Cùng đi lên Đà Lạt với Samuel Định là Manuel Ngô, Judas và hai anh em họ Võ.
Người mừng nhứt khi hay tin này là Vệ Thương vì cậu rất thích tụ tập đông vui; cũng may tòa tư dinh của cậu có rất nhiều phòng ngủ nên ai nấy đều có chỗ nghỉ ngơi riêng tư.
Bà quản gia niềm nở rước đoàn khách của cậu Út xuống phòng ăn nhập tiệc.
Bà hơi bối rối vì đoàn khách này nửa theo Tin Lành, nửa theo Công Giáo, nửa “lưng lửng ở hai bên” nhánh Cơ Đốc, nửa bên Đạo Ta – Tức “Tứ Ân Hiếu Nghĩa”, thành thử ra bà đã phải đắn đo rất nhiều khi soạn thực đơn chiêu đãi.
– Ủa gì kỳ vậy? Sao có mấy món trong Lễ Tạ Ơn? – Judas nói tới đó, không kiềm được mà che miệng cười thật lớn.
– Mô có phải mùa Vu Lan mà vú đi nấu chè cúng Phật rứa? – Võ Kiến Tường cũng cười đến rũ người.
Manuel Ngô cũng góp giọng:
– Sao có món ăn Do Thái nữa vú?
Vệ Thương mặt mày méo xẹo mà nhìn vú trách cứ:
– Vú, vú tính tổ chức đại hội “Hòa Đồng tôn giáo” hay gì?
– Con thương vú, thông cảm giùm vú, tại nhiều đức tin quá thành thử ra vú hổng biết soạn thực đơn sao hết.
Samuel Định cười khổ:
– Thì vú nấu bữa cơm bình thường được rồi vú ơi.
Nào gà tây rô-ti, bánh mì không men, chè trôi nước,…!
– Bữa ni chưa tới Rằm, nên con nỏ ăn củ lợt mô.
– “Củ lợt” là củ chi rứa con?
– Ý ảnh nói là anh hổng có ăn đồ chay đâu.
– Cho phép vú uống thuốc trợ tim xíu nghen Thương.
Nguyên đám ôm bụng cười ngặt nghẽo.
– Vú cũng trộng tuổi rồi, răng iêng ghẹo ác rứa?
– Ai dủ “bụ” nói lái chi?
Judas nghe cư sĩ Phật Gia xứ Huế nói chuyện mà gã có cảm tưởng đang nghe tiếng Latin trộn với tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha.
Dù đã cố gắng hết sức, gã vẫn không thể nào nắm được nội dung của cuộc hội thoại là gì.
Trong lúc đợi đầu bếp chế biến thêm vài món, Vệ Thương dẫn mọi người lên lầu chọn phòng.
Thằng bạn đồng tính của cậu vẫn ở một mình trong phòng cũ; còn những người kia thì chia làm hai nhóm, mỗi nhóm chọn một phòng trên tầng áp mái.
Góc bên phải của tầng áp mái dẫn thẳng ra sân thượng: Nơi đây được xây dựng thành một vườn treo khá lớn, có chỗ để làm tiệc nướng BBQ khi thời tiết thuận lợi và một góc ngồi sưởi ấm có lọng che là vòm cây sanh uốn kiểu với hồng leo rất đẹp.
Còn bên trái là ba phòng ngủ có luôn nhà tắm và vệ sinh riêng; mỗi căn có diện tích bằng nhau và đều có cửa sổ trổ ra con lộ vắng tanh, quanh năm rì rầm tiếng thông reo.
Nằm đối diện với cửa lớn là một cái giếng trời cỡ trung; bên trong giếng trồng một cái cây ưa mát và chịu khô hạn, ngoài ra không còn tiểu cảnh gì nữa.
Để cho gia chủ có thêm không gian tiếp khách, vị trí trống trải này được biến thành phòng khách: Với một bộ bàn – ghế sô-pha bọc nhung gấm màu huyết dụ đặt ở trung tâm, phía trên đó treo đèn chùm pha lê phong cách Bán Cổ Điển và cất một lò sưởi bằng than củi ở bức vách tay mặt – Bên trên bày biện một vài món đồ trang trí và lưu niệm nho nhỏ, đơn giản; chưa kể đến là chiếc TV LCD treo ở phía trên và chính giữa lò sưởi, cùng dàn loa được gắn ở hai đầu bức tường cùng phía.
Và đâu mặt với bộ bàn – ghế sô-pha là cánh cửa dẫn ra ban-công; đứng ở ban-công này có thể nhìn thấy một khoảng rừng thông thâm u luôn mịt mờ sương khói.
Sau một hồi bàn bạc, hai anh em họ Võ ở căn đầu tiên, căn giữa là của hai anh em họ Ngô và căn chót thuộc về Judas – Gã trai Nam Mỹ không ở chung với người bạn Mục sư và anh họ của cậu ấy như đã định, vì căn chót nằm gần cánh cửa dẫn ra ban-công nên gã mới muốn ở riêng.
Samuel Định chỉ tay về phía cánh cửa xếp có gắn tranh kính vẽ hình “Mai – Lan – Cúc – Trúc” trên nền màu giả đồng mà hỏi:
– Sao chỗ này lại phải che chắn lại vậy Thương?
– Dạ, vì nó dẫn tới phòng riêng của vú, gia đình thím đầu bếp và cô giúp việc, phòng giặt – ủi kiêm luôn phơi đồ và cất trang phục, mùng – mền – drap giường – vỏ gối – màn cửa và dụng cụ bảo hộ khi làm việc.
Thành ra kiến trúc sư tư vấn nên tách bạch không gian giữa gia chủ và người làm.
Phòng riêng của bà quản gia nằm ở đoạn hành lang nối liền hai khu vực gia chủ và gia nhân.
Cửa phòng đối diện với giếng trời nên kiến trúc sư khuyên rằng nên lắp chấn song để phòng trường hợp bà bị mộng du hay sẩy chân mà té xuống dưới.
Mặc dù nó làm giảm mỹ quan và hạn chế tầm nhìn nơi khoảng thông tầng, nhưng bù lại bớt lo lắng vô cớ hơn.
Lối chừng hai tiếng sau, bà quản gia mới đi thang máy lên mà mời nguyên đoàn xuống ăn trưa.
Vừa hay ai nấy đều tắm gội và thay đồ mới.
Bàn ăn giữ lại món gà lôi rô-ti, bánh mì không men và vài dĩa đồ chay.
Thể theo lời khuyên của hai me – con thím La Lan, bữa cơm có thêm món bào ngư nướng mỡ hành, ốc hương luộc, tôm hùm đất sốt Cajun, cơm trứng tráng kiểu Nhật Bản, canh sườn nấu với trà xanh và ăn kèm với bánh quẩy, chim cút chiên bơ và trứng cút lộn xào mắm me.
Vệ Thương cười khổ:
– Mình muốn vú nấu một bữa cơm bình thường, nói một hồi thành “cơm tiến vua” luôn!
Sau giờ ăn, nguyên đoàn ngồi nghỉ hơn nửa tiếng mới có thể xách đàn guitar mà ra vạt đồi gần đó ca hát và ngắm cảnh.
Người biểu diễn đầu tiên là Samuel Định, gã chọn bài “Đà Lạt cô liêu” của nhạc sĩ Lam Phương, một bản nhạc về xứ sở sương mù thật hay nhưng kém nổi tiếng hơn bài “Thành phố buồn” do ông sáng tác; “hai đứa con” cùng “cha” song số phận thật khác biệt!
Tới phiên Năm Tường, anh trình bày ca khúc “Má hồng Đà Lạt” của Minh Kỳ – Lan Anh; đây là một sáng tác của nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng.
Vệ Thương hóa thành “Hồ Than Thở”:
– Ca bài nào sung sung chút đi mấy anh.
Năm Tường ghẹo:
– Vậy hát nhạc Tây Du Ký nghen?
– Nghe hổng có vô…!Cho bài nào nhạc ngoại lời Việt mà sung sung xíu đi mà.
– “Happy Together” của đôi nhạc sĩ Garry Bonner và Alan Gordon: Một lời Việt cùng tên với bản gốc do Don Hồ ca; lời Việt khác của nhạc sĩ Đan Hà, bản này chỉ có song ca trước năm 75 Minh Xuân – Vy Vân trình bày.
Hát hò hoài cũng mệt, nguyên nhóm bèn ngồi ngắm trời mây và nghe thông reo.
Khoảnh rừng này mới trồng hồi năm 2016 nên chưa cao lớn lắm; tán lá cũng không dày mấy, chỉ lúp xúp vài tầng.
Thảm cỏ xanh rì hãy còn thơm hương sương mai, trên đó đọng lại vài cánh hoa lìa cành đã dần héo úa.
Út Thanh hỏi:
– Mày định đi quân dịch vào đầu năm tới hả?
Út Thương gật đầu:
– Chắc là Thủy Quân Lục Chiến.
Tao muốn vô Không Quân lắm nhưng không hội đủ điều kiện sức khỏe để tham gia.
Nhân đó, Vệ Thương nhờ những “cựu quân nhân” tư vấn kinh nghiệm đi quân dịch cho mình hay.
Tuy đã nghe hai anh ruột kể song cậu vẫn chưa nắm rõ được lối sống trong quân ngũ.
Vậy là lần lượt từng người thuật chuyện đi quân dịch của mình.
Vui buồn lẫn lộn, đau thương và hờn tức cũng có đầy.
Judas khuyên:
– Theo tôi thấy cậu nên vô Vệ Binh Quốc Gia thì hơn, theo Thủy Quân Lục Chiến cực dữ lắm.
– Nhưng mà em ngán ở chỗ hễ có chuyện gì cần là sẽ có lịnh tổng động viên, không như bên Thủy Quân Lục Chiến.
Judas nghe cách nói chuyện của Vệ Thương hãy còn non nớt quá chừng nên phì cười kể:
– Tôi có rất nhiều người bạn ngoại quốc như Gấu Nga, Ngao Tây Tạng, Thạch Xà,…!Mỗi người mỗi tính, và rất khó chiều lòng họ.
Vệ Thương sáng trí hiểu liền:
– Vậy em giống ai trong số họ?
– Cậu chẳng giống ai hết.
Vì họ làm chủ cuộc đời họ và không đợi ai đưa ra ý kiến cho mình.
Nói nôm na, họ sống độc lập như những con thú hoang dã vậy.
– Vậy thì em phải làm cách nào để được như họ?
– Cậu phải mất mát về mặt tinh thần thật lớn lao thì mới có cơ hội trở thành họ.
– Ây da…
Vệ Thương lo lắng quàng tay qua vai anh Năm Tường mà hỏi:
– Sao vậy anh Tường?
– Tự nhiên bụng anh đau quá.
Anh vô trong nhà lấy thuốc uống nghen?
– Dạ.
– Có cần tau đi chung không?
– Thôi khỏi…
Lời vừa dứt, Năm Tường đã chạy tốc vô nhà.
– Ngụy hiện rứa! Hắn bị đau bụng thì mần răng có thể chạy nhanh cái thế nớ.
Bởi vì Năm Tường nói dối, anh muốn tìm cớ để lánh mặt anh họ.
Thành ra thay vì đi vô nhà vệ sinh, anh lại lên sân thượng ngồi xích đu và gọi điện cho Đức Giám Mục La Viễn Phương.
– Thầy đây, có chuyện gì vậy Tường?
Năm Tường vào đề luôn:
– Ảnh nói ảnh người Huế mà lại nói người Huế ăn bánh tày trong dịp Tết.
– Không phải sao?
– Dạ cũng có, nhưng phần đông chuộng bánh tét như trong Nam hí.
Còn bánh tày thường trong dịp giỗ quải hơn.
– Con có thử ADN chưa?
– Dạ rồi.
Năm chỗ.
Xác quyết là cận huyết thống.
– Cậu đó có điều chi bất thường không?
– Dạ, ảnh hay tham gia các đoàn thiện nguyện do Tứ Ân Hiếu Nghĩa tổ chức, thành ra hay vắng nhà và đi xa lắm.
– Đi rồi có tiền hay là không?
– Dạ có, trưởng nhóm trả tiền cho.
– À…
Sau một hồi im lặng, La Viễn Phương mới lên tiếng khuyên học trò nên thay đổi hết mật khẩu và cất giữ tư liệu ở chỗ khác, đặng đề phòng Võ Kiến Hữu đánh cắp dữ kiện cá nhân rồi đi làm chuyện bất chính.
Xong phần con nuôi, ông bắt qua chuyện khác:
– Thầy gởi con hai ngàn.
Đà Lạt chắc lạnh lắm, nên nếu thằng Út muốn mua áo len thì con mua giùm cho Thầy, cứ nói dối là mua quà sinh nhật trước để nó khỏi sanh nghi.
Năm Tường cười phá lên:
– Chúa ơi, trên này đâu có lạnh mấy đâu Thầy.
Trưa nắng còn phải bật máy lạnh lên nữa kìa.
– Vậy hả?
Rồi ông thở dài thườn thượt và giãi bày tâm sự:
– Thầy thương nó vô cùng.
Mà nó bị vậy thì đành phải chịu vậy chứ biết sao giờ…
– Anh Ba Đức sao rồi Thầy?
– Cũng bình thường.
Nhiều lúc nó muốn tới ủng hộ tiệm cắt tóc của thằng Út nhưng sợ Thầy buồn nên không dám ghé.
Năm Tường ngập ngừng bày tỏ ý định mở nhà giảng ở Huế.
– Chúng ta chỉ là một Hội Thánh Tin Lành nhỏ xíu xìu xiu.
Gắng gượng lắm mới duy trì được tới bây giờ.
Thành ra Thầy không ủng hộ ý kiến lập nhà giảng ở Huế của con.
– Con hiểu, Hội chúng ta là hội tự túc, tự sinh – tự diệt, không dựa vào một nguồn thu nào từ Cơ Đốc Nhân…
Tiếng gọi của Vệ Thương đã cắt ngang cuộc trò chuyện của hai thầy trò Tin Lành.
Năm Tường vội vàng tắt máy rồi day lại nhìn người trai mới vừa dạm bước đôi mươi:
– Có chuyện gì vậy Thương?
– Mình chia thành hai nhóm đánh vũ cầu.
Hễ bên nào đánh hụt nhiều là bên đó thua.
– Nhưng có bảy mạng sao chia đều?
– Anh yên tâm đi.
Em có cách rồi.
“Người Việt trầm lặng” hôm bữa được rủ vô chơi chung.
Cả Samuel Định và anh ta đều không ai tỏ ra là có quen biết với nhau, nên Út Thương – Út Thanh cảm thấy vô cùng thoải mái.
Nhờ lợi thế chiều cao và sức bền mà phe của Judas, Manuel Ngô, Samuel Định và Cương thắng lớn.
