, Thừa Tân đánh trống lảng:
– Ông cho tôi tặng con gái ông một bài hát được không?
– Bài đàng hoàng nghen? Ve con gái tôi là không được đâu đó…!Còn mày nữa? Lắc lắc cái gì?
– “Lắc lư cái mình nè, là lắc lư cái mình nè…!Ồ kìa sao bé không lắc?” – Thấy sắc mặt tối như đêm Ba Mươi của ông cảnh sát, người khách giỡn nhây đứng dậy một hơi và ca tiếp trước khi lại bàn khác ngồi.

– “Bé không lắc thì để tui lắc.”
– Thằng mắc dịch mắc gió đó có đến đây thường không?
– Dạ thường.
– Nó ghé giờ nào, để tôi biết đường lại giờ khác?
Thừa Tân bèn ghé tai ông cảnh sát mà trả lời nho nhỏ.

Rồi day lại và biểu rằng:
– Tôi mời hai cha con ông nghe bài “Cô nữ sinh Gia Long” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, trong bài này ông ký tên là Phượng Linh, với phần song ca của Chế Linh và Diệu Thanh.
– Ông Đông có bao nhiêu bút hiệu vậy cậu?
– Dạ, nếu như tôi nhớ không lầm thì có “Vì Dân”, “Đông Phương Tử”, “Hoài Phương”, “Phượng Linh” và “Nguyễn Văn Đông”.

Thường khi soạn ca-cổ nhạc ông sẽ lấy bút hiệu “Đông Phương Tử”.
Quỳnh Như lúc lắc đầu trách:
– Chú tặng con bài gì nghe dễ thương xíu đi.

Bài này nghe chuyện tình trắc trở quá.
– Con muốn dễ thương con về nghe bé Xuân Mai con nhé? Chỗ chú nhạc già cả, lâm ly bi đát hơn tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn không hà.
– Đúng rồi đó.

Về lo phụ mẹ nấu cơm nấu nước đi, con gái – con đứa gì mà suốt ngày la cà quán xá với đi ăn hàng.

– Hông, con hổng về.

Chú…
Để tiễn cô bé con về nhà, Thừa Tân bèn mở bài “Tiếng hát học trò” của đôi nhạc sĩ Minh Kỳ – Nguyễn Hiền qua màn biểu diễn của Lệ Thanh.
Khi tiếng nhạc vừa dứt, Quỳnh Như cong môi trách:
– Sao bài nào cũng hoài niệm không vậy chú? Bộ tình yêu tuổi mực tím mong manh dữ vậy sao?
Thừa Tân cũng buồn lây mà đáp nhỏ:
– Ừ…
– Rồi, cẩu chiều ý mày rồi đó.

Về nhà! Mau!
Quỳnh Như tiu nghỉu xách cặp ra về.

Trước khi đi, nhỏ cúi đầu mà cất giọng thưa cha, bạn ông và ông chú chủ quán.
– Có con gái trong nhà y như bom nổ chậm…!Gặp tánh nó ưa mộng mơ nên vợ chồng tôi càng thêm lo sợ…!
Rồi ông cảnh sát nói muốn nghe thêm bài do Lệ Thanh ca.
– Vậy tôi mời ông nghe bài “Anh nhớ về thăm em” do Lệ Thanh ca, một sáng tác ít người biết của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh.

Cô Thanh Lan hát bài này cũng được lắm.
– Ông Thanh sáng tác bao nhiêu bản vậy?
– Khoảng đâu sáu trăm bài.

Ráng ra đây uống cà-phê ủng hộ chừng hai năm là nghe trọn bộ.
Ông cảnh sát trề môi:
– Tôi mà ra đây đủ hai năm chắc con vợ nó lột da tôi luôn, vì tưởng đâu cặp kè với bà nào mà lui tới chỗ hoài này.
Trước lúc về sở làm việc tiếp, hai ông cảnh sát yêu cầu một bài nào do Nhật Trường ca mà thật ít người biết đến.
– Được.

Một sáng tác của nhạc sĩ Mặc Thế Nhân mang tên “Khóm trúc lầu mây”, do Nhật Trường trình bày.
Những tưởng anh sẽ được yên thân khi hai ông cảnh sát ra về.

Ngờ đâu vẫn còn một người nữa.
– Ủa, em chưa về hả?
– Đứng trốn ở trong con hẻm nãy giờ nè.

Rình rình ba với bác lên xe là em quành trở ra.
– Em có biết trong con hẻm đó có gì không mà dám đứng một mình?
– Biết chớ.

Nhưng “Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” mà lị.

Em xếp chung hàng nên ai nhát em được.

Đôi mắt của Quỳnh Như tròn xoe, nhìn vừa tinh quái vừa rất đỗi hồn nhiên.

Ba cái trò mánh mun mà tưởng đâu là thần cơ diệu toán, thiệt là…
– Lát về bị chửi khóc hu hu ráng chịu, tôi không lãnh đâu đó nghen?
– Chú, chú cho em hỏi cái này nè chú.
Thừa Tân nhướng cao chân mày trái mà nhìn nhỏ:
– Chi?
– Chú thấy em quay clip nhảy múa hay “biến hình” rồi đăng trên mạng được hôn?
– Không.
– Sao vậy?
– Thấy ghê.

Mặt mũi em ưa nhìn rồi, đâu cần phải tô son trét phấn rồi đứng õng à õng ẹo trước ống kính mà nói mấy lời lảm nhảm như lên đồng.

Quỳnh Như ra hiệu mời ông chú nói rõ hơn.

– Mai Diễm Phương và Lâm Thanh Hà không cần trang điểm đậm vẫn toát lên vẻ sang trọng, quý phái và bản lĩnh.

Trương Mẫn, Lý Gia Hân, Vương Tổ Hiền hay Chung Sở Hồng cũng vậy, cái nét quyến rũ, xinh đẹp và gợi cảm nó đã có sẵn trên người họ rồi.

Nhiều cô thời nay không có khuôn mặt ưa nhìn nên mượn trang điểm để cải thiện nhan sắc, nhưng tham quá nên tự biến mình thành khuôn mặt búp-bê sáp trông rất gượng và cứng ngắc.
– Vậy theo ý chú, em phải trang điểm sao?
– Kiểu Hồng Kông thập niên 80 – 90.

Đơn giản, nhẹ nhàng và ít tốn tiền.

Một chút son là đủ, dặm ít phấn má hồng, thêm xíu nước hoa thơm thơm và mái tóc được chải gọn tùy theo độ dài – ngắn.
– Còn sao chú hổng chịu cho em quay clip nhảy nhót?
– Nhảy đẹp thì tôi không nói, lỡ nhảy xấu hay bị hở chỗ này – lộ chỗ kia rồi mấy thằng dê xồm vô bình luận khiếm nhã em có chịu nổi không?
– A…!Sao em không nghĩ tới ha?
– Nhiều người nhảy rất xấu, dở thậm tệ, nhưng hễ ai chê là giãy nãy lên đòi sống – đòi chết rồi khóc lóc nói bị người ta xúc phạm ngoại hình.

Tự nhiên đang yên đang ổn không muốn, muốn cho thiên hạ vô nói này nói nọ mới chịu.
Có khách tới yêu cầu một bài nào đó là lạ.
– Okay, tôi sẽ phát bài “Ngõ hẹp mang tên anh” do Hùng Cường ca, một sáng tác của nhạc sĩ Hoàng Trọng.
– Vậy chắc Tango nữa?
– Thì nghe thử coi sao.
– Chú…
– Rồi, rồi, quay lại liền…
Quỳnh Như cười nụ mà biểu:
– Chú tặng em bài chi có kết cục đẹp đi…
– Tôi mệt cô quá cô ơi! Vỡ mộng mới có nhạc cho cô nghe chớ, chứ thành đôi mấy ai quởn phí thời gian viết nhạc bố cáo thiên hạ…
– Chú…
Vậy là Thừa Tân bèn mở bài “Công chúa ngày xưa” của vợ chồng Mai Châu – Hoàng Oanh và do cô Hoàng Oanh biểu diễn luôn, không quên kể lại chuyện tình giữa một quân nhân kiêm nhạc sĩ và một nữ sinh kiêm ca sĩ của hai người cho cô bé con nghe.
– Đó, vậy mà chú hổng cho em nghe từ hồi đầu…!Nhưng mà chú ơi…
– Gì nữa?
– Em hổng thích bài này, giai điệu nghe không hay…
– Nghe xong bài hay là về nhà liền nghen? Gần năm giờ chiều mà còn đứng đây tán dóc nữa.
– Dạ.
Bài hát mà Thừa Tân chọn đã quá quen tai với những vị khách đến quán đều đặn, nhưng anh sẽ phát lại để làm lời nhắc nhở cho cô nữ sinh áo dài trắng trinh nguyên như cánh bướm trên vườn Mắc Cỡ.
– Bài “Tình có như không” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, trong bài này bác lấy bút hiệu là Trần Thiện Thanh Toàn, người trình bày cũng là bác với nghệ danh Nhật Trường.
Nghe xong ca khúc, đôi mắt của Quỳnh Như sáng rỡ.

Nhỏ cất tiếng thưa ông chú rồi hớn hở ôm cặp bước ra khỏi quán.
– Nhỏ đó hiểu lầm anh nữa rồi.
Thừa Tân ngó đứa em họ mà cười khổ, chứ không nói nổi một tiếng nào.
Một người khách tóc đã luống bạc yêu cầu một bài hát dành tặng cho mình.

Ông bị chột hết một con mắt, lưng hơi khòm, dáng người còm nhòm và yếu ớt, trang phục của ông là áo sơ-mi bạc màu và quần jeans đen đã mòn gối.
Sau một đỗi ngắm nghía dáng hình người khách, Thừa Tân chọn bản “Bài hương ca vô tận” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng qua phần trình bày của Duy Khánh.
– Bài mới được không? Bài này phát hoài hà.
– Được.

“Một bàn tay” của nhạc sĩ Phạm Duy và người biểu diễn sẽ là Duy Khánh.

Sáng Chủ Nhật có mưa bay nhè nhẹ, quán cà-phê “Sóng Nhạc” lưa thưa vài mống khách quen, mấy gánh hàng rong bán đậu trong khu đất của anh cũng rơi vào cảnh ngồi ngáp ngắn ngáp dài.

Nhân lúc rảnh rỗi, Thừa Tân đứng gác tay trên thành lan-can ở hàng hiên của quán mà ngắm con đường rợp bóng me tây.
Chợt, một chiếc xe đạp hiệu Martin phơn phớt hồng chở trên lưng nó một người con gái bận áo dài tím Huế chầm chậm tiến về quán của Thừa Tân.

Mái tóc demi-garcon đã giúp người trai độc thân đó nhận ra Quỳnh Như.
– Chú, cho em vô đụt mưa xíu.

Hết tiền xài rồi nên đừng dụ con nhỏ mua trà sữa hay kem nhe?
– Miễn phí có lấy không?
– Hì, lấy chớ.

Cho là lấy hà.

Miễn đừng bắt đổi chác bậy bạ thôi.
– Ba em dạy phải hôn?
– Phải.

Chú đoán hay ghê.

Mốt đầu năm em dẫn chú ra ngôi chùa gần nhà kiếm thêm lợi tức.
Thừa Tân giúp Quỳnh Như dắt chiếc xe vô bãi đậu của quán.

Lập tức có tiếng mời con nhỏ mua hàng liền, thấy vậy anh quay sang hỏi con nhỏ có muốn ăn gì không, nhỏ đáp rằng muốn ăn cháo lòng có thêm khúc dồi cho ấm bụng, anh đành cáo lỗi với những hàng quán khác rồi lại mua cháo ở chỗ thím Ba.

Xong rồi, Thừa Tân mời cô cháu nhỏ vô “sở làm” của mình ngồi chơi.
Tô cháo lòng không ăn kèm với bánh quẩy vì Quỳnh Như chê ăn vô bị nổi mụn, ấy vậy mà con nhỏ lại mè nheo khúc dồi chiên! Chưa kể còn xin thêm hai muỗng ớt bột đầy vung và đòi rắc tiêu nhiều nhiều.

Sao con gái luôn khó hiểu như mùa nước nổi, tuy đã rành rẽ lẽ lên – xuống nhưng vẫn không tài nào trở tay kịp.
– Chú, chú tặng cho em một bản nhạc đi.
Tà áo dài màu tím “Huế mù sương” đã gợi nhắc cho Thừa Tân một bản nhạc mang đầy những khắc khoải, dở dang của một mối tình câm giữa hai người trai gái.

Anh vuột miệng giới thiệu:
– “Ngàn thu áo tím” do Tâm Vấn ca, nhạc sĩ Hoàng Trọng phổ từ thơ của thi sĩ Vĩnh Phúc.
Đôi mắt của Quỳnh Như chợt mơ màng lạ.

Hai viên ngọc đen huyền đó càng nhìn càng thấy thương, càng thấy sợ hãi cái viễn cảnh nó sẽ không còn ngây thơ và hiền dịu như vậy nữa.
– Bà Vấn hát hay quá chú.

Rồi con nhỏ lẩm nhẩm hát hai câu tâm đắc nhứt trong bài, nho nhỏ thôi, nhưng lại rơi vào tim của Thừa Tân.
– Chỗ của chú cũng có mấy băng nhạc do ban nhạc “The Dreamers”, “Phượng Hoàng” và “Ba Trái Táo” trình diễn khá hay.

Có nhiều bài phù hợp với lứa tuổi của em lắm.
Quỳnh Như chu môi, rồi nói:
– Chú, tặng cho cháu một bài nữa đi chú.
– Rồi, “Hoang vu” của ca – nhạc sĩ Đức Huy, do ca – nhạc sĩ trước năm 75 Tùng Giang trình bày.
– Chú nói tới chữ “Tùng”, làm em tưởng “Tùng” kia, hát dễ nghe quá nên em hổng dám “tiếp thu”.
Đang nói tới đó, một nhóm người vô quán nên Thừa Tân phải chia tay cô nhỏ mà đi tiếp khách.

Chừng trở lại, anh vẫn thấy tô cháo mới vơi được vài phần, khúc dồi chiên chỉ mới động ̣được mấy miếng, còn ly bạc-xỉu hãy còn hơn phân nửa.

Ăn uống chi mà lâu gớm.

Nhác thấy anh, Quỳnh Như cong môi phê bình:
– Ông này hát hổng hay nhưng được cái mộc mạc dễ chịu.
– Sao tự nhiên bữa nay mặc áo dài màu sến rện vậy cô?
– Dạ, em đi Lễ.
– Lễ? Vậy sao em ăn mặn?
– Dạ hông, em đi ké với mấy con bạn thôi.

– Em không có Đạo mà cũng vô Giáo xứ chơi sao?
– Dạ, tại…!bữa nay có Cha Vũ…
– A, thôi tôi biết tỏng mấy cô rồi, Cha đó đẹp trai chứ gì.
Quỳnh Như đỏ ửng mặt, vừa xua xua tay vừa nói:
– Biết dzồi, biết dzồi mà chú còn la lớn nữa, hổng chừa miếng sĩ diện nào cho cô cháu hết.
Rồi nhỏ hạ thấp giọng:
– Nhưng mà, ngộ lắm chú ơi…
– Sao?
– Ở đó có một ông Cha mặt mày nhìn thấy ghê lắm, coi vừa ác vừa xảo sao đó.

Cười lên dòm còn rợn người hơn nữa.
Quỳnh Như bị ông chú búng trán một cái rõ đau.
– Chắc gì người đẹp là người tốt, và người xấu là người dữ? Cô cứ lấy vẻ bề ngoài làm thước đo lòng người như vậy, tôi e sau này cô sẽ gặp lầm tên Sở Khanh mất.
Quỳnh Như ấm ức hỏi:
– Nhưng không phải có câu “Tâm sanh tướng” sao?
– Tại sao một người rất đẹp nhưng khi nhìn kỹ hay nói chuyện lâu mình lại cảm thấy vô duyên? Đó là “Tâm sanh tướng”.

Tướng ở đây không chỉ bao gồm vẻ bề ngoài mà còn tính cả cái nét mặt, ánh nhìn, điệu cười, dáng đi, nết đứng – ngồi – nằm, lối ăn – nói và những cử chỉ khác.
– À…
Đoạn, Quỳnh Như hỏi, một câu hỏi tinh quái hay thấy ở những cô gái trong giai đoạn dậy thì:
– Chú, chú bói coi ông Cha đó có ai “xương” không?
– Nếu như ổng được ai thương thì vừa khổ cho cô gái đó, vừa khổ cho ổng.
– Tại sao?
– Vì ổng sẽ trân trọng tấm chân tình đó lắm do ổng biết trên đời này ngoài cha mẹ ổng ra, không có cô gái nào lại chịu nhìn ổng bằng con mắt thiện cảm đâu…
oOo
Tiếng hát Chế Linh trong bài “Còn nhớ không em” của nhạc sĩ Vinh Sử thay một lời chào hỏi của chú Thương dành cho người yêu cũ.
“…!Tuy ngày đó ta quen nhau
Anh ngoại Đạo chưa biết câu Kinh
Nhưng thương nàng anh cố thuộc lòng
Kinh nguyện cầu xin Chúa ban ơn…”
Hoàng Lan nhíu mày, rồi ráng nhoẻn miệng cười vì thấy mợ Hai đang khệ nệ bưng khay bánh lên nhà trên.
– Ủa? Lan hả con?
Hoàng Lan gượng gạo gật đầu.
– Tới đây chi con?
– Dạ…!À, con muốn mua bánh bông lan trứng muối và phô-mai.
Mợ Hai cau mày trả lời:
– Bánh chưa có chín con ơi.

Hay là…!con ngồi chờ chút nghen?
Cũng từ dưới nhà sau, bài hát “Xóa tên người tình” cũng của nhạc sĩ Vinh Sử, nhưng do Duy Quang ca, vọng lên nhà trên và đương nhiên rơi vào tai Hoàng Lan.

Cô trầm tư nghe từng lời ca, câu chữ của tình khúc, những ngày tháng êm đềm và hạnh phúc khi cô chưa biết mình nhận lầm người chợt ùa về như thác lũ…
Những người khách và nhân viên giao hàng ra – vô đều đều như dệt lụa.

Tuy vậy lợi tức mà hai má con chú Thương thu được không nhiều hơn hồi trước là bao, vì nguyên liệu và xăng – điện – nước – gas tăng lên quá cao, lại còn phải tăng lương cho nhân viên để giúp mọi người trang trải cuộc sống; cũng may có Vệ Thu chỉ biểu nên hai người mới cầm cự được và không bị lỗ vốn nặng.
Đợi khoảng mười lăm phút nữa, mợ Hai mới đem hộp bánh lên cho Hoàng Lan.

Ổ bánh đã được cắt sẵn thành mười hai miếng hãy còn bốc khói và nóng hôi hổi, không cẩn thận sẽ bị phỏng tay.
– Con còn muốn mua gì nữa hôn?
Cô vẫn còn đứng dõi mắt nhìn vào cánh cửa ngăn cách nhà sau và nhà trước.

– Rốt cuộc con cảm nghĩa thằng Thảo rồi thương nó hay con thấy thằng Thương chân thành rồi cảm mến nó?
Cô cúi gằm mặt nói nhỏ rí:
– Anh Thảo vẫn là cái bóng quá lớn trong lòng con.
– Thằng Thảo nào giờ với ai nó cũng đối xử tốt hết.
– Con biết.

Nhưng…
– Nhưng con không buông tay được chứ gì? Vậy thì chừng nào con buông tay được thì con hãy ghé lại đây.

Xin đừng gây thêm vết thương lòng cho thằng Hai nữa, coi như bác năn nỉ con đó.
– Bác cho con hỏi anh Thảo đang tu ở đâu, con muốn nói chuyện riêng với ảnh cho tỏ tường đôi bên.
– Ở tuốt trên Phụng Hoàng Sơn – An Giang.

Chỗ nó ở không có địa chỉ rõ ràng, có muốn cũng không kiếm ra đâu…
Đôi mắt Hoàng Lan bừng sáng, cái nét mặt ủ rũ ban nãy đã bay biến đi chỉ sau một lời nói của mợ Hai.

Cô cười tươi mà biểu rằng:
– Con cảm ơn bác đã chỉ.

Con quyết kiếm ảnh cho bằng được.
– Trời ơi…

– Huynh trưởng, nghiệt duyên của đệ tới rồi.
Nói đoạn, Trì Thương đắp thêm một lớp cà-sa.

Ngoại trừ cái đầu, mấy ngón tay và ngón chân, toàn chân chú đã được che kín mích.

Bấy giờ mới năm giờ sáng, trời hãy còn tờ mờ sương, côn trùng và lưỡng cư vẫn còn đàn ca hát xướng, mặc cho vầng dương đã le lói nơi đằng Đông ưng ửng hồng.

Một vài cánh nhạn vụt qua vòm trời màu lam bàng bạc, để lại những tiếng kêu thê lương như tiếng khóc của người “Ngày mai đi nhận xác chồng”.
Tuần nào nguyên nhóm cũng phải uống hai chén Bạch Hoa – Xà Thiệt Thảo nấu với Bán Chỉ Liên cùng số loại thảo mộc diệt dục.

Tuy có rất nhiều công dụng ngừa và trị bịnh hữu ích, nhưng hai loại cây có tên ở trên rất nguy hiểm với thai phụ và trẻ nhỏ, riêng nam giới uống thường xuyên sẽ bị vô sinh và không còn ham muốn gì nữa.

Đại Trưởng lão Vô Sắc nhìn tướng mạo phi phàm của lứa đệ tử của Trưởng lão Như Phong thì không yên tâm lắm nên đã ra lịnh bắt buộc phải uống chén “Vong Tình Thủy” ấy để đoạn trần.

Nhiều người thấy phải uống thứ nước đó nên đã co giò bỏ chạy, thành ra số đệ tử không khi nào quá hàng hai mươi.
Về phần Nghiệt Duyên, sau khi đi quá giang xe ba-gác một đoạn, cô được người đàn ông bản địa thả ở lưng chừng núi, rồi chống gậy cuốc bộ lên trên trển.

Để khỏi chú tâm vào con đường dài thăm thẳm phía trước, cô bật máy nghe nhạc cổ lỗ sĩ Ipop lên, trong đó chứa sẵn gần trăm bài tình ca mà cô yêu thích từ hồi còn đi học tới giờ.
Cũng may con đường đã được phát quang kỹ lưỡng nên cô bước đi cũng đỡ cực.

Hai bên đường nở đầy hoa thơm cỏ lạ, nhưng cô không dám rớ tới vì sợ trúng phải cây độc.

Đến gần một bụi bông có hình dáng gần giống Mẫu Đơn, cô mở điện thoại lên chụp lại vài pose.

Ở đâu cô cũng tìm thấy được những góc chụp rất đẹp và giàu tính nghệ thuật.

Dù rất muốn chụp thêm, nhưng sức nặng của cái ba-lô đang đeo trên lưng đã khiến cô không thể nán lại lâu.
Tình khúc “Khi anh gần em (Whenever you come to me)” của nhạc sĩ Alan Nguyễn qua tiếng hát của Ngọc Lan càng khiến nó thêm não nề và sầu đau.

Đôi mắt của cô đẫm lệ, giờ đây cô không còn sức lực nào để leo núi nữa, cô đành ngồi nghỉ dưới gốc cây tra ven một khe nước nhỏ.
“…!Em đi miên man trong tình yêu
Một cuộc tình mặn nồng
Và khi biết cay đắng
Đời là vạn lệ sầu…”
Hồi xưa, cô coi “Tây Du Ký”, nghe bà Nữ Vương ca bài “Nữ nhi tình”, cô còn cười thầm và chửi bả ngu trong bụng, tội tình gì phải quỵ lụy một ông thầy tu ất ơ ở đâu cho nhọc lòng.

Và giờ thì cô còn ngu hơn bả, khi nhìn lầm anh Hai ra em Út, rồi khiến người kia suy sụp tinh thần suốt mấy năm ròng.

Nghĩ đến đây, cô gục đầu xuống khóc tức tưởi.
Bóng nắng xuyên qua tán lá lay chuyển trên đầu cô.

Cô sợ hãi nhận ra đã quá chín giờ, nếu cô đến trễ thì sẽ qua giờ thọ thực, rồi còn đâu cơ hội gặp mặt mối tình đầu nữa.
Cô vừa mới nhỏm dậy, chợt cảm thấy nhồn nhột dưới bàn chân.

Jesus – Ma! Một con rắn hổ hành lớn bằng cườm tay cô đã nằm vắt vẻo sau gót chân cô tự bao giờ.
“Roạt.”
Trước ánh mắt hãi hùng của cô, con rắn trườn lên ống chân cô, rồi há miệng ra…
“Vụt.”
– Lan mở mắt ra đi.

Hoàng Lan ngó con rắn hổ hành bị người đó nắm chặt cái đuôi bằng bàn tay trần.

Rồi mới ngước mặt lên nhìn ân nhân.
– Thảo…!Anh Thảo…
Hoàng Lan đứng bật dậy, rồi hấp tấp bước tới chỗ mà mối tình đầu đang đứng.

Con rắn hổ hành đã được Mộc Thảo thả xuống khe nước sủi bọt trắng.
Hoàng Lan tiến lại một bước, Mộc Thảo lùi về sau ba bước.
– Anh Thảo, anh coi em là đứa nhỏ mà anh đã từng cho một bữa ăn được không?
– Được, nhưng phải giữ khoảng cách, tôi và Lan không còn là hai đứa nhỏ nữa.
– Dạ.
Hoàng Lan bị bắt phải đợi Trì Thương đi trước mấy mét rồi mới được nối gót theo sau.

Hồi trước người kia thương mình nên đi đâu cũng lúc thúc sau lưng bảo vệ thì phụng mặt không chịu, giờ thì phải giữ khoảng cách như nô lệ Trung Cổ với lãnh chúa mà mặt mày lại sáng rỡ hệt gương.
– À, tôi xin lỗi, đưa cái ba-lô cho tôi xách.
– Dạ.
Thoáng thấy vết sẹo trên mu bàn tay trái của Mộc Thảo, Hoàng Lan bật cười:
– Cái vết thẹo do lấy ná bắn chim tới giờ cũng chưa phai hả anh? Thâm lâu thiệt ớ…
– Cái vết thẹo trong lòng của Lan cũng vậy.
Phá Vân đứng phía sau lùm cây sơn trà tính phát tay ra hiệu với Trì Thương, nhưng thấy có cô gái lạ mặt nên đành thôi.

Rốt cuộc, hai huynh đệ đi song song với nhau theo hai lối đi khác biệt.
Chừng tới tịnh thất, Hoàng Lan mệt quá nên ngồi đại xuống bậc tam cấp nghỉ chân.

Đôi chân của cô đã có dấu hiệu bị vọp bẻ, cô nhăn mặt chịu đựng từng cơn đau nhói đang tràn về.

– Thủy Diệu.
– Dạ?
– Ra xức rượu thuốc và bóp chân cho nữ thí chủ này.
– Trời đất ơi! Sao huynh không làm mà “đẩy cây” cho đệ?
Hoàng Kỳ nói mấy câu tiếng Anh với Thủy Diệu, dường như anh ta đang cố gắng nín cười nên vẻ mặt bị biến dạng.
– Ai dẫn về thì người đó làm, không có chơi “đẩy cây”.

– Châu Lợi nghiêm mặt biểu.
Trì Thương xụ mặt hỏi:
– Mấy người cười cái gì?
Phú Lâm che miệng cười khúc khích:
– Nghiệp này do huynh chiêu về chứ tụi đệ và huynh trưởng hổng có làm nên xin đừng “đẩy cây”.
– Tôi mệt mấy người quá! Đưa rượu thuốc cho tôi tự xức, tự bóp chân!
– Vợ của đệ hồi đau bụng đẻ cũng không có dữ như cô này…
Hoàng Kỳ ôm bụng cười ngặt nghẽo.

Rồi lui xuống nhà sau để cười cho hả bụng.
Tới chừng đưa chai rượu thuốc ra thì đôi chân của Hoàng Lan đã hết bị vọp bẻ!
– Tôi tự đứng lên được, khỏi cần cha nào đỡ hết.
Phá Vân giả lả:
– Thí chủ tên chi?
– Hoàng Lan.
Phú Lâm pha lửng:
– Cô tên “Lan” hay tên “Lang”?
– Với mấy người thì tôi nghĩ cái tên “Lang” hạp hơn.

– Nhìn cô mà tôi nhớ tới người em bên vợ, chằn ăn trăn quấn vậy mà cũng có chồng, mà chồng lại hiền khô như cục đất mới hay chớ.
Hoàng Lan đã hiểu lời khuyên của mợ Hai, “Mấy cha này mà không đi tu chắc quậy tưng cõi Ta-Bà…!Một tay giang hồ cộm cán, một tay sát gái thứ dữ, một tay gián điệp hai mang, một tay lũng đoạn thị trường, một tay đánh người kiếm sống và một tay tham mưu cho những kẻ trong chính trường…”
– Cười đã chưa? Đã rồi thì mau lên đây thọ thực.

Nếu không bữa nay cậu phải nhịn đói tới sáng mai.

– Châu Lợi lạnh giọng nhắc nhở Hoàng Kỳ.
Còn nhớ lần đầu tiên Hoàng Kỳ lên đây ẩn tu, chú và ông huynh trưởng gây nhau một chập.

Chú chửi bằng tiếng Anh và tiếng Châu Phi, ông huynh trưởng đáp trả bằng tiếng Pali và Phạn ngữ, báo hại Tăng đoàn được một trận cười no bụng.

Hoàng Lan đãi Tăng đoàn món bánh ướt chay và sầu riêng ướp lạnh.

Sẵn cô đang ăn chay nên mời họ món chay luôn.
– Tới Mùa Phục Sinh rồi phải không? – Thủy Diệu cười hỏi.

– Dạ.
Hai bên bắt đầu đọc Kinh cầu nguyện trước lúc dùng bữa.

Hoàng Lan xong Lễ trước nên mở mắt ngắm mối tình đầu, giờ cô mới có đủ thời gian nhìn kỹ để tìm điểm khác biệt của ảnh và anh Hai.

Quả đúng như những gì cô đã hình dung, nét mặt của Mộc Thảo nhu hòa và điềm đạm hơn Kim Thương, và trông thuận mắt cô hơn là người kia dù rằng cả hai có cùng kiểu mặt.

Ăn xong bữa trưa trong một bầu không khí vừa mắc cười vừa gượng gạo, Hoàng Lan mạn phép nói chuyện riêng với Trì Thương.

Chú gật đầu đồng ý, dẫu sao né tránh không được thì cứ đối mặt thôi.

Nhưng trước khi khởi hành, cô cần phải mở Laptop lên để gởi điện thư cho trưởng phòng.

Phá Vân lấy cho cô cái bàn thấp để kê cái máy tính xách tay lên cho dễ sử dụng.
– A…!Cái gì đây?
Trong điện thư của Hoàng Lan xuất hiện một tệp tin lạ với nội dung bằng tiếng Anh.
Thủy Diệu mạn phép coi thử, rồi cau mày biểu:
– Virus.
– Chúa ơi, xui quá…
– Để tôi “diệt” giùm cho.

Phải mất hơn một tiếng rưỡi, Thủy Diệu mới “thanh lọc” hết toàn bộ cái máy tính xách tay, kể cả hút bụi và lau chùi bên trong nó.

Vừa làm vừa hướng dẫn Hoàng Lan cách tránh virus cho nó và nên tải nhu liệu nào phòng ngừa mã độc tốt nhứt.

Hoàng Lan vỗ trán.

Cô khó xử nhờ:
– Anh cài giùm tôi nhu liệu nào đồ họa đẹp và sắc sảo được không?
– Được.

Nhưng phải chờ khoảng hai tiếng nữa, để máy chạy êm rồi hẵng làm sẽ hay hơn.
– Không sao.

Tôi cũng chưa xuống núi liền.
Rồi sau đó, Trì Thương dẫn Hoàng Lan đến hang động mà các Trưởng lão đang ẩn tu để nói chuyện với nhau.

Từ đây tới đó không xa lắm, nhưng với một người quanh năm suốt tháng ngồi bàn máy suốt ngày như cô thì rất khó đi.

Hai bên đường hoa mười giờ e ấp ngủ, sắc xanh át hẳn màu tím biếc dễ thương.

Cũng may quanh đây không thiếu bóng râm của những cây cổ thụ nhiều tuổi hơn hai người, nên nắng nóng không mấy oi bức.

Nhưng giống như đường đời, có lúc này – lúc khác, nên ngã rẽ tiếp theo trơ trọi vài cây thốt nốt già cỗi đứng thẳng lưng hệt như người lính gác biên thùy.

Mười giờ không còn độc tôn nữa, thay vào đó là hàng chục giống kỳ hoa dị thảo tranh nhau đua sắc chen hương.
Ngang qua một bụi bông bùm sụm, Hoàng Lan nhỏ giọng gọi:
– Thảo.
– Hửm?
– Sao anh không kể rõ ngọn ngành cho gia đình biết chuyện anh đã ra tay cứu em?
Trì Thương trầm giọng:
– Kể rồi đó chứ.

Mà tại vì ba má tôi đang rối trí do lo sợ anh Hai tôi không qua khỏi nên đâu có để tâm nhớ.

Hoàng Lan cắn nhẹ môi.

Chung quy đều tại thằng cha Hai hết.
– Mà nè…
– Sao?
– Em thấy tiếng nói của anh nghe…!ôn tồn, từ tốn hơn anh Thương.

Tiếng nói của cha Hai nghe lách cha lách chách thấy phát ghét, đôi lúc lại sến rện thấy ghê.
– Khi thương trái ấu cũng tròn, khi ghét trái bồ hòn cũng méo.