Bên thua ngậm ngùi xuống bếp rửa chén với hai me con La Lan.
…
Samuel Định muốn tìm chút yên tĩnh nơi bờ hồ Than Thở, nhưng không gặp, đành ra thác Cam-Ly.
Mà tới nơi, cũng chẳng thấy mô, lại phải dời gót sang Thung Lũng Tình Yêu.
Và hệt như hai chỗ trước, đâu đâu cũng thấy bóng du khách và dân bản địa: Lớp ồn ào chụp ảnh, lớp chèo kéo mua đồ.
Hết cách, gã phải cuốc bộ lên nhà thờ Con Gà để mong cầu được hưởng bầu thanh tịnh thường thấy ở Thánh đường.
Sau một hồi cò kè trả giá, rốt cuộc chàng lãng tử cũng thuê được chiếc xe đạp.
Gã cười ngất khi nghe cô chủ nói giọng Bắc càu nhàu, “Đẹp trai mà keo như quỷ.” Đẹp trai cách mấy thì cũng phải đi làm mới có cái ăn, đâu phải tiền rơi từ trên trời xuống mà tùy tiện phung phí lung tung.
Trên Đà Lạt bây giờ, theo cảm nhận của Samuel Định, khó lòng mà thế hệ nhạc sĩ thuộc dòng nhạc Vàng năm xưa còn có cảm hứng sáng tác ra một bài ca bất hủ nào.
Ở đâu cũng có bê-tông cốt thép, rừng thông mờ sương đã hóa thành “đầu hói sổ mũi”, rác rến và nạn quấy nhiễu du khách nhiều không sao kể xiết.
Cái đẹp của thành phố này đến từ sự hoang dại và trong lành của thiên nhiên, nét văn hóa và lối sống của người dân bản địa cùng tiếng thông hát – suối reo – thác đổ hàng giờ liền không ngơi nghỉ; và cái du khách cần “Chỉ chừng đó thôi”.
Ánh nắng ban mai ngày Hè Đà-Lạt đã không còn dịu dàng như ngày còn ngàn thông.
Mới đi được một chốc mà Samuel Định đã vã mồ hôi hột.
Cũng may chai dầu thơm đã “che chắn” mùi cơ thể giùm gã.
Những cung đường vỉa hè chật chội khách bộ hành và gánh hàng rong.
Mấy lần chiếc xe đạp của gã xém lủi vô quầy bán của người ta, khiến cho gã đành phải chạy xuống dưới lộ.
Dầu đã cố gắng hết sức nhưng chiếc xe đạp của gã vẫn trở thành miếng mồi ngon cho mấy chiếc xe gắn máy và bốn bánh “hun đí*”.
Nghe tiếng hò của Hùng Cường trong bài “Về thăm xứ lạnh” do chính ông sáng tác, Samuel Định hấp tấp dừng xe.
Có lẽ gã sẽ gặp lại “người muôn năm cũ” ở đây.
Người đó là một cô gái hãy còn rất trẻ mặc quần lính rằn ri và áo ba lỗ trắng, chân đi giày thể thao giả kiểu bốt-đờ-sô, dáng dấp thon thả và nét mặt hết sức thanh tú.
Quán cà-phê của gia đình cô vẫn còn lưu giữ kiến trúc ngày mới mở tiệm, thành ra mùi thời gian luôn phảng phất đâu đây.
– Uống chi anh?
– Dạ?
Cô che miệng cười khúc khích, rồi nháy mắt nhắc nhở:
– Quán cà-phê anh ơi.
– À…!Cho tôi xin cái thực đơn.
Vẫn điệu cười tươi như màu Mimosa trong nắng, cô nàng day mặt về phía tấm bảng và chỉ tay lên mà nói:
– Ghi ở trên hết rồi.
Samuel Định gãi đầu cười ngượng, rồi biểu:
– À…!Cho tôi một ly…!Espresso hột gà.
Trứng chín một chút, xin đừng sống quá.
Tính tiền trên máy xong, cô ngoảnh vào trong gọi:
– Me ơi, làm cho khách một ly Espresso hột gà! Trứng chín một chút, đừng sống quá nha…
– Cô là dân Đà Lạt chính gốc.
Cô nhướng mày trong khi vẫn giữ nụ cười thật tươi trên môi:
– Tại sao anh biết?
– Vì cô gọi “Me” chứ không gọi “Mẹ”.
Cô phì cười:
– Coi chừng anh lộn “gốc cây” đó.
– Nhìn cô tôi tự dưng nhớ tới bài “Mimosa” của ca sĩ kiêm nhạc sĩ Trường Hải.
Đôi má cô phơn phớt hồng như sắc mây bình minh Đà Lạt, cô ngượng nghịu hỏi lại:
– Kỳ dạ?
– Vì sắc diện cô rất tươi tắn và hạnh phúc.
Kể từ ngày tôi vào đời, tôi không còn được mang vẻ mặt giống như cô nữa.
– E hèm…
Cha của cô chủ quán đằng hắng một tiếng, rồi cúi mặt nghe livestream tin tức tiếp.
Tiễn chân người khách để tóc hai mái như Cổ Thiên Lạc hồi trẻ xong, cô quay qua bắt đền cha mình:
– Cha kỳ quá hà…!Con gái của cha lâu lâu được trai đẹp khen một tiếng mà cũng hổng cho nữa…
Ông già nhăn mặt xua xua tay:
– “Tốt mã rẻ cùi” bây ơi.
– Chớ sao cha nói hồi đó me lấy cha vì cha đẹp trai?
Ông già chột dạ cự:
– Tao khác, cái cậu đó khác.
Rồi ông lên gân trách:
– Chưa có chồng mà mày binh thằng ngoài lề chằm chặp, mốt tao với me mày ra rìa luôn.
– Con hổng lấy chồng đâu, con ở với cha me suốt đời luôn.
Bà già cười khẩy:
– Mày ăn bận như vầy thì thằng nào dám lấy mày hả con?
– Thằng tướng, tá, sĩ, úy; không thì cũng phải là Vệ Binh Quốc Gia.
– Ừ, chứ dân thường sao dám chịu nổi con võ sư như mày.
Cô vùng vằng:
– Thôi, con lên nhà thờ Con Gà chơi đây.
– Vô thay đồ liền cho tao! Lên thăm Chúa mà ăn bận như vậy hả?
– Con đâu có vô thăm Chúa, con đi vòng vòng chơi thôi mà.
– Thôi mày đi đâu thì đi khuất mắt tao đi…!Nó giống ai mà bướng như bò…
– Nó hổng có giống tui…!- Nhìn thấy vợ mình phừng phừng lửa giận, ông già cười hề hề chữa lời.
– Mà cũng hổng giống mình luôn.
Chắc nó học từ ai đó thôi.
Trong lúc đôi vợ chồng đang hờn mát nhau, cô con gái yêu của họ đã leo lên chiếc xe Vespa sơn màu họa tiết vỏ cây thông mà dông mất.
Đà Lạt đã thôi buồn thỉu buồn thiu sau năm 2000.
Sau cột mốc đó, một Đà Lạt e ấp dịu dàng và đằm thắm đã bị thay thế bằng một Đà Lạt bừng bừng sức sống nhưng rất kém duyên.
Cô sinh ra và lớn lên trong lúc Đà Lạt còn là nó, nên thấu hiểu và thương xót cho từng cảnh sắc nơi đây.
Nhà thờ Con Gà cũng vậy, còn đâu một “Giáo đường im bóng” vang lên “Bài Thánh Ca buồn” chất chứa những mối tình dang dở vì một lần nhàn du đến “Đà Lạt mộng mơ”?
Do diện tích thành phố nhỏ xíu nên đường sá cũng bé tẹo theo.
Đã vậy khách thập phương viếng thăm rất đông nên không gian còn chật hẹp bội phần.
Đi đâu cũng ngửi thấy mùi người, mùi xăng xe, mùi khói bụi, mùi kim tiền và hằn học; tự dưng cô thèm được trở lại cái thuở lác đác khách nhàn du và còn vang tiếng lộc cộc của những cỗ xe ngựa, để cô được cảm nhận hương thơm của ngàn hoa, cỏ xanh và rừng thông.
Về phần Samuel Định, gã vẫn chưa tới nhà thờ Con Gà; vì một tin nhắn của người đồng nghiệp mà chặng đường của gã phải chuyển hướng.
Theo như nguồn tin mà người này lấy được: Nạn nhân bị bề hội đồng ở tòa nhà do gia đình Lê Hoài Sang làm chủ hóa ra là má-mì chuyên cung cấp gái gọi vị thành niên; có lẽ vì mâu thuẫn tiền bạc nên con nhỏ này đã bị chính đồng bọn thuê người thanh toán.
Hèn chi mà nó tỉnh queo, không hề đau khổ hay suy sụp như những nạn nhân bị hãm hại mà gã đã từng tham gia giúp đỡ.
Nếu đúng như những gì mà người săn tin đã báo, thì chủ quán cà-phê “Sóng Nhạc” đang cận kề nguy hiểm và cái chết.
Và nếu gã đoán không lầm thì nó muốn mượn cái bầu để trốn tội.
Trong khi ấy, những người bạn của Samuel Định đang tản ra làm việc riêng trong tòa biệt thự nhà họ Vệ.
Võ Kiến Hữu đang nghe một khúc tình ca xứ Huế mang tên “Nón bài thơ” của nhạc sĩ Anh Tuấn qua phần trình bày của nữ ca sĩ Trung Kỳ trước năm 75 Ngọc Thanh, trong khi đang ăn bánh flan bí đỏ.
Bên cạnh anh, em họ đang ngồi soạn bài giảng cho buổi Thánh Lễ tổ chức vào ngày thứ Năm.
Vệ Thương, La Yến Thanh, Mười Anh và Judas đang chơi game Nintendo.
Họ thi đấu theo kiểu đánh đôi.
Ai thua phải chịu vẽ mặt hề.
– Iêng có điện thoại kìa.
– À…!- Võ Kiến Hữu hờ hững đáp.
Dù không cố ý, nhưng trong lúc đưa máy Năm Tường vẫn đọc được mấy số đuôi và biệt danh của người gọi đến.
“Trà Hoa Nữ” là ai?
oOo
Y theo lời hẹn với Trì Thương, đúng chín giờ sáng, Stephen Đoàn có mặt dưới chân núi Cô Tô.
Bài thuốc bổ thận hôm bữa đã giúp Cha Thành và Cha Hoàn có được giấc ngủ ngon và không còn bị đi tiểu lắt nhắt về đêm nữa, nên anh muốn lên đây lấy thêm vài thang.
Sẵn, nhờ người cư Bửu Sơn Kỳ Hương ấy sắc cho Cha Dương một đơn thuốc giảm đau lưng luôn.
– Sadhu…
Vị cư sĩ đó đeo trên lưng một cái gùi đựng đầy cây cỏ; không biết trong đó có giống chi mà thơm nức mũi.
– Thơm lắm phải không Thầy? Đây là cỏ Xạ Hương, trị chứng rong kinh cho phụ nữ.
Nhưng ai có bầu rớ vô là sẩy thai liền.
– Vừa cứu người vừa hại người…
– Phải, nên không yêu nghề thì đừng có học, bốc lộn một vị là giết một người.
Rồi vị thầy thuốc Đông Y vỗ trán:
– Bị bịnh thận đại kỵ cây Mã Đề.
Mía Lau cũng hạn chế dùng.
Stephen Đoàn nhờ cư sĩ Bửu Sơn hốt giùm một đơn thuốc trị chứng đau lưng và yếu đốt sống cổ cho Cha Dương.
Nghe xong, cư sĩ vuốt râu mà cười biểu:
– Trời ơi, yếu đốt sống cổ thì vô nhà thương kêu mấy cha Tây Y “nẹp” giùm.
Tui chỉ biết trị đau, mỏi vai – ót và buốt hai lỗ tai thôi.
– Dạ, cái con cần nằm ở vế đó ông.
– Ừ, vế đó thì tui lo được, chớ mà biểu trị yếu đốt sống cổ là tui bó tay chịu phép.
Stephen Đoàn gục gặc đầu ngượng nghịu.
– Lát dìa ghé y quán của tui lấy thuốc nghen?
– Dạ, ông đi mạnh giỏi hen?
Không biết tìm Trì Thương nơi đâu, Stephen Đoàn đành ngồi đợi dưới gốc cây gừa trăm năm.
Ở cái chỗ chi mà vừa cao vừa khó kiếm, lại còn đầy dẫy côn trùng và bò sát có nọc độc, sơ sẩy một chút là giẫm phải như chơi.
Sau một chặng đường khất thực rất dài, rốt cuộc đoàn Tăng sĩ cũng trở lên núi.
Stephen Đoàn để ý thấy có một cái đuôi đắp áo “cà-sa” trắng như bông bưởi, có lẽ là đồ đệ mới chăng?
Trì Thương tách khỏi Tăng đoàn mà lại gần Stephen Đoàn.
Y bát của chú đựng rất nhiều trái điều, ổi và mận, kèm theo một tép muối ớt.
– Nè, ăn giải khát.
– Ồ, cảm ơn anh.
– Nói rồi, Stephen Đoàn liền lấy hai trái điều và tép muối ớt.
Châu Lợi đang sớt chút cơm cho bầy chim rừng ăn.
Khuôn mặt ông vẫn giữ nguyên lứa tuổi tứ tuần, nếu không quen thân ắt sẽ khó lòng tin nổi ông đã ngoài bảy mươi.
– Thầy Lợi đã ngoài bảy mươi mà sao coi trẻ quá chừng.
Trì Thương cười mà đáp:
– Vì huynh ấy không đi săm soi từng câu, từng chữ người ta nói.
Hay suốt ngày cứ tưởng tượng người ta đang nói xấu về mình.
Và tuyệt đối không tốn thời gian “Lựa đậu”.
– Là sao?
– Là ngồi lựa coi ai theo phe mình, ai hạp ý mình, ai chống đối mình, ai theo phe mình ghét hay ai có dấu hiệu thể hiện là người của phe kia cài sang nằm vùng bên phe mình.
Nói tới đây, Trì Thương đưa mắt nhìn Hoàng Kỳ và Thủy Diệu:
– Anh thấy huynh ấy hay rầy rà Hoàng Kỳ và Thủy Diệu, nhưng nói đó rồi xả bỏ ở đó, chứ không nhai đi nhắc lại vào ngày khác.
Bị nhắc tên, Hoàng Kỳ nhếch miệng cười méo xẹo.
– Tôi thấy mặt của anh Kỳ rất kỳ.
– Ừ, hồi mới lên núi tu, thiếu điều ổng với huynh trưởng muốn đánh lộn.
Giờ bớt rồi.
Trì Thương mời Stephen Đoàn theo mình tới hang thỏ để thoải mái chuyện trò hơn.
Đang vào mùa du lịch nên chốn núi rừng không còn mấy nơi hoang vu, thanh tịnh nữa.
Để đến đó phải băng qua một hẻm núi cao vợi và mát lạnh; đây là con đường tắt thứ ba, hai con đường tắt kia dễ đi hơn nhiều nhưng rất dễ làm lộ tẩy cái hang thỏ mà Tăng đoàn đã cất công che giấu.
– Sắp tới mùa An Cư Kiết Hạ rồi, chúng tôi sẽ ăn rau – củ cầm cự qua ngày.
– Có điều chi giống với mùa Chay bên tôi không?
– Không.
Vì mùa mưa là thời điểm sanh sôi, nảy nở của rất nhiều loài vật nhỏ xíu nên Đấng Thế Tôn khuyên chúng tôi rằng không nên đi lại nhiều, cũng như ra ngoài khất thực trong quãng thời gian này.
– Để giữ mạng cho loài thụ tạo cấp thấp, phải đọa đày mình tới mức này sao?
– Đó không phải là đọa đày, đó là kham nhẫn, chỉ có kham nhẫn mới ương được Bồ Đề.
Những cây thuốc họ Dây Leo đã bị cư sĩ Bửu Sơn hái sạch; vết tích để lại là những mảng nám do sự chuyển động theo thời gian của đám thực vật ấy.
– Nhờ Hoàng Lan sợ con này mà tôi mới được yên thân…
Một con tắc kè bông nằm hòa với màu hẻm núi.
Nếu như đôi mắt của nó không chuyển động và nó không kêu lên những tiếng buồn thảm, thể nào người ta cũng tưởng lầm nó là một mảng đá nhỏ.
– Còn Kiều Xuân không sợ chi hết, chuột và đuông dừa mà cổ còn nhai rau ráu.
Con đường mỗi lúc một hẹp.
Lớp đất bên dưới nham nhám, sần sần như vỏ dừa khô; trong đó ẩn đầy trùn đỏ bò lúc nhúc ngang dọc và những con bọ hung đen-bóng đêm cũng như ngày khệ nệ lăn phẩn dơ.
Vén bức rèm bông bìm bìm lên, kế đó Trì Thương mời anh bạn Linh mục bước vô.
– Oa!
Gần trăm con thỏ nhỏ có, lớn có đang nhóm họp trong cái hang rất rộng và thoáng mát.
Những vồng khoai mới giăm hôm bữa nay đã nhú lên khá cao; nếu như Stephen Đoàn nhớ không lầm thì có khoai lang, khoai môn, khoai từ, khoai tây, khoai mì,…!ngoài ra còn có củ sắn, củ năng, củ ấu,…!và một số loại rau cải vị ngọt khác.
– Sao anh không bước vô?
Stephen Đoàn nhìn xuống lạch nước trong vắt dưới chân mà ngần ngừ lắc đầu.
– Đừng có lo.
Chúng chỉ uống nước ở cái khe đằng kia.
Còn cái lạch này chúng không để mắt tới đâu.
Nghe vậy, Stephen Đoàn mới đạp giày xuống cái lạch nước cạn trợt ấy.
Trì Thương mời Stephen Đoàn lên võng nằm, về phần mình thì chú lại ngồi trên bệ đá thân quen như mọi ngày.
Trái ngược với suy nghĩ của chàng Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, bầy thỏ rất mực hoan nghênh anh, con nào con nấy đều dạn dĩ xích lại gần anh, anh bèn ẵm một con lên nựng nịu.
Trì Thương cũng bồng một con trên tay.
Nằm trên võng được đâu mươi – mười lăm phút, Stephen Đoàn thả con thỏ xuống đất rồi đong đưa võng mà hỏi:
– Anh nghĩ sao về “Tự vẫn” hả Thảo?
– Anh tự vẫn để cảnh tỉnh kẻ ác chỉ tổ làm cho kẻ ác đó mừng vì bớt đi một người đối nghịch.
Thay vào đó, anh phải sống để cùng mọi người chống lại kẻ ác đó.
– Còn về phần “Tự thiêu”?
Trì Thương mỉm miệng cười.
Cái cười tưởng chừng như nhẹ tênh nhưng ẩn sâu trong đó chất chứa bao nhiêu muộn phiền.
Chú xin phép được kể dông dài trước khi đi vào mệnh đề chính; chàng Linh mục gật đầu chấp thuận:
– Vì phiền muộn một vài chuyện trong Tăng đoàn mà tôn giả Ananda đã đi du sơn ngoạn thủy một chuyến để khuây lãng nỗi buồn.
Tới một nhánh sông nọ, từ đằng xa Ông trông thấy hai đội quân đang đánh nhau long trời dậy đất, máu xương nhuộm đẫm mặt sông hiền hòa.
Nhờ Thiên Nhãn của một bậc A-La-Hán mà Ông hiểu được nguyên nhân tại sao lại có cuộc chiến tang tóc này; ở đây xin dừng lại một chút, để cho anh dễ nhớ bối cảnh của câu chuyện, tôi xin được tự ý gọi nước A và nước B, quốc vương A và quốc vương B, thay cho tên gọi và địa danh ghi trong huyền sử Phật Giáo…
Nhận được sự đồng ý của Stephen Đoàn, Trì Thương mới kể tiếp:
– Thì ra hai nước này không ưa nhau đã lâu, đụng một chút là vượt sông giao chiến, nên người dân của hai nước hết sức khổ sở vì nạn binh đao khói lửa và sung quân.
Vậy là đêm hôm đó, Ông báo mộng cho quốc vương A và quốc vương B hay rằng, “Vào sáng ngày mai, tôi sẽ ra bờ sông phân ranh giữa vương quốc của hai vị mà tự thiêu.
Hy vọng rằng cái chết của tôi sẽ đem lại yên vui cho lê dân bá tánh của hai vị, cũng như đem lại nền bang giao hữu hảo giữa hai nước.” Hai vị quốc vương bán tín bán nghi nhưng vẫn kéo quân ra đến bờ sông nọ để coi thực – hư thế nào.
Và quả đúng như những gì họ nghe và nhìn thấy trong giấc mộng đêm qua, người Tăng sĩ 120 tuổi kia đã đứng lơ lửng giữa con sông mà chắp tay đợi họ.
Một trong hai vị quốc vương nài nỉ Ông hãy gởi tro cốt cho nước mình, vị kia thấy vậy cũng hoảng hồn hoảng vía lên tiếng tranh giành.
Quân đội của hai nước đã rục rịch động binh để cướp tro cốt của bậc Thánh Tăng mà họ đã từng được nghe thiên hạ xưng tụng.
Y theo lời hứa với chúng sanh, sau khi dùng lửa Tam Muội tự thiêu mình, tro cốt của Ông tự phân ra làm hai và mỗi phần rớt xuống một bên bờ sông.
Kể từ đó về sau, hai nước đã vui sống trong hòa bình với nhau và người dân bên nước này coi người dân bên nước kia như máu mủ ruột rà.
Stephen Đoàn nhướng cao đôi mày, nhưng vẫn lặng im lắng nghe người Tăng sĩ ấy nói.
– Tôn giả Ananda không có “thòng” vô câu, “Tôi làm vậy là để xiển dương hay bảo vệ Phật Giáo.” Ông làm là vì cứu chúng sanh.
Chỉ vậy thôi.
Ngay cả trong Tăng đoàn, sau khi Ông chết mới biết Ông đã tự thiêu, Ông âm thầm hành động vì không muốn quá nhiều người vì mình mà mắc tội “thấy chết mà không cứu”, nói vắn tắt là “ngộ sát”.
Sự ra đi của Ông có thể dẫn đến sự diệt vong của Phật Giáo thời đó.
– Tại sao tôn giả này ra đi lại có thể dẫn đến sự diệt vong của Phật Giáo thời đó?
– Vì Ông là rường cột cuối cùng của Phật Giáo.
Ông chẳng sợ cái chết của mình sẽ gây thiệt hại và sụt giảm uy tín của Phật Giáo.
Và Ông đã đúng.
Dù không còn một bậc Đại Trưởng lão nào ở lại quán xuyến Tăng đoàn nữa, nhưng đức tin này đâu có bị biến mất.
Cái gì là Chân – Thiện – Mỹ thì dẫu có biến mất đi chăng nữa, cũng có lúc nó sẽ quay lại thôi.
Mùi cồn sát khuẩn đã khiến bầy thỏ ngọc ù té chạy.
Hai người nhà tu nhìn nhau mà lắc đầu cười xòa.
Đợi cho đôi tay bay hết hơi cồn, Stephen Đoàn mới bưng cái y bát lên và ăn trái cây chấm muối ớt.
– Rất nhiều người theo Đạo Phật và Tăng sĩ thời nay quá chú trọng việc phổ biến Phật Pháp nên đã gây ra nhiều chuyện dở khóc dở cười.
Nhiều thầy tu ngày nay ham nói hơn ham tu nên mới cho ra đời những “bài nói” Trời ơi Đất hỡi.
Vừa nhai mận, Stephen Đoàn vừa hỏi:
– Tại sao không phải là “thuyết trình” mà phải là “bài nói”?
– Thuyết trình chỉ sử dụng khi nào có giá trị, còn “Bài nói” là để dành cho những buổi giảng dài dòng và không có lợi lạc gì cho việc tu học.
– Anh có thể nói rõ hơn được không?
– Các vị tôn giả thời ấy rất ít khi tổ chức thuyết pháp.
Thường thì khi đi khất thực, nếu gặp chúng sanh hữu Duyên hoặc đang cần cứu cánh về mặt Nghiệp – Quả, họ mới nán lại và khuyên giảng cho nghe.
Nhiều thầy tu có tư tưởng hoằng dương Phật Pháp và e sợ Phật Giáo tuyệt diệt nên đã làm những hành động không đẹp và rất đáng chê trách lẫn lên án.
Không những vậy, còn làm trái di nguyện của Đấng Thế Tôn và đi bôi bác đức tin của anh.
– Nhưng không có…!truyền Đạo thường xuyên thì tín đồ dễ lợt lạt lắm…
Trì Thương làm ấn thủ mà Đấng Thế Tôn thường hay làm mỗi khi kết thúc một bài giảng.
Đương nhiên, một người Linh mục Cơ Đốc Giáo như Stephen Đoàn sao mà hiểu được ký tự này mang hàm nghĩa gì.
Bắt ấn xong, chú chồng hai bàn tay lên nhau theo tư thế mở rồi đặt giữa hai đùi; sau đó nói:
– Những gì do Đức Thích Ca Mâu Ni lưu lại ở thế gian này phải tuyệt diệt hoàn toàn thì khi ấy vị Phật-mới mới đản sanh ra.
Vì theo thuyết nhà Phật do chính Phật Tổ truyền lại, Vũ Trụ không thể nào dung chứa nổi hai vị Phật cùng lúc, cũng như di vật của hai vị Phật cùng lúc.
Bây giờ đã rơi vào cửa số Ba: Hoại; cửa thứ Tư hãy còn lâu lắm mới mở ra, vì vậy chẳng có gì phải lo lắng cả.
– Ủa mà Đức Phật họ Thích hả anh?
– Đức Phật không phải họ Thích, họ của Ngài là Cồ Đàm.
Thích-Ca là tên gọi của dòng tộc Ngài.
Tôi cũng không biết ai là người đã bày ra phong trào đặt Pháp Danh có chữ “Thích” đứng trước nữa.
Nên một số nhà Nho thời xưa mới lầm tưởng Đức Phật họ Thích, rồi cứ thế mặc định viết sách y như vậy.
– Nhưng, danh xưng “Thích Ca Mâu Ni” nghĩa là gì?
– Vì dòng tộc của Ngài đa phần xuất thân từ giai cấp “Khattiya – Chiến sĩ”, nên các Thầy tôi diễn giải rằng: Người đại trí đại huệ của dòng tộc thuộc giai cấp “Chiến sĩ”.
Còn về ý kiến khác, hầu hết cho là “Năng-Nhơn Tịch-Mặc” và “Bậc giác ngộ xuất chúng”.
– À…
– Rất nhiều người thời nay nói mình theo Phật nhưng lại rất hiếm khi đọc Tạng Kinh; đáng buồn thay, họ lại chỉ thích nghe Tạng Luận.
– Cũng như bên tôi thôi, nhiều người không rõ Kinh Tân Ước và Kinh Cựu Ước, phần này xọ phần kia, phần kia lộn sang phần nọ.
– Theo thiển ý của tôi, người theo Phật Giáo mà ác thì còn ác hơn người theo Đạo khác.
Stephen Đoàn ra dấu mời người Tăng sĩ mày tằm mắt phụng nói tiếp.
– Tại vì chúng tôi có một quan niệm: “Vì chúng sanh xuống Địa Ngục cũng cam lòng”, nên chúng tôi sẵn lòng phạm giới để bảo vệ cái Thiện.
– Nói rõ hơn được không?
– Trong một tiền kiếp, Đức Phật là con trai một thương gia, vì chiếc tàu buôn bị hải tặc đột kích mà Ngài đã cầm đao lên giết người.
Ngài giết kẻ ác để bảo vệ người thiện.
Đương nhiên, theo thuyết Nhân – Quả nhà Phật, Ngài đã bị lãnh Nghiệp xấu từ hành động này, nhưng không nặng mấy vì kẻ mà Ngài giết là kẻ ác…!Nói tới đây chắc anh không hiểu đâu phải không?
– Không.
– Tức là nhóm hải tặc đó gieo Nghiệp Xấu trước nên phải nhận lãnh Quả Báo là cái chết thảm khốc và không được mồ yên mả đẹp.
Đức Phật trong kiếp đó là người thi hành việc giáng cái Quả đó xuống đầu họ.
Rồi, vì sát sanh, tới lượt Ngài phải chịu cái Nghiệp Xấu từ hành động Bất Thiện trên, nhưng đã được trừ bớt do đối tượng mà Ngài xuống tay là nhóm người bất hảo…!Cứ thế, cứ thế, người này hại người kia, người kia hại người nọ, người nọ xọ người khác,…!một mắt xích Nghiệp – Quả và Duyên Nợ dài ra hoài hoài, triền miên từ kiếp này sang kiếp khác khó lòng mà dứt ra và trả hết được.
Thành thử ra, còn luân hồi là còn tạo Nghiệp và trầm luân trong bể khổ.
Do đó chúng tôi không luyến tiếc khi bỏ lại mọi thứ mà bước chân vô con đường tu tập hầu tìm một lối thoát cho mình: Đó là Niết Bàn.
Quy luật Nhân – Quả Báo – Ứng nhà Phật không thể nào giải thích bằng mấy buổi thuyết pháp hay đọc hàng ngàn cuốn sách.