Vậy chứ ở gần anh Hai tôi mấy năm, Lan không thấy ảnh có ưu điểm gì sao?
Ưu điểm ư? Nhiều lắm chớ…!Ga-lăng nè, nấu ăn giỏi nè, nhà cửa luôn ngăn nắp – thơm tho nè, có tiền có của nè, mợ Hai dễ tánh và thương con dâu nè, hào hiệp trượng nghĩa nữa,…!Ủa? Nhiều vậy mà mình hổng ưng ổng ở điểm nào cà, trái tim nó ngộ thiệt, nó có lý lẽ riêng mà trí óc không thể nào sai biểu được.

Nghĩ tới đây, đôi mắt của Hoàng Lan lại ướt rượt.
– Em đâu cần người có nhiều ưu điểm, em cần người em thương hơn…
– Người Lan thương đâu có thương Lan đâu mà Lan phải nhọc công trông mong.
– Em biết.

Nhưng em chẳng thể bắt nó thương người thương em.

Trì Thương cúi xuống, lượm một hòn đá lên rồi chọi vô gốc cây đã chết khô tự bao giờ.

Đoạn nói:
– Buông bỏ là như vậy đó.

Giữ lại hay quăng đi là ở mình.

Đừng đổ thừa ngoại cảnh.
– Em không phải là Phật Tử nên không thể hiểu triết lý bên Đạo anh đâu Thảo.
– Cho nên tôi mới tạo thí dụ cho Lan hiểu.
– Anh ác với em quá.

– Còn Lan ác với anh Hai tôi quá.
Hoàng Lan ngó sững Trì Thương.

Cô run giọng hỏi:
– Tại anh Thương mà anh phải đi tu, sống đời khổ hạnh và chật vậy như vầy…
Trì Thương khoát tay:
– Hồi đầu là vì anh Thương, bây giờ là do tôi muốn.

Lan nhìn thấy tôi không có cái gì, kỳ thực tôi có tất cả mọi thứ: Tôi không bị gánh nặng cơm áo gạo tiền, chẳng phải nhìn thế gian tranh đấu với nhau tới chết hay phải khổ sở tìm cách vun vén cho tuổi già.

– Vậy anh có bàng quan với thời cuộc không?
– Không.

Nếu như có thể giúp thay đổi thời cuộc theo chiều hướng tốt hơn, tôi sẽ làm liền.
Nói tới đó, Trì Thương lẳng lặng đi tiếp.

Cái nắng xế Ngọ gay gắt trên cao như muốn đổ lửa xuống mà thiêu cháy hết núi non nơi đây.

Vắng bặt tiếng của muông thú và chim chóc, dường như chúng đã tìm nơi tránh nóng hết rồi.

Ngoài tiếng suối reo róc rách và tiếng bước chân giẫm trên cỏ loạt soạt của hai người, không còn âm thanh nào nữa.

– Chờ chút…
– Dạ?
Trì Thương quỳ một gối bên gành nước xiết mà đưa tay khua khoắng.

– Rồi, không có rắn, cũng chẳng có lươn hay lạch, Lan đi qua được rồi.
Hoàng Lan cười chúm chím coi thiệt dễ thương.

Trì Thương chọn nơi hẹp và nông nhứt mà bước qua.

Chú dặn Hoàng Lan đứng đó đợi mình qua trước.

Thấy đã an toàn, chú mới biểu cô nắm lấy tay mình để chú kéo qua.

Cô đỏ ửng mặt nhìn chú, vẫn thấy người trước mặt nhìn mình với đôi mắt trẻ thơ chứ không phải là một người đàn ông tứ tuần.

Đoạn Trần đang ngồi chằm nón lá cho một bà cụ ở Tri Tôn ở trước cửa hang động, ông biết sư đồ và nghiệt duyên của nó sẽ ghé qua đây nhưng không muốn ngẩng lên chào hỏi.

Quành vô một ngách nhỏ, chưa bước được mấy bước mà hương lan rừng đã xộc tới thơm lừng.

Rồi trước sự kinh ngạc đầy thích thú của Hoàng Lan, hàng trăm chò lan đủ giống – đủ kiểu được sắp đặt ở khắp mọi nơi; chỗ này đón nhận một lượng ánh sáng mặt trời vừa phải, cũng như lợi dụng nguồn nước tự nhiên mà tưới cây rất thuận tiện và gọn gàng.
Hoàng Lan chắp tay trầm trồ:
– Ai trồng lan đẹp dữ vậy anh Thảo?
– Là Thủy Diệu.

Cẩu chuyên đi lượm những nhánh lan sắp chết quanh đây rồi về dưỡng lại từ đầu.

Số sống thì trồng, số chết thì làm phân bón.

Hoàng Lan nhìn mối tình đầu với đôi mắt đẫm lệ:
– Người ta khoái mua lan sống về trồng hơn là lan hấp hối.

Cũng như người ta thích bắt chuyện với một con nhỏ ăn bận sạch sẽ hơn là một đứa gái đầu bù tóc rối ngồi khóc dưới chưn cột đèn.

Đôi mắt của Hoàng Lan trở lại cái nhìn ngưỡng vọng và hàm ơn vô bờ của đứa gái bị mọi người xung quanh né tránh vì sợ dây vào phiền phức năm nào.

Trái tim của Trì Thương tự nhiên hẫng một nhịp.
– Sao lúc đó anh hổng sợ em là “thành viên” của đám chăn dắt con nít vậy?
Trì Thương hồi thần.

Chú cười buồn mà đáp rằng:
– Ba tôi dạy tôi rằng, “Giúp ai được thì giúp.”
– Cái bà bán bột nui năm nay già lắm rồi anh, con dâu của bả ra bán thế, em đi làm về hay ghé đó ăn lắm.
– Vậy hả?
Bất thình lình, Hoàng Lan nhào tới, rồi vòng tay ôm chầm lấy Trì Thương mà khóc tức tưởi.

Cô nức nở thổ lộ:
– Thảo ơi, em yêu anh mà Thảo ơi…!Tại sao em không yêu anh Thương nổi vậy?
Trì Thương cố sức gỡ vòng tay của Hoàng Lan ra.

Nhưng không thể.

Dưới sức lực của chú, những ngón tay của cô thiếu điều muốn bị bẻ gãy.

Rốt cuộc, chú để mặc cho cô ôm, còn phần chú thì đọc thầm bài “Kinh Lăng Nghiêm”; tình cảnh này chẳng khác nào tôn giả Ananda và “người tình tiền kiếp” Ma-Đăng-Già, nhưng về sau Ma-Đăng-Già là A-La-Hán nữ, còn…
Hoàng Lan đang khóc tức tưởi.

Tiếng khóc xé lòng và muốn xé luôn Bát Chánh Đạo của Trì Thương.

Chú vẫn đang lầm rầm trì tụng “Shurangama Mantra”.
– Lan có viết vở “Die Sieger” của soạn giả nước Đức Willhelm Richard Wagner không? Về sau được dựng thành vở ca – vũ – nhạc kịch “Chandalika”…
Hoàng Lan ngước mắt nhìn chú mà hỏi:
– Không…!Nhưng, nội dung là gì vậy anh Thảo?
– Kể về chuyện Ma-Đăng-Già yêu say đắm tôn giả Ananda và đã được Đức Phật thức tỉnh mà tinh tấn tu luyện thành A-La-Hán.

Vở diễn chỉ nói tới khúc đầu, còn phần sau thì không diễn.
Hoàng Lan run giọng nói:
– Kết thúc có hậu hơn vở diễn “Notre Dame de Paris” nhiều.
– Ôm đủ chưa?
– Chi vậy?
– Đủ rồi thì làm ơn buông tôi ra.

Hoàng Lan nuối tiếc buông lơi vòng tay, rồi lùi về phía sau mấy thước.

Cho tới khi đầu cô đụng trúng chò lan Hồ Điệp mới thôi.

Trì Thương chỉnh lại tấm áo cà-sa, rồi hỏi:
– Nói hết những lời chất chứa trong lòng rồi thì quên tôi được chưa?
– Chưa đâu anh.
– Anh Hai đang ở tịnh thất đợi tôi và Lan đó.
Đôi mắt của Hoàng Lan mở bừng, cô sửng sốt hỏi:
– Ảnh lên đây chi vậy?
– Đón Lan chứ chi?
– Em chửi ảnh nặng vậy mà ảnh hổng giận hả?
– Chứ nãy giờ tôi nói cộc lốc mà Lan có giận đâu.
– Ai yêu mà không mù quáng hả anh?
– Đức Phật và công chúa Da-Du-Đà-La.

Ngài lẫn Bà đều tôn trọng quyết định và con đường của nhau.
– Em đâu có cao thượng như vậy.

Nếu anh không phải Tăng sĩ và theo Đạo Phật, mà là một người đồng Đạo với em, một ngày bỗng về biểu anh muốn trở thành Đan sĩ hay Linh mục chắc em chết luôn chứ sống không nổi.
– Lan được một cái là rất thẳng tánh.

Còn không được một cái là quá lụy tình.

Hoàng Lan cong môi:
– Anh cũng vậy thôi.

Cái không được của anh là quá vô tình.

– Nhẹ lòng rồi phải không?
– Dạ, dễ chịu hơn rồi…!Thôi mình về anh hén? Để coi cha Hai sao.
Trì Thương gật đầu, phì cười:
– Ừm…
Nhờ sự dẫn đường của Thanh Liên mà Trần Kim Thương tìm được hang động đó.

Chú sợ người yêu bị mệt nên đem theo nước mát, kẹo gum vitamin và bánh ngọt.

Nhác thấy mặt Hoàng Lan, chú Thương nói liền:
– Anh sợ em bị gạt nên lên đây đón em.
Hoàng Lan cười mà mặt mày méo xệch:
– Đã nói không có thương mà cứ đeo theo hoài.
– Kệ, thương hay không thương cũng được, em uống miếng nước cho đỡ khô cổ đi.

Anh mua sâm bông cúc nấu với nhãn nhục, hột sen ngon lắm.
– Nãy giờ tôi ăn quá trời nhãn nhục rồi…
– Ủa ở đây có hả?
Hoàng Lan chép miệng mà lắc đầu nguầy nguậy.

Đúng là ông thần thừ!
Không để ý tới sắc mặt của Hoàng Lan, Trần Kim Thương chắp tay bạch Trưởng lão Đoạn Trần:
– Dạ, Mộc Thảo đâu thưa Thầy?
Đoạn Trần cười hiền đáp:
– Nó đi tắm rồi.

Trời hành cơn nắng dữ, Hè mà.
Chỗ tắm gội là vũng nước ở một cái ngách nhỏ trong hang, được ngăn bằng bình phong làm từ phên tre có thể gấp lại.

Cạnh đó có một trũng sâu là nơi giặt giũ y phục của nhóm Trưởng lão, họ mượn độ dốc của cái trũng để làm sàn nước và đường ống thoát nước.
Thanh Liên ngồi giặt lại bộ cà-sa mà Trì Thương vừa mặc trong lúc sư đồ của chú đang tắm.

Mùi phấn son và dầu thơm hãy còn lưu lại khá nhiều, chú không hiểu xài thứ chi mà giữ hương lâu đến vậy.

Tiếng xối nước từ trên đỉnh đầu xuống chân ào ào như thác lũ, lửa lòng của sư đồ đã tắt từ rất lâu rồi, có chăng tình cảm mà sư đồ dành cho cô gái ấy là sự thương hại mà thôi.

– Cũng may Thảo đủ cứng rắn.
Trì Thương vừa chà xà-bông trơn lên cơ thể một lần nữa để tẩy mùi ái lạc Ta-Bà vừa nói:
– Nhờ tôi không “cứng rắn” nên mới qua được cái ải này.
Thanh Liên bật cười mắng:
– Bữa nay giỡn bậy hén?
– Tôi vẫn chưa đắc thành Chánh Quả A-La-Hán mà Thầy…!Tôi diệt được Sân, Hận, Phẫn, Sầu, Tham, Ái,…!nhưng không diệt được chữ “Bi”.
– Nếu như Thảo hoàn tục và cưới cô gái đó thì hai người cũng chẳng hạnh phúc.

Khác Đạo, khó sống chung.

Nếu đồng Đạo dựa trên sự miễn cưỡng thì về sau sẽ khốn khổ muôn vàn.
– Dạ, anh Hai tôi có thể đem lại một cuộc hôn nhân viên mãn cho cổ, còn tôi thì tuyệt đối không.
Lau khô mình mẩy rồi đắp áo cà-sa xong thì đã qua hai giờ chiều.

Trì Thương nhìn bộ cà-sa thấm đẫm mùi tục lụy đó được nắng gió năm non bảy núi hong khô mà lòng cảm thấy nặng trĩu ưu tư.

Thanh Liên đang vẩy nước bưởi lên tấm áo nhà tu của chú, vừa làm vừa ngân nga bài nhạc Kinh “Om Tara”.
Chợt, một bản nhạc Kinh quen thuộc vang lên đằng sau lưng hai người.

Đó là bài “Buddham Sharanam” do Craig Pruess thực hiện.

Đoạn Trần để cái máy MP4 xuống đất, rồi bước lại gần họ và đứng chắp tay sau lưng mà ngắm vòm trời xanh ngắt và điểm nhiều cụm mây trắng xốp như bông.
Trì Thương nhắm nghiền mắt, đầu hơi cúi để tránh ánh nắng quấy rầy hai con ngươi, đôi tay của chú chắp lại thành hình búp sen.

Những vòng Sát-na nghiệt duyên hiển hiện lên trong tâm trí chú, chúng xáo động mãnh liệt rồi vỡ tan ra như bọt nước; mọi thứ là Tác Duyên, đến và đi là Vô Thường, mất là ở lại, thế giới của Nhị Nguyên cứ thế hóa thành Vũ Trụ trong tâm thức chú.

Tâm thức của chú không còn bị trạo cử nữa.

Đến lúc chú mở mắt ra, tấm áo cà-sa đã phai mùi tục lụy và nghiệt duyên.
Bóng chiều ngả dần về Tây, cái nắng vẫn hoành hành trên cao, không một gợn mây trắng vương trên nền trời màu thiên thanh trong vắt.

Thảng có một cơn gió lớn thổi qua, đem theo hương thơm lúa trổ đòng đòng và mùi rơm rạ hăng hắc lên trên chót Cô Tô.

Từ trên đỉnh Phụng Hoàng Sơn nhìn xuống, con đường quạnh quẽ mấy hôm trước nay tấp nập vài cái máy cày, máy tuốt lúa cùng những chiếc xe bán tải chở gạo và xe gắn máy của người làm công hoặc của chủ đất; ai nấy đều hối hả làm thật mau để tụm lại nhậu nhẹt hay về nhà nghỉ ngơi.
Hoàng Lan và chú Thương đang ngồi ngắm cảnh ở một mỏm đất lưng chừng núi Cô Tô.

Đồ ăn – thức uống mà chú mang theo đã sạch trơn, công nhận mẹ chú nói đúng thiệt: “Con gái mà buồn ăn hàng dữ lắm.”
– Lan, em tính ở đây hay về Sài Gòn luôn?
– Tôi tính ở chơi một tuần.

Có chi hôn?
– Thì để anh liệu đi hay ở.
Hoàng Lan vỗ vai cha Hai mà cười biểu:
– Tôi mắc nợ anh Thảo, còn anh mắc nợ tôi.
Chú Thương cười khổ.

Đoạn hỏi:
– Em còn muốn ăn gì không?
– Còn, lát ghé Tri Tôn mua bánh trái gì ăn…!Gì nhìn dữ vậy? Tôi ăn nhiều kệ tôi.

– Mốt có bầu chắc chồng em nuôi em không nổi.
– Tôi đâu cần ai nuôi tôi, tôi đói tôi tự mua đồ cho tôi ăn được hôn?
– Dạ được…!Chị lẫy hoài em sợ chị rớt xuống núi quá…
Không có cha Hai nhắc, chắc cô cũng quên cô đang ngồi ở đâu.
– Mà nè, lỡ tôi rớt xuống dưới thì anh tính sao?
– Thì anh chạy đi kêu người tới cứu chứ sao?
– Hổng đau khổ tới mức nhảy theo hả?
– Em đâu có ngu đâu chị.

Vả lại, em đâu phải Dương Quá mà nhảy xuống dưới còn sống.

Hơn nữa, biết đâu chị vướng cành cây chị còn sống, còn em “tiếp đất” luôn thì sao?
Hoàng Lan tát nhẹ mấy cái vô miệng chú Thương mà cong môi nói:
– Cái mỏ lách cha lách chách thấy phát ghét.

Nói dai, nói dài riết đâm bang.
Chợt cô la lên:
– Trời ơi! Nãy giờ ngồi đây mà quên xức kem ngừa nắng, uổng công hôm trước đi dưỡng da…
Chú Thương ngoáy ngoáy lỗ tai cho bớt đau:
– Chị, chị, chị ngồi đây mới có hai tiếng mà chị làm em tưởng chị là Hòn Vọng Phu đứng đây cả ngàn năm.
– Bà kia là đá bả đâu có sợ hư da, tôi là người được chưa? Giờ muốn đi ngoạn cảnh với tôi không? Còn không thì đứng đó thay thế Hòn Ông Két đi.
Chú Thương nắm tay kéo người thương đứng dậy.

Cái siết tay ấm áp và thận trọng đó khiến Hoàng Lan cảm thấy buồn buồn; người kia đưa cô qua khe nước mà như một vị tôn giả đưa đồ đệ sang sông để cập bến Chánh Pháp.

Chú đợi người thương đi sâu vô phía trong bờ đất rồi mới an tâm bước theo.

Cô đang dừng bước để chụp lại bụi hoa hải đường, nét cười tươi tắn đã trở lại trên môi cô.
Hai người sóng vai nhau mà trở về tịnh thất của nhóm Tăng sĩ Theravada.

Hai cái miệng thường ngày không ai đấu lại giờ chỉ vì chữ Tình mà trở nên im bặt và sượng sùng.

Nắng cuối ngày nóng không thua gì vắt Chính Ngọ, cũng may chú Thương dẫn người yêu băng qua rừng thốt nốt vô chủ nên mới bớt mệt và nực nội; đây là con đường tắt mà em trai đã chỉ cho chú và các thành viên khác trong gia đình cùng hai anh tài-xế.
Ngẩng nhìn những buồng thốt nốt treo tít tận trên lưng chừng trời một đỗi, Hoàng Lan thèm thuồng:
– Ước gì giờ có trái dừa xiêm hay ly nước thốt nốt thì sướng biết mấy.
– Em uống hôn? Anh leo lên hái cho.
– Thôi đi cha…!Cha mà vuột tay té chết báo con nữa.
– Sao Lan không nói chuyện ngọt ngào với anh được vậy?
– Hổng biết nữa.

Tự nhiên nhìn mặt anh, tôi nói ngọt không được.
Chú Thương cười khổ, rồi giả lả hát:
“Cho anh làm tình nhân
Lúc sáng anh mong anh chờ
Lúc chiều anh thương anh nhớ
Anh hứa yêu em thật nhiều…”
Hồi mới quen nhau, cha Hai đã gởi cho cô bài “Cho anh làm tình nhân” của nhạc sĩ Tô Thanh Tùng và qua phần biểu diễn của Nhật Trường.

Thuở ấy, cô chẳng ưa nghe dòng nhạc miền Nam trước năm 75; chỉ vì ngộ nhận yêu mà cô đã mở lòng đón nhận.

– Phải chi lúc đó em gặp anh thì hay biết chừng nào.

– Phải chi anh đừng thập tử nhất sinh thì thằng em anh đâu có phải đi tu.
– Anh Thảo nói ngày trước là vì anh, bây giờ là bởi ý muốn của ảnh.
– Cái thằng này…!Buông bỏ có cái gì sướng chứ?
– Vậy chứ ôm đồm như anh và Lan có cái gì vui?
Trì Thương không còn đắp cà-sa kín mít như ban nãy, giờ đây chú mặc hở một bên vai như thường ngày, để lộ hình xăm trên cánh tay trái.
Lại một lần nữa, Hoàng Lan cay đắng nhận ra Mộc Thảo vẫn thuận mắt mình hơn là Kim Thương.

– Tôi đã gọt sẵn xá-lị cho hai người ăn giải khát rồi.

Chỉ còn cách tịnh thất chừng một trăm mét nữa thôi.
Không muốn tâm trí tìm điểm so sánh giữa hai anh em sanh đôi này, Hoàng Lan lại nghe nhạc trên máy Ipop.

Cái bài hát “Đau đớn riêng em – Mal de toi (Còn đau vì anh)” của nhạc sĩ Alan Nguyễn qua giọng ca của Ngọc Lan như đang nói mỉa cô.
Dưới gốc cây bồ đề có những cọng râu phất phơ theo cơn gió lãng du, Châu Lợi đang ngồi tọa thiền.

Khuôn mặt trẻ măng cùng thân hình lực lưỡng của ông đã khiến không ai tin ông đã gần bảy mươi, người ta cho rằng ông mới cập ngưỡng tứ tuần.

– Huynh trưởng.
Châu Lợi lắc đầu.
Trì Thương phì cười:
– Phải.

Qua giờ thọ thực rồi mà?
Châu Lợi kể:
– Trong Kinh sách cũng hay nhắc tới chuyện Đấng Thế Tôn thường nhờ tôn giả Ananda vắt trái xoài thành nước uống.
Chú Thương bật cười vặn hỏi:
– Vắt sao được?
Trì Thương đáp liền:
– Thì uống như sinh-tố.
– Công nhận em tôi người ta nói cái giống gì nó cũng có thể biện luận lại được.

Hoàng Lan ngó Mộc Thảo mà cười thật duyên.

Hoàng Kỳ nhác thấy hai người khách đường xa bèn hoan hỉ mời vô ăn xá-lị ướp lạnh giải khát.

Trái ngược với dáng vẻ phong trần và lãng tử của anh Hai, nhị sư huynh lại ôn nhuận như ngọc và có cái gì đó rất thoát tục.

Cái máy tính xách tay của Hoàng Lan được Thủy Diệu cất ở thư phòng.

Chú hiện đang soạn bài giảng cho buổi thuyết pháp sắp tới của Đại Trưởng lão Thanh Liên trên Laptop, dưới sự cố vấn tiếng Việt của Phú Lâm.

Chú Thương gợi chuyện:
– Hỏi khí không phải, tại sao thân hình…
Trì Thương đáp liền:
– Ngày nào cũng trèo đèo, lội suối, băng rừng, vượt sông, lên thác, xuống gành thì hỏi làm sao không vai u thịt bắp?
– Còn bánh kẹo, trái cây sao hết mau vậy?
– Bọn đệ đem cho nhóm cư sĩ Hòa Hảo và các Trưởng lão.
Nói tới đó, Trì Thương đánh tiếng cáo lỗi, rồi đi một hơi xuống nhà sau để nói chuyện riêng với huynh trưởng và Trưởng lão.
Một Thầy, một trò đang ngồi trên tấm chiếu mà thưởng trà với nhau.

Mây thấp tới nỗi chừng như muốn sà xuống đây mà quần tụ để an lạc trong Theravada.

Có hai câu thơ của Ức Trai – Nguyễn Trãi trong “Quốc âm thi tập”, phần Mạn thuật số Sáu, như sau: “Bẻ cái trúc hòng phân suối/ Quét con am để chứa mây.” Có lẽ tả đúng với khung cảnh hiện thời.

Những cánh hoa Vô Ưu nằm chết trên mảnh sân được lót gạch tàu đã nhuốm màu rêu phong cổ kính.

Vây quanh manh chiếu con là trăm xác hoa khô, hương sắc đã trôi về dĩ vãng.

Dầu lá hay hoa già nua, rơi rụng, những tán cây Sala vẫn mạnh giỏi như thường, bất chấp dòng thời gian luân chuyển thời tiết ra sao.
Không đợi ai mời trà, Trì Thương đã chắp tay bạch:
– Tôi sẽ vào động ẩn tu một tháng, coi như là hình phạt vì đã phạm giới cấm ngày hôm nay.
Thanh Liên tán thành:
– Có gì tôi sẽ tiếp tế trái cây và nước uống.
Không chần chừ thêm một phút nào nữa, Trì Thương cùng Thanh Liên ôm bọc đồ đi một hơi tới nơi ấy.

Từ đây đến đó chỉ mất hơn nửa tiếng, vượt qua một gành nước réo và một cái xẽo đầy sao nháy ngũ sắc sẽ thấy một bức rèm hoa bìm bìm tím biếc, cái hang động nằm sau bức màn đấy chính là phòng thiền mà các đời Trưởng lão trước đã dày công xây cất.

Phòng thiền không có cửa nẻo, chỉ có một buồng kín để làm chỗ đi tiêu – tiểu và tắm gội, cửa buồng nằm hướng ra bức màn hoa; ngoài ra còn một kệ sách nhỏ dựng ở vách buồng kín.
Về phần Hoàng Lan và Trần Kim Thương, hai người không thấy Trì Thương trở ra nên nóng ruột hỏi Châu Lợi.
– Nó ẩn tu chịu phạt rồi.
Chú Thương mau miệng:
– Vì phạm Sắc Giới?
– Không, là Vọng Ngữ.

Tâm nó đâu có chứa bóng hồng nào mà phạm Sắc Giới.
Đã hết giờ nói chuyện của Châu Lợi nên ông xin phép lui vào rừng sâu tĩnh tọa; dù không bằng lòng nhưng Hoàng Lan và chú Thương không dám lên tiếng mời ở lại.
Thanh Liên bưng khay trà Thiết Quan Âm ra đãi hai vị khách, còn bình trà cũ thì chú sẽ giữ xác trà để làm phân bón cho cây trồng.
Chú Thương hỏi Thanh Liên về việc giảng Pháp trong Nước, và vị Đại Trưởng lão trẻ măng trả lời như vầy:
– Bây giờ, tôi lấy thí dụ tôi là người viết ra bài “Kinh Bông Hoa”, trong đó có một đoạn đại ý như sau: Bông hoa có đời sống rất ngắn ngủi, nhưng trước khi tàn lụi nó sẽ có muôn hình vạn trạng khác nhau: Lúc e ấp ngây thơ, lúc bừng nở diễm kiều.

Cuộc đời cũng vậy, mọi thứ là Vô Thường, vạn pháp là do Duyên đưa đến và đẩy đi, không ai có thể níu giữ một cái gì mãi mãi hay chống đối được với cái chết.

Trên đây là nội dung bài Kinh do tôi tự nghĩ ra để làm thí dụ cho hai thí chủ hiểu, nếu có câu nào hay ý nào trùng với những câu hay ý trong một số bài Kinh gốc thì đây chỉ là hiện tượng ngẫu nhiên, không phải do tôi cố tình nghĩ ra để xuyên tạc Chánh Pháp hay trục lợi cho mình.
Ý của bài Kinh do tôi chỉ ra nói về sự Khổ và Vô Thường, bỗng đâu thí chủ lại diễn giải thành tôi muốn khuyên chúng sanh phải biết trân trọng cuộc sống và yêu quý bản thân cũng như thân bằng quyến thuộc, bạn hữu gần – xa.
– Ha…!Cái này trên mạng đầy nghen Thầy Liên.

– Niết Bàn là gì hả Thầy Liên?
– Niết Bàn là không còn luân hồi nữa.
Châu Lợi bổ sung:
– Nếu nói Đấng Thế Tôn xuất gia là vì thấu hiểu đời này chỉ là cõi tạm thì không đúng với con đường Chánh Pháp của Ngài.

Tụi tôi tin vào Luân Hồi nên muốn thoát khỏi Luân Hồi, thành ra chúng tôi mới tới đây ẩn tu.
Hoàng Lan phản bác:
– Nhưng cuộc đời có vui có buồn, đâu phải lúc nào cũng khổ?
Thanh Liên mỉm miệng cười, rồi mới nói:
– Thí chủ yêu Trì Thương, thí chủ đâu có sướng đúng không? Nếu nó xiêu lòng hoàn tục cưới thí chủ thì thí chủ còn khổ hơn, vì lúc nào cũng nghĩ tại mình mà nó phải hỏng đường tu.

Mà nếu như nó không làm thí chủ cảm thấy tội lỗi vì điều này thì thí chủ lại khổ vì bị thất vọng do nó không giống như hình tượng mà thí chủ đã dày công xây đắp trong lòng.

Rồi thí chủ với nó có con, lại khổ vì tìm cách vun vén tương lai và bồi đắp kiến thức cho xấp nhỏ; mà nếu lỡ không có con á, thì một hoặc cả hai người tự làm khổ mình và sớm muộn gì cũng tự gieo rắc những ý niệm phỉ báng Trời – Đất hay Phật – Chúa.
– Gì khổ đủ đường vậy?
– Có là Khổ.

Chú Thương ướm hỏi:
– Vậy Đấng Thế Tôn đã dạy các vị về cái gì?
Thanh Liên trả lời:
– Dạy chúng tôi cách đối mặt với Sự Khổ nên chúng tôi không oán mà chỉ cảm thấy thương hại những người hay việc đã gây ra những tình huống mang chiều hướng xấu cho mình.
Hoàng Lan xin phép được đặt một vài câu hỏi với Đại Trưởng lão Thanh Liên.

Người Thầy tuổi trạc tứ tuần tươi cười mời cô gái si tình phát biểu.
– Vậy, Đức Phật có phải là một con người không?
– Theo Tăng đoàn của tôi thì không.

Vì chỉ có con người và những dạng thức chúng sanh khác mới Luân Hồi, còn một vị Phật thì đã thoát khỏi cái vòng trầm luân của Tử – Sanh và Duyên – Nghiệp.
– Vậy, Đức Phật có phải là một bậc Thần – Thánh không?
– Cũng không luôn.

Vì một bậc Thần – Thánh vẫn còn Chấp Niệm, Ngũ Uẩn và chưa diệt trừ được Tâm Ma của mình hoàn toàn; còn Ngài đã đoạn tận hết thảy mọi kiết lậu và phá chấp của tâm thức.
– Vậy, tại sao lại có chuyện Thánh – Thần thị hiện để cứu người hay răn đời?
– Một, là do người đó có thể là một bậc giác giả trong tương lai nên khi hội đủ nhân duyên sẽ được một vị cao xanh thị hiện để thức tỉnh.

Hai, là người đó có nhân duyên ở một cái kiếp rất xa xôi với vị cao xanh ấy nên vị ấy mới xuống ứng cứu để trả dứt căn trần với nhau.

Và ba, là tâm tánh của người đó không tới nỗi vô phương cứu chữa nên vị cao xanh ấy mới xuất hiện để giúp người đó quay về nẻo Thiện, và nhân đó lấy làm bài học mà khuyến hóa chúng sanh về đường Ngay – ngả Phải.

Hoàng Lan gãi đầu cười trừ.

Cô nghe cho vui chứ đâu có để tâm vì cô là Giáo dân mà.
– Thí chủ đã hết câu hỏi rồi phải không?
Dù hết sức kinh ngạc nhưng Hoàng Lan không lên tiếng xác nhận.
Thanh Liên châm trà vô tách của hai vị thí chủ, vừa làm vừa nói:
– Thí chủ nghĩ tôi sẽ giống như những Ma Tăng chuyên lên tiếng công kích Kitô Giáo nên đã cất công soạn sẵn một bài diễn văn để đáp trả phải không?
– Phải.
Thanh Liên mỉm miệng cười:
– Đó chính là lý do mà chúng tôi phải ẩn tu, không tham gia bất kỳ tổ chức, giáo hội hay ban bệ của ai; quanh năm suốt tháng lánh mình nơi thâm sơn cùng cốc, nghe chim hót – suối reo, mượn màn sao làm trướng lộng và đất lành làm giường ngủ, cây rừng làm tường thành che chắn và cỏ hoa ướp hương đời Phạm-Hạnh.
Thấy trời đã nhá nhem tối, Thanh Liên biểu hai người để Phá Vân chở xuống núi cho an toàn.

Hoàng Lan bèn nhờ người Tăng sĩ vẫn còn phảng phất nhiều nét phong lưu dù đã tu tập khá lâu ấy đưa mình và cha Hai tới Tri Tôn; Phá Vân vui lòng ưng thuận, nhưng xin đem theo Phú Lâm cho vui.
Sẵn có Phú Lâm, chú Thương mới hỏi về mối quan hệ giữa người này và em trai mình.
Số là vầy: Kể từ ngày lượm được Phú Lâm, Trưởng lão Như Phong trở thành một người cha bất đắc dĩ, còn Châu Lợi phải đóng vai anh Hai và đương nhiên Trì Thương phải làm anh Ba.

Vì chú hãy còn quá nhỏ nên Trưởng lão chỉ có thể dắt một trong hai sư huynh đi khất thực, người còn lại phải ở nhà giữ em.

Ban đầu chỉ tốn công đi xin sữa, tã lót, trang phục và sản phẩm chăm sóc trẻ nhỏ; về sau những thứ cần cho trẻ nhỏ ngày càng nhiều, nhứt là phấn rôm để tránh bị hăm mông do mặc tã thường xuyên, hết cách, gia đình “toàn người dưng” rủ nhau đi lượm ve chai và hái thảo mộc đem về bán để mua lấy đồ dùng và bánh kẹo cho chú.

Có lần chú xuống Bến Tre được một thí chủ tặng cho cái bánh tráng quết mạch nha có rắc dừa bào sợi, ăn xong ghiền luôn, rồi về An Giang cứ mè nheo với Trưởng lão và hai sư huynh; Châu Lợi nạt cho một trận, còn Trì Thương thì dịu ngọt nói mình có dịp đâu mà xuống Kiến Hòa, và Như Phong lại hứa sẽ xin thí chủ ấy đem lên cho chú nếu người ta thuận đường lên đây.