Do đó huynh trưởng nhiều khi biết rõ cái Nghiệp nào dẫn đến cái Quả của người này – người kia, nhưng huynh ấy không dám nói ra vì sợ họ sa đà vào việc cúng kiếng giải Nghiệp và bùa ngải hại đời.
– Có lẽ tôi ngồi nghe anh nói thêm vài trăm năm nữa tôi cũng không thể hiểu kinh sách bên anh.
– Tôi cũng vậy thôi.
Khi một đức tin hay chủ nghĩa không nằm trong trái tim và khối óc anh, dầu có “nhồi sọ” cỡ nào anh cũng thoát ra được.
Stephen Đoàn cúi mặt nói bằng giọng buồn buồn:
– Bởi vậy tôi sợ nạn “Đạo gốc” lắm.
Là tự nguyện theo vì mến Chúa hay gia đình bảo sao thì phải nghe vậy.
Nhiều lúc ngó xuống thấy mấy đứa nhỏ ngủ gục, anh Cường và chú Quới còn la chứ tôi để tụi nó “đi” luôn.
– Còn nhớ cái năm tôi còn nhỏ, mỗi lần đọc Kinh buồn ngủ không chịu nổi là tôi lại ôm bắp vế của Thầy hoặc huynh trưởng ngủ ngon ơ.
Tới lượt Phú Lâm cũng vậy, lần nào tới giờ hành trì là nó nằm dài ra đất ngủ khò; ngoài ra nó còn không thích ở trên tịnh thất mà khoái vô xóm núi coi TV nữa, nên đêm nào Châu Lợi cũng cõng nó xuống đó chơi rồi vào rừng hành thiền một mình.
Xui rủi sao, con gái chủ nhà thương huynh trưởng nên mặc dù đã có chồng nhưng vẫn ra cửa đứng đợi hằng đêm, chồng của chị đó ghen lên xém chút nữa là đã xảy ra án mạng.
Sau sự vụ này, huynh trưởng bị mang án oan thầy chùa mà đi gạ vợ người ta; xấp nhỏ trong xóm mỗi lần thấy huynh trưởng lại ca ầm ĩ, “Thầy chùa lửa sửa cầu tiêu…” May nhờ có các cư sĩ Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương,…!hay đi hái thuốc ban đêm đứng ra làm chứng nên mối oan khiên của huynh trưởng mới được hóa giải.
– Lúc đó anh ở đâu?
– Tôi ở tịnh thất làm bài tập về nhà.
– Thầy Lợi mặt mày đẹp đẽ, oai nghi như vầy nên bị theo cũng không có gì là lạ.
Tôi có nét nào coi được đâu mà tự nhiên lại…
– “Lý Duyên Khởi.” Vả chăng, anh chịu nhún nhường người khác nên dễ gây cảm tình với một cô gái đang bị tổn thương như Kiều Xuân.
Với những người đang mắc các vấn đề về tâm lý, họ cần một người sẵn lòng lắng nghe hơn là một người lên giọng dạy đời.
Stephen Đoàn lưu lại ý này để biết mà giúp Kiều Xuân trị bệnh:
– Rồi gia đình đó sao?
– Tan đàn xẻ nghé rồi.
Chỉ dọn về quê ngoại sống.
Cũng may vợ chồng chỉ chưa có con…
Biết rằng Stephen Đoàn đang khát nước nên Trì Thương đi lấy chai trà gạo Đại Hàn 325ml cất ở một lỗ hổng trên vách đá.
Vì nhiệt độ trong Hang Thỏ rất mát mẻ nên chai trà gạo được ướp lạnh một cách tự nhiên.
– Cảm ơn anh nghen, khát nước gần chết rồi…
Uống gần hơn nửa chai, Stephen Đoàn hỏi:
– Sao anh không uống?
– Tôi uống nước lạch là được rồi.
Rồi chợt chàng Tăng sĩ tên Thảo bình phẩm:
– Có đôi lúc chúng ta phải phản lại đức tin để cứu lấy chúng sanh.
– Tại sao vậy?
– Vì còn chúng sanh tốt, đức tin mới gầy dựng lại.
Bao che cho chúng sanh xấu, đức tin sẽ vĩnh viễn trở thành công cụ mị dân ru ngủ.
– “Chúa đã khước từ”.
– Anh cũng thấy đó.
Hễ thầy tu nào bên Phật làm sai đều bị lên án kịch liệt, chẳng có được mống nào bao che hay biện hộ giùm.
Rồi Trì Thương nhìn Stephen Đoàn mà nói:
– Đừng lấy chiêu bài “Chia rẽ Giáo Hội” để lấp liếm cái sai của thầy tu và cái tàn tệ bên Đạo mình.
Thêm nữa, hễ ai đưa hình chứng minh lời họ nói là Sự Thật thì quýnh quáng phán “Ảnh ghép”.
– Bên Đạo Phật rất ít khi nào nói câu trên?
– Cũng có người nói ấy chứ.
Nhưng lập tức bị người khác vô cự lại liền.
– Anh có đặt nặng chuyện…!”giáo chủ” không?
– Chúng tôi theo Phật chứ không quá đặt nặng chuyện theo người Thầy trong đời này của mình.
– Vậy anh nghĩ sao về Đức Đạt Lai Lạt Ma?
– Lời nào ngài nói mà chúng tôi cho là đúng và gây lợi lạc cho chúng sanh, chúng tôi sẽ nghe theo.
Còn lời nào chưa hiểu hay chưa quán sát được chúng tôi sẽ tạm thời gác qua một bên.
– Có ai không tu tập được không?
– Hoàng Kỳ không ngồi thiền lâu được.
Và chúng tôi cũng chẳng chê trách hay cười nhạo.
Thường thì sau giờ Thọ Thực, đệ ấy sẽ đi kinh hành một mình trong rừng sâu núi thẳm thay cho hành thiền.
– Tôi chưa gặp Đoạn Trần bao giờ.
– Thầy ấy thường nhốt mình trong khu rừng kia.
Hiếm khi nào muốn ra ngoài gặp ai.
– Vậy ông ấy ăn cái gì để sống?
– Trái cây.
– Cũng như Thanh Liên?
– Phải.
– Nói khí không phải chứ tôi nhìn Thầy Liên hệt khuôn con gái.
– Vì Trưởng lão bị sanh non mà.
Cơ thể chưa hoàn thiện và cứng cáp mấy mà đã bị lôi ra khỏi bụng mẹ.
Giới tính mới vừa thành hình là nam thôi.
Stephen Đoàn gọi điện báo cho Châu Lợi hay rằng trưa nay Trì Thương đi ăn trưa với mình.
Hai người sẽ tới Châu Đốc ăn uống và nhân đó, chàng Linh mục Vĩnh Long sẽ nhờ chàng Tăng sĩ Hậu Giang đưa mình đi du ngoạn một chuyến.
Người lái taxi vẫn là cậu tài-xế trẻ măng hôm bữa.
Ngoài cái vô-lăng này ra, cậu không còn biết bám vô đâu để kiếm tiền sống hết.
– Anh muốn nghe bài chi cứ nghe.
Tôi không cảm thấy phiền đâu.
Vậy là Stephen Đoàn bèn ngỏ ý muốn nghe bài “Hồng Đào” của nhạc sĩ Đài Phương Trang qua phần trình bày của Hoàng Oanh; một trong những bản nhạc Vàng rất hiếm người biết đến, thành ra cậu tài-xế cười xẽn lẽn nói mình không có băng nào chứa bài này.
– Vậy đổi sang “Tan vỡ” của nhạc sĩ Lam Phương đi.
Ca sĩ nào ca cũng được.
– Ngọc Lan hen?
– Ừm.
– Nếu như tôi nhớ không lầm, người hát tình khúc này đầu tiên là cô Hoàng Oanh.
– Mà nè…
– Dạ?
– Anh có từng đi quân dịch chưa?
– Rồi.
Ba năm.
Làm ở khu Tiếp Liệu.
Nhận thấy ánh mắt mong chờ của Stephen Đoàn và cậu tài-xế, Trì Thương bình thản trình bày một đoạn quá khứ của mình:
– Lúc đó tôi vẫn là một Sa-di, nói cho anh dễ hiểu thì nó gần giống với một Chủng sinh bên anh.
Vào thời gian này, tôi vẫn ăn hai bữa một ngày, và nếu có tiền thì sẽ ăn bữa sáng; do vậy mà cuộc sống quân ngũ của tôi không mấy khó khăn và xa cách mọi người.
Sau khi xuất ngũ, tôi ở lại Sài Gòn một năm, Thầy tôi biểu nếu như tôi động lòng với Hoàng Lan thì sẽ cho phép tôi hoàn tục, còn nếu không thì quay về núi làm Lễ Quy Y.
Nhưng rốt cuộc tôi không động lòng khi gặp lại Hoàng Lan.
Năm ấy nhỏ mới mười bảy tuổi, học trường Quốc tế, đẹp một cách kiêu sa như cái tên của nhỏ vậy.
Cứ hễ mỗi lần tôi tìm gặp nhỏ là nhỏ lại có chuyện phải rời đi, hệt như một trò cút bắt, tôi biết mình với nhỏ hữu Duyên vô Phận nên đã trở về núi sớm hơn dự định vài tháng.
– Anh không về thăm gia đình hay hỏi ý kiến ba – má sao?
– Tôi có về thăm gia đình và thỉnh ý kiến của má.
Má khóc rất nhiều, và nhất mực bắt tôi hoàn tục.
Tôi mới xin với má cho tôi đi tu thử một thời gian, nếu kham không đặng thì sẽ hoàn tục…
Stephen Đoàn nhận thấy ánh mắt của người Tăng sĩ tên Thảo bỗng hoe đỏ.
– Nhắc lại chuyện này, tôi có cảm tưởng mình đã gạt má…!
Cậu tài-xế lên tiếng hỏi:
– Thầy thấy mình với cô Lan gì đó ra sao?
– Tôi với Lan có Duyên Nợ nhưng không có Duyên Phận, có cưỡng cầu cách mấy cũng hóa hư không.
Đã đến chợ Châu Đốc, ba người bèn xuống xe rồi ghé vô một quán cơm tấm Long Xuyên ăn uống.
Chiếc xe của cậu tài-xế gởi ở bãi giữ xe đầu chợ cho chắc ăn.
Đồ ăn thì họ kêu chung món, còn về phần thức uống thì gọi riêng theo sở thích.
Stephen Đoàn cảm khái:
– Tự nhiên tôi nhớ đến bài “Châu Đốc, miền quê yêu” của đôi tác giả Hoàng Trọng – Duy Viêm, hồi mới tập thổi kèn tôi có tìm hợp âm của nó nhưng không kiếm được nên thành ra phải bỏ qua luôn.
Cậu tài-xế cười rộ lên:
– Tôi là người bản xứ mà còn không biết bài này nữa…!Mà, hai ông này Bắc hay Nam?
– Nhạc sĩ Hoàng Trọng là người Bắc; còn Duy Viêm, chắc là nhạc sĩ miền Nam.
Thường thì ông Viêm viết lời và ông Trọng soạn nhạc.
– Hai ổng có bài nào nổi tiếng không Cha?
– Có.
“Bão tình”, cô Khánh Ly ca bài này hay lắm.
Cậu tài-xế bỗng ngỏ lời mời:
– Lát nữa Cha biểu diễn bài “Bão tình” nghen Cha?
– Ừm…!
Tự nhiên Trì Thương nhớ đến cái hồi mình còn là thằng nhỏ Trần Mộc Thảo, chú hay thổi kèn lá góp vui cho đám bạn nghèo cùng xóm; có khi thi đua trâu – đua bò với mấy đứa xóm trên – xóm dưới, báo hại ruộng của bà con bị cày nát hết, bữa đó chú về ăn roi mây thay cơm canh.
Chú sực nhớ ra, cái năm oan nghiệt ấy, để dỗ dành “Cô bé ngày xưa” đang trong cơn bấn loạn vì đi lạc, chú đã thổi cho cô bé nghe bài “Bé, Cây đàn, Ngôi nhà xanh, Đồi cỏ” của nhạc sĩ Phạm Duy mà chú biết đến thông qua giọng ca của Duy Quang: “Chiều chuộng bé thơ, gặp gỡ tình cờ.
Anh đàn cho bé tựa cửa nghe…” Và rồi, nhỏ đã vòi chú hát thêm một bài nữa, vậy là chú ê a ca bài “Đưa bé đến trường” của nhạc sĩ Phạm Duy.
Nhỏ hứa khi nào gặp lại sẽ tặng chú băng nhạc “Thiếu Nhi 1: Ban Tuổi Xanh”…
– Anh Thảo.
Trì Thương ngước mắt nhìn Stephen Đoàn.
– Hình như anh đang có tâm sự?
– Tôi chưa từng yêu ai nên không tài nào hiểu nổi tại sao một người lại có thể si mê và hôn trầm bởi một người…
– Yêu là cứu cánh và cũng là hố sâu tội lỗi.
Tôi là cứu cánh của Kiều Xuân, nhưng Kiều Xuân lại là hố sâu tội lỗi của tôi.
– Anh đâu có yêu cổ đâu mà tội lỗi? Anh chẳng có rung cảm xác thịt hay luyến lưu chi sất, hết thảy mọi huyễn tưởng do anh thêu dệt đều bắt nguồn từ ký ức về người mẹ quá cố mà ra.
– Còn anh?
– Tôi không thể hiểu nổi tại sao cùng một nhân ảnh nhưng Hoàng Lan không thể thương được anh Hai tôi.
– Hai người có hai linh hồn hoàn toàn khác nhau.
Chắc có lẽ Hoàng Lan cần một người trầm lặng và thông thái để dựa dẫm phần hồn, chứ không cần một người cười nói rổn rảng và suy nghĩ không sâu xa như anh Hai anh.
Cái vui ở phần xác chỉ là cảm xúc nhất thời.
Nhưng cái vui ở phần hồn là con đường dẫn ta về với Chúa.
Đó là lý do tại sao tu sĩ bên tôi coi trọng phần hồn và khổ hạnh phần xác, nhưng sự sùng bái quá thể của một vài con Chiên có thể là cây đinh đóng chúng tôi trên Thập Giá ngược…
– Anh sợ sự Kiêu Ngạo sẽ phát sanh nếu như anh được hưởng quá nhiều ơn sủng của bầy Chiên?
– Phải.
Nó nhọn như những cái gai mà Chúa Jesus đã từng đội trên đầu lúc chịu khổ nạn cho thế gian.
Chỉ khác ở chỗ, cái chết của Ngài là biểu tượng hết sức cao đẹp; còn “cái chết” của những kẻ mắc phải sự Kiêu Ngạo là nỗi ô nhục cho Giáo Hội và bầy Chiên.
– Thành ra anh cứ cả nể nhận lời làm giùm người ta hoài? “Phải hạ mình xuống mới nâng được người khác lên” phải không?
– Câu gốc không phải vậy.
Nhưng tôi hiểu ý mà anh muốn trình bày thông qua câu cách ngôn ở trên.
– Anh đã hạ mình xuống.
Và đã bị người ta đạp lên luôn.
Hệt như Cha Joseph – Blanc Cao Nhật Thành.
Stephen Đoàn mím môi thật chặt.
Do không hiểu đầu cua tai nheo chi sất nên cậu tài-xế vội vàng lên tiếng đánh trống lảng.
Cậu giới thiệu rằng gần đây có chỗ bán bánh tằm bì ngon lắm.
Stephen Đoàn gục gặc đầu, ra vẻ đã nghe, rồi nói:
– Tôi đã cài bài hát “Tâm tình hiến dâng” của Linh mục Oanh Sông Lam qua giọng ca của Ngọc Lan.
– Anh đã ở lại với Chúa Jesus như cái cách mà Thánh Stephen đã làm.
– “Tha thứ và Tín thác”.
Từ bàn bên kia, một người thanh niên đang nói chuyện với thằng bạn của mình:
– …!Thì cũng như người đồng tính luyến ái kết hôn với người khác giới thôi.
Có một niềm tin hoang đường rằng sau khi cưới họ sẽ hết “bịnh”.
Hết đâu không thấy chỉ thấy gia đình họ rơi vào cảnh sống không bằng chết: Có người nổi sùng lên đánh đập vợ con, có người lại năm lần bảy lượt tự vẫn, cũng có người suốt ngày mượn rượu giải sầu, lại có trường hợp phát điên luôn.
Sẵn đây, Trì Thương kể cho Stephen Đoàn nghe:
– Trong Phật Giáo, không có đặt nặng chuyện phái tính hay không được ly dị.
Vì đã ăn xong phần cơm của mình nên Trì Thương thuật chuyện cho hai người kia hay:
– Có một câu chuyện thuộc dạng huyền tích trong Phật Giáo như vầy:
Có một người đàn ông phong lưu bay bướm vô tình bắt gặp tôn giả Đại Ca-Chiên-Diên đi khất thực ngang qua nhà bỗng dưng nảy sinh ý muốn có được một cô vợ có nước da đẹp như Ông.
Ý niệm đó vừa phát khởi lên, ông này liền biến thành phái nữ đúng theo sở nguyện.
Vừa bối rối vừa mắc cỡ, ông lẳng lặng bỏ vợ bỏ con trốn nhà đi biệt.
Trên đường bôn tẩu, ông được mai mối cho một người trai xuất thân giàu có và sang trọng.
Nghĩ mình đã mang thân thể này thì thôi cũng đành thuận theo số phận, ông nhậm lời luôn.
Chừng chục năm sau, ông mới gặp lại tôn giả Đại Ca-Chiên-Diên thông qua người bạn mà ông quen biết khi còn là đàn ông, ông hối hận quỳ xuống đảnh lễ rồi dâng vật thực cúng dường.
Vừa mới làm xong, ông trở về thân thể phái nam như cũ.
Không hiểu nghĩ sao, ông xin được xuất gia đi tu.
Sau một đỗi chứng kiến mọi chuyện trong sự bợ ngợ, ông chồng thương gia chạy đến năn nỉ “bà vợ đàn ông” rằng, “Mình đừng có đi tu mà.
Mình là nam hay nữ tôi cũng thương mình hết.
Mình đừng có bỏ tôi và xấp nhỏ mà.” Ông cảm động quá nên đã òa lên khóc, nhưng sau đó vẫn nhất mực đòi đi theo tôn giả Đại Ca-Chiên-Diên…!
Câu chuyện trên được ghi lại trong Kinh Pháp Cú số 43.
Những gì tôi kể trên đây cho anh nghe hoàn toàn dựa trên trí nhớ của tôi, nếu muốn đọc rõ ràng và đầy đủ chi tiết thì xin anh hãy dành chút thời gian tìm đọc bài này.
Stephen Đoàn che mặt mà cười ngặt nghẽo.
Và rồi anh cũng góp một chuyện bên Đạo mình cho anh bạn Tăng sĩ nghe, đó là chuyện “Thánh Phêrô chối Chúa”.
– Tôi theo Đạo Phật mà tới giờ mới biết câu chuyện này.
Thể theo lời ngỏ của Trì Thương, hai người dừng chân ở lưng chừng núi Sam.
Trước lúc ăn tráng miệng với món bánh tằm bì, Stephen Đoàn bị cậu tài-xế đòi thổi harmonica cho nghe bài “Bão tình” của Hoàng Trọng – Duy Viêm.
Anh bẽn lẽn nhận lời.
Tiếng đàn huyền diệu của Stephen Đoàn đã khiến cho cậu tài-xế hết sức bất ngờ.
Cậu lại ngỏ ý được nghe thêm vài bản nhạc nữa, chàng Linh mục vui lòng chiều theo.
Chừng thấy đã gần một giờ trưa, cậu tài-xế mới chịu ngừng mà lái xe đi đổ xăng.
Chỉ còn hai người, Stephen Đoàn day qua bắt chuyện với Trì Thương:
– Như vậy, ông chồng bất đắc dĩ của vị Tỳ-Kheo đó thật lòng yêu ông ấy chứ không phải vì…!say đắm sắc đẹp.
– Có lẽ là vậy.
Đợi cho Stephen Đoàn ăn được vài muỗng bánh tằm, Trì Thương nói tiếp:
– Khi anh yêu ai, anh chỉ nhìn thấy được tâm hồn người đó, và không bao giờ bị vẻ bề ngoài làm lung lay tình cảm mà anh dành cho người đó.
Stephen Đoàn mỉm miệng cười.
– Ăn bánh tằm bì ngon không?
– Ngon.
– Anh dễ nuôi hơn tôi nhiều.
Hồi còn sống với gia đình, tôi kén ăn riết mà ba má tôi phát rầu luôn.
– Đáng ra tôi không dễ nuôi đâu, vì mẹ của tôi sắp chết nên tôi không muốn bỏ qua một lần nào được ăn đồ mẹ nấu.
Vị giác của bà đã không còn nữa, có lần nêm canh chua thì mặn như muối, có bữa kho cá ngọt hơn nồi chè cúng Rằm, cũng có khi ướp thịt rất tanh.
– Anh vô trường Dòng từ năm lớp Tám hả? Trước đó thì anh ở bán trú?
– Sao anh biết hay vậy?
Trì Thương chỉ lắc đầu cười.
Do có hẹn với ông Cha Sở bên Đồng Tháp nên Stephen Đoàn từ giã người Tăng sĩ tên Thảo mà khăn gói lên đường.
Đi cùng với anh vẫn là cậu tài-xế núi Ông Tượng.
Nghe vậy, Trì Thương làm ấn thủ cầu phúc cho anh bạn tu sĩ, rồi xin phép lui về rừng sâu thiền định.
Trong lúc chờ cậu tài-xế quay lại, Stephen Đoàn bật bản nhạc “Giọt lệ buồn” do tam ca Minh Phúc – Billy Shane – Ngọc Lan trình bày; ca – nhạc sĩ Minh Phúc đặt lời Việt từ bài hát “Rien quune larme” của đôi tác giả Pháp Mike Brant – Michel Jourdan.
…
Hỷ Tín nhớ lại mình đã cùng đồng bọn đẩy không biết bao nhiêu người vào đường cùng chỉ để nhận chút đỉnh tiền còm từ chủ thuê.
Có lần cậu đã xóa bỏ một trang Facebook bán hàng của đôi vợ chồng nọ rồi cùng đồng bọn ngụy tạo một trang giả thay thế trang cũ, khiến cho gia đình đó mắc nợ nần trầm trọng do đồng bọn của cậu đứng ra lãnh tiền của khách hàng nhưng không giao đồ như đã hẹn, hậu quả là con cái của hai người phải nghỉ học một năm và tới giờ họ vẫn còn thiếu nợ khắp nơi.
Nhớ lại chuyện hại người năm bữa, cậu và đồng bọn còn hả hê và chửi đôi vợ chồng ấy ngu vì dám động vô chủ thuê.
Mà đôi vợ chồng ấy có nói nặng – nói nhẹ chi đâu, chỉ là phát biểu phong long như vầy, “Sao mấy thằng ở ác sống lâu quá vậy?” Ấy thế mà cậu và đồng bọn suy diễn thành họ đang trù ẻo chủ thuê nên đã ra tay triệt đường sống của gia đình họ.
Có lẽ “Thiên – Địa bất dung gian” nên hai thằng lấy tiền nhiều nhất trong vụ này bị bệnh giang mai nặng, và giờ tới lượt cậu bị chính đồng bọn đập bể đầu.
Trì Thương nhìn Sa-di mà Trưởng lão Như Phong ký thác:
– Thay vì ngồi đó khóc lóc, đi trả nợ cho họ đi.
Hỷ Tín ra dấu mình không có tiền.
– Không có tiền hả? Thì lấy đất cấn nợ.
Hỷ Tín ra dấu trả lời rằng đất đó không phải của mình nên không dám rớ vô.
Ngay trong ngày hôm sau, thím Tám Đề liền liên lạc với một vị luật sư đang cộng tác với một tổ hợp Luật trên Sài Gòn, để nhờ anh ta đứng ra sang tên mảnh đất hương hỏa của nhà mình qua tay đôi vợ chồng ấy.
Lý do mà thím phải cậy nhờ một người ở tuốt tận Sài Gòn là vì người này hổng có lấy tiền, lại chịu mở hầu bao ra trả hết mọi phí tổn về xe cộ, giấy tờ, thủ tục hành chánh,…!
…
Y hẹn, vào khoảng mười một giờ rưỡi, một người đàn ông áng chừng trung niên tướng tá phốp pháp, mặt mày coi hệt như kép hề trong mấy tuồng cải lương xưa, tắt máy – xuống xe rồi đi xăm xăm một hơi vô nhà trên của tịnh thất.
– Có ai ở nhà hôn?
Tạ Khắc Xương mặt ủ mày chau.
Anh đành thất lễ mà chắp tay cúi chào bức tường trước mặt:
– Nam-Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.
– Sadhu.
Một người Tỳ-Kheo có gương mặt đẹp như tượng tạc đứng ở cửa hông dẫn xuống nhà sau mà chắp tay chào Tạ Khắc Xương.
– Bạch Thầy, ai là thân chủ của tôi vậy?
– Dạ, gia đình thân chủ của thí chủ có việc nên đã xuống núi rồi.
Mời thí chủ xuống nhà sau ăn bánh – uống nước trà trong lúc đợi họ.
– Thầy là người ngoại quốc thiệt hả? Hèn gì mặt mày coi ngộ quá!
Thủy Diệu cười hiền:
– Phải, ba mẹ tôi đều gốc ở Địa Trung Hải, sau dời sang Anh Quốc sanh sống.
Nói cụ thể hơn ba tôi là người Hy Lạp, còn mẹ tôi người Ý Đại Lợi.
– Toàn quốc gia có dân số đẹp nhiều hơn xấu biểu sao khuôn mặt Thầy không đẹp dữ thần vậy!
Thủy Diệu chỉ biết cười giả lả cho qua chuyện.
Ra đến sau hè, Tạ Khắc Xương ướm hỏi gia cảnh của thân chủ tương lai để anh ta còn biết đường liệu định và ăn nói sao cho phù hợp.
Thủy Diệu thuật sơ đôi nét.
Nghe xong, Tạ Khắc Xương thở dài thườn thượt, rồi nói thòng rằng nếu sau này đôi vợ chồng ấy có tìm cách tống tiền thì phải tự liệu bề mà sắp xếp, anh chỉ lo được thủ tục hành chánh chớ không thể phòng đặng lòng người.
– Xin lỗi, nhưng mà ở đây Wi-Fi có mạnh không?
– Mạnh.
– Xin phép cho tôi được biết mật khẩu.
– Không có mật khẩu.
– À…
Tạ Khắc Xương liền mở Laptop soạn thảo hồ sơ bồi thường thiệt hại nhằm bãi nại cho con trai của thân chủ.
Ban đầu anh cứ tưởng là bán đất – bán đai hay tài sản thừa kế chi đây nên muốn mượn mình sang tên giùm; ai ngờ đâu miếng đất này là tài sản bồi thường thiệt hại cho bên kia, nhằm để xin đôi vợ chồng ấy không khiếu kiện con trai của thím Tám Đề.
Cũng bởi cái tánh giấu giếm này mà anh phải tốn công ngồi soạn lại hồ sơ từ đầu.
Ngồi đánh máy được đâu nửa tiếng, kế Thủy Diệu bưng mâm trà – bánh lên mời chàng luật sư họ Tạ.
Đây là bánh bò ăn với đường thốt nốt; nếu cảm thấy ngọt miệng thì đã có trái điều ăn giải vị.
– Cậu này mà bị đưa ra tòa chắc…!
– Phải.
Hai người anh còn kham nổi, đằng này gần cả ngàn người.
– Trời ơi! Thiếu thốn gì mà đi gây Nghiệp dữ vậy?
– Thua độ đá banh.
– Nó đầu quân cho Juventus, MU hay Chelsea?
– Nếu vẫn còn chơi nữa, chắc cẩu sẽ được tuyển thẳng vô Juventus.
– Thầy làm tôi nhớ cái hài “Nam-Mô, Nam-Mô vái Manchester thắng Juventus”.
Thủy Diệu vừa lắc, lắc đầu vừa bật cười khúc khích.
Rồi nói:
– Hồi xưa tôi cũng thường chơi cá ngựa bên Anh Quốc.
Thường thì thắng nhiều hơn thua.
– Vui không?
– Lúc đó thì rất vui, bây giờ tự nhiên có cảm giác đoạn ký ức ấy thuộc về ai khác chứ không phải là mình.
Đang nói chuyện tới đó, hai người nhìn thấy hai mẹ con thím Tám Đề, Phá Vân và Châu Lợi sửa soạn bước xuống xe.
Người tài-xế taxi trẻ măng chưng hửng ngó Phá Vân, rồi e dè hỏi mình có được trả tiền cước không.
Châu Lợi cười hiền mà đáp:
– Phải trả chớ.
Xe của cậu mà.
Ai lái giùm thì cũng tính như cậu lái thôi.
– Thầy Vân mà ra làm tài-xế chắc con bỏ nghề quá.
Hỷ Tín chắp tay mà cúi đầu thưa người luật sư Cao Đài.
– Cẩu không nói chuyện được à?
– E rằng là do…!có vấn đề, chứ không thể nào tự nhiên mà thành ra như vầy được.