Và rồi, sau hơn ba tháng chờ dài cổ, rốt cuộc thí chủ ấy cũng có mặt, không chỉ đem theo bánh tráng mạch nha mà chú yêu thích, mà còn mang bánh lá dừa, bánh ít, bánh tét, bánh phồng sữa, kẹo dừa, kẹo chuối, thèo lèo – cứ* chuột và mứt mãng cầu.

Chú ăn nhiều tới nỗi bị nổi đẹn, sưng hạch và nhức buốt nguyên hàm răng; từ đó đến nay chú bỏ luôn cái tật ham ăn hốt uống và biết giữ gìn vệ sinh răng – miệng rất chu đáo.
– Rồi sao anh bỏ tu?
– Ba ruột tôi lên rước về nên tôi hoàn tục.

Không còn ai quản thúc và uốn nắn tôi đúng mực, trong nhà lại có sẵn tiền, đâm ra tôi đổ đốn và trở thành tay gian thương thứ dữ.

– Rồi vì sao anh tu lại?
– Tôi đã phản bội vợ tôi nên muốn lên đây ẩn tu để sám hối với gia đình mình.

Ai ngờ đâu…
Khi tới lưng chừng núi, chiếc xe phải ngừng lại để chờ châm thêm nước giải nhiệt.

Nhân đó, Hoàng Lan nhờ hai vị Tăng sĩ giúp mình đi ngắm cảnh xóm đêm và truông mây, cô muốn tìm cảm hứng cho bộ sưu tập thời trang Hè – Thu sắp tới.
Nơi đây im ắng khôn cùng.

Vài con chó, hoang có, nhà nuôi có, cũng làm biếng sủa lên vài tiếng cho quang cảnh đỡ quạnh quẽ.

Nhà nào nhà nấy đều nằm khuất sau một cái hàng rào thâm thấp, cửa nẻo khóa kỹ, số căn mà Hoàng Lan đếm được không quá vài chục nóc: Có vài căn san sát nhau tụ lại thành khóm, có nhiều căn lại nằm lẩn khuất trong thảm lá – vườn cây.

Dù đã cố gắng hết sức, nhưng tiếng bước chân của cô và cha Hai vẫn vang lên thật lớn, gần như chiếm lĩnh toàn bộ tổng thể âm thanh của chỗ này.
Chú Thương nói thật khẽ:
– Tôi muốn biết thêm chuyện đời của anh được không, anh Lâm?
– Được.
Rồi Phú Lâm kể:
– Ba tôi là một chính khách tham nhũng, đã vậy còn đi lăng nhăng – bay bướm khắp nơi.

Nhưng không hiểu Duyên Nghiệp thế nào mà ông lại rất thương mẹ tôi, nên tuy ngoài mặt nói không nhận con nhưng trong bụng lại âm thầm giúp đỡ.

Do không thấu được tình cảm của ba tôi, nên trong một phút cạn nghĩ mẹ tôi đem tôi lên đây rồi bỏ vô rừng cho hả cơn điên tình.

May phước sao tôi còn lành lặn, chứ ở đây thiếu gì thú dữ và côn trùng độc.

Sau này thôi bà lớn êm xuôi rồi, ông mới rước mẹ con tôi về nuôi và yêu chiều hết mực.

Ông tính lấy oán trả ơn cha nuôi khi thấy cơ thể tôi nhỏ thó do di chứng của một trận sốt rét rừng, tôi phải hết lời van xin, ông mới chịu tha cho người cha nuôi hiền từ.
Chừng hơn nửa tiếng nữa, chiếc xe mới đưa bốn người tới Tri Tôn.

Rồi hơn hai tiếng kế, chiếc xe lại đưa họ về với tịnh thất trên núi, đi theo họ là mấy bịch đồ ăn – thức uống của Hoàng Lan.
Hoàng Kỳ đã đứng đợi sẵn ở sân trước.

Chú vừa cao mà lại đen bóng nên càng giống pho tượng đồng tợn.

Hồi đầu Hoàng Lan cũng hơi sờ sợ, nhưng sao thấy chú nói chuyện bằng thứ tiếng Việt đơn đớt, dễ thương thì không còn cảm thấy ái ngại nữa.
Thanh Liên, Châu Lợi và Thủy Diệu đang ngồi trên sàn nhà nơi phòng khách mà thảo luận Phật Pháp và thưởng trà với nhau.

– Sadhu.

– Phú Lâm và Phá Vân đồng thanh thưa.
Thanh Liên mời bốn người ngồi xuống.

Hoàng Lan ngồi dựa vào cây cột cái cho đỡ đau lưng.

Còn cha Hai kia thì ngồi tựa người vô vách tường nằm cạnh ngạch cửa.

Riêng hai người bạn đồng tu thì ngồi quanh bàn trà.
Ngồi nói chuyện đâu được nửa tiếng, Thanh Liên khuyên hai người khách đường xa nên đi tắm gội cho mát mẻ rồi về phòng ngủ sớm.

Chú đã dọn sạch sẽ căn phòng ở nhà sau để cho Hoàng Lan có không gian riêng kín đáo, còn chú Thương sẽ ngủ ở căn phòng kế bên phòng ngủ của nhóm Tăng sĩ.
Nhưng vì lạ nước lạ cái, nên dù đã tắm gội rất sảng khoái, giấc ngủ vẫn chưa tìm về với Hoàng Lan.

Cô thơ thẩn ra sau hè ngắm sao, một hồi cũng chán nên đem theo Ipad đi vòng vòng quanh đây cốt để mong cầu tìm ra ý tưởng mới cho bộ sưu tập thời trang Hè – Thu.

Nghe danh Sân Tiên, cô cũng rất muốn tới đó xem trong cảnh khuya u nhàn như vầy, nhưng ngặt nỗi nếu có cha Hai đi theo nói léo nha léo nhéo chắc cô sẽ không còn tâm trạng đâu mà thưởng ngoạn, chứ đừng nói chi là làm việc.
– Thầy Diệu…
Thủy Diệu chắp tay khẽ nói, “Sadhu.”
– Thầy dẫn tôi tới Sân Tiên được không?
– Được.

Nhưng, tôi với thí chủ phải cách nhau ít nhất ba mét.
– Okay.

Rồi trong màn đêm có mây hiền neo lại trên đỉnh núi và sương giăng trùng trùng điệp điệp như mắc cửi, một Tăng sĩ và một Giáo dân kẻ trước người sau lặng lẽ đi về nơi tiên cảnh nổi tiếng của vùng Thất Sơn.

Thảng, vài con chim núi kêu lên những tiếng gọi bầy nghe thê lương lạ kỳ.

Đôi lúc, Hoàng Lan rú lên vì một con rắn hay bò cạp, những khi ấy Thủy Diệu lại lấy cây khều cho chúng bỏ đi.

Chừng đến nơi, cổ họng của Hoàng Lan phát đau, còn lỗ tai của Thủy Diệu nghe mòi ê buốt.

Qua sự việc này, chú thầm cảm ơn bản thân vì đã không tiến tới hôn nhân với bất cứ người nào từng yêu, không thì giờ này chú đã bị điếc đặc rồi.

– Oa…!Đẹp quá đi! Anh biết chụp hình bằng Ipad mà phải không?
Thủy Diệu giúp cho cô Giáo dân ghi lại những khoảnh khắc đẹp của đời cổ nơi Sân Tiên diễm ảo.

Xong xuôi, Hoàng Lan ngồi xuống một tảng đá ở một cội cây có dáng điệu rất hữu tình trong sân, còn Thủy Diệu đứng tựa lưng vào gốc cây tra mọc ven rìa núi.
– Ủa? Anh chụp ở góc nào mà hình đẹp dữ vậy? Chả bù cho cha Hai, tôi phải “gọt” hình gần chết mới dám đăng lên.
– Chẳng giấu gì cô, tôi là một người mẫu có tiếng ở Ba-Lê và Luân Đôn.
– Vậy hen? Vậy…!Ủa? Anh đẹp trai như vầy mà sao tôi chưa từng nghe danh vậy?
Thủy Diệu chỉ cười trừ.
– Mà, anh có luyến tiếc về cuộc sống xa hoa và thượng lưu của mình trước đây không? Chúa ơi, tưởng tượng tôi được lái Maserati trong đêm Paris hay London thì sướng biết chừng nào.
– Không, vì tôi đã nhận ra đó chỉ là một thế giới giả lập, nói đơn giản dễ hiểu thì nó giống như bộ phim “Ma trận” vậy, họ muốn đưa ai lên thì đưa và muốn đạp ai xuống thì đạp.

Có nhiều người tài giỏi và đẹp đẽ không được họ chọn nên đành cam phận vô danh tiểu tốt.
Mải nghe, Hoàng Lan không biết khuôn miệng mình đã hả lớn tự bao giờ.
– Những siêu mẫu mà cô biết đến chưa chắc bằng những người đồng nghiệp mà tôi từng quen đâu.
– Anh nói rõ hơn về cuộc đời của anh được không?
– Họ nâng tôi lên để làm công việc tình báo thuận lợi hơn đặng moi được nhiều tin tức, dữ kiện và tài liệu.

Đến khi tôi biến mất, những nơi mà tôi từng tới hay buổi biểu diễn mà tôi từng dự đều xóa sạch hết sự xuất hiện của tôi.
Chợt nhớ tới anh Thảo, Hoàng Lan trầm giọng hỏi:
– Sao anh lại đi tu hả Diệu?
– Nhân một lần tới Việt Nam du lịch, tôi lên Cô Tô chơi và gặp được Tăng đoàn Theravada.

Tại đây, tôi đã được nhị sư huynh cho thấy Sự Thật nên đã ở lại ẩn tu luôn.
– Anh có hạnh phúc không khi từ bỏ hào quang danh vọng và kim tiền thế gian?
– Hồi đầu cũng bứt rứt lắm.

Đôi lần còn muốn bỏ cuộc kìa.

Nhưng sau một thời gian ẩn tu, tôi đã ngộ ra được rằng cuộc sống hạnh phúc trước đây là do đám người đó sắp đặt hết, họ muốn tôi vui thì họ sẽ cho tôi thứ tôi muốn, họ muốn tôi buồn thì sẽ làm ngược lại…!
– Còn ở đây?
– Tôi được làm chủ cảm xúc và cuộc đời của mình.

– Chỉ có bấy nhiêu thôi sao?
Thủy Diệu mỉm miệng cười, thay cho một lời xác nhận.

oOo
– “Các anh các chị” là nhạc phẩm của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ…!Mấy cưng ăn chi?
Nón Cao Bồi hỏi người bạn thiết muốn ăn món gì, thì bạn anh trả lời rằng thích ăn tàu hũ ba màu và một ly trà hoa hồng.

Về phần mình, anh ta gọi một ly chè khúc bạch và một bình trà Thiết Quan Âm; xong đâu vào đó, anh ta hỏi bạn:
– Lát nữa ghé trường Dòng Chúa Cứu Thế coi lịch ghi danh tuyển sinh nhe?
– Không biết Cha Matthias Hoàn có còn nhận ra tôi không nhỉ?
– Anh về Bắc cũng đã khá lâu rồi hén?
– Phải.

Tôi theo mẹ về Bắc, nay vào đây tìm bố ruột của mình.

Tôi muốn bố tôi trả lời cho tôi biết tại sao lại bỏ mẹ và tôi ở ngoài đấy.

– Nếu như ổng đã lập gia đình với người khác thì sao?
Người bạn Công Giáo của Nón Cao Bồi đanh mặt lại:
– Tôi vẫn quyết tìm ông ta tới cùng.

oOo
Bữa nay mấy người bạn đồng tu của Henrico Thạnh xuống nhà anh chơi.

Cũng may Ignacio Cường không bị nặng, chỉ cần xức thuốc và lăn hột gà vài ngày là êm.

Stephen Đoàn công nhận sắc diện vừa xấu vừa ác, nhưng ánh mắt rất hiền và giọng nói nghe êm tai khôn cùng, biểu sao mà cô Xuân không thương cho được.

Còn Antonio Vũ thì tuấn mỹ y chang tài tử Hương Cảng, duy không gây được cảm tình với anh một xíu xiu nào vì vẻ mặt hết sức lạnh lùng và u uẩn, mặt này là cái mặt đầu năm không ai muốn tiếp nè.
– Lại hàng lu múc nước rửa tay đi mấy anh, rồi lên nhà trên lấy bánh cúng ăn.
– Ở trên bàn thờ hả anh? – Có tiếng của Ignacio Cường hỏi vọng ra.
– Trời ơi bánh cúng, không phải bánh cúng!
– À, thấy rồi…!
– Chúa ơi, đập có một cái mà nó hổng biết bánh cúng luôn.

Ignacio Cường gãi đầu cười bẽn lẽn:
– Con đâu có biết ăn bánh này đâu Thầy.
– Con ở nơi mô mà nỏ biết béng ni? Ngoài nớ không?
– Con ở Long An chứ đâu.

Vì bà ngoại bị tiểu đường nên mẹ con không thường xuyên mua quà bánh về cho gia đình.
– Vậy giờ ăn bù hén?
– Dạ.
Henrico Thạnh biểu mọi người đứng đợi, rồi xách xe chạy ra nhà anh Tư Vinh để nhờ ảnh chở xe đi mấy ngày; đương nhiên sẽ trả tiền đàng hoàng chứ không chạy suông.
Anh tài-xế mừng rơn bắt tay rối rít:
– Cảm ơn Thạnh nghen…!Hổm rày ế quá, hổng có ai lại nhà anh mướn xe hết…
Chàng Linh mục cười hiền:
– Có gì đâu mà anh khách sáo quá.
Chiếc xe Toyota Highlander bảy chỗ màu đen bóng có vẻ mới được đem đi lau dọn nên rất sạch sẽ và thơm tho.

Để mua được chiếc xe này, anh Tư Vinh đã phải dứt ruột bán đứt mấy công đất hương hỏa, và giờ thì nhìn nó mà sống qua ngày.
Trước tiên đi vài vòng ngoạn cảnh, sau rốt sẽ ghé chợ Ngã Năm mua đồ về nấu nướng.

Ngày mai nguyên đám sẽ ghé qua cồn Phụng; hồi Ông Hai còn sống, ở đây không mất tiền mua vé hay trả phí gì hết.
– Mình đi đâu vậy con?
– Dạ, sắp qua cầu Cá Lóc rồi chú.

Đi cho đáng đồng tiền thôi chớ chỗ này hổng có chi đặc sắc hết.

Lát có ghé vô chùa hay làng S.O.S ở đường bên kia hay thăm xã Hàm Luông thì mới có điểm đáng coi.
– Quảng bá du lịch gì nghe oải dữ vậy con?
– Dạ, thà mình nói thiệt người ta thương, chớ “nổ” quá mà hổng có cái giống đách gì người ta ghét dữ lắm.
– Ờ, con nghĩ vậy là đúng đó.

Nhiều tác giả ca tụng xứ họ như ở trên Thiên Đàng, ai dè tới nơi cái giống ôn gì cũng rập khuôn Địa Ngục.

“Một lần là mãi mãi xa nhau.”
Henrico Thạnh đập tay lên mu bàn tay của Stephen Đoàn mà cười hỏi:
– Mỹ ca chi vậy, ca lớn lớn cho mọi người nghe được hôn?
– Thưa được.
Đó là bài “Một thời để nhớ” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng mà “Tiếng hát thư sinh” Duy Quang đã trình bày thật hay và vương mang khắc khoải:
“…!Như sớm mai êm đềm nhạc Thánh
Ta đón em trước cổng nhà thờ
Nay thiếu em Giáo đường cũng quá tiêu sơ
Những dấu đinh dưới bàn chân Chúa
Những chiếc hôn trên làn tóc em
Ru mãi ta trong từng nỗi nhớ êm đềm…”
Rồi Stephen Đoàn kể:
– Bài hát này ông Thiêng dành tặng cho bà Đỗ Thái Tần trong những năm ông còn ở lại Việt Nam và tìm đủ mọi cách sang Mỹ để được đoàn viên với bà, đến nỗi bán luôn cây đàn guitar yêu dấu đặng chạy tiền đi vượt biên.

Ngờ đâu bà không chờ ông như ông đã chờ bà…
Chỉ có Duy Quang là hát đúng và đủ lời nhạc phẩm của ông Thiêng.

Mọi người mời Stephen Đoàn nói rõ hơn.

– “Đêm hắt hiu nhớ vòng tay góa”, nhiều người hát sai thành “Quá”.

Chữ “Góa” ở đây ám chỉ bà Tần là một người đàn bà góa mà ông Thiêng yêu thắm thiết.
Và, “Ta muốn tin mùa Xuân đầy cánh én.

Nên chọn một ngày sống rất bơ vơ”, nhiều người hát lộn thành “Xin” và “Trọn”.
Augustino Dương hỏi:
– Hai người Đạo Chúa hết hả con?
– Bà Tần Đạo Chúa, ông Thiêng Đạo Phật.
Augustino Dương hơi nhăn mặt khi nghe câu trên, vì nó làm ông nhớ tới những trường hợp “rối” trong gia đình một số học trò trong trường Dòng và các Giáo xứ mà mình đang cộng tác.
Stephen Đoàn lại nói:
– Bà Theresa Đỗ Thái Tần đã lập một trang nhạc và trang mạng để quảng bá tác phẩm của ông Trầm Tử Thiêng.
Những nếp nhà muôn hình vạn trạng ở hai bên đường không còn nữa, thay vào đó là những căn nhà có vườn rộng bao bọc hiện ra.

Hương thơm tươi mát của cỏ hoa, cây lá làm cái nắng gay gắt trên cao như dịu lại, như hiền hòa đi.

Ngôi chùa ấy nằm gần làng S.O.S của trẻ em, khuôn viên cũng khá lớn và bày trí coi cũng tươm tất, sạch đẹp.

Nguyên đoàn đậu xe trong sân chùa, rồi theo chân Tư Vinh vô chùa ngoạn cảnh.

Nhằm bữa nay có phát cơm chay nên nơi đây rất đông đúc, ai nấy xếp hàng trật tự để đợi lấy phần của mình.

Không biết nghĩ sao, Augustino Dương xuống gặp “trưởng nhóm” rồi gởi chút tiền ủng hộ thiện nguyện; ban đầu “trưởng nhóm” không chịu nhận, nhưng thấy lôi thôi quá nên ậm ừ nhận luôn, còn ép ông cùng mấy thằng con và anh Tư Vinh đem cơm về ăn.

Một bà cụ mặc áo lam móm mém hỏi:
– Mấy bây theo Công Giáo hay Tin Lành?
Augustino Dương chắp tay thưa:
– Dạ, tụi con theo Công Giáo, có chuyện chi không thưa ngoại?
– Mốt xuống Dòng Kitô Vua – Bến Tre thăm cháu ngoại tao nghen? Nó tu được mấy năm rồi…
Sau khi biết được danh tính của cháu trai của ngoại, nhóm Linh mục xin phép rời đi và xin được khước từ lời mời lấy cơm.
– Trời ơi, có mấy hộp cơm mà bây cũng hổng nhận cho ngoại vui nữa, hay chê cơm tao nấu hả?
– Đâu có đâu ngoại.
Anh Tư Vinh khuyên:
– Lấy đại đi.

Không lấy không dìa được đâu.
Bất đắc dĩ nhóm Linh mục phải nhận cơm, nhưng xin không lấy canh vì lý do mắc ăn dọc đường.
Vậy là ngoại múc sẵn một hộp cơm, khẩu phần vẫn tương đương với những hộp kia.

Không thiên vị như nhóm Linh mục đã tưởng.
Lên xe xong xuôi rồi, anh Tư Vinh mới nói:
– Xuống đây, ai cho cái gì thì nhận giùm cái.

Hổng lấy họ nài một hồi điên luôn.

Henrico Thạnh gật đầu:
– Ở đây thương – ghét gì cũng lộ ra mặt hết.

Nói cho là cho, mà không muốn cho thì có bỏ tiền muôn bạc vạn ra người ta cũng hổng thèm đưa chứ đừng nói chi là ngó tới cái mặt.
– Hồi xưa, có tay giang hồ ở Bến Tre qua Mỹ Tho chơi, gây sự với người bên bển sao không biết mà sau này người đó bị tay này lấy dao chặt dừa chém bay đầu.

Ở đây lúc nào cũng sẵn dao chặt dừa hết…
– Hai đứa ơi, đổi đề tài được chưa?
Anh Tư Vinh hồi thần, rồi cười gượng xin lỗi.
Ignacio Cường ướm hỏi:
– “Chặt dừa” hay “Bổ dừa” hả anh Tư?
– “Chặt dừa” chứ không phải “Bổ dừa”.

“Bổ dừa” chỉ xài khi nào lấy cái thôi.

Rồi Tư Vinh giải thích thêm:
– Cái hành động lấy buồng dừa xuống bằng dao hay nạy cái muỗng vùa bằng dao để uống nước dừa đều kêu là “Chặt dừa” hết.

Và chỉ xài chữ “Bẻ dừa” khi lấy buồng dừa bằng tay không.

Henrico Thạnh bổ sung:
– Ngoài ra, ở đây phần đông trái cây đều kêu là “Xẻ”, thí dụ như “Xẻ ổi”, “Xẻ mít”, “Xẻ sầu riêng”,…!
Do sợ cơm bị thiu nên nguyên đoàn ăn tại chỗ luôn.

Ăn cũng được chứ không ngon mấy, một phần khá nhiều nên ăn rất chắc bụng, hơi tò mò xíu là nước canh có mùi vị ra sao thôi.

– Ghé mua ủng hộ con bạn tui mấy bịch nước mía.
Thể theo địa chỉ nhà cô Tư Lành, anh Tư Vinh quành xe vô một con đường vườn rợp bóng mát của cây cao bóng cả.

Nhà ai có hàng bông bụp nở rộ trông như thể đèn lồng đêm Trung Thu, trong sân có bóng con chó mực nằm ngủ trưa dưới cây trứng cá mát rượi.
– Con nghĩ Chúa đã đoái thương lời than thở của con mà mới đây có một ông nhạc sĩ đã sáng tác một bài hát về Bến Tre.

Tuy phần lời không có gì đặc sắc, nhưng con cũng xin chân thành cảm ơn thành ý của ổng.
– “Hãy gõ cửa, sẽ thấy…” Con còn nhớ bài giảng năm xưa của Cha Bề Trên tên Diệu không?

– Nhớ chớ.

Thầy có cho con xem thước phim đó, Đức Cha Diệu lúc ấy đã ngoài chín mươi mà nói chuyện coi cứng ghê.

Stephen Đoàn giới thiệu:
– Tại anh Thạnh không biết chứ có bài “Hương tình Bến Tre” của nhạc sĩ Hà Sơn do nữ ca sĩ xứ dừa Mai Thiên Vân hát cũng mùi lắm.
Con đường đi tắt gì đâu mà vắng vẻ thấy sợ.

Ngoài những ngôi nhà nằm lọt thỏm trong bờ đất vườn rộng lớn, nơi đây không có hàng quán nào hết.

Cũng chẳng thấy bóng dáng của xe cộ hay khách bộ hành.

– Tính lấy dao chặt dừa hay gì mà chạy đường này cậu?
Anh Tư Vinh nháy mắt mà cười biểu rằng:
– Muốn không, con vô lấy liền…!Chơi là chơi tới hà.
Vừa dứt lời, anh Tư Vinh thắng xe lại cái kịch, rồi đi xăm xăm vô một ngôi nhà cửa đóng then cài gần đó.
– Bộ nó là “Người trong giang hồ” hả Thạnh?
– Đâu, ảnh thuận đường nên ghé vô thăm con trai thôi.

Ảnh chỉ gởi con cho ông – bà ngoại giữ tới nhá nhem tối mới rước về.

– Làm tao hú hồn hú vía.
Một lúc sau, chừng khoảng mười lăm phút sau, anh Tư Vinh ẵm đứa con mới hai tuổi mấy ra xe cho mọi người coi mặt:
– Ra ạ ông với mấy chú đi con.
Đứa nhỏ xổ sữa mắc cỡ giấu mặt vô ngực ba mà “Ưa…!Ưa…” mấy tiếng làm nũng.
Augustino Dương xin phép ẵm nó một chút.

Nó cũng dễ dãi mà để yên cho ông giữ.

Công nhận hai cha con không khác nhau xíu nào, từ cái miệng cho tới ánh mắt đến cả vầng trán dô bướng bỉnh.
Trước khi trả thằng nhỏ về đơn vị cũ, Augustino Dương lì-xì cho thằng nhỏ hai chục đồng mừng tuổi.

Nó chưa biết nói mà đã biết ham tiền, cầm phong bao của ông mà cười tươi “Ưa…!Ưa…” thay lời cảm ơn.
– Khoan đi đã! Để lấy bánh mặn dìa ăn.
Bà ngoại hớt hải xách mấy bịch bánh mặn ra xe, rồi bồng thằng cháu vô nhà gọn ơ.
– Rồi, mình ghé đại lý nước uống giải khát và đá cây của cô Tư Lành nghen.
Chạy thêm chừng hai trăm mét là ra tới đầu lộ, cửa hàng của gia đình Quế Trân nằm ở mé tay mặt, đi qua hai căn là thấy liền.
– Ăn bánh mặn chưa Thạnh? Hồi nãy bà Ba Bột có lợi cho mấy dĩa.
– Tui mới lấy hà, chưa có ăn…!Bà làm cho tui nước mía uống cho thông cổ đi.
– Í, anh Tư Vinh, đợi em vô lấy dĩa ra trả cái nghen?
Anh Tư Vinh bẽn lẽn cười:
– Ờ, em.
– Sẵn cho thằng mập hai lốc sữa uống…
– Trời ơi, nó ú nu ú nần còn sữa – sùng gì nữa?
Nói gì nói, Tư Lành vẫn dúi vô tay anh Tư Vinh một bịch nylon đựng hai lốc sữa chocolate nguyên kem béo ngậy.
Trong lúc đợi nước mía “ra lò”, Augustino Dương lại bàn bi-da mà cầm cây cơ lên đánh.

Màn biểu diễn điệu nghệ của ông đã làm những người khách đang chơi các bàn khác tụ lại xem.

Một vài người mở lời đánh thi với ông, ông chiều lòng hết.

Rồi trước sự ngạc nhiên xen lẫn mắc cười của mấy đứa con, ông lần lượt hạ gục từng người.
Ignacio Cường cau mày hỏi:
– Sao tụi con không biết Thầy chơi bi-da giỏi như vậy ta?
– Để Thầy kể cho con nghe một sự tích:
Hồi năm Thầy mười lăm tuổi, Thầy ghiền chơi đánh bi-da dữ lắm.

Mà ngặt cái Thầy đánh khá nên còn bị dây vô cá độ luôn.

Bao nhiêu tiền thắng được Thầy chia làm ba: Một phần đi làm phước, phần thì đãi đằng bạn bè, phần còn lại Thầy cất để dành.

Không hiểu sao Cha Bề Trên hay tin, liền tức tốc đi thám thính coi thực – hư ra sao.

Mà lần nào cũng hụt hết.

Cha Bề Trên giận quá ngâm thơ luôn, “Tìm con như thể tìm chim.

Chim bay biển Bắc, Thầy tìm biển Đông.” Cha Trung phán câu xanh rờn, “Thầy phải “bay” vô mấy quán bi-da mới kiếm được nó, “bay” vậy sao kiếm được?” Sẵn đang bực mình, Cha Bề Trên mới trách, “Hồi đầu nó tính “bay” vô Đa-Minh, ai xúi biểu Thầy mà cầm chân nó ở lại Dòng mình vậy?” Xém chút là Thầy đi luôn rồi.
Ignacio Cường nhếch miệng cười:
– Hèn gì Thầy không còn chơi thường nữa.
Nhiều người mời Augustino Dương nán lại chơi, nhưng ông viện cớ bị đau lưng kinh niên nên xin phép về sớm.

Dù rất muốn chơi thêm, song ông không muốn hương hồn hai người Thầy buồn lòng nên đành thôi.

Xe vừa chạy được một đoạn, anh Tư Vinh cao hứng nói:
– Dân miền Tây có cái tật ưa hát nhạc chế, thí dụ như bài:
“Bao nhiêu đây mà đâu có nhằm nhò gì
Vậy thì nhậu cho tới luôn đi, nhậu cho sát ván luôn đi.”
Dựa theo bài “Hòn vọng phu 1 (Đoàn người ra đi)” của nhạc sĩ Lê Thương.
“Bao nhiêu năm bồng con đứng đợi chồng về
Bao nhiêu phen thời gian xóa phai lời thề…”
– Con có biết bài nào không Thạnh?
– Có, nhưng mà là nhạc Đỏ.
Rồi Henrico Thạnh biểu diễn một cách tự nhiên:
“Như bao cô gái ở Tây Nguyên
Cô gái Tây Nguyên ngồi bán chuối chiên
Kêu nấu cơm thì nấu cơm sình
Kêu đi rẫy thì đau lưng
Kêu đi coi hát thì OK…”
Rồi những câu chuyện về những năm tháng còn dùi mài kinh sách ở trường của từng người được cất lên.

Ai nấy thảy đều cảm thấy bùi ngùi vì thời gian trôi qua mau quá, chưa thực hiện hết những hoài bão ngày thơ dại thì bàng hoàng nhận ra tuổi già đã kéo tới.
Gần tới nhà vợ chồng chú Năm, Henrico Thạnh ngẫu hứng hát nhạc chế bài “Qua lối nhỏ” của nhạc sĩ trước 75 Mạnh Quỳnh:
“Qua lối nhỏ về nhà em
Muốn ghé vào thăm sợ ông Cha anh phiền lòng…”
– Nín.

Ignacio Cường che miệng cười khanh khách.

Antonio Vũ chỉ cười chúm chím.

Còn anh Tư Vinh không khách sáo mà cười sặc sụa.
– Con giỡn xíu mà Thầy cũng chằm vằm nữa…
Stephen Đoàn đưa mắt ngó hàng cây ô-môi đã hết mùa hoa nở.

Đôi má của ai đã từng ửng hồng như sắc bông dân dã kia vào một ngày Xuân tươi thắm khi nhìn anh mà khen anh dễ thương.
Ngang qua một cái miễu thờ nhỏ bày dưới tàng cây trứng cá, anh Tư Vinh ngừng xe rồi bước xuống đốt ba nén nhang thơm.

Cái miễu này có hình dạng như tủ thờ Thần Tài – Ông Địa, được đặt trên một cột trụ đúc bằng xi-măng; ở phía ngoài, chính giữa để một cái bát hương tráng men xanh, bó nhang từ tâm nằm ở mé tay trái cái miễu và bình bông thì nằm ở mé tay mặt, còn bên trong thì để bức tượng Quán Thế Âm Bồ-Tát có góc nhìn đối diện với cái bát hương.
– Miễu này thờ ai vậy cậu?
– Dạ, cho oan hồn uổng tử ngoài đường thôi.
Ở Huế ngày nay đầy rẫy những nơi nghi ngút khói hương như vầy.

Để thương tưởng hương hồn những nạn nhân của vụ thảm sát Tết Mậu Thân 68.

Chắc có lẽ vì chưa từng trải qua thời kỳ sống nay chết mai hay chiến tranh loạn lạc nên nhiều kẻ hậu bối thời nay hay lên mặt chê bai Thần Kinh sao cúng kiếng nhiều quá, có đứa còn ủng hộ cho thứ dòng kéo quân sang xâm lược nước người ta.
Qua khỏi cây cầu có bề ngang chỉ đủ cho một chiếc xe hơi, chạy thêm chừng vài căn nữa là đã tới nhà của gia đình cô Xuân, không biết giờ này cô Xuân đã về nhà chưa nữa hay vẫn còn đang bị xấp nhỏ quay mòng mòng trong lớp.
Chiếc xe vừa đậu lại trước quán hủ tíu, cô Xuân đã đứng vịn hàng rào dõi mắt trông ra.

Dòm thấy người mình yêu, cô Xuân lúng liếng cười mà lệ nóng doanh tròng.

Stephen Đoàn không nỡ đưa mắt nhìn người thương mình khóc, chỉ biết quay mặt nhìn về phía hàng cây bần đang trổ bông trắng xóa, anh nào hay mắt mình cũng đã hoe đỏ.

Chứng kiến cảnh tượng ấy, Cha Dương nhớ lại người chị năm nào, Thánh Giá cao quý quá nên chị dằn lòng ngậm cười mà lìa xa khỏi Cha Vinh-Sơn; con đường của Cha Vinh-Sơn đi là con đường rao giảng lời Chúa và phụng vụ nhân loại, trong trái tim Cha nào có chỗ chứa cho trái cấm thế gian.
– Anh Mỹ.
– Ơi.
– Ơi ngọt quá há? – Augustino Dương đằng hắng nhắc nhở.
Stephen Đoàn cúi gằm mặt.
Cô Xuân run rẩy bước ra chiếc xe.

Cô vừa cười vừa khóc, chừng như bịnh cũ sắp tái phát.
– Thầy…!- Stephen Đoàn chưa kịp phản ứng gì, đã bị Thầy và Henrico Thạnh kéo ra khỏi xe rồi “bàn giao” cho cô Xuân.
Anh Tư Vinh hết hồn hết vía hỏi:
– Trời đất ơi, định diễn vở “Tống tiễn Đơn Hùng Tín” hả?
Henrico Thạnh sửa:
– “Tống tửu Đơn Hùng Tín” cha ơi.
– Mấy người đang “Tống tiễn” chứ “Tống tửu” cái gì?
Cô Xuân ngưng bặt tiếng khóc.