– Anh bạn Mục sư của tôi thì dính một vụ bên Công Giáo, giờ tới tôi bên này…
Thím Tám Đề tặc lưỡi rồi nói:
– Hèn gì Mục sư Tân cử thầy xuống đây thay thế…
Để cho khỏi gặp chuyện lôi thôi về sau, cũng như để giấy tờ được minh chính, thím Tám Đề mời mọi người về Đồng Tháp một chuyến.
Ai nấy đều vui lòng ưng thuận.
Thời may chiếc xe của Tạ Khắc Xương có năm chỗ nên những người cần đi thoải mái ngồi.
Phá Vân bữa nay mắc ở lại sửa xe đò cho một hãng xe tư nhân ở Anh Vũ Sơn nên không thể lái giùm được; có chú đi cùng thì mọi người đỡ lo hơn.
Tạ Khắc Xương mở bản nhạc “Tháp Mười – Quê hương tôi” của nhạc sĩ Đồng Tháp – Tô Thanh Tùng và do Hương Lan trình bày lên nghe, trong lúc đợi mọi người cài xong dây đai an toàn.
“Ai có qua miền đồng bằng sông Cửu Long
Xin ghé lại quê hương tôi, quê hương Đồng Tháp Mười
Quê hương tôi có những con người chất phác
Biết thương người, biết chiều chuộng khách
Biết chiều chuộng khách như chiều người yêu…”
Đã đến “xứ sen thơm” tươi đẹp, Tạ Khắc Xương bèn hỏi mẹ con thím Tám Đề rằng anh nên gởi xe ở đâu.
Thím Tám Đề liền đáp ở nhà mình, đất ở đó rộng thiếu cha gì chỗ đậu.
Vốn đã quen sáo ngữ chốn thị thành nên chàng luật sư được phen cười sặc sụa.
Mảnh đất hương hỏa ấy nằm đâu mặt với bờ ruộng ngút ngàn xanh.
Đường vẫn chưa được trải nhựa hay lót đan nên sình lầy dữ lắm, chẳng mấy chốc mà chiếc xe Lexus trắng tuyết đã trở thành con chó đốm thứ 102.
– Thím ơi…!Cây cầu nhà thím chịu đựng được sức nặng của cái xe này không dợ?
– Dư xăng con.
– Sao con thấy “hiu” quá?
Thời may chiếc xe sang trọng qua cầu bình yên vô sự.
Thím Tám được dịp khoe rằng năm nào nhà cũng bồi đắp mấy cái mống cầu nên cái cầu chắc dữ lắm, voi đi qua còn chưa sập chớ đừng nói chi là mấy cái xe như vầy.
Chàng luật sư Cao Đài nghĩ bụng, nếu lỡ nó có rớt xuống dưới thì cười huề luôn chớ biết bắt đền sao giờ.
Đôi vợ chồng ấy đang ngồi nói chuyện với chú Tám Đề.
Sắc mặt nhìn dễ ưa hết sức.
Người nào người nấy oán thán hỏi rằng gia đình họ đã làm nên tội tình gì mà phải đẩy gia đình họ vô chỗ chết.
Chú chỉ biết nín thinh chịu trận chứ không biết lấy lời chi đáp lại.
Luật sư Xương và Trì Thương hết lời khuyên giải, đôi vợ chồng ấy mới nguôi ngoai được một chút, rồi thì vợ chồng bảo nhau coi lại hồ sơ sang nhượng đất đai lẹ lẹ để còn về nhà lo cho con cái.
– Ủa? Sao lại có giấy này? – Người chồng trợn mắt nhìn luật sư Xương.
– Dạ, bên phía thân chủ của tôi rất mong vợ chồng anh sẽ chấp nhận khoản bồi thường thiệt hại này mà không đi khiếu kiện cậu Nguyễn Thành Tín.
Người vợ nắm lấy tay chồng mà lay lấy lay để:
– Thôi mà mình, nhiêu đây cũng hời quá rồi, còn làm khó làm dễ người ta chi nữa.
– Để cho tôi đọc kỹ lại lần nữa rồi hai mình hẵng ký.
Trong lúc chờ người chồng kiểm tra nội dung, thím Tám Đề mời hai vị Tăng sĩ Theravada xuống nhà sau ăn vịt nướng kèm xôi hấp lá sen; còn hơn bốn mươi lăm phút nữa là hết giờ Thọ Thực nên hai vị được ưu tiên dùng bữa trước.
Mới vừa đọc Kinh xong, chưa kịp cầm đũa lên ăn, hai huynh đệ đã nghe chú Tám nói:
– Hai Thầy ở lại ăn cơm với thằng Tín nghen? Tôi với bả phải đưa cô – cậu này tới coi miếng đất đó…
Châu Lợi và Trì Thương chắp tay mà cúi đầu từ giã chú Tám.
Hỷ Tín kéo ghế ngồi xuống rồi chắp tay mà đọc một câu Kinh tán thán danh xưng của Phật – Pháp – Tăng trong đầu.
Trì Thương hỏi:
– Ai đã xui cậu uống cái thứ đó khiến cho bị câm vậy?
Hỷ Tín không trả lời.
– Cậu coi người này như huynh đệ, người này coi cậu như cỏ rác, mắc nợ mắc nần cỡ nào mà phải lao tâm khổ tứ giấu giùm vậy?
Hỷ Tín vẫn không trả lời.
Châu Lợi xen vào hỏi:
– Quyết định đi tu sám hối hay là đi luôn?
Hỷ Tín giơ hai ngón tay, ám chỉ vế số Hai.
– Trả nợ ân tình kiểu này chỉ khiến gây thêm nhiều án oan nữa.
Người biết không tố giác, người có tội lại quanh co chối.
– Thời hạn thử thách là ba năm.
Hết kỳ rồi muốn đi tu luôn cũng không trễ.
Hỷ Tín chắp tay cúi đầu thưa hai người Thầy tương lai.
Đêm đó, hai vị Tăng sĩ nhờ một người dân trong vùng đưa mình đi ngao du sơn thủy bằng đường sông nước.
Chiếc ghe bầu có bề ngang hai mét, được thắp sáng bằng hai cái đèn măng-xông cổ trên nơi trần “nhà”, bốn bề ngổn ngang dụng cụ đóng đáy và sinh hoạt thường nhật.
Khi họ đến nơi, cuốn băng cát-sét đang phát tới bản “Người về đêm mưa” do Nhật Trường ca, đây là một sáng tác của nhạc sĩ Ngân Giang.
Còn vợ chồng ông Tư Thí đang ngồi ăn cơm tối với tô canh chua bông sua đũa nấu với tép mòng, giá, đậu bắp, khóm, kèo nèo, cà chua và ngò gai, tộ cá bống kho tiêu và dĩa hột vịt xào đậu rồng.
– Ăn cơm, xuống ăn cơm mấy Thầy.
– Ông Tư Thí lật đật nhỏm người lên mời.
Châu Lợi quỳ xuống mà chắp tay thưa:
– Chúng tôi chỉ ăn một bữa mỗi ngày, thưa thí chủ.
Huynh đệ tôi thành thật cảm ơn tấm lòng mà vợ chồng các vị đã dành tặng cho.
– Đợi ăn hết bữa cơm rồi mình đi nghen?
– Dạ.
Kế đó, hai huynh đệ mới ra mạn ghe ngồi, tức là ở phía mũi ghe.
Bữa nay trăng chưa Rằm mà đã sáng rực, một mảnh Thượng Huyền nằm đung đưa theo từng lớp sóng mây màu khói mỏng trên thinh không gió lộng, tiếng ve sầu hãy còn kêu râm ran quanh đây.
Những nhánh bần trổ bông trắng ngần sà xuống sát mặt nước, vừa hay chiếc ghe bầu đậu gần bụi bần nên hai huynh đệ cách tuổi nhau như cha – con được thưởng lãm hương thơm man mát, bình dị của thứ cây giữ bờ này.
– Đệ có Thiên Nhãn, đệ thấy sao về quyết định của Hỷ Tín?
– Lần này là Thật.
Nhưng vẫn phải thực hành theo quy tắc mà Đấng Thế Tôn đặt ra: Đầu tiên phải được sự cho phép của cả cha lẫn mẹ, tiếp nữa là phải trả qua ba năm tu học rồi mới chính thức làm Tỳ-Kheo.
– Tại sao Hoàng Kỳ và Thủy Diệu lại có thể xuất gia được?
– Bởi vì “hoa Ưu Đàm” đã nở.
Ăn xong bữa cơm, chú Tư Thí giựt “cần số” lên, rồi để mặc chiếc ghe bầu thung dung rẽ nước.
Đôi mái chèo nằm buồn hiu ở mũi ghe.
Tuy rằng đang buổi tân kỳ nhưng đèn đường vẫn hết sức hiếm hoi ở hai bên bờ sông.
Nhà dân san sát nhau, lấn ra lòng sông khá nhiều nên con sông trở nên chật hẹp và khó di chuyển.
Thỉnh thoảng, đôi vợ chồng và hai Tăng sĩ lại thấy cảnh lui cui rửa chén trên phần nhà cất thêm của ai đó.
Đến chân cầu “từ tâm”, chiếc ghe chở thêm con trai của vợ chồng chú Tư Thí.
Anh ta là thầy giáo dạy Toán cho một ngôi trường Cấp Ba gần đây; vì lương tháng không đủ sống nên phải đi dạy kèm và đi giao thủy sản phụ ba má.
Sau khi thưa hỏi hai Tăng sĩ và đấng sinh thành, Nguyễn Từ Chương mới ngồi xuống ăn cơm.
Anh ta ngồi khoanh chân, lưng dựa sát vách ghe, cái đèn măng-xông đã được dời sang chỗ khác để anh ta không bị đụng đầu và chói mắt.
– Má có chiên sườn đó…
Nguyễn Từ Chương cau mày trách:
– Sao ba má hổng ăn đi mà chừa con làm chi?
Thím Tư Thí khoát khoát tay:
– Ui, tao với ba mày già rồi răng cỏ yếu lắm, nhai thịt đau hàm lắm.
– Nhai thịt không nổi mà lừa xương cá nổi!
Đôi vợ chồng chỉ biết cười giả lả cho qua chuyện.
– Có tiền mua dầu không?
Chú Tư Thí gật đầu liền:
– Còn.
– Thôi con hùn vô hai trăm.
Độ rày xăng – dầu tăng giá, ba má đóng đáy suốt ngày dư được mấy đồng đâu mà còn tiền đổ.
Chú Tư Thí cự nự:
– Nghe đâu giảm rồi mà…
– Giảm mà vật giá có giảm theo đâu.
Ăn vừa xong bữa cơm, trăng cũng đã ngả sang phía Nam.
Lúc này gió hiu hiu thổi, đưa hương mạ non dìu dịu từ cánh đồng gần đó ùa tràn vào chiếc ghe bầu bé mọn.
Trên trời sao đặc rật, muốn tìm một khoảng trống thật khó khăn.
Vài tiếng cú đêm reo lên buồn thảm nơi những ngọn cây mù u và sầu đâu mọc ven con lộ vắng tanh.
Những ngôi nhà mọc chồm ra mé sông chỉ còn vài căn sáng đèn, có căn đèn không sáng nhưng vẫn có tiếng người rủ rỉ rù rì với nhau hay âm thanh phát ra từ cái truyền hình, điện thoại di động và một số thiết bị điện tử khác.
– Có ai trong hai Thầy biết chơi cờ tướng không?
Trì Thương nhận lời.
Đánh ván nào, Từ Chương thua Trì Thương tới đó.
Nước đi của người Tăng sĩ ấy vô cùng khó đoán và rất dễ khiến đối thủ rơi vào cái bẫy ỷ y, tức là hễ đối thủ của chú cho rằng chú đi sai nước cờ thì y như rằng chỉ sau vài bước nữa đối thủ của chú sẽ bị chú chiếu Tướng hay mất đi một quân cờ quan trọng.
Con trai của chú thím tức mình thách Trì Thương chơi thêm ván nữa.
Và lần này, Từ Chương vẫn đại bại như cũ.
– Thầy có tham gia đội tuyển nào không?
– Không.
– Chơi giỏi quá đi mất.
Tức ơi là tức.
– Tại tức nên mới thua đó.
Mất không luyến tiếc, bị dồn vào đường cùng không rối trí, thì sẽ dễ chuyển bại thành thắng hơn.
– Vậy để tôi bình tâm lại rồi mình đánh ván nữa nghen?
– Sadhu.
Cái máy cát-sét đang phát tới bài “Tiếng hờn trong gió” của nhạc sĩ Văn Thanh và do Chế Linh ca.
Đang thua mà nghe ca khúc này càng khiến Từ Chương buồn thúi ruột gan hơn.
Anh ta rầu rĩ mà năn nỉ cha già dấu yêu làm ơn làm phước tắt nhạc.
– Giờ mày muốn “Xuất quân” của Phạm Duy phải không?
– Không.
Um sùm.
Người ta mắng vốn chết luôn.
…
Trì Thương ngẩn người nhìn hộp bánh Chocopie và phong kẹo “M&M” một đỗi.
Lời nhắn trên đó càng khiến chú bần thần: “Em gởi quà sinh nhật cho anh trước.” Hoàng Lan nhớ như in những gì mà chú đã tâm sự năm đó, về niềm ước ao có những món đồ ngọt kể trên đặng ăn cho đã thèm.
– Mấy đứa muốn ăn không?
Mấy đứa nhỏ giao thơ mừng rơn nhảy cẫng lên.
Trì Thương tùy nghi để xấp nhỏ chia phần bánh trái.
Về phần mình, chú ráng hết sức hồi tưởng coi mình có lỡ miệng hứa hẹn chi không để sự việc thành ra nông nỗi này; không có gì hết, tất cả chỉ là mộng tưởng của Hoàng Lan mà thôi.
– Tôi muốn anh tìm giúp tôi một bài hát nào có thể…
– “Lời cuối” do Ngọc Lan ca, một sáng tác của nhạc sĩ Từ Công Phụng.
– Cho tôi coi phần lời cái.
Đôi lông mày của người Tăng sĩ tên Thảo thoáng nhíu mày.
Chú khoát tay từ chối gởi cho Hoàng Lan.
Bữa nay Stephen Đoàn theo chân nhóm Tăng sĩ về Cà Mau dự đám giỗ má của Châu Lợi, tức cụ bà Lê Thị Mỹ Hà.
Để cảm ơn Phá Vân đã sửa xe cho mình, ông Tư Son xin chở nguyên đoàn xuống đó mà không cần chi bất cứ khoản tiền nào.
Theo sự sắp xếp ban đầu thì Stephen Đoàn ra băng trước ngồi với ông tài-xế, băng kế là Châu Lợi và Trì Thương, băng tiếp nữa là Phú Lâm, Phá Vân và Thanh Liên, còn băng chót là Đoạn Trần, Thủy Diệu và Hoàng Kỳ.
Do Stephen Đoàn không mặc áo Dòng và khoác áo gió cao tận cổ nên ông Tư Son tưởng lầm rằng chàng là Phật tử, tới chừng anh lấy sợi dây chuyền Thánh giá ra cho ông coi ông mới biết mà rối rít xin lỗi.
– Ngồi được không Raymond? – Đoạn Trần lên tiếng hỏi Hoàng Kỳ.
– Hơi chật xíu.
– Trời ơi Thầy cao gì mà cao dữ vậy?
Châu Lợi biểu hai ông thần cao kều Thủy Diệu và Hoàng Kỳ lên chỗ của mình và nhị sư đệ ngồi.
Thủy Diệu cao gần mét chín, còn Hoàng Kỳ vượt qua mức hai mét, nên hai người đi đâu cũng gây sự chú ý và kiếm chỗ ngồi rất khó khăn.
Cũng may chiếc xe này là Toyota – Hiace mười ba chỗ nên Hoàng Kỳ và Thủy Diệu lên băng thứ ba ngồi, vị trí này có khoảng trống khá rộng nên hai người mặc sức duỗi chân.
Băng thứ nhì thì để cho Thanh Liên ngồi.
Băng thứ tư là của Phú Lâm, Phá Vân và Đoạn Trần.
Còn băng sau rốt là của Trì Thương và Châu Lợi.
Hoàng Kỳ sung sướng reo lên:
– Lâu lắm rồi mới được ngồi xe mà thoải mái như vầy.
Trước giờ toàn ngồi bó gối như cá mòi đóng hộp.
Thanh Liên bật cười nhắc nhở:
– Lát tới trạm dừng phải đổi chỗ cho Thủy Diệu đó.
– Rồi, biết rồi.
Stephen Đoàn đã yên vị ở băng đầu tiên.
Đáng ra Phá Vân lên ngồi băng này để dễ bề hỗ trợ cho ông Tư Son, nhưng anh ta biểu anh chưa từng xuống Cà Mau chơi thì nên ngồi ở đó đặng ngắm phong cảnh cho rõ hơn.
Phá Vân nói vọng lên:
– Xe dầu đổ dầu, xe xăng đổ xăng.
Nếu đổ lộn thì hãy mau hút hết nhiên liệu đó ra, đừng quýnh lên mà cho nổ máy vì làm như vậy sẽ khiến cho chiếc xe bị chết luôn.
Sau đó về súc – xả lại kỹ lưỡng, nhớ phơi khô đàng hoàng rồi mới tiếp nhiên liệu.
– Dạ…!Nhờ có Thầy mà chiếc xe của tôi mới được cứu.
Cái thằng ăn hại nhà tôi đổ lộn có một cái mà chút xíu nữa đi bán lúa giống.
– Nếu sợ bị lộn thì nên đề ở nắp bình xăng tên loại nhiên liệu mà xe đang xài.
– Chí lý!
Vẫn như lần trước, Trì Thương biểu Stephen Đoàn và ông Tư Son muốn nghe cái gì thì cứ nghe, đừng sợ làm phiền lòng huynh đệ của chú.
Vừa cho đĩa nhạc vào radio, ông Tư Son vừa hỏi:
– Sao tôi thấy mấy Thầy đắp áo cà-sa ngược?
Thanh Liên nhận phần trả lời:
– Để nói lên rằng chúng tôi không theo Giáo hội, tổ chức hay đoàn thể nào hết.
Chỉ trừ khi nào tham dự những cuộc gặp gỡ lớn trong Phật Giáo, chúng tôi mới mặc đúng kiểu mà kinh điển quy định.
– Hèn chi…
Đoạn Trần cười buồn mà biểu:
– Không biết tôn giả Đại Ca-Diếp và A-Nậu-Lâu-Đà mà sanh ra trong thời này thì sao há? Hai Ông tu tập nơi hẻo lánh, lấy rừng làm tịnh thất, lấy núi làm cổng rào, lấy bầu trời làm nóc nhà, lấy cây trái làm thức ăn lót lòng, lấy sông – suối – ao – hồ làm nước uống…
Phú Lâm trình bày:
– Không hiểu với đôi mắt mù lòa, tôn giả A-Na-Luật đã sống trong rừng núi một mình ra sao.
Hoàng Kỳ cười:
– Vậy mà Ông lại có Thiên Nhãn.
Thanh Liên tiếp:
– Bất cứ ai cũng có thể có Thiên Nhãn, nhưng đa phần không thể giữ được Tâm Thiện khi sở hữu nó, hầu hết đều biến thành Đề-Bà-Đạt-Đa.
Trì Thương gật gù:
– Tất-Đạt-Đa hay Đề-Bà-Đạt-Đa là ở mình, đừng đổ thừa ngoại cảnh.
Ông Tư Son cười khúc khích:
– Nhưng phần đông thầy tu ở cái xứ này đi theo Đề-Bà-Đạt-Đa chứ hổng có đi theo Tất-Đạt-Đa.
Thông qua kiếng chiếu hậu, ông tài-xế và chàng tu sĩ Công Giáo thấy được sắc diện bình thản và an nhiên của nhóm Tăng sĩ Theravada.
Ông tài-xế bẹo gan hỏi:
– Sao mấy Thầy hổng giận?
Thanh Liên đáp:
– Chúng tôi tự xét thấy mình không phải như vậy thì mắc gì phải để bụng hay nổi xung?
Châu Lợi bổ sung:
– Thường thì “Có tật mới hay giựt mình”.
Không biết nhớ tới ai mà ông Tư Son phá lên cười sằng sặc, rồi vừa quẹt nước mắt vừa điều khiển bánh lái.
Sau một hồi “thử máy”, Stephen Đoàn chọn bài “Tình nghèo” do Ngọc Lan ca; nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt theo giai điệu của bài hát Hy Lạp “Ta Pedia tou Pireá (The Children of Pireá)” của nhạc sĩ Manoz Hatdjidakis.
Ông Tư Son tấm tắc khen:
– Nghe vui tai thiệt.
Hoàng Kỳ bồi hồi kể:
– Thời tôi còn đi học, bài hát này thịnh hành lắm.
Rồi người Tăng sĩ đen thui ấy lẩm nhẩm hát vài câu trong bài “Never on a Sunday” của tác giả Billy Towne, nhạc sĩ này đặt lại lời Anh từ ca khúc Hy Lạp trên.
Thủy Diệu cũng bùi ngùi lây:
– Không dễ gì dứt bỏ quá khứ há Raymond?
– Phải.
Stephen Đoàn thấy bài “Búp-bê bằng sứ” do Ngọc Lan ca nên bấm sang nghe.
Theo như lời Xuân nói thì nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ tình khúc “Une poupeé de porcelaine” của nhóm tác giả Daniel Vangarde – Claude Carrère – Jean Schmitt – Jean-Claude Petit.
Đây là nhạc chuông điện thoại của Xuân.
Có lẽ làm búp-bê còn hơn làm một cô gái đau khổ trăm bề.
Châu Lợi nói:
– Có một số người hay đem một bức ảnh chụp một nhà sư Tây Tạng và khăng khăng cho rằng đây là chân dung của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đấng Thế Tôn đản sanh ở Nepal, trước đây vùng này thuộc Ấn Độ cổ, thành ra mức độ khuôn mặt Ngài giống Ấn Độ cao hơn Tây Tạng rất nhiều.
Tôi không hiểu dựa vào đâu họ lại cho rằng một người đàn ông có đường nét rặt khuôn Tây Tạng lại là Ngài được.
Trì Thương tiếp:
– Vả chăng, có thuyết bên Ấn Độ Giáo cho rằng Đấng Thế Tôn là hóa thân của Chúa Vishnu.
Nếu như Ngài không có nét giống Ngài Narayan, một vị Thần Tối Cao của Ấn Độ cổ, thì làm sao lại có thuyết trên được.
Stephen Đoàn lên tiếng:
– Bên tôi cũng có nhiều người đưa hình này – hình kia về Đức Chúa Jesus, nhưng chưa có tấm nào và thuyết nào đủ cho tôi tin tưởng hết.
Rồi chàng Linh mục ướm hỏi:
– Mấy Thầy có biết tại sao dân Ấn lại thờ bò không?
Người trả lời là Phú Lâm:
– Bò thần Nandi là thú cỡi của Chúa Shiva, thành ra đại đa số dân Ấn rất tôn thờ con bò.
Ngoài nhiệm vụ là thú cỡi, mỗi bận vợ chồng Chúa Shiva – Nữ Thần Parvati hục hặc lẫn nhau, ổng lại kiếm chước dàn hòa cho hai vị ấy; có lần còn khăn gói đi kiếm bà chủ về cho ông chủ nữa.
Những lúc cần kíp, ông có thể biến thành hình người hoặc con vật theo ý muốn của bản thân hoặc vợ chồng chủ nhân.
– Mèn đét ơi…!Bò mà còn dễ thương hơn mấy con mẹ hàng xóm, mỗi bận vợ chồng tôi gây lộn, tụi nó còn xúm lại bơm thêm cho cháy nhà luôn.
Phú Lâm gật gù:
– Thành thử ra, nhiều người giận vì bị ví với con bò, chớ tôi thấy con bò dễ thương mà.
Stephen Đoàn lại hỏi:
– Trong Ấn Độ Giáo, có tích nào lạ kỳ không Thầy Lâm?
– Có, mà nói ra ngại lắm.
Được sự cho phép của hai vị Trưởng lão, Phú Lâm mới tiếp:
– Có một tích truyện dân gian nói rằng Chúa Vishnu và Chúa Shiva có con với nhau, lúc đó Ngài Narayan biến ra một hóa thân hình nữ có tên là Mohini, và Ngài Mahadev biến ra một hóa thân vẫn giữ hình nam có tên là Kameshwara.
Và người con này là Chiến Thần Ayyappa giúp thế giới tiêu diệt quỷ dữ.
Nguyên nhân thành hình chuyện này bắt nguồn từ lời giao kèo của con quỷ cái với Chúa Brahma: Sau một quá trình thiền định và tụng niệm danh hiệu của Ngài Phạm Thiên, bà ta được ban cho một ân điển.
Song những sở nguyện mà bà ta trình bày với Ngài đều bị Ngài từ chối vì nó bất chánh và đầy dẫy ác ý với thế giới.
Cuối cùng, bà ta xin được trường sinh, và chỉ có thể bị tiêu diệt bởi đứa con chung của Ngài Vishnu và Ngài Shiva; Ngài Phạm Thiên giơ bàn tay lên xác nhận ban cho.
Bà ta đinh ninh hai Ngài là đàn ông thì…!sao mà có con chung được nên hả hê lắm.
Những ngày tháng tiếp theo bà ta cùng bầy thuộc hạ gây họa cho nhân gian và cõi Trời.
Nhưng rồi mưu gian không duy trì được lâu…
Theo một dị bản, về sau, nhờ Thần Ayyappa cải hóa mà nữ Quỷ Mahishi đã trở thành Nữ Thần Leela.
Bà nguyện được làm vợ của Thần, nhưng không được Thần chấp thuận.
Thần giao kèo rằng chỉ khi nào không còn một tín đồ viếng thăm và cầu nguyện dưới danh hiệu của mình, lúc đó Ngài mới đồng ý cưới Bà.
Hiện thời, theo niềm tin của một số thuyết Ấn Độ Giáo, Bà vẫn còn chờ Thần ở đền Mallikapuram.
Đặc biệt, ngôi đền này nghiêm cấm phái nữ bước vô; có người cho rằng vì Thần sống đời độc thân, lại có người nghĩ Thần có xu hướng giống như Cha mình nên muốn tu hành khổ hạnh.
Stephen Đoàn bật cười khanh khách, rồi gãi đầu đỏ mặt ngượng ngập.
Đã tới Kiên Giang, đồng hồ đã điểm hơn chín giờ rưỡi nên ông Tư Son bèn mời nhóm Tăng sĩ và chàng Linh mục tìm quán nào đó ăn cơm.
Sau một lúc tra cứu trên mạng không ra, ông Tư Son chọn đại một cái quán lưa thưa khách để mọi người vô ăn.
Sự xuất hiện của nhóm Tăng sĩ đã làm thực khách lẫn chủ quán ngạc nhiên, nhưng ai nấy chỉ đưa mắt ngó mà không nói năng gì.
– Kỳ, Diệu.
Nghe Thanh Liên gọi, hai Tăng sĩ ngoại quốc đồng thanh dạ một tiếng.
– Ăn cái gì được thì cứ kêu.
Chữ nào không rõ nghĩa thì biểu Trì Thương dịch giùm.
Hoàng Kỳ hỏi:
– Ai trả tiền?
– Mẹ tôi mới gởi xuống một ít, dư sức trả.
– Vậy thì tôi cũng không khách sáo.
Ông Tư Son mừng húm, thiếu điều muốn nhảy lên ôm hun người Tăng sĩ đáng tuổi em mình mấy cái.
Đã đi xa lỗ tiền xăng – dầu rồi, mà còn bao ăn nữa, ai chịu cho nổi?
Stephen Đoàn chưa kịp mở miệng đã bị Thanh Liên chặn lại trước:
– Thầy muốn ăn món chi cứ gọi, tôi trả tiền cho.
Stephen Đoàn nhếch miệng cười khổ:
– Bao nhiêu mà sung dữ vậy?
– Mười ngàn.
Mới nghe số tiền xong, ông Tư Son liền gọi những món đặc sắc nhứt của quán, như nhum nướng mỡ hành, gỏi cá trích, lẩu nấm, cà xỉu,…
Về phần nhóm Tăng sĩ, họ chỉ ăn loại thịt nào đã chế biến sẵn và không phải vì mình mà chết nên không ăn chung phần với Stephen Đoàn và ông Tư Son.
Thành ra thực đơn mà họ lựa chọn chỉ trong vòng năm loại là hủ tíu hấp, bún cá Rạch Giá, cơm ghẹ Phú Quốc, bún kèn Kiên Giang và bánh canh ghẹ – chả.
Bà chủ quán hết hồn hỏi sau khi đã ghi toa:
– Mấy Thầy đây…!ăn mặn?
Thanh Liên trả lời:
– Phật Giáo Nguyên Thủy cho phép ăn mặn, miễn sao không vi phạm vô ba điều cấm, tức Tam Tịnh Nhục: Không ăn loại thịt vì mình mà chết, không ăn loại thịt nghi ngờ vì mình mà chết và không ăn loại thịt gián tiếp vì mình mà chết.
Ngoài ra, một ngày chỉ ăn một bữa, trước Chánh Ngọ, mà thôi.