Rồi cúi đầu mân mê vạt áo mát.
Stephen Đoàn dịu dàng hỏi:
– Cô uống thuốc chưa?
– Trời, nó còn vô duyên hơn mày nữa đó Thạnh.
Cô Xuân ngửng mặt cười duyên:
– Dạ chưa.

Tôi mới về chưa ăn cơm nước gì nên không có uống.
– Vô uống thuốc đi rồi hai đứa mình nói chuyện nghe?
– Dạ.
Vừa mới dứt câu, cô Xuân đã chạy một hơi xuống nhà sau nhờ má soạn thuốc giùm.

Thím Năm mừng ra mặt, rồi chừng như sợ con gái đổi ý nên lính quýnh chạy đi mở tủ lạnh để lấy thuốc cho nó uống.

Còn chú Năm cũng quýnh quáng chạy đi rót nước ấm cho cô, rót mà nước cứ chảy trật ra bàn lênh láng.

“Em ơi nếu mộng không thành thì sao?
Non cao đất rộng biết đâu mà tìm
Đường đời mịt mờ vạn nẻo về đâu
Mong chờ duyên kiếp đưa lối bắc cầu…”
Tiếng hát của song ca Duy Khánh – Thanh Tuyền trong bài “Duyên kiếp” của nhạc sĩ Lam Phương càng khiến cho Augustino Dương muốn lên cơn tăng-xông, ông bực mình biểu:
– Nín.

Cậu Vinh, cậu chơi “nhạc đệm” nữa hả?
– Đang sướt mướt cho nó ướt rượt luôn Thầy.
Chừng khoảng mười lăm phút sau, cô Xuân trở ra cùng chú thím Năm.

Cô không trang điểm gì hết, vẫn để khuôn mặt mộc bơ phờ như ban nãy.
Stephen Đoàn trao cho gia đình cô Xuân ba bịch nước mía đã tan gần hết đá:
– Xuân uống nước mía nghen?
– Dạ, cảm ơn anh Mỹ.

Mà, anh về chơi mấy ngày, để tôi biết đường chuẩn bị đồ để mời anh một bữa cơm?
– Khoảng ba, bốn ngày.
– Vậy, tới ngày thứ ba anh với Cha và mấy Thầy ghé đây ăn mỳ chay Đại Hàn nhe?
Stephen Đoàn mỉm miệng cười, thay cho một lời xác nhận.
Chợt cô Xuân hỏi:
– Anh mới cắt tóc hả? Nhìn coi mát mẻ, gọn gàng lắm.
Stephen Đoàn ngượng ngùng:
– Ờ, tôi ra ngoài tiệm vanh lại một chút thôi.

Có lẽ khi đã thương ai thì ta sẽ dễ nhận biết từng chút một sự đổi thay nơi người ấy.

Mang tiếng cha con với nhau mà Augustino Dương lại không hay nó mới đi cắt tóc cái sột.
Rồi cô Xuân day lại nhìn các chàng Linh mục và người Thầy tóc hoa râm mà dịu dàng nhận xét:
– Cha và mấy Thầy cắt tóc y hệt nhau.

Nhưng “Mỗi người mỗi vẻ, mười phân vẹn mười.”
Augustino Dương phồng mũi sung sướng.
Henrico Thạnh kề tai cha già nói nhỏ:
– Cổ nói vậy để an ủi Thầy thôi…!Ui da đau Thầy!
– Tao vái Cha Sở tương lai giống tánh thằng Cường để mày hết thói bẹo gan người khác.
Ignacio Cường tủm tỉm cười khi nghe lời nhận xét của Thầy.

Còn Stephen Đoàn đồng tình với Thầy trong bụng.
Về tới nhà, Henrico Thạnh trả trước cho anh Tư Vinh một ngày cước và phụ thêm mấy chục mua xăng.

Xong xuôi hết rồi, anh đứng chống nạnh hỏi:
– Giờ ai theo tui vô bếp đây?
Ignacio nêu ý kiến liền:
– Đừng, đừng để anh Mỹ vô bếp.

Ổng không nấu dở cũng đốt nhà hà.

Stephen Đoàn tự ái nói lẫy:
– Tôi đi hái rau.

Nói đoạn, Stephen Đoàn đi một hơi ra vườn rau.
Augustino Dương tặc lưỡi:
– Thầy không biết mắc giống gì mà thằng Mỹ không thể vô bếp được, kêu nấu mỳ thì mỳ nhão, kêu canh cháo thì cháo trào bọt, kêu vo gạo thì nấu cơm khê, kêu lặt rau thì cọng nào cọng nấy nát như tương.
– Trời ơi, vậy vườn rau của con…
Ignacio Cường cười biểu:
– Để tôi ra “hộ giá” cho.
Antonio Vũ cũng nói:
– Con nữa.
Đợi cho mấy đứa kia đi hết, Augustino Dương mới nhờ con trai Kiến Hòa dán giùm Salonpas lên lưng mình.

Có tuổi rồi nên cột sống trở chứng đau nhức thất thường.
– Dán nhè nhẹ mậy.

Gì mà giống ám sát tao quá vậy?
– Ám sát Thầy mắc công tốn tiền làm đám chứ được gì đâu mà ham?
– Tao nói thiệt nghen, Cha Bề Trên Diệu mà còn sống thì…
– Thì con bị treo Chén rồi phải hôn?
– Treo cổ mày á! Lấy bánh mặn ra cho tao ăn cái coi.
– Hổng sợ con bỏ thuốc chuột hả?
– Sức mấy mà sợ.
Nói xong, Augustino bỏ ra ngoài hàng ba sau chái bếp mà lên võng nằm đung đưa.

Vừa nghỉ lưng, vừa nghe nhạc Thánh Ca.

Bài đầu tiên ông chọn mang tên “Bỏ Ngài con biết theo ai?” do Don Hồ ca, một sáng tác nhạc sĩ Phan Kim.

Nhác thấy mấy đứa kia, ông vui miệng bình phẩm:
– Từ trước đến nay, Thầy chỉ thấy có hai ca sĩ hải ngoại là Anh Dũng và Cao Duy hát Thánh Ca hay thôi.

Tiếng hát của họ ngày trẻ hết sức trong trẻo, lảnh lót và truyền cảm, và có chút nét hồn nhiên như tiếng hát trẻ thơ, điều mà rất hiếm ca sĩ làm được.

Lúc mà Cao Duy hát nhạc Giáng Sinh, Thầy cảm nhận được niềm hân hoan lan tỏa trong đáy tim mình.

Ignacio Cường mời Thầy giới thiệu một bản do một trong hai người trên hát.
Augustino Dương bèn mở bài “Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu” của Linh mục Nguyễn Văn Tuyên với phần trình bày của Cao Duy.

– Khi biểu diễn bài này, Cao Duy đã có tuổi rồi mà vẫn giữ được giọng ca khá trong trẻo năm xưa.
Stephen Đoàn gõ gõ vô khoảng không trước mặt như đang soạn nhạc:
– Thánh Ca phổ theo tiết điệu này rất hay và lạ.

Lát nữa con thổi thử coi có được không.
Henrico Thạnh gật đầu thể hiện đồng tình với ý kiến của Stephen Đoàn.

Rồi anh lại gần Antonio Vũ và hỏi nhỏ:
– Cái mặt gì chù ụ y như Phan Thanh Giản uống thuốc độc dị?
Antonio Vũ mím mím môi không ừ hử gì.
– Trời ơi, Linh mục gì mà y như sát thủ.

Bây cười lên cái coi, nhìn thấy ghê quá hà!
Henrico Thạnh hùa theo:
– Cái mặt đẹp trai thì phải cười cho thiên hạ mát mắt chớ.

Giấu làm của riêng hoài.
– Emmanuel Ngô thì mũ mĩ hệt khuôn con gái, còn bây…!hổng khác mấy thằng cha trong truyện kiếm hiệp của Tàu.

Antonio Vũ gắng gượng cười thật tươi, làm khuôn mặt đẹp đẽ trở nên khó coi vô cùng.
– Thôi bây đừng có ráng nhăn mặt cười nữa.

Khó quá thì khỏi làm.
Antonio Vũ cười trừ gãi đầu.
Henrico Thạnh cũng không nỡ làm khó, bèn vô bếp mần cá và sơ chế các nguyên liệu khác cho mâm cơm tối.

Chắc tới tám giờ mới ăn nổi, nhưng cần phải chuẩn bị trước để chiều nay rảnh rang mà đi ngắm cảnh Kiến Hòa về đêm.
Augustino Dương ngó thằng con tên Thạnh mà chép miệng biểu:
– Cái miệng tép lặn tép lội, lên giảng bài thì ấp a ấp úng như gà mắc tóc.
– Mốt tới Thánh Lễ Phục Sinh, làm ơn đừng khiêng con lên giảng bài.
– “Lần đầu là lần cuối” rồi con ạ.
– Thầy lại nhại Nguyễn Đình Toàn!
Khoảng chừng năm giờ chiều, Henrico Thạnh gọi cho anh Tư Vinh biểu ra chở mọi người đi chơi.

Tư Vinh nói sẽ đem thằng nhỏ theo cùng vì ông bà ngoại mắc đi lên xóm trên phụ làm đám cưới cho người ta, chàng Linh mục vui vẻ đồng ý.
– Í, có thằng nhỏ nữa hả?
Anh Tư Vinh ngại ngùng thưa:
– Dạ, nó tắm gội rồi, thay tã mới luôn, nên đi an tâm lắm.

– Để nó ngồi ở giữa Thầy với thằng Mỹ nghen? Để mấy đứa kia coi chừng không xong đâu.
Stephen Đoàn giúp đứa bé con ngồi vào cái ghế riêng của nó, rồi giúp nó cài dây đai an toàn.

Thằng nhỏ cười với anh suốt, chừng như nó cũng giống như cô Xuân, đã thấy nét đẹp nơi tâm hồn người Linh mục xấu trai nên rất quý mến anh.
Trước tiên nguyên đoàn ghé thăm các nhà thờ trong vùng, kế đến là ra bờ hồ Trúc Giang ăn chuối đập với nước cốt dừa.
Tính ra Kitô Giáo ở Kiến Hòa không có nhiều sự phát triển mạnh mẽ bằng các tỉnh lỵ khác.

Một phần do chiến loạn, một phần sau năm 75 các Giáo dân của họ Đạo nào thì trở về nơi đó sanh sống nên số lượng tín đồ ở đây hơi ít so với thời điểm trước 75 một chút.

Không có gì khác lạ trong cách mục vụ và phụng sự Chúa của các Mục Tử, có chăng là yên bình và ít can dự vào thế sự hơn Giáo xứ St.

Pio của Đức Cha Vincent Cao Nhật Trung.

Cũng như buổi viếng chùa ban trưa, hễ thăm vị Mục Tử nào là Augustino Dương gởi biếu Thầy đó chút đỉnh tiền lấy thảo; một vài Thầy hẹn sẽ lên thăm trả lễ trường Dòng của ông và Giáo xứ St.

Pio nếu có dịp.
Vừa hay nhà thờ cuối cùng nằm gần hồ Trúc Giang nên anh Tư Vinh khỏi phải mất công chạy đi tìm chỗ đậu xe.

Sau một lúc dòm trước ngó sau, nguyên đoàn mới dám băng qua lộ rồi đi thêm một đoạn nữa để tới cái hồ.
Henrico Thạnh bẹo gan Thầy anh:
– U, nay con mới biết Thầy là “Ông Hội đồng”.
– Khỉ mốc! Tiền của các Thầy, các Sơ gom lại đó mày.
Anh Tư Vinh địu thằng nhỏ trước ngực.

Hai cha con vừa đi vừa giỡn với nhau rất vui.

Tự nhiên người Linh mục già cảm thấy đau nhói nơi trái tim, bởi hồi còn sống ba mẹ ông đã chửi mắng ông thậm tệ vì quyết định trở thành tu sĩ của mình, nếu như ông nghe theo lời ba mẹ thì giờ đây đã có cháu nội rồi…
– Thầy có biết con sẽ viết bài gì nếu có dịp lên Đà Lạt không?
– Mày lên Đà Lạt chắc đạo nhạc rồi soạn thành bài “Thành phố vui” và ký tên Lam Hướng chớ gì?
– Thì con là đệ tử của ổng mà.
– Thứ dòng đệ tử nhận vơ!
Cũng may bữa nay bán ế nên nguyên đám còn có ghế mà ngồi.

Vẻ ngoài đẹp trai như tài tử Cảng Thơm của Antonio Vũ đã thu hút ánh nhìn của rất nhiều người, ai nấy đều tưởng lầm anh là diễn viên mới nên chưa rõ tính danh; có người bạo gan còn hỏi anh có từng tham gia phim bộ do nước ngoài sản xuất chưa mà sao thấy quen quá, anh cười hiền đáp rằng mình là tu sĩ chứ không phải diễn viên gì cả.
– Thầy vẫn còn nhớ cái giọng Bắc Kỳ của ông Cha Luận, “Từ nay các chú nghỉ yêu đương hay tơ tưởng cô nào nhé?” Mới đó mà đã bốn mươi mấy năm rồi.
Henrico Thạnh phì cười:
– Thầy khỏi nhắc chừng anh Mỹ nữa.

Coi mòi anh không có tình ý gì với cô Xuân đâu.
– Cái đứa đẹp trai nhứt thì hổng có ai đoái hoài tới.

Cái đứa xấu banh nhà lồng thì cô nào cô nấy mê như cưỡng.

Henrico Thạnh không niệm tình mà bình phẩm thẳng thừng:
– Người ta mê người nói chuyện có duyên và dịu ngọt, chứ ai ưa nổi “Hitman”?
– Vũ, sao con không kể cho ai biết chuyện gì đã xảy ra với con từ sau vụ mất tích của thằng Anh mà khiến cho tánh tình của con bỗng dưng thay đổi kỳ cục như vậy?
Antonio Vũ sa sầm nét mặt:
– Con không muốn nhắc lại chuyện đó.
Anh Tư Vinh thấy bầu không khí bắt đầu căng thẳng bèn khơi gợi chủ đề mới.

Mọi người cũng hòa theo anh để xua đi chuyện ban nãy.

Trong lúc đó, thằng nhỏ mải mê gặm miếng chuối đập đã được nhúng nước cốt dừa, khuôn mặt hồn nhiên của nó phần nào đã làm nhóm Linh mục nhỏ tiếng với nhau.
Lối khoảng tám giờ tối, nguyên đoàn mới lục tục ra về.

Thằng nhỏ đã ngủ gục mất đất, khuôn miệng nhỏ chóp cha chóp chép trông thật đáng yêu.

Nhóm Linh mục quyết định về là đọc Kinh xong rồi sẽ đi ngủ luôn chứ không còn bụng dạ nào ăn cơm nữa.

Đã hơn tám giờ sáng mà trong nhà chưa có ai ngủ dậy, người nào người nấy đều mệt lả vì hôm qua ngồi xe nguyên ngày.

Sau hè con gà trống đang rượt bầy gà mái chạy té khói, đàn gà con không có mẹ coi ngó đứng ngẩn ngơ ngắm trời mây hiu quạnh.

Cuộc tầm hoan đã làm huyên náo mảnh vườn còn hương thơm sương sớm và nắng mai.

Henrico Thạnh dụi dụi đôi mắt cay xè, rồi vươn vai ngáp dài trước khi xuống giường.

Đã lâu lắm rồi anh mới được ngủ nướng đã như vậy.

Cái thằng nhỏ hay bỏ bánh mì mỗi sáng bữa nay bị bán hụt mấy ổ rồi.
Vừa lò dò xuống nhà sau súc miệng, Henrico Thạnh đã thấy Thầy đang nấu nước pha cà-phê trong bếp tự bao giờ, có lẽ ông cũng bị đàn gà đánh thức như anh chăng?
– Thầy, trưa con chiên cá sủ vàng, còn Thầy làm nước mắm gừng nghen?
– Mày làm luôn đi mày ơi.
– Rồi, lâu ráng chịu nhe?
– Ờ.
– Thầy súc miệng chưa?
– Chưa…!Bắt nước lên trước rồi mới đi.
– Vậy con vô nhà tắm trước, đừng đổ thừa con giành nghen?
Augustino đáp lại bằng những cái ngáp ngắn ngáp dài đến chảy nước mắt sống.
Để giúp cho nhà tắm thoáng khí, mé tay phải chỗ rửa mặt Henrico Thạnh biểu thợ lắp một khung cửa sổ hình chữ nhựt đứng dạng lá sách nhằm đổi gió và lấy ánh sáng.

Anh còn đặt một chậu lưỡi hổ ở dưới khung cửa sổ đặng giúp thanh lọc không khí trong căn phòng.

Đứng từ đây nhìn ra có thể thấy cái mương và hàng bụp dừa nước cùng mấy luống trái nổ; bây giờ hỏi mấy đứa nhỏ trái nổ là trái gì chắc không được một mống biết.
– Xong rồi nè Thầy! Ủa đâu mất tiêu rồi?
Augustino Dương ra ngoài vườn hái rau bồ ngót và đọt nhãn lồng trong lúc chờ thằng con tên Thạnh.

Trưa nay ông muốn nếm lại món canh bồ ngót và đọt nhãn lồng xào.
– Thầy…
– À, đem dẹp giùm Thầy hai rổ này nghen?
– Dạ.
Chưa vào trưa mà trời đã nắng như đổ lửa.

Hè nào xứ này cũng không thiếu những ngày sật sừ và bải hoải vì thời tiết quá ư khắc nghiệt.

Vậy nên hễ trời hầm kinh khủng là bà con lại mong cầu sẽ có mưa dông xả xuống cho dịu đi bầu không khí nóng nực kia.
Cái nón lá rộng vành không đủ ngăn nắng bớt táp mặt Henrico Thạnh.

Mồ hôi mồ kê vã ra như tắm.

Đầu óc anh bắt đầu xây xẩm và mày choáng mắt hoa.

Rồi trong cơn cảm nắng, anh thoáng thấy bóng ai đứng ở ngoài hàng rào mà dung nhan hệt như Thiên Thần của Chúa.

Vừa hay Antonio Vũ đang đứng cho gà ăn ở gần bậc tam cấp dẫn lên chái bếp, anh nhờ người Linh mục u sầu ra coi thử có ai đứng ở ngoài đó không.
– Để Thầy ra coi giùm cho.
Từ đây ra tới đó chỉ mất khoảng mười mấy phút, nhưng do tuổi cao sức yếu nên chẳng mấy chốc mà Augustino Dương đã bị trúng nắng.

Ông gắng gượng đi thẳng lưng ra ngoài ngoải để mấy thằng con không nghi ngờ.

Tới nơi, ông ráng nhăn răng cười và hỏi:
– Con là ai? Tới đây kiếm ai vậy?
Đôi mắt bồ câu của người trai đó mở bừng trông thật hiền và rạng rỡ:
– Con là Emmanuel Ngô Kỳ Anh, chủng sinh cũ của Dòng Chúa Cứu Thế.
Augustino Dương bấu chặt lấy hàng rào lưới kẽm B40 mà run run hỏi:
– Kỳ…!Kỳ Anh? Con còn sống sao? Lạy Chúa tôi! Thầy đây, Thầy là Cha Dương đây, dạy con môn Vật Lý năm lớp Bảy nhớ không? Ôi Jesus – Ma…
Nghe Thầy hô lên tên của người bạn thiết, Antonio Vũ mừng rỡ chạy ra đón nó.
Manuel Ngô bỗng hốt hoảng la lên:
– A, hình như Cha bị trúng gió rồi, sao mặt mày tái mét vậy nè? Thôi để con vô cạo gió cho nghen?
– Cảm phiền con vậy.
Manuel Ngô cười e lệ.
Ignacio Cường xách hành lý giùm cho người Mục sư hệ phái Lutheran.

Anh học trên cậu này hai lớp nên ít có đụng mặt thành ra không biết nhau.

– Trời đất ơi, gì mà “rụng nụ” trước tao vậy mậy?
Henrico Thạnh chỉ biết cười khổ, rồi ráng chịu đau để Stephen Đoàn đè ra cạo gió.

Nhìn những lằn đỏ bầm trên lưng con trai là người cha già đủ hiểu nó bị cảm nặng rồi, ông hấp tấp lịnh cho Ignacio Cường đi soạn thuốc Tây cho mình và nó uống.

Trong lúc chờ đợi, ông vòng tay trước ngực và đưa mắt quan sát người con trai đã cải Đạo.

Dung mạo của Manuel Ngô hơi ngộ, nét mặt mang nhiều nét trung tính, cộng thêm cử chỉ “mềm mại” càng khiến cho ông nghĩ rằng cậu ta đồng tính luyến ái.
Như đọc được cảm nghĩ của Cha, Antonio Vũ phủ nhận:
– Nhìn vậy chứ nó thẳng băng hà Thầy.
Vẫn trong tư thế khoanh tay, Augustino Dương thở dài thườn thượt, rồi hỏi:
– Rốt cuộc năm đó hai đứa bây bị gì mà biến thành “Búp-bê không Tình Yêu” vậy?
Dưới sự khích lệ của Manuel Ngô, Antonio Vũ đành phải thuật lại nguồn cơn sự việc:
Kể từ sau ngày Manuel Ngô bị mất tích, cũng như bao người khác, anh bị mời lên thẩm vấn để hỗ trợ điều tra.

Nhưng không biết bằng cách thần kỳ nào mà anh trở thành nghi phạm chính cho một vụ cưỡng hiếp tập thể, sau này mới hiểu họ muốn làm vậy để ngăn không cho anh liên lạc với Manuel Ngô càng lâu càng tốt.

Anh bị tạm giam nửa tháng trong điều kiện sống tồi tệ và khủng hoảng tinh thần cả ngày lẫn đêm, tới chừng ra tù bị sang chấn tâm lý rất nặng phải đi trị liệu một thời gian mới bớt một chút.
– Chúa ơi, sao con không nói cho ai biết?
– Họ đe dọa sẽ giết ba mẹ con nếu con tiết lộ chuyện này ra…
– Cha và các anh đây đói bụng chưa? Đặng con xuống bếp nấu luôn.
Henrico Thạnh nghe vậy bèn giới thiệu thực đơn trưa nay.
– Cha, có khó chi đâu, để tôi nấu luôn cho.

Nếu dở thì xin lượng thứ nghen?
Đợi cho dầu sôi lăn tăn, Manuel Ngô mới bỏ tỏi đập và một muỗng bột bắp vô.

Y vừa làm vừa chỉ:
– Bỏ bột bắp vô chiên sẽ không bị văng dầu mỡ.
Henrico Thạnh bật cười mà nói:
– Đáng ra cá chiên với nước mỡ heo sẽ giòn ngon hơn, nhưng vì đang Mùa Chay nên không đụng tới.
– Bên tôi cũng vậy.

Manuel Ngô làm cơm nhanh hơn họ tưởng, không đầy một tiếng mà đã nấu xong năm món, gồm có cá sủ và mực tẩm bột chiên giòn, đọt nhãn lồng xào, cà tím nướng bơ tỏi và canh rau bồ ngót nấu với mướp hương và tôm khô.

Y cười biểu:
– Con mua mão từ một chị ở chợ Ngã Năm, được đâu năm ký mấy, chắc là đủ ăn rồi hén?
Augustino Dương đập tay xuống bộ ngựa mà cười lớn và nói:
– Dư sức qua cầu.
Thay vì ra bàn ngồi ăn, nguyên nhóm dọn mâm cơm trên bộ ngựa luôn.

Gió lùa từ khung cửa sổ mát rười rượi, đem theo hương thơm dìu dịu của bụi bông trà đang khoe sắc bên mương nước đầy bèo xanh; lúc hai anh của nhỏ Trân hỏi Henrico Thạnh muốn kê bộ ngựa ở đâu, anh bèn nhờ họ đặt sát bức tường có khung cửa sổ lắp chấn song sắt uốn kiểu nơi chái bếp, vậy là họ lắp cho anh thêm chỗ ghim đèn ở dưới đí* ván và hai cái ổ điện.
Manuel Ngô bới cơm cho mọi người.

Bàn tay của y thuộc dạng búp măng, ngón nào ngón nấy thon nhọn như đầu bút, nhìn tưởng đâu là bàn tay của cầm thủ chuyên nghiệp.

Bàn tay này có khổ là khổ tâm chứ không thể nào khổ thân được.
– Bàn tay của con đẹp quá, nhìn không khác chi là bàn tay của Cha Vinh-Sơn.
Manuel Ngô chúm chím cười, rồi trao chén cơm cho Stephen Đoàn và nhận lại từ người Linh mục xấu trai ấy một tiếng cảm ơn.

Đoạn lấy chén khác đơm cơm vô.
– Mỗi bận Cha Vinh-Sơn chơi đàn là ai nấy đều bị đôi tay tuyệt đẹp của Cha và giai điệu diễm kiều từ nhạc cụ mê hoặc.

Henrico Thạnh ướm hỏi Thầy:
– Ai chỉ Thầy chơi vĩ cầm mà hay quá xá vậy?
Augustino Dương vỗ đầu thằng con mà tủm tỉm cười, đáp:
– Thằng này hổng có sáng dạ miếng nào, câu trên tao nhắc tới ai nè?
– À…
Múc cơm xong, Manuel Ngô không biết nên đọc Kinh trước bữa ăn theo bên nào nên cất giọng hỏi Augustino Dương.
– Theo Công Giáo.

Coi như là một buổi “Ôn cố tri tân”.
– Dạ.
Ngồi lại đây, quây quần bên mâm cơm ê hề, ai nấy đều có cảm tưởng thời gian đã quay ngược lại mười mấy năm, khi tóc của Cha Dương còn xanh và vai – lưng của các con ông còn thân quen với cặp sách, dù đã ráng hết sức kiềm chế nhưng người Linh mục già vẫn nhòa lệ.
“Lạy Cha của chúng con trên Trời…”
Bài Kinh thiêng liêng mở nẻo Quá Khứ trong tâm hồn từng người.

Trường Dòng hệt như trường đời, mỗi năm đón nhận những gương mặt trẻ và tiễn đưa những gương mặt già về với Chúa Thánh Thần.

Tang lễ năm nào cũng có, dù được thương nhiều hay ghét ít, dù là một Mục tử chăn Chiên giỏi giắn hay một ngọn cỏ lùng đều được tổ chức hết sức trang trọng và khách tới viếng ít nhiều gì cũng cảm thấy bịn rịn, tiếc thương.
– Ngon quá…!- Ignacio Cường xuýt xoa khen món mực chiên.
Augustino Dương bắt tức cười:
– Trời, bữa nay “Ông Ba Bị” cười coi dễ thương ghê chưa.
Stephen Đoàn giải đáp:
– Anh Cường nào giờ hảo mực mà Thầy.
– Con cộng tác với nó có mấy năm mà rành dữ.

Stephen Đoàn cười mỉm chi.

Công nhận mặt anh vẫn xấu quắc và khó coi dù rằng tâm trạng đang rất vui.

– Anh thích thì ăn nhiều vô nghen? Cũng may mực tươi nên tôi chiên ăn cũng khá ngon.
– Ê.

Hổng có ăn mướp nhe Thầy? Bị đau nhức xương khớp mà ăn mướp vô…
– Kệ tao mày.

Sắp xuống lỗ rồi phải “tranh thủ” ăn cho đã chớ.
– Chúa ơi, con mà biết Cha bị bệnh thì con đã nấu kiểu khác rồi.
– Ôi…!Già sanh tật chớ có chi mô mà con áy náy…
– Mà phải công nhận Cha và anh Thạnh nói chuyện với nhau có vẻ hề hà, thoải mái hơn mấy anh kia.
– Ừ, cùng tánh nên dễ ăn dễ nói, cũng như không có bắt bẻ, rầy rà từng từ từng chữ.
Stephen Đoàn với tay lấy trái đậu rồng, chưa kịp đưa lên miệng thì đã bị Manuel Ngô hỏi:
– Anh có phải là anh Mỹ từng tính dạy khẩu cầm cho em và thằng Vũ phải không?
– Phải.
– Anh với hồi nhỏ nhìn y hệt nên…!em không chắc có đúng là anh hay không.
Ignacio Cường phì cười hỏi nguyên do.
– Tại vì…!tại vì…!lớn thì phải khác vài chỗ chứ, còn đằng này…
Stephen Đoàn đưa ra đáp án giùm:
– Xấu y chang vậy phải không?
– Dạ phải…!- Manuel Ngô giựt nảy mình, y xua tay lia lịa.

– Không, không, em không có ý đó.
Augustino Dương lên tiếng giải vây.

Ông quay sang nhìn Antonio Vũ mà hỏi:
– Con với Anton Nhân sao?
Antonio Vũ nhướng mày hỏi lại:
– Sao là sao Thầy?
Rồi chàng Linh mục đẹp như tranh vẽ vỗ trán kêu lên:
– À…!Anton Nhân coi con như anh đỡ đầu.

Nó thấy con lấy tên Thánh là Antonio nên cũng đòi lấy theo là Anton.
Augustino Dương nói:
– “An-Tôn”.
Antonio Vũ gật đầu.

Rồi thở dài trước khi tâm tình:
– Nó đang mắc chứng trầm uất nặng lắm.

Nên sẵn dịp tự sát luôn.

Ignacio Cường nhớ lại những gì mà Anton Nhân đã nói với mình trong buổi Xưng Tội.

Anh đã thấy oan sai giết chết tâm hồn một con người ra sao, và đẩy họ về phía bầy môn đệ của Quỷ Satan như thế nào.

– Nó bị nhiễm trùng máu suốt, lại còn bị lọc thận, giờ thêm ổ bụng bị sà ruột…
Stephen Đoàn cau mày bày tỏ:
– Con tin Y Học thời nay và Chúa sẽ giúp cậu ấy bình phục.

Cả về thể xác lẫn tinh thần.
Manuel Ngô lên tiếng hỏi:
– Cha có thể cho con biết nguồn cơn nào đã đưa gia đình Anton Nhân về với Chúa không?
– Đức Cha Trung không từ chối cho bà ngoại của cẩu gia nhập Đạo, vì nhiều người…!ghê tởm quá khứ của bà nên không đồng ý cho bả theo Đạo.

Cha nói, “Chúng ta xây dựng Giáo Hội dựa trên lòng bác ái và bao dung, không phải là trên sự hà khắc và soi mói.

Tôi quan niệm vậy nên tôi sẽ giúp mọi hạng người trở về với Chúa.”
“Con đi hoang lâu quá rồi thưa Đức Cha…” “Vẫn chưa quá trễ đâu con.

Cha thật mừng khi biết con đã không khước từ một mầm sống nào trong bụng mình.

Hãy đưa chúng tới đây cho Cha rửa tội nghen?”
Tình thương của Cha Vinh-Sơn đã cảm hóa được linh hồn lầm lạc của bà.

Bà đã hướng thiện và sống phần còn đời lại thật từ tâm.
Henrico Thạnh đặt câu hỏi:
– Sao Đức Cha Vincent Trung không lên tới hàng chức cao hơn hả Thầy?
– Cha sợ lên cao quá sẽ xa bầy chiên của Cha nên dù nhiều người đề cử nhưng Cha vẫn xin ở lại làm Giám Mục.
Ignacio Cường sẵn dịp đặt câu hỏi:
– Tại sao nhiều Thầy không thích Cha Vinh-Sơn vậy Thầy?
– À, tại Cha ý kiến ý cò nhiều quá nên dễ mích lòng nhiều người.
Đứa nào đứa nấy giục ông kể rõ hơn, thành ra ông phải nhắc lại nhiều chuyện không vui trong đời sống Giám Mục của Cha Vinh-Sơn:
– Đức Cha Trung khuyên rằng nên gọi Đức Giáo Hoàng là Đức Thánh Phụ, thành ra trên văn bản thì mấy Thầy thuận theo số đông và ở bên trong thì mấy Thầy gọi như lời Cha Vinh-Sơn chỉ biểu.

Chắc có lẽ Cha Vinh-Sơn nghĩ rằng thường thì người ta kêu “Thánh Mẫu” chớ đâu có kêu “Thánh Mẹ”, thành ra nên gọi “Thánh Phụ” thì có vẻ đúng hơn “Thánh Cha”.
Bầy con của ông lấy làm bối rối trước cách nghĩ này của Cha Vinh-Sơn.
– Cũng bởi vậy mà hồi xưa Cha Vinh-Sơn đã từng bị nắm áo chửi rằng, “Anh tính làm Luther King hả?” Đức Cha không thèm cãi, cũng chẳng thèm phân bua, chỉ chỉ lên trời mà nói, “Có Chúa chứng giám cho lòng thành của tôi.”
Ngoài trời nắng đã lên đến ngọn sào.

Mảnh vườn im lìm trong hào quang của vầng thái dương chói lọi.

Cây lá đứng lặng câm mà chịu đựng sức nóng bức và oi ả của thời tiết đương vô Hè.

– Có lần Matthias Hoàn đã hỏi sao Cha Vinh-Sơn lại phải lao lực và hy sinh không đáng như vậy, Đức Cha trả lời rằng, “Chúng ta thuộc dòng Chúa Cứu Thế mà con.

Ở đâu có kẻ khó, ở đó có chúng ta.” Nên Đức Cha chưa đầy bảy mươi tuổi mà đã về với Chúa do bị suy nhược thần kinh lẫn cơ thể vì bị quá nhiều đả kích từ muôn phương.
Ignacio Cường thở dài:
– Giờ tụi con đã hiểu Cha Thành giống ai mà tốt một cách bất chấp như vậy rồi.
Stephen Đoàn hỏi:
– Nhưng hình như Thầy Thành nhậm chức Linh mục trễ hơn Đức Cha Thái?
Augustino Dương gật đầu, rồi nói thêm:
– Năm ba mươi lăm tuổi, GB Thành mới nhậm chức Linh mục.

Thầy không có ý định trở thành Cha mà muốn làm một nhà giáo đi dạy học ở những miền rừng thiêng nước độc.

Vì giấc mơ Đức Cha Trung hiện về vẽ dấu Thập Tự lên trên trán mà Thẩy đã thay đổi dự tính của mình.
Thấy chén cơm của Henrico Thạnh đã sạch trơn, Manuel Ngô bèn ngỏ ý bới cơm giùm.

Nhưng người trai Kiến Hoà khoát tay từ chối, rồi tự mình đơm cơm vô chén.

Đến khoảng một giờ rưỡi, mọi người mới ăn cơm xong.

Stephen Đoàn và Ignacio Cường nhận phần rửa nồi, niêu, quánh, chảo, rổ, thau; còn tô, chén, dĩa, ly, đũa, muỗng thì để Antonio Vũ và Henrico Thạnh lo.

Augustino Dương ngỏ ý muốn xem con trai hụt mặc lại áo Dòng bên mình.

Manuel Ngô vui lòng nhận lời, y lấy áo Dòng của Henrico Thạnh mà mặc vào rồi nhờ người Thầy năm cũ hướng dẫn cách thắt dây và đeo chuỗi Mân Côi.

– Con mặc áo nhà tu Dòng cũ đẹp lắm.
Chợt nhớ chuyện lùm xùm của Anh, Augustino Dương hỏi:
– Con vẫn mặc áo chùng thâm sao?
Manuel Ngô cười buồn:
– Dạ, mặc dù bây giờ con là “Hallelujah”, không còn là “Alleluia” nữa.
– Hội Thánh Tin Lành Lutheran chỗ con có phát triển mạnh không?
– Dạ không.

Các Thầy chỉ muốn gói gọn trong vòng một nhà thờ.
– Rồi làm sao con và quý đồng tu phân chia công việc được?
– Tụi con tự sắp xếp được.
– Thầy không hiểu lắm các nhánh của Tin Lành.
– Dạ, nói ra thì dài dòng và có nhiều mâu thuẫn lắm…
Augustino Dương giơ tay cản:
– Thôi, vậy thì khỏi phân trần.

Mình hội ngộ trong niềm vui đi, đừng u sầu vì sự tranh cãi và khác biệt giữa đôi bên.
– Dạ, con xin nghe lời Cha.
Stephen Đoàn nhờ Manuel Ngô mở giùm radio để nghe Đan sĩ Jacob Lãm đọc bản tin Công Giáo; miếng đất của Đan Viện Gia Định tọa lạc tại Thủ Đức, cũng nhiêu khê lắm mới giữ được bình an.
– Chuyện Cha Thành bị giả mạo được giữ kín rất kỹ; dẫu sao Cha Thành “thật” cũng là người ơn của Đức Cha Thái, dễ dầu gì ổng để cho Giáo xứ St.

Pio bị “bứng”.
Rồi Augustino Dương kể chuyện Ignacio Cường đã từng vác Thánh Giá dẫn Giáo dân lên sở cảnh sát địa phương để đòi điều tra về sự mất tích bí ẩn của một Linh mục Dòng Thánh Tâm.

– Có lẽ đó là lý do mà họ muốn mượn tay Anton Nhân để giết anh Cường.

Bởi anh Cường là người đã đứng ra vạch mặt từng tên quan liêu, sách nhiễu và muốn chiếm đoạt đất của Giáo xứ St.

Pio.

– Stephen Đoàn nói xong, cúi đầu lần chuỗi Mân Côi theo giọng đọc của Jacob Lãm.
Manuel Ngô đã hiểu bữa hổm Giáo xứ đã xảy ra chuyện gì mà phải điều động nhiều lực lượng trị an như vậy.
– Trời nực lắm, ráng mặc áo Dòng một hồi sẽ bị mệt người như tôi.

– À, suýt nữa tôi quên.
– Để tôi giúp anh cởi ra.
Henrico Thạnh nói bằng giọng pha lửng:
– Thường thì con cháu của Quỷ Satan ủng hộ nhau Thầy hỉ?
– Phải.
Antonio Vũ bất bình:
– Chưa có đầy đủ bằng cớ mà đã ráp nhau vô “khủng bố” tinh thần Anton Nhân.
– Quỷ dữ không cần biết Đúng – Sai đâu con, chúng chỉ cần biết điều đó có lợi cho mình hay không mà thôi.

Đám hùa theo chúng cũng vậy.
Sẵn đi dẹp bộ áo Dòng, Manuel Ngô đi lấy chè Thái mua ở đường Nguyễn Tri Phương cho quý Thầy và quý bạn bè đồng tu ăn tráng miệng.

Người móc hầu bao ra lo cho y đương nhiên vẫn là anh Ba Đức – “Tài phiệt” có tiếng của Hội Thánh nghèo nàn và không lớn mạnh.

– Bây giờ có đứa nào nắm được điều gì có thể giúp Anton Nhân minh oan không?
Bốn đứa con của ông lắc đầu nguầy nguậy.

– Vũ, không phải con thân với nó nhất sao?
– Thân thì có thân.

Hiềm một nỗi, con không có gặp cẩu nội trong tuần đó thì lấy gì mà giúp được.
Stephen Đoàn tì cằm trên mu bàn tay trái mà bình phẩm:
– Có vẻ như hung thủ đã chọn cái ngày mà những người thân cận với Anton Nhân không xuất hiện bên cạnh cậu ấy để ra tay…
Henrico Thạnh giơ tay:
– Mạn phép hỏi cái này nghen Mỹ?
– Xin anh Thạnh cứ hỏi.
– Hình như Mỹ gốc Bắc?
– Không, nguyên quán của tôi ở Vĩnh Long, vì sống với các Cha gốc Bắc ở Đồng Nai riết nên xài câu chữ giống mấy Thẩy.

– À…
Augustino Dương nhìn thằng con xứ dừa mà cười hồn hậu:
– Nó sống ở Sài Gòn từ hồi nhỏ tới lớn mà tiếng của nó vẫn rặt ròi miền Tây.
Henrico Thạnh vỗ vai Ignacio Cường mà cười hỏi:
– Còn Cường ở đâu?
– Cùng quê nội với ông Huỳnh Thủy Lê.
Antonio Vũ trả lời luôn:
– Vũ thì ở Trà Vinh.
– Anh?
– Không biết nữa.

Tôi sinh ra ở Sài Gòn, còn nguyên quán ở đâu thì không được ba nhắc đến.

Henrico Thạnh đang ca bài “Gửi bạn phương trời” của nghệ sĩ Hùng Cường:
“Từ khi bạn tôi ra đi, lòng tôi buồn vương phân ly…”
Chiều nay Manuel Ngô sẽ trở về thành đô nên y muốn đãi đằng mọi người một bữa ăn thật thịnh soạn.
Bữa trưa có món cá trê cuốn lá chuối rồi đem nướng trên bếp than, trứng cá thu chiên giòn, đậu hũ kho chay, đậu rồng xào hột vịt, rau sống và canh chua lá dấm nấu với tép mòng, bạc hà, đậu bắp, giá, kèo nèo và rau nêm.
Vẫn như hôm qua, Manuel Ngô đọc Kinh theo bên Công Giáo.
Xong xuôi hết thảy, Augustino Dương cất giọng mời:
– Mấy đứa cùng Cha ca bài “Vòng tay Jesus” nghen? Cha khoái nghe Trọng Khôi hát bản này lắm.

Tiếc là không rõ tên nhạc sĩ sáng tác.
Chỉ có mỗi mình Manuel Ngô là không biết bài ấy nên y xin hát bè theo thôi.
“Vòng tay chan chứa yêu thương
Làm vơi đi hết đau thương
Săn sóc, nâng niu đêm ngày
Thao thức muôn năm canh dài
Vòng tay mang hết chông gai
Đành ôm trọn mối chua cay
Cho đời đổi thay…”
Hát xong, Manuel Ngô hỏi Cha Dương về chuyện gì đã xảy ra sau khi người giả mạo đoạt chức Chánh xứ của Cha Thành.
– Tanh banh hết con à…!Giáo dân mất niềm tin, mà ai phản kháng lên hàng Hội đồng Giám Mục đều bị ám hại dã man nguyên nhà.

Mấy đứa nhỏ nhỏ thì bất bình nên không chịu ở lại cộng tác với thằng chả, đâm ra Thánh Lễ không được tổ chức đàng hoàng và đúng phép.
Tiếng miểng gáo cháy tanh tách đã cắt ngang cuộc trần thuật của Augustino Dương.

Ông hấp tấp lấy que sắt cời lửa, rồi chụm thêm hai cây củi bự để “dằn” lửa xuống.

Nồi chè thưng đã tỏa hương thơm ngát, giờ chỉ đợi mấy cái kia mềm rồi thì sẽ cho mấy cái cuối vô.

Có nhiều người nghĩ rằng chè thưng và chè ba ba là một, kỳ thực là hai loại khác nhau: Chè thưng thuộc dạng chè thập cẩm, còn chè bà ba chỉ bỏ ba thứ là khoai lang, khoai mì và bột báng; ngoài ra, chè bà ba bắt buộc phải có gừng, còn chè thưng thì không nấu với gừng.

Điểm chung của hai thức chè là đều có nước cốt dừa để tăng thêm sự ngọt béo và hương thơm.
– Riết, cái Giáo xứ St.

Pio y hệt “tuyển tú”.

Hết Đa Minh xuống, rồi tới Vinh Sơn, Lasan luôn nữa…!Bên nào cũng trụ được vài tháng rồi dông, vì không chịu đựng nổi cũng như bất bình với lối sống của thằng khứa giả mạo.

Rốt cuộc, Đức Cha Thái lệnh Dòng Chúa Cứu Thế tự cử Linh mục xuống quản lý cái Giáo xứ này, không được bỏ của chạy lấy người nữa.

Antonio Vũ ngoảnh mặt nhìn ra ngoài sân.

Mảnh vườn nắng đến lóa mắt, dòm có một cái mà muốn nổ đom đóm.
– Thiệt không ngờ thằng Vũ lại là gián điệp của ổng!
Henrico Thạnh bật cười khanh khách, rồi múc thêm canh chua cho người Thầy đáng mến.
Trời đang nắng bỗng chuyển đen thui, báo hiệu một cơn mưa lớn kèm dông gió sắp về.

Trong nhà hầm hì kinh khủng, người nào người nấy đều cảm thấy mình là một con ếch đang ngồi trên xửng hấp.

Henrico Thạnh hít hít mũi, rồi cười rộ và phán:
– Gió này là gió báo mưa nè.

Lành lạnh, tại có hơi nước trong trỏng á.
– Vậy thì tao khỏi đi tắm, ngồi coi “Ngoài hiên mưa rơi, mưa lạnh xuyên qua áo ai” thú hơn.
– Con “phái” Lam Phương, Thầy “ghiền” Trúc Phương hén.
– Ừ, hai đứa mình “Song Phương”.
– “Chỉ hai đứa mình thôi nhé?”, bài đó của ai Thầy?
– Xời…!Của Anh Bằng và Lê Dinh chứ ai, nhưng lúc ký tên lại ghi là “Dạ Cầm – Lê Dinh”; “Chim vàng Mỹ Tho” Hoàng Oanh ca bài này ngọt lắm.
– Con thấy cô Thanh Tuyền ca cũng hay chớ bộ.
– Tóm lại, tao ca hay hơn.
Rồi sực nhớ tới chuyện của Stephen Đoàn và cô Xuân, Augustino Dương ngoắc chàng Linh mục xấu trai lại cho ông biểu.

Stephen Đoàn xích lại gần ông đặng nghe cho rõ vì ngoài trời nổi gió lớn quá:
– Dạ, thưa Thầy, con đây.
– Cấm hai đứa bây hát bài này.

Stephen Đoàn cười mà mặt mày buồn xo.
– Làm ơn diễn giùm Thầy vở cải lương “Tuyệt tình ca” đi con.
Stephen Đoàn trầm giọng nói:
– Dạ, con biết con là ai mà Thầy.
Augustino Dương miết tay lên gương mặt không có nét nào đẹp của đứa con tên Mỹ mà thương cảm nói:
– Tội nghiệp con…!Tới chừng gặp được người yêu thương mình thật lòng thì đã trở thành tu sĩ rồi…
Stephen Đoàn gượng cười:
– Con còn tình yêu của Chúa, của Đức Mẹ, của các Thầy, của các Dì và quý bạn hữu đồng tu cùng bầy chiên mà.
– Ừ, để các Thầy và mọi người bù lại phần thương con của cô Xuân.
Bữa cơm chưa dứt mà mưa bắt đầu tuôn trào như thác đổ.

Mái tranh vách đất càng khiến cho tiếng nói của từng người nghe rất nhỏ, rồi vì không ai nghe thấy ai nên người nào người nấy làm biếng nói, chỉ biết cắm cúi ăn cho xong bữa.

Đợi mưa nhỏ hạt dần, Augustino Dương mới hỏi:
– Xứ này còn xài dầu dừa không Thạnh?
– Dạ, cũng còn, nhưng ít lắm.

Vì dầu dừa rất khó xài, lại dễ gây ra mùi gắt dầu nên không còn thạnh hành như hồi trước nữa.
– Hồi trước xài sao mà thịnh hành?
– Hồi xưa, mỗi bận đi ăn đám tiệc, sau khi bới đầu xong thường mấy cô, mấy bà hay lấy dầu dừa bôi lên tóc cho bóng tóc.

Nhưng về lâu về dài, cái đầu sẽ bị lưu lại mùi gắt dầu rất hôi, có xả bằng bồ kết cỡ nào hay cây gì đi chăng nữa hôi vẫn hoàn hôi.

Mà, Thầy muốn xài thử hôn?
– Thôi đi mày…!Đầu tao còn mấy sợi tóc hà, xúi bôi dầu dừa vô hổng thấy đẹp đâu mà thấy trụi lủi rồi đó.
– Già thì phải chịu hói chớ Thầy.
– Tao ghét tiếng già, mày.
Nói đoạn, Augustino Dương bẹo má thằng con trai tên Thạnh rồi cười hỉ hả.
Manuel Ngô chạnh nhớ tới người Thầy đã cưu mang mình hằng bao năm qua, lòng rất buồn vì thấy mình chỉ gây phiền hà cho gia đình Thầy chứ chẳng báo được chút xíu ơn nào.
– À, Cha ơi, con muốn biết ai đã giúp mẹ con được đi tu?
Augustino Dương gãi gãi đầu.

Một hồi vỗ đùi cái đét rồi hỏi lại:
– Sơ Hiền?
– Dạ, mẹ con là Sơ Hiền, tên do bà ngoại đặt là Đặng Thu Huyền.
– Tên gì kỳ vậy? À, thôi Thầy hiểu rồi…
Dù muốn dù không, Augustino Dương cũng phải kể về nguồn cơn được vào Dòng nữ Chúa Cứu Thế của Sơ Hiền.

Người đứng ra bảo lãnh là Cha Vinh-Sơn và Cha Bề Trên Diệu, hai Cha đã thuyết phục Mẹ Bề Trên tên Hòa cho bà được vô đây sống đời nữ tu, rốt cuộc Mẹ Bề Trên cũng xiêu lòng mà gật đầu đồng ý.

Nhưng vì sắc đẹp lộng lẫy của mình mà Sơ Hiền bị đồn thổi là người yêu của Cha Vinh-Sơn, báo hại Cha bị rầy la một chập và chịu án kỷ luật nặng nề.
– …!Nhìn gương mặt của con là Cha đủ hiểu Sơ Hiền hồi còn trẻ và cha con hồi còn sống đẹp tới cỡ nào.

Đôi mắt con giống hệt người Dì phước ấy, hiền vậy mà tuổi trẻ phải sống trong sự dữ và lầm lạc.

Lối khoảng ba giờ rưỡi, hai người anh em của Manuel Ngô tới chở y về thành phố.

Lúc ấy Henrico Thạnh đang giúp y xếp mấy cây kẹo dừa Thanh Long, kẹo chuối Yến Hương, chục cái bánh cúng với hục xâu bánh dừa và bánh phồng sữa, bánh tráng chuối và bánh tráng mè – mỗi thứ ba xấp – vô trong va-li; xong xuôi hết thảy, y và người bạn mới quen kéo va-li ra cổng trước, Augustino Dương đã đứng đó chờ sẵn.
– Samuel Định? Có phải con đó không?
Hai người cùng mở cửa và bước xuống xe, rồi đứng trước mặt Augustino Dương mà chắp tay chào ông.
– Đây là…
– Con là La Yến Thanh, con Út của Giám Mục La Viễn Phương.
Vì bị những tin tức trên mạng gây ảnh hưởng tâm lý nên Augustino Dương tỏ ra không mấy thiện cảm với chàng trai ấy.

Tự giác Út Thanh biết mình không được người Linh mục ưa nên lầm lũi trở ra xe ngồi.
Augustino Dương và Samuel Định ngó theo bóng lưng của Út Thanh, rồi day lại nói chuyện với nhau.

Samuel Định vẫn theo học tại trường Dòng trong lúc em trai gã vắng mặt, cũng bởi vì thế mà gã đã từ chối đi theo con đường tu sĩ.
– Chờ chút đã…
Nói đoạn, Henrico Thạnh lại gần Út Thanh mà đưa cho anh một ly chè thưng đã bỏ sẵn đá bào và thêm hột lựu.
– Ổng già sanh khó tánh.

Anh thương giùm ổng được không?
Đến bây giờ nụ cười mới trở lại trên môi Út Thanh.

Anh đáp nhỏ:
– Dạ được.

Rất cảm ơn anh vì đã mời tôi ăn chè.
– Có gì đâu…!Chè ổng nấu đó, ăn thử vài muỗng coi chấm được bao nhiêu điểm?
Út Thanh nếm đại hai muỗng rồi cho bừa tròn mười.

Lúc này Augustino Dương mới nhìn anh bằng ánh mắt vui tươi.

Tiễn đưa người con trai hụt về lại thành đô xong, Augustino Dương rủ mấy đứa kia ra công viên nằm bên bờ sông Ba Lai hóng mát.
– Trời chắc chỉ ui ui thôi, chứ mưa không nổi đâu.

– Ông trấn an mấy thằng con.

– Mà, nếu có mưa, mình băng qua lộ rồi kiếm quán cà-phê nào đó mà ngồi đụt.

Không thú sao?
Vậy là Henrico Thạnh bèn gọi điện thoại cho anh Tư Vinh để anh ra chở nguyên đoàn đi chơi.
Ước độ nửa tiếng sau, mới thấy mặt mũi anh Tư Vinh.

Anh xin lỗi rối rít vì đã khiến mọi người phải đợi lâu, hỏi lý do mới hay anh đang ở trong nhà tắm, ai nấy thảy đều cười ồ.
Vừa mới lên xe thì trời lác đác mưa.

Anh Tư Vinh liền chỉ nhóm Linh mục ra vườn trái cây của thằng bạn mà dạo chơi cho khuây lãng.

Sẵn đang vô mùa sầu riêng, biết đâu nó sẽ giảm giá cho khách ăn tại vườn thì sao?
Stephen Đoàn nói nhỏ:
– Cũng may trời mưa nên mấy bịch chè không bị thiu.

– Ôi, lo gì con, thiu thì mình mời gia đình con nhỏ ăn sầu riêng.

Còn quý hơn nồi chè của Thầy nữa là…
Nói tới đây, Augustino Dương biểu anh Tư Vinh ghé ngang qua nhà anh và nhà cô Tư Lành để ông gởi biếu mấy bịch chè.

Anh ta cười tươi cảm ơn, rồi quẹo vô con lộ dẫn lên cây cầu bắc ngang một con rạch nhỏ nối liền xóm trên – xóm dưới.

Giọng ca của Duy Khánh trong bài “Lính nghĩ gì?” của nhạc sĩ Hoài Linh càng làm không gian thêm quạnh quẽ, u ám.

Cũng có nhiều người cùng thời hoặc hậu bối hát lại bài này, nhưng không ai trình bày truyền cảm bằng bác.
– Nhạc sĩ Bảo Thu là một trong những nhạc sĩ miền Nam có những tác phẩm bị thất truyền rất nhiều, như “Anh hùng không gian”, “Mưa trên sông Rhein”, “Hãy cho tôi nhìn”,…!- Anh Tư Vinh bình phẩm.
Augustino Dương góp lời:
– Còn nhiều, nhiều lắm, không sao kể xiết hay nghe hết đâu.
Giao chè xong, nguyên đoàn qua cầu Hàm Luông để tới vườn trái cây ấy.

Cô Tư Lành có dặn mua giùm cô năm trái để nguyên nhà cô đủ phần ăn, còn mẹ vợ của anh Tư Vinh thì biểu mua ba trái để thằng cháu ăn tẩm bổ.
Chủ vườn là một đôi vợ chồng ngoài sáu mươi, ai nấy đều phốp pháp và trắng trẻo, dáng điệu ra vẻ chủ cả lắm.

Con trai của họ, cũng tức thằng bạn của Tư Vinh đang nằm dài trên bộ ngựa kê trong phòng khách mà coi đá banh.

Đáng ra nguyên đoàn đã được vô vườn lượm sầu riêng, nhưng vì thời tiết mưa dầm dề và đất lầy trơn trợt nên gia chủ không cho ra ngoài ngoải và giữ rịt trên nhà trước.
Augustino Dương ngó qua chấn song cửa sổ, ông thấy những người làm công mặc áo mưa đi lượm từng trái sầu riêng cho chủ.

Thể theo lời vợ chồng chủ vườn, khi trời hành dông gió và mưa có kèm theo sét nổ, họ không cho phép người làm công ra vườn lượm sầu riêng để tránh gặp chuyện rủi ro đáng tiếc; những lúc đó người làm công thì khoái, còn chủ vườn thì khóc ròng vì sầu riêng úng nước kể như xong.
Hiện thời nguyên đoàn đang ở gian phải của nhà trên, nơi đây bày một bộ ngựa khá lớn, ở trển có năm, sáu bà cô ngồi nạo cơm sầu riêng rồi phân thành từng bịch để bỏ mối cho những hàng quán bổn xứ và tuốt tận Sài Gòn.

Ai nấy đều bịt mặt và đeo bao tay silicon, thành ra dù nói chuyện rổn rảng nhưng không mấy gây ảnh hưởng tới mức độ an toàn vệ sinh thực phẩm.

Chủ đề xoay quanh lô đề, con cái, chuyện đứa này – đứa kia trong giới giải trí, hành hương đi chùa, coi bói,…!Ngồi nghe một hồi có cảm tưởng chỗ này là một tòa soạn lớn.
Nghe Augustino Dương biểu muốn mua sầu riêng nguyên trái, vậy là hai vợ chồng liền niềm nở kéo nguyên đoàn xuống nhà sau để họ được tha hồ lựa chọn.
Nhà kho nối liền với chái bếp bằng một hành lang có bề ngang khá lớn, trên trần lắp một bóng đèn huỳnh quang dài một thước hai luôn được bật sáng.

Có sáu loại sầu riêng: Lép Chuồng Bò, Bí, Cái Mơn, Ri Sáu, Thái, Khổ Qua; mỗi loại được phân riêng một khu rất sạch sẽ và thoáng khí.

Những trái “hàng dạt” được để vô một khu nằm cạnh sau hè, nói là hàng dạt chứ phần cơm ăn vẫn rất thơm ngon, chỉ bởi không được đẹp mã mà bị gán cho cái mác ở trên.
Ông chủ vườn xởi lởi:
– Ai muốn ăn trái nào trong đống “hàng dạt” này thì cứ tự nhiên mà lấy nghen?
Augustino Dương nêu thắc mắc:
– Số “hàng dạt” này xuôi về nơi mô hả anh Hai?
– Thì nạo cơm bán, còn hột thì đem luộc ăn, mấy cái vỏ thì ủ làm phân.
Stephen Đoàn nghe nói chúng bị thương lái chê chỉ vì không được đẹp mã, tự nhiên lại chạnh lòng nhớ tới phận mình, sao mà nghe sóng mũi cay cay.
– Ê, bây tính diễn tuồng “Lá sầu riêng” hả?
– Dạ, đâu có đâu Thầy.
– “Tốt mã rẻ cùi”, câu nói của ông bà thời xưa có sai bao giờ đâu.
Bà chủ vườn khuyên:
– Nè, anh thấy tui tính vầy được hôn? Anh mua sầu riêng khui sẵn đi.

Nghe qua tưởng mắc chớ kỳ thiệt rẻ hơn mua nguyên trái.

Mà hổng sợ bị lầm nữa.
– Ừ, vậy đi, chơi là chơi tới hà.

Henrico Thạnh và anh Tư Vinh đã cầm dao khui sầu riêng tự bao giờ.

Hai người nhấn dao vào các khía nứt sẵn và các “khớp” trên trái sầu riêng để cho dễ bung, rồi dùng tay không banh ra.

– Con mời Thầy.
Augustino Dương cười mím mím:
– “Tưởng rằng người đã quên ta.”
Henrico Thạnh rùng mình:
– Thầy…!gai óc con nổi cục cục rồi nè Thầy.

Augustino Dương vỗ đầu thằng con:
– Thôi mày ơi!
– Ủa Vinh? Trời, mày xuống hồi nào vậy?
– Tao xuống nãy giờ rồi…!Nè, Bí nè, mày ưa ăn nhứt phải hôn?
Con trai của vợ chồng chủ vườn chỉ mặc độc cái quần tà-lỏn, để mình trần mà phơi nước da đen như cột nhà cháy ra, chân mang đôi dép xỏ ngón rẻ tiền bán đầy ngoài chợ, ngón áp út đeo nhẫn vàng đã xuống màu.
Nguyên đoàn nán lại chơi tới năm giờ chiều mới xin phép ra về.

Vì sợ ăn mỳ không nổi nên ai nấy đều ăn lớt lớt vài múi sầu riêng thôi.

Ăn cũng đâu có ít mà gia chủ và người con trai mời họ bữa naào ghé lại chơi với gia đình.
Tiếng hát của Thanh Tuyền trong bài “Tàu nhổ neo rồi” của đôi nhạc sĩ Mạnh Phát – Trần Thiện Thanh đón nhóm Linh mục vào ngôi nhà của gia đình chú Năm.

Cô Xuân đã nấu nướng xong.

Hiện thời đang dọn mâm ra cái bàn ở hàng ba sau bếp.

Vừa làm vừa ca nho nhỏ theo dĩa hát đang chạy được đặt nơi đầu tủ gạc-măng-rê.

Tuy Stephen Đoàn đến nhưng cô không chưng diện hay xức dầu thơm, mà cứ ăn bận giản dị như mọi ngày.
– Anh Mỹ.
– Ơi.
Lại có tiếng đằng hắng vang lên từ người Thầy của Stephen Đoàn.
– Ở đây khó kiếm bột tía tô, cá cơm sấy khô và bánh gạo ngon quá nên tôi phải nhờ con bạn trên Sài Gòn mua giùm.

Chồng nó mở quán bán đồ ăn – thức uống kiểu Đại Hàn nên nó luôn có sẵn nguyên liệu, thành ra nó chia lại cho tôi với giá rất rẻ.
Hoành thánh nhân đậu xanh được cô Xuân chế biến theo hai cách: Một đem chiên giòn theo hình tam giác dẹp và một đem nấu chín theo hình thỏi vàng.

Nước lèo có thêm tôm khô và khô mực ngoài rau cải và cá cơm sấy khô, vì cô nếm thấy nước lèo ngọt theo kiểu người Hàn thích ăn chứ không phải người Việt.

Cô trụng kỹ mấy vắt mỳ tươi, rồi chần qua nước sôi thêm một lần nữa trước khi đem xả dưới nước lạnh nơi bồn rửa chén; làm vậy để cọng mỳ được dai và không bị đổ nhớt nếu để lâu.

Về phần rau ăn kèm, cô chọn cải thìa do nó vừa mau chín vừa làm nước lèo thêm ngọt rất ngon; và cô cho thêm hẹ và giá thay vì chỉ có mỗi hành boa-rô.
– Tay cô bị phỏng à?
– Dạ…!Hồi nãy làm hột gà chiên bột bị văng trúng.
– Sao không bỏ bột bắp vô?
– Dạ, quên.
Rồi Stephen Đoàn tự tay xức thuốc lên cánh tay trái của cô Xuân.

Hồi còn ở Giáo xứ, anh thường giúp mấy đứa nhỏ quậy banh trời nát nước lau rửa, sát trùng và băng bó vết thương ngoài da nên rành lắm.

Mà cũng vì nguyên do trên mà anh luôn thủ sẵn mấy tép thuốc trong mình.
Cô Xuân làm cho mỗi người một tô mỳ đầy vung.

Còn món bánh gạo xào cay ăn kèm với chả cá tự quết và hột gà chiên bột cô sẽ mời sau.

Cô cũng đã làm đậu xanh – rau má pha với nước dừa để cho anh Mỹ và quý Thầy, quý bạn bè uống giải nhiệt ngày nắng.
Anh Tư Vinh không thích ăn mỳ chay nên cáo lỗi khước từ.

Nghe vậy, chú thím Năm khẩn khoản mời anh ăn một tô hủ tíu – mỳ mặn; anh gật đầu đồng ý ngay tắp lự.
Vừa nhìn vợ hiền bắt hủ tíu – mỳ, chú Năm vừa bắt chuyện với anh Tư Vinh:
– Vậy chứ cậu đây ăn được hột gà chiên với bánh gạo xào cay không?
– Dạ, cho con lấy một hột đem dìa cho con trai con ăn.

– Ủa? Cậu có vợ con rồi hả?
– Dạ.
– Vậy đem bánh gạo với mỳ chay về cho gia đình ăn đi.

Có ở chung với cha mẹ bên nào không?
– Dạ ở riêng.
– Gần đây hả?
– Dạ.
– Vậy thì đem về cho ổng bả ăn luôn đi.
Trong lúc anh Tư Vinh đang ngồi nói chuyện với chú Năm, nhóm tu sĩ và cô Xuân đang bàn đến việc đi thăm đình Tân Thạch, nhà của cụ Đồ Chiểu và đi coi cơ sở nuôi ong trên cồn Thới Sơn vào sáng ngày mai.

Xẩm tối cùng ngày nhóm tu sĩ, trong đó có cả Thạnh, sẽ trở về Giáo xứ St.

Pio để chuẩn bị Thánh Lễ cho Mùa Phục Sinh.
Ăn uống xong xuôi thì đồng hồ đã chỉ hai giờ rưỡi.

Cô Xuân ngỏ ý muốn nghe Stephen Đoàn ca, người Linh mục ấy cũng không nỡ từ chối nhưng không biết ai đệm đàn giùm mình.

– Để tui đờn cho anh ca.

– Henrico Thạnh mở lời giúp đỡ.
– Cảm phiền anh vậy.
Rồi Stephen Đoàn day qua cô Xuân mà hỏi:
– Cô muốn nghe bài chi?
– “Những lời ru cuối (Ru)” do nhạc sĩ trước năm 75 Tuấn Khanh phổ từ bài thơ “Ru” của văn sĩ Nguyễn Đình Toàn, mà tôi đã từng nghe qua giọng ca Thanh Vũ.
– Tôi không biết bài này.
– Vậy bài gì anh biết thì anh cứ hát nghen?
Stephen Đoàn bèn trả lời:
– “Bên trời phiêu lãng” do nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ từ thơ của thi sĩ Hoàng Ngọc Ẩn, tôi thích nghe Sĩ Phú hát bài này lắm.

Đoạn hỏi anh bạn đồng tu cùng Dòng có biết bài này không.

May thay, anh ta biết.
“…!Đôi chúng ta đôi bờ khóc hận
Mênh mông sầu như sóng biển sâu
Và đôi nơi xót xa thân phận
Nghìn trùng xa nặng trĩu u sầu…”
Cô Xuân nghe tới đâu nước mắt trào ra tới đó.

“Hỏi thế gian tình là gì” mà trăm ngàn văn sĩ, thi sĩ và nhạc sĩ cũng không thể cảnh tỉnh người khác sa đà vào nẻo Yêu đau khổ tột cùng.
“…!Tiếc mà chi hỡi người tình lỡ
Thương mà chi ước mộng xa rồi
Nếu mai sau có lần gặp gỡ
Xin cho nhau một nét môi cười…”
Trình bày xong, Stephen Đoàn gượng cười hỏi:
– Xuân uống thuốc chưa?
Cô Xuân vừa lấy tay lau lệ vừa run giọng đáp:
– Dạ, em quên…!Í chết, tô…!tôi quên…
Augustino Dương thở dài một tiếng, rồi đứng dậy đi một hơi ra sau hè coi bầy gà giỡn trửng với nhau.
Ignacio Cường lên tiếng:
– Cô để thuốc ở đâu, tôi lấy giùm cho?
– Dạ, tôi để trong tủ lạnh, đặng tránh hư thuốc đó mà.
Antonio Vũ cũng đi rót nước giùm cô Xuân.
Chỉ còn lại cái “tam giác Bermuda”, hai cạnh đáy nhìn phần đỉnh mà im lặng không biết tiến thoái ra sau.

– Cho tôi hát một bản được không?
Henrico Thạnh gượng gạo hỏi:
– Bài gì cô?
– “Em vẫn là em gái của anh” – không rõ người sáng tác, cô Thanh Tuyền ca mùi lắm.
Henrico Thạnh bối rối trả lời:
– Bài này xưa quá tôi không biết nổi.

– Dạ.

Vậy thì thôi…!Tôi nghe anh Mỹ ca là được rồi.
– Bài chót hén? “Cây mùa Xuân” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng mà ca sĩ Nhật Trường đã trình bày rất hay và không còn hát lại trên truyền thông đại chúng một lần nào nữa.
Henrico Thạnh nhún vai, lắc đầu.

– “Cho em Tình yêu và Ngăn cách” do nhạc sĩ Song Ngọc phổ từ thơ của thi sĩ Hồ Đình Phương, tôi ưa nghe Chế Linh ca lắm.
Cô Xuân úp mặt vào hai lòng bàn tay mà khóc nức nở.
– Tôi chưa có hát mà, sao Xuân khóc mau vậy?
Rồi Stephen Đoàn tự đàn luôn, bởi anh biết bạn anh cũng không biết bài này đâu.
“Cho em Tình yêu và Ngăn cách
Để muôn đời ta vẫn luyến thương nhau
Lòng chân thành dù còn, nhưng đừng nói
Trần gian, ôi trần gian này
Câu chung tình mấy người…”
Augustino Dương nhớ tới bức tượng Thiên Thần Gabriel có đôi mắt giống hệt Cha Vinh-Sơn.

Bức tượng đó hãy còn đứng ở một góc Giáo xứ, làm chứng nhân cho tình yêu mù quáng của người chị Trà Vinh.

Trời lại chuyển sắc ui ui, có đàn chim nào hối hả đưa nhau về tổ, đưa nhau về chốn uyên nguyên…
Một ngày nặng nề mặc dù đầy ắp tiếng nhạc trữ tình rốt cuộc cũng qua đi.

Trời đã về khuya mà Augustino Dương không tài nào ngủ được, nên đành lên chõng tre kê dưới gốc cây mận và nằm sát bồn cây mai vàng mà nằm ngắm sao hứng gió.

Ông lo sợ đứa con trai tên Mỹ sẽ bị ái tình cám dỗ.

Mà hỏi sao nó không xao xuyến cho được, từ hồi nào tới giờ có ai coi trọng và cưng chiều nó ngoài mẹ ruột và cô Xuân đâu.
– Chưa ngủ hả Thạnh?
– Dạ chưa…
– Sao vậy?
Henrico Thạnh ngập ngừng nhìn Cha mà nói:
– Con nhớ tới cái chết của một vị Linh mục hồi đầu năm nay nên không ngủ được…
Augustino Dương gục gặc đầu:
– À…
– Con có được một người quen gởi cho coi đoạn phim Thầy ấy làm bánh mì và nấu sữa để chuẩn bị bữa ăn sáng cho trẻ nhỏ vùng cao…
Augustino Dương cười buồn hỏi thằng con hạp tánh:
– Con sợ hay gì Thạnh?
– Con đâu có sợ đâu Thầy.

Con chỉ thấy khốn nạn mà thôi, Thầy hiền và tốt quá mà lại bị…
– Con có biết không Thạnh? Cha Vinh-Sơn dạy rằng, “Không giống những kẻ ác cũng là một loại diễm phúc.

Bởi vì họ không còn đường lui nữa nên phải phục tùng cái Ác và tài vật thế gian; còn chúng ta thì chẳng bị thứ gì trói buộc nên không cần phải đi rình rập hay ngồi nghĩ kế hại ai để làm vui lòng Quỷ Dữ.

Khi đã khoác lên màu áo chùng thâm, chúng ta đã vui lòng đón nhận cái chết và sự dữ từ thế gian này đem lại cho mình.”
– Con chưa từng ở gần Cha Vinh-Sơn, thành ra không hiểu căn cớ nào đã khiến Cha phải lìa đời sớm như vậy.
– Sự có mặt của Antonio Vũ đã khiến Cha bị nhiều người đồn thổi Cha đã phạm giới cấm.

Dù hai người đã thử ADN chứng minh không phải cha con ruột song tin thất thiệt đó vẫn lan tỏa đi.
Rồi ông bồi thêm:
– Thằng Vũ là cháu ruột của Cha nên nó giống Cha đâu có gì lạ.

Như Hoàng Kiều và Hoàng Thi Thơ có cùng một kiểu miệng và hàm răng đó thôi.

Chợt có tiếng mở cửa hậu lục cục, rồi liền sau đó là tiếng bước chân của ba đứa con trai của Augustino Dương.

Không biết vì lạ nước lạ cái hay bị hai người làm rộn nên không ngủ nghê gì được mà phải ra đây ngồi chơi.
– Hổng ngủ hả mấy đứa?
Ignacio Cường hỏi lại:
– Cha muốn uống nước tăng lực không? Con làm.
Augustino Dương cười tươi và gật đầu mà đáp:
– Uống chớ.

Stephen Đoàn và Antonio Vũ chia nhau một góc trên chõng tre.

Có tiếng đập nước đá lốp bốp vọng ra từ chái bếp, uống nước tăng lực mà không có tẩy – chua chịu gì nổi.
– Mấy đứa muốn nghe chuyện của JB Khải hả?
Thấy ánh mắt nôn nóng của ba thằng con, Augustino Dương phì cười.

Trước khi bắt đầu vào câu chuyện, ông húng hắng giọng rồi mới nói:
– Ignacio Cường bình định nguyên một đám luôn.
Henrico Thạnh day qua hỏi:
– Sao có anh Cường ở đây vậy Thầy?
– Mày nôn quá thằng quỷ.

Từ từ tao vô đề chớ?
– Chuyện đó cũng đã qua lâu lắm rồi, Cha đừng nên kể cho họ hay thì hơn…
– Cái thằng quỷ này…!Có gì đâu mà ngại hả mày?
Ignacio Cường thôi không can nữa.

Anh lặng thinh đi làm đồ uống tiếp; mấy lon “Rock Star” này anh đem về từ thành đô thân yêu, để phòng hờ ở đây không có bán.
– Lúc JB Khải bị đề nghị treo Chén, thằng Cường đã xông vô văn phòng của Cha Bề Trên và Cha Giám đốc mà hạch hỏi, “Đến cả Cha mà cũng tin lời họ sao?” Mấy người Thầy phải lại gần can gián, Cường nó mới chịu nhượng bộ đôi chút.

Nhưng im chưa được vài phút, nó lại quay qua điểm mặt trách cứ từng người, nó nói chỉ dựa vô mấy cái tấm hình này mà đã phán xét nhân cách của JB Khải rồi.

Chút xíu nữa là nó cũng bị treo Chén luôn.
Ignacio Cường bưng khay nước tăng lực ra.

Sợ chõng tre bị sập do sức nặng của mình nên anh vô bếp lấy ghế ngồi.
– Quỷ dữ đang tấn công chúng ta, tụi con có biết không?
Antonio Vũ gật đầu:
– Cái xác nữ tìm thấy trong mương nước, rồi tới chuyện của Thầy và Sơ Hiền, bây giờ là Anton Nhân và Ignacio Cường.
Ignacio Cường nhếch miệng nói:
– Cái thứ làm cho đời họ khốn khổ thì họ không dám tấn công hay nói đụng tới, còn chúng ta…
– Hãy thương xót họ như Chúa Jesus đã chịu khổ nạn cho chúng ta.
– Chắc con làm không nổi đâu Thầy…!
Henrico Thạnh đổi đề tài:
– Tại sao Thầy có tên Thánh là Augustino vậy Thầy?
Augustino Dương gãi đầu mấy cái, rồi tủm tỉm cười biểu:
– Số là vầy: Tuy chỉ mới hơn năm tuổi nhưng mà Thầy đã muốn theo học trường Dòng, mà gia đình Thầy vốn là Đạo Gốc nên ưng thuận liền.

Nhân bữa đó mẹ Thầy có việc ghé qua Quận Nhứt thăm cô bạn, nên Thầy được thả vô trường Dòng Chúa Cứu Thế để đi thăm chơi.

Tình cờ Thầy gặp Cha Vinh-Sơn, lúc đó Cha đang ngồi đọc Kinh Thánh trên bồn bông của cây phượng.

Sợ phải nói chuyện với Cha nên Thầy rón rén lủi đi luôn.

“Đứng lại…!Đứng!” Thầy hết hồn hết vía đứng ngay băng như anh lính đào ngũ bị phát hiện.

“Con là ai? Sao vô trong này chơi và sợ Cha như sợ cọp vậy?”
Mấy đứa biết Thầy, biết cái cảm giác của Thầy lúc đó ra sao không?”
Không ai trả lời đúng câu hỏi của Augustino Dương.

Ông tủi thân trả lời luôn:
– Thầy thất vọng lắm.

Vì màu áo nhà tu không đẹp như Thầy tưởng.

Thầy xìu co nhìn người Linh mục hết sức đẹp trai và có hai cái lúm đồng tiền nơi má.

Trước lúc kể tiếp, ông uống một ngụm lớn nước tăng lực để có hơi nói một mạch:
– “Sao chú buồn dữ vậy chú? Có muốn ăn kẹo không tôi vô trong văn phòng lấy?” Đúng là con nít thì cái miệng đi trước cái đầu, Thầy vuột miệng nói, “Xấu quá.” Cha bật cười hỏi, “Gì xấu?” “Kiểu áo xấu quá, hổng chịu.” “Xấu ra sao đâu, chú thử diễn tả cho tôi nghe coi.” “Giống con chim cánh cụt.” Chúa ơi, Cha cười ngất ngơ ngất ngưỡng như bị cù-lét vậy.

Chừng hết mắc cười rồi, Cha mới ôm bụng mà biểu, “Vậy ra chú vô đây nghía trước áo nhà tu để quyết định có theo học hay không chứ gì?” Thầy dạ liền, rồi còn khoe mình tính xin vô Dòng Đa-Minh vì màu áo và kiểu dáng rất đẹp và trang nhã.

Cha ngoắc Thầy lại gần, rồi nói khi nào con muốn vô Dòng Đa-Minh thì Cha sẽ giúp con viết đơn ghi danh.

Chợt Cha thở dài thườn thượt và bình phẩm rằng, “Điệu này chú ở Dòng Đa-Minh không ai chứa nổi đâu.

Coi mòi liến khỉ lắm nè.” Thầy cũng đâu có vừa, con của bà bán hàng xén ngoài chợ mà, Thầy hỏi cơ, “Chứ ở đây có ai trị con nổi hôn?” “Có, trước mặt chú nè, hồi xưa cũng có một đứa lì và cãi bướng dám hơn chú nữa mà tôi vẫn uốn nắn thành người nghiêm chỉnh, mực thước được nà.” Tới đây, Thầy bị đuối lý nên đứng im ru bà rù.

Cha cũng không nỡ làm khó Thầy, nên hỏi lảng rằng Thầy có đói bụng hay khát nước chi không thì Cha xuống căn-tin mua cho.

Nghe tới ăn uống miễn phí là Thầy cười tươi, hết còn xụ mặt xuống nữa, bèn mở miệng đòi ăn bánh mì bỏ thêm trứng, thêm jambon, thêm xúc xích, thêm chả lụa, thêm…!Tưởng đâu Cha giận Cha không mua, ai dè Cha mua nguyên một ổ y chang vậy, nhìn không khác chi cái gối ôm bị độn gòn hết mức.

Trước lúc đưa cho ăn, Cha ghẹo, “Ăn mà hổng hết là tôi thọt cù-lét đó, cho chừa cái tật tham ăn nghen?” Thầy tưởng thiệt, con nít mà, ráng ăn cho bằng hết, mà tới nửa ổ cái nó dội ngang, hết chứa nổi.

Cha thấy Thầy sắp phát ách rồi liền cản không cho ăn nữa, đến đây Thầy mới hiểu là Cha giỡn chứ không phải ép ăn thiệt…
Henrico Thạnh hối thúc:
– Rồi sao nữa Thầy?
– Mày thấy nãy giờ tao nói ít hay nhiều? Để tao uống nước cái đã chớ?
– Dữ quá hà.
Augustino Dương nắm áo thằng con đặng kéo nó lại gần mà vò đầu cho hả giận.

Rồi mới nói:
– Nhưng cũng kể từ ngày đó, Thầy nảy sinh mối hảo cảm với Dòng Chúa Cứu Thế, nên không còn muốn vô Dòng Đa-Minh nữa.

Nhân một lần mẹ lại ghé nhà cô bạn chơi, Thầy mới xin tới thăm trường Dòng.

Đương nhiên mẹ Thầy cho phép liền.
Thay vì đi thẳng vô trường, Thầy lại đứng ngoài chọi dép để hái cho bằng được mấy chùm me chín treo lủng lẳng trên những nhánh cây già.

Chọi sao hay quá, hai chiếc dép “đóng quân” ở trển luôn, mà hổng có trái nào rớt xuống hết.
Cha Vinh-Sơn nhìn Thầy đứng khóc ngất dưới gốc me trước cổng trường thì hiểu chuyện gì đã xảy ra.

Cha xoa đầu Thầy mà trách yêu, “Cái tướng phì lũ mà còn tham ăn me chi cho mất tiêu chiếc dép.” Rồi đó, Cha leo lên cây me lấy hai chiếc dép xuống cho Thầy, không may bị vỏ cây cào xước hai lòng bàn tay chảy máu.

Thầy nhìn thấy máu nhễu xuống còn khóc dữ hơn.

Hai cha con lâm vô tình thế trớ trêu khôn cùng, Cha thì dỗ, còn Thầy thì khóc, dép cũng không thèm mang, Cha phải ngồi xuống xỏ vô chân – Thầy mới sực nhớ nãy giờ đi chân đất không.

Chừng dắt vô văn phòng, lúc đó Cha Giám đốc không có ở đây, chỉ có Cha Bề Trên Diệu đang ngồi làm sổ sách, Thầy mới nín khóc vì sợ bị Cha Diệu rầy.

“Thằng nhỏ này con ai mà dắt vô đây “trình diện” tôi? Í, sao hai tay Thầy máu không vậy? Ngồi xuống liền, để tôi băng bó vết thương cho.” Cha Vinh-Sơn mới thuật lại sơ sài lý do nào đã khiến cho tay Cha chảy máu và thằng nhỏ này mặt mày thểu não, còn bộ dáng thì y chang bại binh.

Cha Diệu nghe xong dở khóc dở cười, rồi mở hộc tủ lấy ra gói xôi Cha dành ăn điểm tâm mà đưa cho Thầy.

Lúc này Thầy mặt mày tỉnh queo như chưa hề có chuyện gì xảy ra; vừa cảm ơn rối rít vừa mở gói xôi ra ăn.

Trong khi Thầy đang ăn, Cha Vinh-Sơn nói lại với Cha Diệu về ý định vô Dòng Đa-Minh của Thầy.

Cha Diệu thoáng buồn, vì không biết mình quản trách nhà Dòng ra sao mà thằng nhỏ này lại không ưng ý; chừng nghe Cha Vinh-Sơn biểu là do nó khoái màu áo nhà tu bên bển, Cha mới vui trở lại.

Rồi Cha Diệu dịu dàng hỏi, “Con có biết đặt tên Thánh không? Có vị nào mà con cảm mến và muốn theo gương chưa?” “Có biết ông nào đâu mà chọn tên Thánh?” Cha Bề Trên và Cha Vinh-Sơn nhìn nhau cười ngặt nghẽo.

Rồi sau một hồi vò đầu bứt tóc, Thầy day sang hỏi Cha Vinh-Sơn, “Cha ơi, tên Thánh của con là gì vậy Cha?” Cha ngó xuống đôi chân dơ hầy của Thầy rồi cười phá lên mà nói, “Chân Đất, Dòng Thánh Augustino Chân Đất.

Vậy con sẽ là Augustino nhe?”
Từ đó, Thầy có tên Thánh là Âu-Cơ-Tinh.

Henrico Thạnh bình phẩm:
– Hèn gì Thầy giống Thánh Augustino y hệt.

– Ý mày nói tao hay “cãi lý” chứ gì?
Henrico Thạnh im re.
– “Chúng ta sẽ biến Giáo xứ này thành địa điểm làm sáng danh Dòng Chúa Cứu Thế.” Đó là tâm nguyện của Cha Vinh-Sơn, nhưng đời của mấy Thầy chẳng ai làm được hết, giờ chỉ biết trông cậy vô mấy đứa thôi.
Ignacio Cường ngỏ ý muốn nghe Cha Dương kể vài chuyện vui thời còn niên thiếu của ông.

– Ây, hồi xưa, thời của Thầy, Cha Bề Trên Diệu còn sống.

Thầy là đứa đầu têu kêu là “Cha Xuân Diệu”; ổng hay được đi, mới xách đầu lên văn phòng bắt chép phạt mười trang giấy cái bài thơ gì mà có câu đầu là “Biết làm sao định nghĩa được Tình Yêu” của cha nội Diệu kia.

Thầy chơi rắn mắt lắm, tới trang thứ sáu hay bảy gì đó, Thầy lòn vô câu, “Biết làm sao định nghĩa được tên Diệu.” Vậy mà ổng phát hiện nghen, ổng xách đầu Thầy lên văn phòng lần hai, rồi gằn giọng nạt, “Dương, câu giỡn mặt với tôi đó hả?” Thầy chối đây đẩy, “Con bị liệu mà.” “Bây liệu kiểu gì mà liệu trên đầu cha người ta liệu xuống vậy?” Không có Cha Vinh-Sơn năn nỉ ỉ ôi, chắc là Thầy đã bị đuổi học rồi.

Bây giờ nhớ lại hối hận ghê mà không sao quay ngược thời gian để trở lại văn phòng mà cúi đầu tạ lỗi với Cha Diệu.
– Còn cái vụ chơi bi-da sao Thầy?
– Vào năm Thầy mười bốn tuổi, cái hàng xén của gia đình Thầy bị cháy rụi theo dòng lửa dữ của cơn hỏa hoạn trong khu chợ.

Trước lúc nhà bị khánh kiệt, Thầy đã chơi bi-da ở nhà từ hồi lên tám nên đánh rất khá, nay nhân hoàn cảnh túng thiếu mà đem tài nghệ ra thi thố đặng phụ tiền sinh hoạt với mẹ cha.

Song càng chơi càng ghiền, rồi sa đà vào cá độ hồi nào không hay.
Tin này lọt đến tai Cha Bề Trên Diệu nhờ sự “tình báo” của mấy anh lớp trên.

Cha Diệu phạt Thầy trực nhật một tháng ở hai khu nhà vệ sinh sau giờ học.

Nghĩ sao mình Thầy dọn nổi, thành ra Thầy trốn luôn.

Mấy đứa con của ông chỉ biết kêu Trời trong bụng.
– Nhưng kỳ lạ thay, tuy Thầy trốn trực mà hai khu nhà vệ sinh đó vẫn vô cùng sạch sẽ và thơm tho.

Cha Diệu sanh nghi, ổng mới đứng rình ngoài cửa coi ai đã giúp Thầy.

Thì lúc đó, Cha thấy Matthias Hoàn đang vừa vắt cây lau nhà vừa ê a gạo bài đặng chuẩn bị cho kỳ thi Thần Học.

Ảnh bị cái tật hay quên nên luôn ôm theo tài liệu để tụng bài mỗi khi rảnh tay.

“Bắt quả tang rồi nghen!” Ảnh la lên một tiếng, “Jesus – Ma…”, rồi xém chút nữa là tung cước đá vô bụng dưới Cha Bề Trên luôn.

Sau khi trấn tĩnh, Cha Diệu trừng mắt hỏi, “Vỏ đây, còn con ốc mượn hồn đâu?”
Henrico Thạnh xen vô:
– Thầy đang ở quán bi-da phải hôn?
– Đúng là học trò cưng của Thầy, hiểu Thầy ghê luôn.
Ignacio Cường hỏi:
– Rồi sao nữa Thầy?
– Tự nhiên Cha Diệu thành “Thám tử lừng danh Conan”, ổng suy luận chỉ có một đứa thì làm sao dọn sạch hai khu nhà vệ sinh nên ba chân bốn cẳng chạy lên lầu coi đứa còn lại là ai.

Thì đây, Giuse – Blanc Thành đang vừa hát Thánh Ca vừa chùi bồn cầu.

Ổng sợ bị đá trúng, nên đứng ở ngoài cửa đằng hắng một tiếng báo hiệu, rồi nói, “Trò nào đang ở trỏng, khôn hồn ra đây khai báo để nhận được sự khoan hồng từ ban Giám hiệu nhà trường.” Ảnh mặt mày méo xệch bước ra “trình diện”.

“Tổ chức liên minh qua mặt tôi tự bao giờ hả hai đứa đồng minh với thằng Dương?” Ảnh khai ảnh với anh Hoàn là tự nguyện giúp đỡ chứ không liên can gì tới Thầy, xin Cha đừng trách tội Thầy tội nghiệp.
Thiếu điều ổng chỉ mặt từng đứa mà hô, “Sự Thật thì chỉ có một.”
Henrico Thạnh trề môi:
– Đáng ra Dòng Đa-Minh nên làm Lễ Tạ Ơn Chúa vì Thầy đã không theo học.
– Ừ.

Ông nào tao cũng chấp hết.

Riết mấy ổng biết tiếng luôn, có ông tức quá còn hỏi, “Cha nào giữ nó ở lại đây vậy?” Riêng mấy bà Sơ là tao không dám mạo phạm.
Vị chua của nước tăng lực làm Antonio Vũ nhăn mặt.

Tự nhiên nhìn mặt con trai tên Vũ, Augustino Dương nhớ lại một kỷ niệm với Cha Bề Trên Diệu, nên kể rằng:
– Trước lúc mất, Cha Bề Trên Diệu được các Thầy và Cha cố hỏi có điều chi muốn làm không thì mọi người sẽ cố gắng đáp ứng.

Cha Diệu trả lời, “Cho tôi xin nắm xôi mặn thôi.” Một Cha cố tức cười hỏi, “Bộ thằng Bờm hay gì mà đòi nắm xôi?” Thầy khác lại xen vô, “Không đòi cao lương mỹ vị mà đi đòi nắm xôi, bộ nó gắn liền với “Kỷ niệm trong tôi” của ông hả?”
Nói tới đây, Augustino Dương hỏi:
– Mấy đứa có biết lý do gì đã làm Cha Diệu chọn nắm xôi không?
Vẫn như hồi nãy, chẳng ai đoán trúng hết.
– Cha Diệu trả lời như vầy, “Chứ mấy ông đâu có tiền đâu mà tôi đòi thứ sang cả khác.

Mất công hao hơi mà chẳng được gì.” Mấy Cha, mấy Thầy nghe xong ôm bụng cười rần.

Cha Vinh-Sơn ướm hỏi Cha Diệu muốn ăn món chi để Cha chiều, Cha Diệu mới nói thèm ăn súp cua – gà xé ở một nhà hàng rất nổi tiếng trong vùng, vốn sẵn con nhà giàu nên Cha Trung hớt hải đi mua liền cho người bạn tri âm – tri kỷ.

Cũng may Chúa thương nên Cha Trung về kịp trước giờ lâm chung của Cha Diệu, nên Cha Diệu cũng nếm được vài muỗng súp cua ngon lành; hỏi ra mới hay nhà hàng này là nơi tổ chức đám cưới “lại” của ba mẹ Cha Diệu và em trai của Cha, nên Cha muốn hồi tưởng giây phút gia đình quây quần rất hạnh phúc bằng cách nếm lại món ăn trên…
Trước lúc đưa Cha Diệu về với Chúa, Cha Trung đã cúi xuống hôn lên trán Cha Diệu.

Hành động đó đã khiến nhiều Cha – Thầy bất bình, nhưng sau đó cũng lắng dịu vì họ hiểu Cha Trung và Cha Diệu là bạn đồng sanh cộng tử nên tình cảm quyến luyến rất nhiều.
Trước lúc vô giường ngủ, Henrico Thạnh biểu diễn bài “Goodnight, Sweet Jesus” mà anh đã từng nghe qua giọng ca của Perry Como.

Tiếng tây ban cầm của anh vang lên réo rắt giữa đêm trường sao giăng đầy trời, nghe vương mang buồn thương diệu vợi.

Rồi đó, Stephen Đoàn đưa khẩu cầm lên thổi, hòa theo âm giai của anh bạn đồng tu xứ dừa.

Augustino Dương bèn nâng cây vĩ cầm lên khảy, những tràng tiết điệu thánh thót tựa mưa sa làm mát mẻ trưa Hè.

Antonio Vũ và Ignacio Cường không đành ngồi im, liền cùng nhau hát bè theo Henrico Thạnh.

Chòm sao Bắc Đẩu đã lui dần về hướng Tây – Bắc; sao Mai đã chấp chới ở đằng Đông – Nam, bình minh sắp hiện diện trên tỉnh lỵ nhỏ xíu thuộc miền Tây sông nước.

Ngủ đâu được mấy tiếng, kế đồng hồ báo thức kêu réo ầm ĩ khiến nhóm Linh mục hoảng hồn hoảng vía thức dậy.
– Thạnh! Mày mua cái đồng hồ ở đâu mà nó la bai bải hơn chủ nợ vậy hả?
– Ở nhà lồng đâu mặt với cái miếu Ngọc Hoàng gần đây chứ đâu.
– Hèn gì mà nó la còn hơn ông Thiên Lôi giáng búa.
Nguyên đoàn lục tục sửa soạn tới bảy giờ rưỡi mới xong.
Augustino Dương ra sân trước coi bầy gà rượt nhau chạy hà rầm, không quên cầm theo ly cà-phê đen đá đặng uống cho bớt say ke.

Bầu trời màu thiên thanh trong vắt, những khóm mây còn phơn phớt sắc hồng của buổi sớm mai u nhàn và yên tĩnh, vài cánh cò trắng dập dờn bay về phương Nam.

Tứ bề dừa đứng lặng im như đang chiêm nghiệm thế sự vô thường ra sao từ lúc chúng có mặt trên cõi Ta-Bà.
– Cha ơi, con với anh Tư tới rồi nè.
– Ơi, nghe rồi.
Cô Xuân bận áo bà ba màu mỡ gà và quần lãnh đen, chân mang guốc mộc, không thấy đeo nữ trang, cũng chẳng trang điểm đậm, chỉ bới tóc thật cao rồi cố định bằng một cái chấu tóc mủ màu cà-phê và bôi chút son hồng lên môi.

Con gái miệt vườn mà, ít có cô nào trắng lắm, nên ai da ngăm đâu dám đánh son đỏ chét như cái mồng gà cho bá tánh cười thúi đầu thúi mũi.

Với lại, đâu phải người mẫu mà phải làm nổi và trang điểm sắc sảo.

Nhìn xuống hai tay của cô thì ông Cha cà lơ phất phơ thấy tay trái cô xách cái giỏ màu da người, còn tay phải cô xách một cái bịch nylon đen nhìn như bao rác.

Stephen Đoàn đứng ở trên bậc tam cấp ngóng ra.

Bữa nay anh diện áo thun cũ đã ngả màu cháo lòng với quần jeans đen, đôi giày thể thao anh mang thiếu điều mục rữa vì đi suốt mấy năm trời.

Nhìn anh còn già hơn cả Thầy anh.
– Anh Mỹ ơi, ra đây tôi đưa anh cái này nè…
Cô Xuân trao cho Stephen Đoàn một bịch nylon màu đen rất nặng, rồi biểu anh mở ra coi.
– Đây là…
– Anh Mỹ mua đồ gì mà coi kỳ quá.

Cái vải xấu như vầy mặc bí bức dữ lắm.

Bữa nay mình đi vòng vòng mà, phải lựa bộ nào dễ chịu với thoáng khí chớ?
Rồi cô Xuân liến thoắng giới thiệu:
– Đây, tôi mua cho anh cái áo bằng vải cotton với cái quần jeans denim.

Cái quần này hay lắm nghe anh Mỹ? Anh ngồi chồm hổm cũng êm nữa, hổng có bị chằng khó chịu như thứ vải kia đâu.

Còn nữa nhe, đôi giày sandal này mang mát chân lắm, anh đi nguyên ngày cũng hổng sợ hầm.
Cô Xuân nói tới đâu, ánh mắt của Stephen Đoàn buồn rười rượi tới đó.

Đã lâu lắm rồi mới có người sửa soạn thường phục giùm anh.
Chợt cô Xuân vỗ trán và cười rộ lên:
– Thấy chưa, chút nữa tôi quên rồi, tôi còn mua cho anh cái nón kết nữa.

Nè, đội thử đi anh, coi có vừa vặn không?
Stephen Đoàn cúi gằm mặt mà lí nhí nói cảm ơn cô gái đã thương mình.

Rồi ôm bọc đồ mà bước vô nhà thay trang phục.
Augustino Dương hỏi cơ:
– Không mua “kính râm” hả?
Cô Xuân thiệt tình đáp:
– Dạ, tính mua kiếng mát cho ảnh đó chớ.

Tại hết tiền rồi nên không có mua.
Sau hơn nửa tiếng đứng chờ, Stephen Đoàn mới trở ra với một vẻ ngoài tươi sáng hơn thường ngày.
– Đó, Cha Dương coi con lựa đồ cho ảnh hợp ghê chưa? Áo thun vàng lợt mặc với quần jeans xanh bạc coi bảnh bao quá trời quá đất.

“Nói con đừng buồn, chứ thằng Mỹ có mặc áo Gucci, quần Armani, đi giày Versace thì nó cũng chẳng đẹp lên miếng nào đâu.

Chẳng qua con thương nó nên tưởng tượng nó “gà rừng hóa phượng hoàng” thôi.” Nghĩ thì nghĩ vậy chứ Augustino Dương không dám hé môi phản bác nửa lời, vì sợ con nhỏ đổ quạu rồi lên cơn khùng bất tử thì khốn.
Sợ mọi người đứng dây dưa ngoài nắng một hồi đổ bịnh nên anh Tư Vinh hối thúc tất cả lên xe.
Augustino Dương lên ngồi cạnh anh Tư Vinh, băng giữa là chỗ của Stephen Đoàn, cô Xuân và Henrico Thạnh, còn băng chót là của hai người kia.

Lúc này đã hơn tám giờ sáng, trời bắt đầu hành cơn nắng gắt từ bây giờ cho đến sáu giờ tối mới ngưng, nguyên ngày chờ mòn con mắt mới thấy vài làn gió mát ghé thăm.
Anh Tư Vinh bật bản “Đường về hai thôn” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ do Hoàng Oanh – Trung Chỉnh trình bày lên nghe để khỏa lấp khoảng lặng đang hiện hữu trong xe; bài này Duy Khánh và Hương Lan song ca cũng rất hay.
Mấy cái bánh bao chay do anh Tư Vinh mua ở chỗ ông cậu bên vợ ăn cũng khá ngon và no bụng.

Riêng anh Tư và cô Xuân lại ăn bánh bao mặn cỡ lớn có trứng muối; nhìn hai người vừa ăn vừa trêu ngươi mà nhóm Linh mục đang trì Chay dở khóc dở cười, sao hồi không kiêng cử thì chê lấy chê để, còn giờ thì thèm thuồng y như bị bỏ đói mười năm?
– Hồi nãy con bàn với chú mà chú không chịu…!- Anh Tư vừa đánh tay lái đặng lách ổ gà vừa bẹo ông Linh mục.

-…!ăn bánh mì chả cá hay bún bì chay là khỏe rồi.
– Mấy bữa nay tôi ăn cá ngán lắm rồi cậu ơi, chắc sắp thành Long Vương luôn rồi.
Henrico Thạnh bèn gợi ý trưa nay đi ăn bún bì chay ở một cái quán nằm bên cồn Tân Vinh.

Trời nóng chang chang mà được ngồi bên bờ sông Tiền ăn trưa thì còn gì vui bằng.

Ở đó không bao giờ thiếu những hàng bần mát rượi hơn tán dù hay những loài cây thôn dã lâu năm như quách, bình bát, mắm, đước, vẹt, me tây,…!luôn xuề xòa che nắng cho bất kỳ ai.
Cô Xuân nói muốn nghe bài “Khúc tình ca Hàng hàng lớp lớp” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông qua phần trình bày của song ca Anh Khoa – Giao Linh; anh Tư Vinh chấp thuận liền, còn bồi thêm:
– Hùng Cường và Hà Thanh song ca bài này cũng hay lắm đó cô.
– Tôi mến tiếng hát trầm ấm và dịu dàng của ông Khoa hồi trẻ.

Sau này ổng già nên bị bể tiếng thành ra ca hết hay rồi.
Qua đến cồn Tân Vinh, anh Tư Vinh dẫn mọi người viếng Miếu Bà.

Chỉ có anh và cô Xuân là đốt nhang khấn nguyện, còn nhóm tu sĩ thì đi vòng vòng ngắm nghía kiến trúc cái miếu và cảnh vật quanh đây.

Tình cờ có một người bà con của Henrico Thạnh đang lui cui phát cỏ gần miếu, trông thấy đứa cháu thì ngừng tay và kêu lại nhà của ổng mà ngồi nói chuyện chơi, sẵn để ổng khoe cái chuồng bò mới làm luôn.

Nghe vậy, chàng Linh mục xứ dừa bèn mời mọi người đi chung cho vui.

Stephen Đoàn và cô Xuân xin nán lại nói chuyện riêng; dù không hài lòng nhưng Augustino Dương không lên tiếng ngăn cản hay rầy rà.
Còn lại đôi trai – gái đã qua hàng ba mươi, cô Xuân rủ Stephen Đoàn lại gần bụi cây chùm ruột đặng ngắm dòng sông Tiền đục ngầu phù sa.

Lúc bấy giờ, mây mù xếp thành hình vảy cá, báo hiệu một trận sa mưa dông sắp kéo đến; những đợt sóng trên sông Tiền không còn hiền lành nữa, chúng hiệp sức với gió lớn mà xô đẩy đám lục bình trôi dạt tứ tán.
Cô Xuân mời Stephen Đoàn nghe bài “Em xin làm cỏ dại” qua giọng ca của cô Ngọc Lan, một sáng tác của nhạc sĩ Mai Anh Việt; Tuấn Ngọc hát bài này cũng rất hay, ngoài ra tiêu đề đã sửa thành “Anh xin làm cỏ lạ” trong bản thâu âm của bác:
“…!Em xin làm cỏ dại đón bước chân anh
Em xin làm tàng cây che mát thân anh
Đừng đi anh ơi…
Bên kia gió đâu có gì xôn xao
Bên kia nắng đâu có còn lung linh
Bên kia trời đâu có nhiều trăng sao…”
Stephen Đoàn bật cười, làm cho những đường nét gian ác bẩm sinh trên mặt anh càng thể hiện rõ hơn:
– Con gái mà che chở cho con trai được sao?
– Được chớ.

Nhiều người còn nuôi chồng như mẹ nuôi con vậy.
– Hồi mới bắt đầu thổi khẩu cầm, tôi đã chọn bài “Ru ta ngậm ngùi” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vì giai điệu rất dễ học theo.
– A…
– Giờ tôi không thổi, mà hát cho Xuân nghe nghen?
– Dạ.
Stephen Đoàn chỉ mới hát một đoạn mà cô Xuân đã gục đầu vào ngực anh khóc rấm rứt.

Ngọc Mỹ đưa tay vuốt tóc cô, tóc của người con gái đang dựa vào người anh thơm hương bồ kết như mái tóc của người mẹ hiền đã về miền miên viễn, người luôn miệng khen và yêu chiều anh.

Dòng lệ nào đã vương trên mắt chàng Linh mục khó coi mà sao rơi xuống tóc cô nghe êm dịu nhường vậy.
Mây đen thôi che vầng dương rạng rỡ.

Ánh hào quang chói lòa rủ bóng xuống xóm cù lao quạnh quẽ, là hào quang của Chúa hay của Phật đến đây vực dậy linh hồn hai con người đang bị men say ái tình cù rủ, mà cô Xuân bỗng bừng tỉnh nên đã đẩy người thương ra rồi gượng cười nhắn nhủ:
– Thôi anh Mỹ về với Chúa và Giáo dân đi, em xin ở lại làm ngọn cỏ dại bên đường.
Stephen Đoàn lấy ống tay áo lau nước mắt, làm xong mới nói:
– Ừ, nhà của tôi là đất Chúa, không phải là ở đây.

Cảm ơn Xuân đã nhắc nhở.
“Thôi anh hãy đi về
Vĩnh biệt kể từ đây
Đừng luyến lưu làm chi
Đừng nhớ thương làm gì
Ai thật lòng yêu ai đến bây giờ mình mới biết
Chuyện tình đôi ta anh hãy xem là huyền thoại…”
Cô Xuân sửa chữ “Còn” thành chữ “Đừng” trong bài “Đường tình đôi ngã” của nhạc sĩ Lê Văn Thiện để tỏ rõ quyết định của mình.

Nhưng ca xong, cô lại bưng mặt khóc ngon ơ.
– Ủa, anh Mỹ, cô Xuân…!- Henrico Thạnh sượng trân nhìn hai người.
Cô Xuân cười gượng:
– Anh có nước không anh Thạnh? Bịnh tình tôi tái phát nữa rồi.
– À, à…
Cô Xuân giả lả:
– Tội nghiệp anh Mỹ, nãy giờ ảnh ráng dỗ tôi nín quá chừng mà không được.
– Vậy hả? Vậy mà tui cứ tưởng…
Stephen Đoàn nhìn cô Xuân bằng ánh mắt muôn vàn hàm ơn, muôn vàn thương mến.
– Nãy, anh có cho tôi mượn chai dầu gió, cầm tới cầm lui sao ảnh quẹt vô con mắt nên chảy nước mắt sống luôn…
Henrico Thạnh gãi đầu cười gượng:
– Hèn gì tui thấy mặt mày ảnh y chang mới khóc xong.

Ủa mà chai dầu đâu, cho tui mượn xức được hôn, nãy muỗi chích cho mấy mụt ngứa quá.
– Tôi liệng xuống sông rồi.

Còn cái vỏ không thì giữ làm chi chớ?
Rồi cô Xuân đanh mặt biểu:
– Tôi đói bụng rồi.

Mình ghé vô nhà hàng mà anh và Cha Dương giới thiệu được chưa?
– Ờ, ờ, được chớ.
Chiếc xe của anh Tư Vinh đưa mọi người đến cái nhà hàng có cổng chào kết bằng bông – trái dân dã ấy.

Lúc bây giờ nơi này cũng khá đông khách, chủ yếu là người ngoại quốc và người mình ở những chỗ khác lại chơi.
Tình cờ gặp ông Bảy đang dạy đờn kìm cho những người trong hội quán Ca – Cổ nhạc địa phương nên Henrico Thạnh cùng Cha Dương bước tới thưa một tiếng.

Ông Bảy rủ:
– Có ai biết ca vọng cổ hôn? Vô hò chơi vài câu đi.
Cô Xuân ứng tiếng xin ca.

Vì là hò theo thể loại tự do dựa trên khung nhạc có sẵn nên ông Bảy và cô Xuân không cần hội ý trước với nhau.
“Hò ơ…!Thân em như đóa lục bình
Thương anh hổng được, mà…!dứt tình cũng hổng xong…”

Giữa xế trưa yên ắng, giọng của cô Xuân vang lên cao vút mà nghe rõ mồn một sắc buồn trong từng cái chữ khiến cho ai nấy tự dưng trỗi dậy lòng thương xót.
– Mèn đét ơi, con nhỏ này ở đâu ra mà hò nghe mùi dữ thần vậy?
Augustino Dương nhíu chặt đôi mày rậm mà quắc mắt nhìn Stephen Đoàn.

Đứa con tên Mỹ vẫn bình thản nhúng rau vô nồi lẩu chua cay kiểu Thái, thần sắc nó chằng có chi là bất minh hay khác thường.
– Có ai hát đối không? – Ông Bảy phất khăn ra hiệu.
Một chị mặc đồ bà ba ngồi dựa lan-can cặp theo mép nước con rạch cười mơn nói:
– Cổ ca ngọt như vậy thì sao có người hát đối xứng được ông Bảy? Chỉ trừ khi…
– Chỉ trừ khi nào người trong mộng của cổ ca mới xứng chứ gì? Tôi nói vậy có phải không Thầy Hai?
Augustino Dương làm thinh.
– Ê, đúng hay sai phản ứng lại đi chớ.

Gì mà cái mỏ nhọn hoắc vậy?
Henrico Thạnh chữa lời:
– Ổng đói quá nên xụi lơ rồi ông Bảy.
– À, bị tụt đường huyết hả?
Nói rồi, ông Bảy lấy đôi đũa mới gắp một con tôm lóng bỏ vô trong chén của Thầy Hai và niềm nở mời ăn cho mau khỏe.
Tự thấy bản thân mình hành xử kỳ cục nên Augustino Dương ráng vui lên để không khiến mọi người buồn lây.
Sau bữa ăn, nguyên đoàn sang cồn Thới Sơn thăm cơ sở nuôi ong.
Còn cách cơ sở vài căn, anh Tư Vinh dặn dò:
– Bịt mặt vô nghen.

Vô cơ sở nuôi ong rồi đó.

Không làm lát giống Lôi Chấn Tử là quê xệ nhe.
Vì chủ cơ sở bận tiếp mối lớn nên “quản lý” ra đón khách giùm.

Chị ta liến thoắng giới thiệu sản phẩm trên đường dẫn nguyên đoàn đi coi chỗ nuôi ong và nơi sản xuất.

Henrico Thạnh được đà thay chị quảng bá công dụng của mật ong và sáp ong, giọng điệu thuyết trình hùng hồn thật khác với lúc lên làm Cha Đạo của anh.
Rồi thì mỗi người tản đi một góc để tiện bề đi coi theo ý thích của mình.
Không hiểu sao, đi loanh quanh một hồi, cô Xuân hội ngộ Stephen Đoàn ở hàng bần chua sau hè cơ sở nuôi ong.
Cô Xuân và Stephen Đoàn đứng nhìn con nước Tiền Giang đẩy đưa đám lục bình, mỗi người có một tâm sự riêng, không dám nói mà cũng chẳng thể mạnh miệng giãi bày.

– Xuân hò hay quá.
– Dạ.

Anh Mỹ cũng ca hay ghê.
Rồi cô Xuân cúi mặt nói nhỏ:
– Tháng sau em gởi tép mỡ lên cho anh nghen? Đời Cha đạo thiếu thốn trăm bề, em vun vén được gì thì em lo cho anh cái nấy.
– Cảm ơn Xuân.
– Coi em như em gái anh.

Hén?
Stephen Đoàn cười mà ánh mắt buồn hiu:
– Ừm.

“Em chỉ là em gái thôi.

Người em sầu mộng muôn đời.”
– “Đời em cô đơn nên yêu ai cũng không duyên.

Đời em cô đơn nên yêu ai cũng không thành.”
Sực nhớ tới lời nhắn của người ngoại mà nhóm Linh mục gặp hôm ở chùa, Augustino Dương biểu anh Tư Vinh chở xuống Chợ Lách, ông hứa sẽ trả tiền thêm và phụ tiền xăng cho.

Nghe vậy, cô Xuân ngỏ ý muốn nguyên đoàn sẽ ghé vườn kiểng gần đó chơi; trước là thăm viếng, sau là cô sẽ mua tặng cho Giáo xứ một chậu mai thật đẹp.
Ngang qua mé sông, Augustino Dương trông thấy những chồi cây như bụt măng nên tò mò hỏi con trai đó là thứ cây chi.
– Con trả lời, Thầy đừng có la con nghe?
– Không la.
– Mấy cây đó dân ở đây kêu là cặ* bần.

Người ta hay lấy cái này về đẽo thành nút gạc bần đó Thầy.
Nguyên đoàn phá lên cười không thương tiếc, khiến Henrico Thạnh gãi đầu cười ngượng.
oOo
Không biết bữa nay đám giỗ ai mà Xương Tuyết mời bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công”, anh Ba Hói và nhạc sĩ Thương Hận ghé cồn Tân Vinh đặng tham dự.

Vì nghi ngờ anh ta có liên quan tới vụ “Bát Bửu” nên Trần Cảnh Chiêu, Mạnh Cường và Tào Việt Bân ngỏ ý đi theo; gã điên đồng ý liền.
Đến nơi mới hay không có tổ chức cúng quải gì hết, chỉ là một bữa ăn được thết đãi tại một nhà hàng trong một khu du lịch sinh thái trên xóm cù lao.

– Tiền ở đâu mà mày trả vậy Tuyết?
– Em lên An Giang bẻ thốt nốt mướn và làm vườn thuê.

Chừng mươi, mười ngày là đủ sở hụi.

Đừng có cảm động rồi ăn nhín nhín nghen?
– Sức mấy mà tao ăn ít cho mày buồn.
Trần Cảnh Chiêu hỏi về danh tính của người quá cố, nhưng Xương Tuyết chỉ nói đại khái rằng đó là một người bà con trong dòng họ.
Vì pháp y Cảnh không ăn thịt động vật nên Xương Tuyết mua riêng cho một dĩa gỏi củ hũ dừa chay để chắc bụng.

Rồi gã điên hỏi:
– Biết tại sao những gì tôi nói về Kiến Hòa lại khác với sử liệu và các tác phẩm không?
Vẫn như mọi lần, không ai đưa ra một câu trả lời trúng với ý anh ta.
– Vì đó là lời truyền miệng từ đời ông cố tổ xuống tới đời tôi.
– À…!
Thường Khán Bình hỏi:
– Còn cái tên “Làng Tân Thạch” thì sai?
– Cái tên “Làng Tân Thạch” là một cái tên không chính danh, vì trên giấy tờ hành chánh thời đó ghi bằng cái tên khác.

Như bây giờ anh kêu Huế là Thần Kinh, nhưng trên giấy tờ đâu có sử dụng phải không?
– Phải.
Lê Đức Hoàng hỏi:
– Ông Hai Đạo Dừa nghĩ như thế nào về vấn đề chấn hưng xã hội vậy anh Tuyết?
– Ông Hai Đạo Dừa đã kết hợp cả Đông lẫn Tây trong con đường chấn hưng xã hội.

Tức là sao? Tức là như vầy nè: Ngạn ngữ ngoại quốc có câu “Đừng cho con cá mà hãy cho cái cần câu”, còn Ông Hai thì vừa cho con cá vừa cho cần câu.

Hễ dân tứ xứ nào tản cư về Kiến Hòa đều được Ông lo cho chỗ ở, dạy chữ Quốc Ngữ, dạy luôn cách làm đồ thủ công mỹ nghệ và nuôi cơm nước – cấp thuốc miễn phí.

Rất nhiều người sau khi cứng cáp rồi đã rời cồn mà đi nơi khác lập kế sanh nhai, phần đông đoan chắc là công dân có ích cho xã hội.

Nhưng cũng bởi sự dễ dãi, cả tin cũng như lòng thương người quá đáng của Ông Hai mà nơi đây bị đám trốn lính và nằm vùng chọn làm “căn cứ” tụ tập.
Nguyễn Chí Công đặt câu hỏi:
– Có tin đồn nào là thất thiệt về Ông Hai không anh Tuyết?
– Cái chòi của Ông Hai bề ngang chỉ đủ cho hai người nhỏ con ngồi, lại đóng bằng cây, nghĩ sao đi đồn Ông Hai dẫn đàn bà – con gái lên đó làm bậy? Chưa kịp làm gì thì đã bị sập chòi mà té xuống đất chết tươi rồi.

Đó chỉ là một trong những tin đồn thất thiệt về Ông Hai, do một đám ất ơ ở đâu dàn dựng và đám vong ân bội nghĩa đơm đặt để lập công.
Tống Ngạn hỏi:
– Bà Hai?
Ngẫm lại chuyện cũ, dù không muốn nhắc đến nhưng Xương Tuyết phải nói rõ hơn cho mọi người cùng hiểu:
– Trước đó một tháng, tôi cùng mẹ bói bài, quẻ ra báo trong nhà sắp có người mất.

Mẹ tôi biểu bói lại, hai lần sau cũng đều nói y chang lần đầu.

Mạnh Cường lên tiếng hỏi:
– Tại sao anh lại được báo mộng?
– Đó là một lời nhắc nhở tôi không được sa đà vào con đường bói toán từ Ơn Trên.

Bởi dẫu có biết trước được tương lai đi chăng nữa, tôi vẫn không thể cứu được bất kỳ ai hay chuyển hóa Nghiệp cho người nào.
Mạnh Cường lại hỏi:
– Lá số tử vi?
– Nếu như anh giàu có nhờ nhũng nhiễu, lấy của thiên hạ về làm của riêng mình, thì nên cẩn thận khi đưa con cái vào quan lộ.

– Giải thích rõ hơn được không?
– Không, “Thiên cơ bất khả lộ”, “Nghiệp ai người nấy gánh”.

Tôi đã kể rồi mà, tôi đâu có cứu được bà Hai.
Trước lúc vô nhà vệ sinh, Xương Tuyết bỏ lại một câu:
– Có người mang lá số “Thầy thiên hạ” nên đắc ý lắm.

Ai ngờ đâu lá số đó có hai nghĩa: Một là thông kim bác cổ và Hai là Ưa đi dạy đời người ta.
Thấy Xương Tuyết vô nhà vệ sinh, Cảnh Chiêu cũng đòi đi theo.

Hai người sóng vai nhau mà đi về phía nhà sau của nhà hàng.
Lê Đức Hoàng kể:
– Trời ơi, bữa hổm coi trúng một trích đoạn về một bộ phim làm về đề tài Sài Gòn trước năm 75 xong muốn lên tăng-xông máu.

Diễn viên thì vừa đóng dở vừa thoại tệ, trang điểm thì đậm lè mà vẫn không ra hình ảnh phái nữ thành đô hồi xưa, quần áo thì lòe loẹt y chang tắc kè bông.

Tống Ngạn góp lời:
– Nhắc mới nhớ, bây giờ có nhiều bộ phim Tàu ráng nhái phim Hồng Kông hồi xưa mà không thành công.
Anh Ba Hói cười mà bình phẩm rằng:
– Cái gì của người ta là của người ta, không thể nào bắt chước được đâu.

Không hiểu vì nguyên cớ gì mà hai người mất nửa tiếng mới trở về bàn.

Lúc này đồ ăn đã vơi hơn phân nửa, anh Ba Hói đã gọi thêm vài món để thằng em kết nghĩa và pháp y Cảnh được no bụng.
Tào Việt Bân hỏi:
– Anh nghĩ sao về Phật Giáo hả Tuyết?
– Phần đông Ma Tăng xuất thân từ Bắc Tông.
Rồi vừa kéo ghế ngồi xuống, gã điên vừa kể:
– Tôi đã từng gặp một sư thầy Mật Tông, nhìn vẻ mặt thì hình như là người Tây Tạng.

Tôi đưa mắt nhìn thẳng Thầy ấy.

Thầy ấy thấy tôi nhìn chằm chằm thì đưa mắt nhìn lại.

Và tôi nhận ra rằng, đó là một bậc chân tu thứ thiệt, bởi lẽ trong ánh mắt không hề hàm chứa sự sân hận, phẫn nộ, nghi ngờ, sợ hãi, tham đắm hay bất kỳ cảm xúc “Tam Bành – Lục Tặc” nào hết, hết thảy là sự bình thản, điềm nhiên và hiền từ.

Tôi cũng đã từng gặp hai đệ tử của Thầy, họ hãy còn khá trẻ, dáng người dong dỏng cao và rất gầy gò, cách hành xử cũng rất mực nhà tu như Thầy họ.
Còn ánh mắt của Ma Tăng lại tréo ngoe, nó sáng rỡ theo kiểu “hung quang ẩn tàng”.

Những người mang ánh mắt như vầy tốt nhứt không nên giao du vì họ sẽ làm hại hay đem tới phiền phức cho mình.
Lê Đức Hoàng hỏi Xương Tuyết có kỷ niệm nào đáng nhớ dưới mái trường không.
– Cô giáo biểu tôi rằng “Dưa chuột” là tên khoa học nên phải ghi như vầy khi học môn Sinh, chứ không được viết “Dưa leo”.

Tôi không hiểu trái dưa giống con chuột ở chỗ nào mà kêu “Dưa chuột”, trong khi trái này có họ với Dưa và nó leo lên thành giàn thì mình kêu “Dưa leo” là quá dễ hiểu rồi.
Rồi gã điên nói thêm:
– Cái chữ “Gành nước” bị bức tử rồi đó.

Tôi tra cứu trên mạng nên biết.
– Bức tử ra sao?
– Thì gõ đi là biết hà.
Anh Ba Hói cũng lên tiếng:
– Ráng giữ giọng miền Trung của cậu nghen Bình.
– Dạ.
– Giờ đâu còn “Mô, tê, răng, rứa” nữa.
Tào Việt Bân hỏi:
– Anh nghĩ sao về chủ nghĩa dân tộc cực đoan?
– Chủ nghĩa dân tộc cực đoan sẽ đưa một quốc gia tới ba nguy cơ: Một là Đói nghèo, Yếu kém và Nhược tiểu, Hai là trở thành Phát-xít và Khủng bố, và Ba là Bị thế giới cô lập và Tẩy chay.

Vế thứ nhì thuộc về một vài quốc gia thuộc khu vực Trung Đông và vế cuối cùng…!hiện thời, tôi đố các anh nó thuộc về những nước nào?
Anh Ba Hói góp lời:
– Nhật Bản đã thoát được vế giữa.

Và hiện thời là một quốc gia trung dung giữa “Tống cựu nghinh tân” và “Đả tân thủ cựu”.

Để ý coi, hầu hết các mặt hàng của Nhựt đều lấy tên thương hiệu bằng tiếng bổn xứ – có nhãn hàng còn không thèm phiên âm luôn và trang trí bằng những hoa văn đặc trưng trong nền văn hóa và nghệ thuật nước họ.
Xương Tuyết bồi thêm:
– Đi tới đâu cũng chê đồ ăn xứ khác không ngon bằng xứ mình.

Ngay cả gói mỳ cũng phải so đo rằng ở chỗ mình ngon hơn.

Đó là một trong những biểu hiện của căn bệnh chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Tào Việt Bân đưa ra một câu hỏi hóc búa dành cho mọi người:
– Các anh nghĩ như thế nào về việc lấy ruộng đất của điền chủ chia cho người làm nông?
Xương Tuyết trả lời liền:
– Hệ lụy nhiều hơn tốt đẹp.
– Tại sao?
– Bởi vì điền chủ là người muốn gắn bó với nghề nông; còn người làm nông chưa chắc gì đã gắn bó trọn đời với nghề này, giao đất cho họ xong có người làm được mấy mùa thấy không khá rồi bỏ trống đất để đi làm nghề khác luôn, trong khi miếng đất hết sức màu mỡ và canh tác rất tốt.

Điền chủ có quyền lấy lại không? Tôi không biết vì luận đề anh đưa ra chưa rõ ràng về mặt pháp lý.

Nhưng nếu không được lấy lại thì người kia sau này được hưởng không mảnh đất của điền chủ, và cũng chẳng giúp thúc đẩy nền Nông Nghiệp cho nước nhà gì hết.
Anh Ba Hói xin phép nêu quan điểm cá nhân:
– Làm manh mún địa vị và sở đất của điền chủ là một trong những bước đi sai lầm của chính sách quốc gia.

Điền chủ đủ tài trí để lèo lái nền Nông Nghiệp và hiệp thương với các nhà buôn trên thế giới; còn những người làm nông thì không được như vậy, số ít không đủ khôn để biết cách làm ăn hay canh tác, còn phần lớn không đủ quyết tâm và vốn liếng để bám đất bám nghề như điền chủ.

– Vế sau nói rõ hơn được không?
– Thuở xưa đâu có xảy ra cái nạn “Trồng cây này, dòm cây kia” nhiều như bây giờ đâu.

Mới nghe thanh long xuống giá thì đốn cây thanh long bỏ, hồi lên giá lại chắt lưỡi hít hà.
– Anh nghĩ có phải do lòng tham không?
– Không hoàn toàn là do lòng tham, mà là vì họ không có đủ vốn để bám đất bám nghề, đâm ra canh tác theo kiểu “ăn xổi ở thì” và chạy theo nhu cầu của thị trường.

Lê Đức Hoàng nhếch miệng cười:
– Thành ra, “Thế giới đại đồng” là một điều hoang tưởng.
Nguyễn Chí Công ghẹo thằng bạn Bảy Núi:
– Còn mày là thành phần ưu tú của giai cấp Chuyên Chính Vô Sản, tháng nào cũng đạt được chỉ tiêu “bóp em trắng quá nhìn không ra”.
Pháp y Cảnh đặt câu hỏi:
– Mấy anh nghĩ điền chủ và nhà vườn khác hay giống?
Mạnh Cường trả lời:
– Khác.

Nhà vườn canh tác thuộc dạng “gia đình trị”, có thể mướn thêm người phụ giúp nhưng hầu như không có “chức sắc” gì.

Còn điền chủ thì thuộc dạng “công-ty tư nhân”, vai vế và phần việc của người phụ giúp được phân định rõ ràng.
Xương Tuyết bình phẩm:
– Anh nên giao đất cho một người yêu đất và muốn làm giàu trên mảnh đất, chứ không phải cho một tay cò đất hay người bị thất nghiệp.
Sau bữa ăn đầy những cuộc tranh luận sôi nổi đến từ nghề nghiệp của mỗi người, nguyên đoàn theo chân Xương Tuyết ra ngoài mé sông coi phà chạy.
– Tôi không bao giờ muốn bến phà này bị đưng lại.

Còn nhớ cái năm chạy chuyến cuối, tôi đã có mặt cùng với ba trên đó.

Làm sao tôi quên được hàng sứ trắng trong “phòng chờ” cùng những thảm lục bình trôi bềnh bồng theo sóng nước Tiền Giang, kèm cả tiếng rao mời mua trứng cút luộc – nem chua của những người bán hàng rong, rồi luôn mùi khói xăng của những chiếc xe đủ kiểu – đủ cỡ – đủ màu sắc, và mùi nước sơn của chiếc phà hăng hắc y như mùi nước sơn của hãng Bạch Tuyết.

Hồi còn nhỏ, mỗi lần trốn đi học Mẫu Giáo, tôi đã tìm về Cầu Bắc rồi một mình lẻn vô xóm Nhà Máy đặng lần ra mé rạch coi phà chạy; không có ai ở đó cả, chỉ có “Tôi với trời bơ vơ”, tâm hồn tôi bình yên đến lạ, đôi mắt của một thằng nhỏ chưa được năm tuổi cứ thế coi hàng dừa ở bờ bên kia là những người khổng lồ.

Có lần tôi cũng men ra đây chơi, tôi bị một bác rầy, “Trời ơi, con cái nhà ai mà đi ngất ngơ ngất ngưởng một mình vậy.

Té sông chết.” Ừ, mà sao tôi không bị té xuống nước chết, dù rằng tôi luôn ngồi sát mí con rạch để nghe tiếng còi và hình ảnh chiếc phà rõ hơn.
Pháp y Cảnh hỏi:
– Có bao giờ anh làm “bé ngoan” không?
– Tôi chỉ ở nhà khi mùa nước nổi tới.

Nước ngập tới háng người lớn thì sao mà lội ra được.
– Vậy nếu anh muốn ra thì anh phải bơi ra?
– Ừ.
Lê Đức Hoàng hỏi:
– Anh Tuyết có chuyện gì lạ không?
Xương Tuyết gật đầu, rồi kể:
– Tôi có một người thân đã được gặp nhạc sĩ Lam Phương và “bóng hồng cuối cùng” của bác.

Chuyện là như thế này: Người đó đi mua sắm ở một siêu thị chuyên bán đồ cũ với giá rẻ thì thấy vợ chồng bác đang ngồi coi hàng ở một góc siêu thị.

Người này mừng quá mới bước lại chào hỏi; lúc này bác Phương đã phải ngồi xe lăn và sức khỏe cũng rất yếu rồi, chỉ có thể mấp máy môi và thể hiện nét mặt để biểu lộ ý nghĩ của mình.

Người này biểu, “Trời ơi, ước gì con được bác phổ nhạc cho mấy bài thơ của mình thì hay biết mấy.” Nghe vậy, bác Phương cười mím mím, ra chiều đắc ý lắm; vợ bác cũng cười theo, rồi buồn buồn kể bệnh tình của bác Phương đã trở nặng lắm rồi, người này mới an ủi rằng con thấy tướng bác Phương còn ngon lắm, dám hết bịnh hồi nào hổng hay.

Tuy chỉ là lời an ủi gượng gạo nhưng vợ chồng bác cũng mừng ra mặt.

Cứ chốc chốc, bác gái lại cúi xuống lấy khăn lau miệng cho bác Phương vì bác bị trào nước miếng hoài, vừa làm vừa hỏi anh thấy trong người sao rồi, có cần em giúp gì hôn? Có lẽ chẳng ai tin nổi một đôi vợ chồng đã ngoài thất tuần mà vẫn còn kêu anh – em ngọt sớt như vậy.

Thấy làm phiền vợ chồng bác đủ rồi, người này mới xin phép cáo từ và bày tỏ lòng mong mỏi có thể được gặp vợ chồng bác lần nữa; ai ngờ đâu đó cũng là lần cuối người này được gặp mặt bác Phương.

Đi được một đỗi, người này quay lại nhìn, thì thấy vợ chồng bác ghé lại một gian hàng mà coi đồ đạc trưng bày trên kệ; vợ bác vẫn nói bằng giọng âu yếm như ban nãy, “Cái này ngộ quá anh há? Anh thích hôn, em lấy…”, “Anh mệt chưa? Mình về…”
Nhiều người hỏi tôi dưới con mắt của một người viết lách, thì tôi định nghĩa “Tình yêu” ra sao.

Tôi đã trả lời rằng, “Tình yêu không cần định nghĩa, bởi thông qua hành động của đôi lứa thương nhau thật lòng nó đã nói lên sự định nghĩa rồi.”
Anh Ba Hói bình phẩm:
– Cả cuộc đời của nhạc sĩ Lam Phương đã khổ tâm vì bao nhiêu bóng hồng, rốt cuộc cuối đời có một bóng hồng đã chịu ở lại để khổ tâm vì bác.
Tống Ngạn góp lời:
– “Yêu là tìm thương đau…”
Lê Đức Hoàng nói muốn nghe Xương Tuyết kể một câu chuyện ma.

Và gã điên kể liền:
– Câu chuyện này xảy ra sau năm 75.

Hôm đó mẹ tôi theo chân bà ngoại kế và một người bạn đồng nghiệp của ngoại lên trường Nam Phương Hoàng Hậu trực.

Mẹ tôi kể lúc ấy ngôi trường rộng lớn vậy mà chỉ có ba người nữ, nên không tài nào hiểu nổi tại sao đèn điện ở những lớp học lại tự động bật – tắt được, mà cái không khí thì lạnh lẽo, u tịch làm sao đó.

Sau phiên trực, ba người ngủ chung trong văn phòng.

Thấy trên tường có cái lỗ vuông vức và bự quá, nên cô A mới lèn cuốn sách vô để áng bớt tầm nhìn, rồi đứng dậy phụ hai người thân của tôi giăng mùng.

Xong đâu vào đó, ba người nằm xuống ngủ.

Thì nghe một cái “Bịch”.

Cuốn sách bị rớt xuống đất.

Vốn chẳng tin ma quỷ nên cô A chỉ thoáng bực mình rồi lèn lại chỗ cũ.

Lần này im re.

Ai ngờ đâu, tới nửa đêm, mẹ tôi nghe thấy tiếng giày bốt-đờ-sô nện trên nền gạch vọng từ ngoài hành lang vào phòng.

Nhưng người lính này chỉ có một chân nên tiếng nện gót so le nhau khá nhiều; người này đi cà-thọt từ đầu hành lang cho tới cuối dãy lớp, lúc xa thì nghe văng vẳng như vọng từ cõi nào, còn lúc gần thì nghe âm thanh lớn như đứng ở ngay đầu giường.

Khỏi phải nói cũng đủ biết mẹ tôi run bần bật, mồ hôi vã ra như tắm, cứ nằm chết trân mà nghe suốt một tiếng mấy rồi lịm đi tự bao giờ không hay…
Người lính đó chắc chết trong lúc trực vì bị khứa nào quăng lựu đạn bất thình lình nên linh hồn cứ ngỡ mình còn sống nên mải miết đi tuần.

Cái trường đó thời xưa bị quăng lựu đạn rất nhiều, vì nơi đây là chỗ “tập kết” xác người chết và làm thủ tục nhận diện thân nhân lẫn đem xác lính về.

Mẹ tôi nói mấy cây me trong trường là nơi dựa lưng của không biết bao nhiêu cái xác, nên thiêng lắm.

Thành ra gia đình tôi khuyên không nên mua bàn ghế cây lấy gỗ từ rừng sâu hoặc địa phương xa, vì lỡ người ta tự vẫn hay chết oan chết uất trên đó thì kể như tiêu đời nhà mình.
Rồi gã điên bắt người đàn em phải kể một câu chuyện khác.
– Có chớ, Cao Miên rất giỏi luyện bùa ngải và thư ếm, thành ra nhiều người thời đó cũng ngán giao thương.
Và Lê Đức Hoàng kể:
– Có một ông đi qua Cam-Bốt đánh Khmer Đỏ, rồi cưới luôn một người bản địa làm vợ.

Hễ mà người này đòi về Việt Nam thăm cha mẹ là y như rằng sáng hôm sau bị bịnh thập tử nhất sinh, chừng nào ông nói thôi không về nữa thì mới khỏe lại.

Tới tận khi chết, ổng cũng chết bên bển luôn, chứ về không được.
Pháp y Cảnh hỏi:
– Người đó bị bệnh gì?
– Thổ huyết.

Hễ xin về là bị thổ huyết.

Chừng nào nói thôi khỏi về là tự nhiên khỏe mạnh cùi cụi như bình thường.
Ngừng lại một lát để tiếng ồn của chiếc sà-lan lắng xuống, Đức Hoàng mới quay lại thuật chuyện:
– Hồi xưa đó, có một toán lính qua đánh bên Cao Miên đóng quân gần đền Angkor Wat nổi lòng tham nên xông vô đền cướp của.

Người này mới chộp được bức tượng bằng vàng thì đồng đội của anh ta đã lia súng bắn, rồi cái người vừa giết đồng đội mới lượm tượng lên lại bị một đồng đội khác bắn chết.

Nguyên một toán lính tự tàn sát lẫn nhau, còn cái tượng kia sau một hồi giành giựt bị rớt xuống sông.
Mà cũng ngộ ở chỗ, ở đó có hàng ngàn cái tượng như vậy mà không chia nhau lấy, phải giành cho bằng được một cái.

Giống như bị Thần Giữ Cửa phù phép vậy.
Xương Tuyết góp lời:
– Người lớn trong nhà tôi hay dặn qua Miên hay lên đất Miên đừng nổi lòng tham hay báng bổ Thần Linh họ thờ, chết không kịp ngáp.

Người lớn trong nhà tôi cũng dặn, nếu muốn gì thì mở miệng xin, họ sẽ cho liền, cho mà thiếu điều chở xe về mới hết luôn.

Đừng có lấy cắp, sẽ bị họ thư tới chết.

Cũng theo người này, người Miên hiền thì hiền dữ lắm, mà tới chừng ác thì ác không ai bằng.

Biết tánh nết họ rồi mới dễ sống chung.
oOo
Tín hết sức tức tối với những bình luận bênh vực Phan Hoài Việt, dù rằng những gì họ nói đều đúng và cái bài viết của thằng bạn đồng nghiệp với anh là bịa đặt nội dung.

Anh day mặt sang trái để tìm ly nước uống cho hạ hỏa, rồi bàng hoàng nhìn thấy một người y hệt mình cũng đang nhìn về phía mình.

Khuôn mặt đó thật xấu xí, ác độc và cuồng nộ, mặc cho đường nét tạo dựng thành khuôn mặt đó rất khả ái và dễ coi.
“Xoảng.”
Ly nước rớt xuống đất bể thành nhiều mảnh.
– Hết hồn hả Tín? Lúc mình sân hận mặt mình dễ coi ghê ha?
Hóa ra đó là tấm gương soi.
Thanh Liên nhìn Tín mà cười hỏi:
– Sao? Đẹp không?
– Không.
– Vậy sao không buông bỏ để làm người tốt?
Tín cúi gằm mặt mà bấu năm ngón tay lên cạnh bàn viết.

– Những gì họ viết trên đây là nhằm về phía bạn của Tín, chứ đâu có đụng tới Tín đâu mà Tín hận thù họ.

Chẳng qua Tín sống giống y chang những gì họ viết nên Tín tự ngộ nhận là họ đang chửi Tín thôi.

Mình không có làm gì sai thì những lời gió trăng bềnh bồng của thế gian chẳng vướng mắc nơi tâm trí.
Tín có thấy nhóm cư sĩ Hòa Hảo không? Người đã bị Tín và các bạn của Tín làm hại đó…!Không có ai trong số họ có sắc diện kinh khủng như Tín hồi nãy hết, dù ngày nào cũng bị những kẻ cả tin lao vô chửi rủa xối xả trên mạng.
Đâu rồi khuôn mặt dễ thương và trái tim nhân ái của Tín cái hồi còn tuổi hoa niên vui vầy với trường lớp và đầm sen thơm ngát.

Lần này Tín đã khóc thật.

Mấy chập trước là diễn để lấy lòng tin của người khác, bây giờ những giọt lệ thống hối đã hiện diện trong trái tim anh.
– Đã dứt nợ rồi, về làm người tốt lại nghen Tín?
– Dạ.
Hoàng Kỳ chợt hỏi:
– Cho tôi mượn điện thoại của Tín xíu nghen?
– Dạ.
“Rốp.”
Hoàng Kỳ bẻ cái điện thoại làm đôi.

Hết xài.
– Xong.

“Đoạn tuyệt” như Nhất Linh.

Thanh Liên trấn an:
– Thủy Diệu đã sao lưu hết mọi dữ liệu trong máy, nên Tín không cần phải lo đâu.
Tín tắm gội sạch sẽ, rồi theo chân Tăng đoàn ra Chánh Điện trong hang động mà các Trưởng lão đang cư ngụ.
Thanh Liên múc một ca nước thơm thơm nhưng hoa gì thì không rõ chế lên trên đầu Tín.

Chừng như biết Tín đang thắc mắc nên chú trả lời luôn:
– Nước lá bưởi.
Châu Lợi giải thích:
– Lá bưởi có tác dụng đuổi vong.

Vong ở đây là đám bạn xấu của Tín.

Đây không phải là một nghi lễ mê tín mà là một hình thức để khẳng định Tín quyết tâm đoạn tuyệt với lẽ Bất Thiện.

Qua bữa sau, Tín ghé nhà của nhóm cư sĩ Hòa Hảo và nhận tội với họ.
Đương nhiên, họ đâu phải Bồ-Tát hay Chư Phật mà tâm bình khí hòa.

Đinh Mạnh Hùng chỉ tay vô mặt mắng nhiếc Tín nặng nề, rồi phủi đí* đi một hơi ra vườn thanh long ngồi một mình.
Trần Bảo Sơn làm sao mà giữ hòa khí và tươi cười nổi.

Chỉ vì lỡ cưu mang người trai tên Bình mà họ bị tình nghi là đồng phạm.

Giờ đây lại bị một đám ất ơ ở đâu đăng bài vu khống trên mạng.

– Làm ơn, biến khỏi chỗ này.

Chừng nào tụi tôi hạ hỏa rồi hãy vác mặt tới chơi.

Chúng tôi cũng chưa có tha lỗi cho anh đâu nên khỏi mừng.
Tín chắp tay nói lời tạ lỗi với nhóm cư sĩ Hòa Hảo, rồi quành trở ra đường cái mà đi một mạch ra khu chợ gần đó để lánh mặt trong lúc đợi các Thầy khất thực xong.
Trần Bảo Sơn thỉnh ý kiến của Châu Lợi trong tông giọng đầy rẫy sự bực bội:
– Tôi với đám đó không thù không oán, cũng chẳng có quen biết nhau, sao họ nỡ dựng chuyện nói tôi xâm hại mấy đứa con nít và gạt tiền của thai phụ chớ?
Châu Lợi đáp:
– Coi như Nghiệp giữa đôi bên đã trả xong rồi.
Biết Tín thích ăn cá thu kho khóm nên Mạnh Hùng đã ra chợ từ rất sớm để kiếm mua cá ngon đã mần sẵn.

Càng nghĩ càng tức, tức muốn thất khiếu trào máu, cơn giận của người trai mập mạp cứ thế dâng cao tận đỉnh Thái Sơn.

Bỗng, từ sau một liếp thanh long, Mạnh Hùng nghe thấy tiếng lao xao, sột soạt.

Sẵn đang nổi cơn Tam Bành, anh xớn xả đi xăm xăm lại đó coi quân nào đang gây sự.
– Tuyết, mới xuống hả?
– Ừm.
Rồi thôi không ai hỏi ai nữa.
Có lẽ muốn kiếm chuyện giải khuây nên Đinh Mạnh Hùng nhờ Xương Tuyết tư vấn về cách in bao bì sản phẩm.

Và gã điên trả lời như vầy:
– Trên bao bì nên in ký hiệu “Halah” và “Kosher”, nghĩa là món này người theo Hồi Giáo và Do Thái Giáo có thể ăn uống được.

Ngoài ra, nếu sản phẩm không chứa chất Gluten thì nên ghi “Gluten free”, những người bị dị ứng chất Gluten sẽ có thêm lý do để tìm mua sản phẩm của mình.

Chưa hết, thí dụ cái nào không có đường, chứa chất thay thế đường hay ít ngọt thì hãy đề “No sugar”, “Sugar-free”, “Zero sugar” và “Unsweetened”, còn nếu ít đường hay ít calories thì viết “Lower-sugar” hoặc “Low calories”, những người bị bệnh đường huyết hay muốn giảm cân sẽ muốn mua hơn.
Độ khoảng mười giờ hơn, Tăng đoàn mới trở lại tịnh thất.

Đinh Mạnh Hùng dù còn giận nhưng vẫn múc cho Tín hai khứa cá thu kho khóm, kèm theo cơm – canh đủ đầy như phần của các Tăng sĩ.
Thanh Liên đang ngồi vá lại cái áo rách của Hỷ Tín.

Không biết ai truyền dạy mà đường kim mũi chỉ của chú thật khéo, thành ra nhiều tín đồ hay nhờ chú sửa giùm quần áo và kết hoa cho khăn voan trùm đầu ngày cưới.
– Tín.
Hỷ Tín chắp tay thưa:
– Bạch Trưởng lão, có việc chi dạy con?
– Nợ đời chưa dứt không tu được.

– Con đã soạn sẵn toàn bộ tài liệu nói về những người đồng nghiệp của con, hy vọng có thể giúp Anton Phạm Thành Nhân được minh oan.
Thanh Liên chỉ mỉm miệng cười mà không ừ hử gì.

Áng chừng mười một giờ rưỡi, nhóm Tăng sĩ mới trở về tịnh thất, đem theo cơm trưa cho Hỷ Tín và trái cây cho Thanh Liên cùng Trì Thương.

Họ đi về bằng xe của Trần Bảo Sơn nên khá mau.
– Trưởng lão ăn trái cây sống nổi sao?
Thủy Diệu trả lời thay:
– Trưởng lão sống theo hạnh Đầu Đà của tôn giả Đại Ca-Diếp.

Thuở còn sanh tiền, Ngài tọa thiền ở bãi tha ma, hái trái cây ăn và sống ở rừng sâu núi thẳm.
Nơi mà Trì Thương chịu án giam lỏng nằm ở một hang động ven lưng chừng núi Cô Tô, chú đã ở đây được nửa tháng và cảm thấy tâm đã bình khí cũng đã hòa lại.

Hằng ngày, chú nhìn gành nước gieo những nốt nhạc trầm bổng vào khung trời lồng lộng rợp gió hay đi tha thẩn trong phạm vi hang động mà ngắm gia đình bầy dơi vui vầy với nhau.

Trưa nay chú đoán được Thanh Liên sẽ đem thanh long, vú sữa và chuối già cho mình ăn; và còn biết các huynh đệ sẽ tới làm rộn tâm can mình.

Ở đây cũng có điện thoại bàn để phòng hờ có khi cần kíp thì mọi người sẽ tới giúp kịp.
– Thảo.
– Dạ? À…!Dây oan – Nghiệt oán thế gian tôi không muốn can thiệp đâu, rất xin lỗi Trưởng lão.
Thanh Liên nhếch môi cười mà ánh mắt buồn hiu:
– Thảo là người đã chứng ngộ đầu tiên nên đã hiểu thấu hết thảy…!
Châu Lợi khuyên lơn:
– Nhiều cái Thảo cứng nhắc quá cũng không hay cho lắm.
Trì Thương thở hắt ra một hơi nặng trĩu.

Chú day qua nhìn người hiền đệ tuyệt sắc mà biểu:
– Diệu, tổng hợp giùm tôi tin tức liên quan tới vụ án.
– Đã rõ.
Rồi Trì Thương đi trước, Thủy Diệu nối gót theo sau.

Để phòng hờ Hỷ Tín “trở quẻ”, Thủy Diệu đã đem theo máy tính xách tay, webcam và USB; tất cả nằm gọn trong cái cặp học sinh mà cư sĩ Bửu Sơn cho chú mấy năm trước.

Vừa hay Trần Kim Thương gọi điện tới, chú khoe với em trai những gì mà mình đã nghe được từ bác Ba.

Không quên nêu thắc mắc về hành động khó hiểu của tổng thống Khánh hôm đó.
Nghe xong, Trần Mộc Thảo ôn tồn giải thích:
– Thật ra, tổng thống đã điều tra luôn tới người cha quá cố của bác Ba, nên mới dựng cảnh huýt sáo theo tiếng chim hót.

Thuở còn sanh tiền, mỗi khi buồn hay đi hành quân trong rừng, ông thường ngoảnh mặt tìm bóng chim và đợi huýt theo tiếng hót của nó.

– Ổng chỉ ham ăn trên ngồi tróc thôi chứ không đến nỗi bán nước hại dân.

Chưa từng tơ hào một xu hay nhũng nhiễu hại ai.
Gác ống nghe xong, Trì Thương ngồi xuống đợi Thủy Diệu.

Quá nhiều tin giả, kể cả báo chánh phủ cũng vậy, không hiểu ai là người đã vung tiền ra để viết bài đặng dồn Anton Nhân vào con đường chết.
– Cái này được nè Diệu.
– Dạ?
Một nữ ca sĩ đột ngột tuyên bố qua Hoa Kỳ định cư chỉ sau cái chết của Lê Hoài Sang vài tuần.
– Diệu, đệ làm bên ngành Tình Báo, đệ có rành luật Dẫn Độ không?
– Đương nhiên phải rành chứ.
Theo kết quả giám định pháp y mà Quý Tâm đã nói sơ cho huynh đệ đồng tu hay thì vết siết nơi cổ của Lê Hoài Sang là do một người nữ thực hiện, vì người này bị ép tham gia nên ra tay rất yếu ớt và khiên cưỡng, chắc có lẽ trong lúc giằng co với nạn nhân còn bị ông ta gây ra thương tích trên mình mẩy nữa.

Bất thình lình, Trì Thương vụt bước xuống gian nhà sau để tìm Phá Vân và Phú Lâm.

– Vân, Lâm!
Phá Vân mau miệng hỏi:
– Thưa nhị sư huynh, có chuyện chi vậy?
– Cô gái này hai đệ có từng quen không? Nhứt là đệ đó Phá Vân.

Mặt mày Phá Vân đỏ lựng.

Đúng là gieo Nghiệp Xấu trong quá khứ nên giờ có tật giựt mình.
Sau một hồi nín thinh, Phá Vân ấp úng hỏi:
– Phải khai thiệt hả huynh?
– Thiệt.
– Tình một đêm thôi.

Vui chơi qua đường rồi xong.

Thành ra hổng có thân cho lắm.
Châu Lợi nhăn mặt hỏi Phá Vân:
– Hỏi thật đệ quen bao nhiêu người rồi?
– Gần trăm.
– Giờ thì tôi đã hiểu sao thiên hạ tin sái cổ cậu bị bịnh AIDS.

Dù muốn dù không, Phá Vân cũng phải kể lại những gì mình biết về cô gái đó.

Cổ là một trong những người làm điếm hạng sang của một công-ty người mẫu rất nổi tiếng, đã qua tay không biết bao nhiêu quan chức và dân có tiền có của.

Trước lúc lên núi ẩn tu, chú có nghe tin cổ từng cặp kè với con trai của Lê Hoài Sang…
– Hết biết đường kể rồi.

Vì lúc đó tôi đâu còn tâm trí để mà nhớ tới ai chứ?

Chú Thương đang ngồi hát bản “Than thở” của đôi tác giả Song Ngọc và Xuân Diệu.

Đáng ra bữa hổm chú đã kể cho Trì Thương về chuyện gặp gỡ của bác Ba và tổng thống Khánh, nhưng vì sự có mặt của người yêu nên quên phứt đi.

– Mày ca nữa tao cho mày ra hồ Than Thở ở luôn.
Chú Thương gãi đầu nhìn má mà cười trừ.
– Tối ngày “Tôi điên”, “Tôi ngu”,…!Trời ươi!
– Má ơi, đất trên Đà Lạt giờ con hổng có cửa mua đâu.

– Thì mày kiếm gốc thông nào đó rồi dựng chòi ở cũng được mà.
– Chưa được ba giây là bị bứng rồi.

– Tao mà biết đứa nào “truyền thụ” cho mày cái bài hồi nãy tao lợi nhà bẻ răng nó liền.

Chợt thấy Vệ Thu cầm cuốn sách trên tay với sắc mặt trầm ngâm, mợ Hai mới hỏi nguyên cớ.

Và ông buồn buồn trả lời rằng:
– “Người trộm bóng” của nhà văn Marc Levy.

Nhân vật chính có một người bạn học rất giỏi, đặc biệt là trong môn Sinh Học.

Người này mơ ước trở thành bác sĩ, nhưng cha của anh ta lại muốn con nối nghiệp làm chủ lò bánh mì của mình.

Sau một thời gian sống đời bất mãn vì bị ép theo nghề của cha, anh ta được song thân đồng ý cho đi học Đại Học Y Dược ở một thành phố rất xa.

Ban đầu cũng hạnh phúc lắm, sau rốt thì không…!Bởi lẽ anh ta theo học thì dư sức, song lại mắc chứng sợ máu, sợ nghe tiếng rên la – than khóc của bịnh nhân và người nhà của họ, sợ luôn việc khâu – mổ vết thương vì sợ người ta bị đau…!Lúc bấy giờ, anh ta mới nhớ lại những năm bán bánh ở dưới quê, khi nào cũng rộn ràng tiếng cười dù rất cực khổ và phải thức khuya – dậy sớm canh chừng từng mẻ bánh.

Nên đã quyết định thôi học và trở về quê nối nghiệp của cha…
Tui đọc xong thì chợt nghĩ về thằng Thương, không biết mình có đang vin vô cái tài của nó mà bắt nó sống theo ý mình không…
Rồi Vệ Thu ngỏ ý muốn nghe chuyện của con trai Út bà ghệ.

Sau một hồi đắn đo, mợ Hai mới quyết định kể:
– Thằng Thảo cái gì cũng hơn thằng Thương hết.

Còn nhớ có lần thằng Thương chơi bắn đạn sao thua hết trơn, nó mới chạy về méc với thằng Thảo; thằng Thảo ra đấu với thằng đó và đại thắng, bao nhiêu hòn bi mà thằng nhỏ kia kỳ công tích cóp đều thu về tay nó hết.

Thằng nhỏ mếu máo khóc òa.

Thấy bất nhẫn, thằng Thảo bắt thằng Thương phải chia đôi số đạn.

Thằng Thương vùng vằng không chịu.

Thằng Thảo dứ dứ nắm đấm vô mặt thằng Thương mà nạt, “Hai không trả, tui đục à.” Rốt cuộc, thằng Thương phải trả lại cho thằng nhỏ phân nửa số đạn.

Cảm nghĩa trả bi, sau này thằng Thương bị mấy đứa con nít quỷ xô xuống mương mà đầu đập vô cây cầu dừa ngất xỉu, thằng nhỏ mới cõng thằng Thương mà chạy đi kiếm người lớn kêu cứu…
Ngừng một lát để nghỉ lấy hơi, mợ Hai nói:
– Thằng Thảo được nhà trường kỳ vọng làm rạng danh Quốc Gia vì học hành hết sức xuất sắc.

Còn thằng Thương…ráng lắm nó mới lết hết chương trình phổ thông và bò lên Đại Học.
– Thành ra bà rất buồn vì cô Lan gì đó phải không?
Đôi mắt của mợ Hai ướt rượt:
– Phải, thằng Thương thua thằng Thảo quá nhiều rồi, giờ phải chịu đựng “Cơn đau tình ái” này nữa…
oOo
Hai người con của đất Huế đang ngồi nghe bài “Thương Cố đô” của nhạc sĩ Trường Hải do Nhật Trường ca.

Cố đô trong bài là xứ Thần Kinh.
Nơi gian bếp nhỏ hẹp, nồi chè đậu ngự đương nổi lửa riu riu.

– Cha yêm cứ xưng bác Hai riết iêng bị liệu theo.
Tiếng hát của Mỹ Thể trong bài “Trở về thôn xưa” của nhạc sĩ Nhị Hà gợi cho Võ Kiến Tường nhớ đến những kỷ niệm trên đồi Vọng Cảnh, tuy thiếu ăn thiếu mặc nhưng đời lại vui vì không nặng gánh cơm áo gạo tiền hay phải nhọc lòng để mắt tới miệng tiếng thế gian.
Võ Kiến Hữu buột miệng bình phẩm:
– Ôn yêm là “lá lay thiên tặc” của Cố đô.
Võ Kiến Tường thở dài thườn thượt:
– Nỏ hiểu ai dủ ôn tin phường phách tấu phách tán nớ nữa…
Rồi Võ Kiến Hữu mời em họ nghe bài “Tình nghèo” của đôi tác giả Phạm Duy – Hồng Nam qua phần trình bày của song ca Duy Khánh – Thanh Tuyền.
“…!Hô…!Nước từ ngàn trùng xa
Nước tràn về làng ta
Nước hờn cuộc tình quê
Hó lơ hò lơ
Ruộng màu (lờ) tan vỡ, vườn nghèo (lờ) xơ vơ
Cửa nhà (lờ) ngơ ngác
Đôi (lờ) trẻ thơ, đi (lờ) về mô?”
Nghe tới đâu, Võ Kiến Tường rớt nước mắt đến đó.
– Sao yêm không về Huế khi yêm thương nó vô cùng?
– Yêm muốn phụng vụ Chúa, mà Hội Thánh thì…!chỉ có mỗi cái nhà thờ để anh em quây quần sinh hoạt.

– Hè ni về Huế với iêng nghen?
– Dạ.

Huế năm mô cũng bị lụt, không biết năm ni ra răng iêng hỉ?
– Hy vọng Trời thương năm ni không bị nặng.

– Ui chu choa mạ ơi! Nồi chè của tôi!
Cô Hà Thanh đang ca bài “Con quốc Việt Nam” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, bài này bác Duy Khánh hát cũng hay.

Nhưng giờ đâu còn ai đủ tâm trạng để lóng tai nghe nữa.
– Cha răng rứa?
Võ Kiến Hữu cao mày:
– Răng rứa?
Nhờ có sự “yểm trợ” của người anh họ mà nồi chè của Võ Kiến Hữu đã “sống sót trở về”, xíu nữa là nó đã yên nghỉ ngàn thu trong thùng rác nơi nhà bếp rồi.
– Răng mô mà.

Tại yêm bỏ đường sớm quá nên nó mau bị khét.
– Khi hồi nghe mùi…
Võ Kiến Hữu cắt ngang, rồi đút cho em họ một muỗ̃ng chè đậu ngự ngọt lịm mà nói:
– Ngậm mà nghe, hư mô?
Bữa ni trời dim nên hai người lên chõng tre ngồi ăn chè đậu ngự.

Lại có lũy tre già xanh ngắt đung đưa theo làn gió báo mưa nên ai nấy đều cảm thấy hết sức mát mẻ và thơi thới trong lòng.

– Yêm biết nấu chí mà phù và đông sương không?
– Biết chứ.

– Nếu không biết thì sáng mơi iêng làm.
– Sức mấy mà không biết.
Võ Kiến Hữu vỗ đầu thằng em họ mới nhận lại mà cười biểu:
– Cụ mi chỉ giỏi phách tấu.

Trước lúc cùng em trai đi ngắm cảnh phồn hoa đô hội nơi Sài Gòn, Võ Kiến Hữu bưng tượng chè đậu ngự sang nhà của ông Sáu Giàu.

Bác gái niềm nở nhận lấy, không quên đính kèm một lời cảm ơn ngọt ngào và “lại quả” bằng ba xâu nem chay tự làm.

Bác gái dễ thương bao nhiêu thì bác trai dễ ghét bấy nhiêu.
Màn đêm đã buông xuống “Hòn ngọc Viễn Đông”.

Những ngọn đèn đường vàng vọt thi nhau phựt cháy, ai giàu trí tưởng tượng cứ ngỡ hàng đuốc đang rực lửa, muôn vàn ánh sao vì vậy mà bị chìm khuất trên nền trời đen kịt và lấm tấm mây mù.

Quán xá mở cửa nhiều không sao kể xiết, nói không ngoa hầu như nhà nào cũng bày hàng ra quán hay cho người ta thuê lại để làm văn phòng dịch vụ, vỉa hè thành nơi đậu xe của bá tánh.
Để tránh chiếc xe gắn máy phân khối lớn bị “Cuốn theo chiều gió”, Võ Kiến Tường khuyên anh họ nên gởi xe ở thương xá, tốn chút tiền mà yên tâm.
Rồi đó, hai anh em tản bộ dưới bóng râm của hàng cây thầu dầu nhiều tuổi hơn họ.

Mùi bánh nướng thơm lựng đến từ một quầy hàng rong nhỏ đã làm những nhịp bước của Võ Kiến Hữu nhanh hơn, dù anh không biết ở đây bán các loại bánh nào.
– Oa, béng ni là béng tráng mạch nha hỉ?
Võ Kiến Tường gật đầu:
– Dạ, anh muốn ăn không?
– Răng nỏ đân rứa? O ơi, o làm cho con bốn cái đi.
– “Bộn”? À, à, bốn phải hôn? Trời ơi, vậy mà cô nghe “bộn cại”, cô không hiểu gì hết.
Hai anh em rút một cái ghế trong chồng ghế mủ ra mà ngồi.

– Anh ăn ngọt quá em sợ anh bị tiểu đường…
– Răng mi tọ nẹ rứa? Tau làm chúi mũi chúi lái thì mần răng bị mấy bịnh nớ được?
Biết đã đụng trúng mụt nhọt của ổng, Võ Kiến Tường thôi đả động đến.

Anh giả lả:
– Qua Mùa Chay rồi, iêng làm món tôm chua với thịt phay hỉ?
– Ừm, mệ ngoại truyền cho đó.
Rồi Kiến Hữu hỏi:
– Người đi cà vệt là ai rứa Tường?
– Út Nhót.
– Răng mà ôn Sáu nỏ ưa tiếng Huế mền rứa?
– Mô.

Ôn Sáu bị lãng tai do uống nhiều thuốc Tây quá nên rất kén giọng nói.

Ý là bác Hai trai là con ruột trong nhà mà ôn còn hả hả liên tục, huống hồ chi mình nói giọng Huế chay.
Lúc này Kiến Hữu mới vơi bớt khúc mắc trong lòng.

Anh ngỏn nghẻn cười duyên với em họ, rồi đưa mắt nhìn dòng xe cộ sáng đèn đang qua lại như dệt lụa bên sông thơm.

Huế về đêm buồn vương trên từng con đường, ngõ nhỏ; những địa danh gắn liền với Tết Mậu Thân 68 luôn làm anh đau buồn và khiếp đảm tới nỗi thuở nhỏ chẳng bao giờ đi ngang qua những chỗ này khi mặt trời đã sụp xuống, đến lớn cũng hạn chế tới đây.
Thấy anh họ đã thỏa cơn thèm ngọt, Võ Kiến Tường rủ anh theo mình đi khám phá “rừng hẻm”.

Những ngôi nhà nhỏ xíu ngột ngạt không có lối thoát hiểm như vô vàn bảng màu tô sắc cho “rừng hẻm” thiếu bóng dáng thiên nhiên.

Một vài cây ốm nhom ốm nhách như trứng cá, tra, hoàng điệp,…!ủ rũ tìm đường sống trong vùng đất đầy rẫy bê-tông cốt thép này.

Đôi ba lần hai anh em bắt gặp những cái miễu nhỏ khói hương nghi ngút và đồ cúng ê hề, hay vương vãi trên mặt đường là những mảnh giấy tiền vàng bạc cháy sém và gạo – muối – bánh cúng.

Con lộ vốn đã hẹp, lại càng chật chội tợn vì sự xuất hiện của những hàng quán, xe cộ và chậu kiểng trang trí; hai anh em vừa đi vừa chong mắt nhìn để tránh bị bắt vạ do đi luôn vào đầu xe hay tủ để đồ của người ta.

– Yêm, yêm coi chộ nớ có ai nằm không?
– Hình như có đó iêng.
Nói rồi, hai anh em hấp tấp bước tới đó xem xét.
Một cánh tay người thò ra từ một cái lỗ chó.

Có vẻ đó là cánh tay của đàn ông.

Thời may cánh tay này còn dính liền với thân thể chứ không phải bị đứt rời.
Sau khi đo đạc thước tấc của cái lỗ chó, Võ Kiến Hữu toan chui vô trong, nhưng đã bị em họ cản lại.
– Iêng mần chi rứa?
Võ Kiến Hữu đáp:
– Đục vô.
– Mần răng iêng đục cho được?
– Dễ mà…!Yêm báo cảnh sát đi, để iêng vô.
– Choa mạ ơi…!Lỡ như ở trỏng có ai thì sao?
– Thì iêng làm cho hấn điên đầu với tiếng Huế của iêng luôn.
– Iêng…
– Mi đừng làm cho tau giựt chắc nữa…!Tau nỏ có răng mô…
– Lát không còn cái răng nào thì đừng trách sao tôi không nhắc iêng nghen?
– Rồi, rồi…
Đợi khoảng hai mươi phút, mới thấy mặt của toán cảnh sát và đội ngũ cứu thương.

Lúc này Kiến Hữu đang sơ cứu cho người đàn ông bị dao đâm thủng bụng ở trỏng, không có cái gì để rịt vệt thương nên anh lột luôn cái áo của mình ra làm băng vải quấn đỡ, hô hấp của nạn nhân rất yếu ớt và luôn miệng xin nước uống.
– Kiếm cho tau cái gối để tau đợ trốc của hấn lên, đặng cho hấn dễ thở hơn.
Giờ này biết tìm đâu ra gối kê đầu nên Kiến Tường lột luôn cái áo khoác của mình rồi gấp lại thành bốn lớp đặng thay thế gối nằm.
Một người cảnh sát lại gần Kiến Tường và hỏi:
– Anh có phải là người đã trình báo với chúng tôi không?
– Phải, tôi và…!Ủa? Iêng đi mô rồi?
Một người bác sĩ đẩy Kiến Tường sang một bên rồi lanh lẹ chui qua cái lỗ chó, các bạn đồng nghiệp của anh chui theo được hai người, những người còn lại thì lo sửa soạn dụng cụ y tế để tốc hành đưa nạn nhân tới bệnh viện.

– Hồi nãy anh nói anh và ai phát hiện ra người đàn ông này?
– À, một…!một người dưng tình cờ đi chung đường với tôi thôi.

Có lẽ sợ bị phiền phức nên ảnh trèo tường trốn rồi.
– Có chắc là vô can không?
– Không…!không chắc nữa…
Sau khi để lại danh thiếp của mình cho viên cảnh sát trẻ tuổi, Kiến Tường thẫn thờ trở lại thương xá lấy xe.

Chiếc xe hãy còn nguyên ở đấy, nhưng Kiến Hữu thì không liên lạc được.

Có lẽ anh sẽ nhờ Cưỡng và ông Sáu Giàu xác minh giùm anh Hữu có trở về Giáo xứ không…
oOo
– Anh Ba Hói…!Có cha bác sĩ nào kiếm kìa.
– Kiếm lúc nào không kiếm, canh ngay giờ tao ăn cháo thì kiếm.
Rồi vừa bưng tô cháo gói nóng bốc khói, anh Ba Hói vừa nhíu mày hỏi:
– Ủa mà mấy bữa nay tòa soạn mình đâu có gây sự hay mời phỏng vấn bác sĩ đâu mà có người trong ngành này kiếm tao?
– Chắc ổng muốn mời anh Ba tham gia chương trình thử thuốc trị hói ấy mà…!Ui da đau!
– A, pháp y Chiêu, mời ngồi…
Chiếc áo blouse trắng đã khiến vẻ ngoài của pháp y Cảnh trở nên xa cách lạ thường, nó làm ngữ khí của anh ta cũng thay đổi hoàn toàn:
– Cách đây vài năm, có một Linh mục nhờ tòa soạn anh đăng một bài viết mang nội dung minh oan cho Lm.

JB Trương Tấn Khải; khi đó người này mặc thường phục, đi chiếc xe gắn máy hiệu Kymco màu xanh lá chuối già, đầu đội nón bảo hộ màu bạc, trên vai quải ba-lô đen rất cũ.

Tôi nói có đúng hay là không?
Anh Ba Hói cau mày trả lời:
– Anh là ai mà tôi phải trả lời câu hỏi trên?
Rồi không đợi pháp y Cảnh nói tiếp, người thư ký tòa soạn chưa già mà đã hói ấy trình bày:
– Chúng tôi không thể tiết lộ danh tính và đặc điểm nhận dạng của những cộng tác viên nhằm bảo đảm an toàn cho họ cũng như thân bằng quyến thuộc của họ.

Ngoại trừ trát tòa và giấy lệnh của Sở Cảnh Sát, chúng tôi sẽ không hé răng với ai nửa lời.
– Những kẻ quậy phá tòa soạn anh đợt trước là thân nhân của Linh mục ấy?
Anh Ba Hói liếc nhìn ra cửa sổ, rồi quay lại nhìn thẳng vào mắt Cảnh Chiêu mà không nói một câu.
– Linh mục ấy hiện đang ở đâu?
Vẫn không có câu trả lời.
– Anh không trả lời, sẽ có thêm người chết nữa.

Anh Ba Hói đấm tay xuống mặt bàn, làm cho tô cháo bị sóng ra ngoài tung tóe.

Trong khi đôi mắt nhắm nghiền, anh nghiến răng trả lời:
– Dưỡng trí viện Biên Hòa.

– Cảm ơn.
Đi cùng với pháp y Chiêu là Tào Việt Bân, Mạnh Cường và Viên Thùy.

Bốn người khăn gói xuống Đồng Nai nội trong đêm nay.
Cũng nội trong đêm nay, Trì Thương trở về Sài Gòn cùng Thanh Liên và Châu Lợi, khuya nay họ sẽ tá túc trong Tổng Y Viện Dân Chủ.
– Chúa ơi, tôi tự sát thiệt mà chúng dám báo cáo rằng “Nội dung video mang tính chất lừa đảo”.

Đám bênh vực bọn lừa đảo đi vu khống người khác người lừa đảo.
Anton Nhân chỉ cho Kha Ngạn coi những bình luận khiến cho cậu phẫn uất tới nỗi muốn chết quách cho xong.
– “Coi chừng nó xài con dao “Ảo thuật” để chạy tội đó.” – Kha Ngạn đọc xong bình luận trên, ánh mắt anh liếc sang Thành Nhân, người thanh niên kia đang ôm đầu đau đớn và gầm gừ đầy hoảng loạn.
– Mục đích chính của đám đó là muốn cậu tự sát thật.

Chừng nào cậu chết, chừng nấy chủ thuê của chúng mới được an toàn.
Anton Nhân hết sức ngạc nhiên trước sự có mặt của Trì Thương.

Cậu khẩn khoản nài xin một lời chỉ dạy từ chú.
– Người trong Đạo của cậu nói mà cậu còn không nghe, huống hồ chi là tôi?
– Tôi sẽ nghe lời mà! Làm ơn cứu tôi với!
Trì Thương trầm giọng hỏi:
– Kể lại từ đầu tới đuôi sự việc hôm đó, biết đâu tôi tìm được manh mối nào thì sao?
Những gì Anton Nhân nói ra không có gì khác biệt so với lời khai với cơ quan điều ra.
Trì Thương cắt lời:
– Có người nào đi vô rồi đi về liền không?
– À, tôi nhớ ra rồi!
– Đ* má giờ mới nói ra…!- Kha Ngạn tức điên lên nên xô ngã cái ghế trước mặt mình.
Sau khi nắm được nhân dạng của nghi phạm, đội điều tra tức tốc đi tìm người đó.

Nhưng thật không may cho họ, người đó đã sang Mỹ định cư mất rồi.

Mọi thứ lại quay về con số không tròn trĩnh..


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.