Ông chủ quán cắc cớ hỏi:
– Sao biết không phạm vô ba điều cấm mà ăn?
– Rất đơn giản: Chúng tôi vô quán của gia đình của thí chủ ăn một cách ngẫu nhiên, thành ra chúng tôi không vi phạm vô ba điều cấm trên.
Chừng nào tôi gọi một con cua hay con cá còn sống, hoặc là thí chủ đợi tôi vô rồi mới tự ý chọn con cua hay con cá còn sống để chế biến thành món ăn, khi ấy mới phạm vô ba điều cấm trên.
Ông chủ quán hỏi nữa:
– Sao Thầy chắc chắn rằng những món Thầy vừa gọi không vi phạm vô ba điều cấm?
– Tôi đọc thành phần nên tôi biết.
Những món ăn này chế biến rất cầu kỳ và lâu lắc nên không thể nào đợi có khách rồi mới mần thịt được; hễ khách kêu là có thể bưng lên liền, không cần trải qua khâu sơ chế phức tạp và đổ máu nào nữa.
Ông chủ quán bật ngón cái, tỏ vẻ đã tâm phục khẩu phục.
Stephen Đoàn đã thấm thía lý do mà Thanh Liên được nhóm Tăng sĩ tôn xưng là Trưởng lão.
Cái miệng này đấu với tổ hợp luật sư mà không thắng chắc mặt trời hôm đó mọc ở hướng Tây!
Nhưng những thực khách không buông tha cho nhóm Tăng sĩ, có người còn lén ghi hình lại để đăng lên mạng.
Châu Lợi nhìn Stephen Đoàn mà cười biểu:
– Lo ăn đi…!Giác quan là của người ta, tâm can là của mình.
– Dạ.
Lâu rồi Stephen Đoàn mới có được bữa đồ biển tươi ngon và phong phú nhường vậy.
Nhớ hồi mẹ còn sống, mỗi bận có dư chút đỉnh bà sẽ mua cua biển về hấp cho cha – con anh ăn.
Tới chừng bị bệnh nặng, bà vẫn dành ra một khoản tiền để nấu cho anh những bữa ăn thịnh soạn, nhưng vì chứng ung thư nên không có món nào nuốt được.
Thanh Liên hỏi:
– Thầy ăn bánh tằm bì không?
Stephen Đoàn rùng mình cười tươi:
– Có nước cốt dừa ở trỏng nên tôi không ăn đâu.
Lần trước giữ cầu ở Kiến Hòa tởn rồi.
Thanh Liên biết sức ăn của Hoàng Kỳ rất khỏe nên nói muốn ăn gì thì ăn thêm đi.
Vậy là đồ đệ của chú bèn kêu thêm một phần cơm ghẹ cỡ lớn.
Đến chừng ăn xong thì ngoài trời đã sa mưa dông, nguyên đoàn đành nán lại đợi trận gió dữ qua đi.
Đoạn Trần nhắc nhở:
– Lát xuống dưới nhớ đắp y lại.
Che kín cả hai vai.
Nhớ đó.
– Sadhu…
Một vài người thấy Thủy Diệu quá đỗi đẹp đẽ nên ngỏ ý chụp hình chung.
Chú cũng vị bụng chụp chung vài tấm.
Nhưng vì chiều cao của Thủy Diệu nên họ lại phải nhờ cậy Hoàng Kỳ chụp giùm.
Xuống tới Cà Mau thì trời đã bắt đầu nhá nhem tối.
Một phần do đã xế chiều, phần vì cơn mưa dai dẳng gây ra.
Hoàng hôn đâu không thấy, chỉ thấy bóng tối chập chùng bủa vây.
Ông Ba Son nhìn con đường rỗ mặt phía trước mà xót ruột, đi về chuyến này lại phải tốn mớ tiền bảo trì xe.
Giọng ca của Hà Thanh trong bài “Trầm hương đốt” của nhạc sĩ Bửu Bát đón Tăng đoàn, chàng Linh mục và ông tài-xế vào tư dinh của thương gia họ Hồ.
Tuy Hồ Ngọc Châu đã gần trăm tuổi nhưng vẫn còn sức đi ghẹo gái và bòn tiền thiên hạ, nên nguyên vùng không có lấy một người ưa khứa.
Hồ Đại Lộc và Hồ Đại Thành hay tin anh Hai về thì nửa mừng nửa nghi.
Nghe đâu bây giờ đi làm thầy chùa giàu dữ lắm, không biết anh Hai của họ kiếm có bộn không?
Chừng thấy Hồ Đại Lợi đi chân không, trên thân đắp cà-sa kín gần hết cả người, chỉ đem theo một giỏ đựng một bó sen hồng, thì hai người khinh ra mặt.
Sau khi lại bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ và Chư Phật – Bồ-Tát thắp nhang, Châu Lợi quỳ rạp xuống đảnh lễ từng bàn thờ một.
Bó sen hồng mà chú kỉnh má được phân làm hai, mỗi phần được bày trang trọng trong cái độc bình trên bàn thờ.
Xong xuôi hết thảy, Châu Lợi chỉnh sửa lại trang phục rồi day lưng lại và đi một hơi ra ngoài cửa.
Bà hàng xóm, tức bạn thân của bà Lê Thị Mỹ Hà, hớt hải níu áo thằng nhỏ hay chạy qua nhà cụ xin cục đường thẻ để ăn:
– Con ơi, ông già con có bậy, anh em con có bạc tình bạc nghĩa đi chăng nữa, con cũng hãy vì má con mà rộng lòng bỏ qua cho họ, mà ở lại đây nói chuyện chơi với thím Hai nghen?
Châu Lợi chắp tay thưa thím Hai:
– Duyên của con với cái nhà này đã tận, hà cớ gì phải luyến lưu chứ? Nếu thím Hai có chuyện cần nói với con, xin thím vui lòng dời gót đến tịnh thất mà Tăng đoàn con đang lưu trú.
– Ở đâu?
Châu Lợi dúi vào tay thím Hai một mẩu giấy nhắn.
Lời sau chót, ông nói:
– Năm xưa Đấng Thế Tôn từng khuyên ba vợ nên sửa tâm tánh để tránh sa vào Địa Ngục mà ông ta có nghe đâu.
Tôn giả Xá-Lợi-Phất đã từng hết lời can gián mẹ ruột mà cũng chẳng thành công, sau này Ông lại phải lao tâm khổ tứ cứu chuộc mẹ ruột thoát khỏi sự đày ải nơi Địa Ngục.
Một người là Phật và một người A-La-Hán mà còn không thể lay chuyển Nghiệp Ác và Ý Bất Thiện của chính người thân của mình, thím Hai nghĩ con làm sao cứu nổi?
Không cầm chân được đứa nhỏ mà mình thương như con đẻ, thím Hai che miệng khóc tức tưởi rồi mếu máo hứa rằng ngày mai sẽ xuống thăm nó liền.
– Đi vệ sinh hết chưa? – Châu Lợi cất tiếng hỏi trong khi bước vô chiếc xe Toyota – Hicae.
Hết thảy đều trả lời, “Xong rồi.”
Đi thêm một chặng nữa, tới gần tám giờ tối, nguyên đoàn đã đến tịnh thất ở cầu Rạch Lùm.
Ghé rồi mới hay đây là nhà của một cư sĩ Phật Giáo Nguyên Thủy, nguyên nhà sống bằng nghề bán đồ chay, năm nay đã ngoài bốn mươi.
Nhà cửa vừa là nơi ở vừa là xưởng sản xuất và bán hàng; hai khu vực được ngăn chia bằng một khoảnh sân lộ thiên rất rộng lớn và bày đầy cây kiểng; sau hè có bể lọc nước sinh hoạt, hệ thống chế biến nước thải và thùng-phuy chứa nước sạch.
Chiếc xe của ông Tư Son đậu ở nhà để xe cất ở mé tay trái khu nhà trước.
Ban ngày nơi này là nhà để xe của khách và bạn hàng, còn ban đêm thì để không.
Trì Thương cười hỏi:
– Có chuyện chi mà cư sĩ giận vậy?
– Bên Bắc Tông làm sai mà bên Nam Tông phải hứng chịu xú uế theo.
Trì Thương vừa sửa lại vai áo vừa nói:
– Họ còn chẳng biết Bắc Tông và Nam Tông khác biệt như thế nào thì chấp làm gì.
Vả chăng, chúng ta theo Nguyên Thủy Phật Pháp, thành ra đừng tự cho mình là Nam Tông.
– Dạ.
Khu nhà sau cất kiểu nhà lầu ba tầng, có cả sân thượng, một gian thờ Phật, một dãy phòng cho khách viếng thăm, một kho lạnh để dự trữ nguyên liệu chế biến và một nhà kho để cất đồ đạc.
Sở dĩ nhà lớn như vầy là do tới ba thế hệ cùng sống chung.
Trước lúc xuống khách phòng tắm rửa và ngủ nghê, Tăng đoàn lên gian thờ Phật thắp nhang và đảnh lễ.
Stephen Đoàn đứng ở cửa hông, lối dẫn xuống nhà để xe của gia đình, mà coi Tăng đoàn bái Phật.
Riêng ông Tư Son thì đã lui xuống khách phòng.
Dãy phòng ngủ của khách nằm đâu mặt với cái ao bèo.
Để thuận tiện cho việc tưới cây, khách phòng cất ở cánh hữu và cái ao ấy ở cánh tả; vả chăng, nhà hàng xóm xây sát bức vách tay mặt nên nếu khách có ý gian thì hàng xóm có thể nghe thấy liền và kịp thời báo cho gia đình biết.
Tắm, gội đầu và thay đồ mát xong xuôi, Stephen Đoàn và ông Tư Son lên chái bếp ăn cơm tối.
Mâm cơm đương nhiên phải có món mắm ba khía trứ danh của đất miệt thứ.
Ngoài ra còn có canh khoai mỡ nấu thịt bằm, cá thòi lòi muối sả chiên, nghêu kho sả ớt, bồn bồn ngâm chua và đọt choại luộc.
Sau khi đọc Kinh và làm dấu Thánh, Stephen Đoàn vừa bưng chén cơm lên vừa thông báo:
– Ngày mai tôi sẽ ghé thăm nhà nguyện Xẽo Lá.
Ông Tư Son hỏi:
– Đi xe ngoài hả Cha?
– Dạ, con đi xe ôm, chú.
Ông Tư Son nhún vai bình phẩm:
– Ờ, chỗ đó nước nôi không, xe gắn máy vô còn khó huống hồ chi là cái xe bự chảng của chú.
Stephen Đoàn hỏi:
– Tôi vẫn chưa hiểu tại sao Tăng đoàn lại rất ít khi thuyết pháp?
Châu Lợi trả lời trong khi rót trà vào tách của mình:
– Tôi nói rồi mà, trong nhà tôi còn chưa Độ được thì mong cầu gì Độ người ngoài thành công? Thành ra chúng tôi rất ít khi thuyết pháp.
Chưa kịp uống hớp trà nào, Đoạn Trần đã bị Stephen Đoàn nắm lấy bàn tay mà vặn hỏi:
– Thầy có sáu ngón?
– Đúng vậy.
Tôi có sáu ngón.
Rồi nhìn sâu vào đôi mắt chàng Linh mục có dáng vẻ như con cò hương, Đoạn Trần cười hiền biểu:
– Và tôi không phải là người mà thí chủ muốn tìm đâu.
Vợ của người cư sĩ bước lại gần Thanh Liên mà hỏi:
– Thầy nghĩ sao về chuyện dâng sao giải hạn?
Thanh Liên phì cười, rồi dịu dàng trình bày:
– Đấng Thế Tôn có một đứa con trai, tên là Rahula – La Hầu La, sau này chứng đắc quả vị A-La-Hán từ khi còn rất trẻ.
Trong văn hóa Ấn Độ Giáo, La Hầu và Kế Đô là hai hung tinh, chuyên nuốt chửng mặt trăng và mặt trời.
Ấy vậy mà công chúa Da-Du-Đà-La lại lấy một cái tên gần đồng âm với một trong hai hung tinh này làm tên đặt cho con, chứng tỏ cả bên Ấn lẫn bên Phật chưa hề kiêng kỵ chúng, chứ đừng nó chi là tin vô chuyện dâng sao giải hạn.
Thành thử ra, ai tham gia những hoạt động này là đi ngược lại với Chánh Pháp và bất kính với Đấng Thế Tôn.
“Tin Ta mà không hiểu Ta thì đó là phỉ báng Ta.”
Vợ của cư sĩ năn nỉ vị Đại Trưởng Lão kể rõ hơn.
– Số là vầy: Trong sự kiện “Biển Sữa”, để ngăn các Asura uống được thuốc bất tử, Chúa Vishnu đã hóa thân thành nàng Mohini tuyệt sắc đi cám dỗ A-Tu-La.
Nhờ vậy mà các Chư Thiên và Đế Thích được uống thứ nước này.
Một trong số A-Tu-La sợ rằng mình không được uống thứ nước thần kia nên đã cải trang thành Chư Thiên và trà trộn vào hàng ngũ bên đó.
Chừng Ngài Narayan rót nước xong rồi, Thần Mặt Trăng Chandra mới phát hiện, ông liền hô hoán lên.
Song không kịp nữa rồi, Rahu – La Hầu đã nuốt hết số nước đó và trở nên bất tử.
Tức giận vì bị qua mặt, Ngài Narayan đã triệu hồi cái dĩa Sudarshana Chakra và chém đứt đầu con quỷ khôn lỏi ấy.
Kể từ lúc này, Asura đó có hai phần: Phần đầu là Rahu và Phần thân là Ketu.
Để trả thù Thần Chandra, ngay sau khi bị chém, Rahu liền nuốt chửng vị Thần hiền lành ấy vô bụng; ở đây xin dừng lại đặng giải thích cho dễ hiểu, mặc dù cái đầu không còn dính liền với cái thân nhưng chúng vẫn ăn thông với nhau, do đó sau khi Rahu nuốt xuống thì vị Thần bị nhốt ở Ketu.
Chúa Shiva bèn xuất hiện cứu giúp vị Thần ấy.
Vì đã uống thuốc bất tử nên Rahu và Ketu không chết mà chỉ bị trọng thương, chúng nhả Thần Chandra ra rồi kéo nhau bỏ trốn.
Xong xuôi mọi sự, nhằm tránh vị Thần ấy bị bắt nữa, Ngài Mahadev mới lưu giữ hình ảnh về Thần Chandra trên đầu mình, tức là một mảnh trăng lưỡi liềm ánh bạc; cứ hễ mảnh trăng này bị lu xuống, thì Ngài Mahadev sẽ biết Thần Chandra đã bị Ketu và Rahu nuốt chửng và giam giữ, mà lên đường giải cứu.
Ở một dị bản khác thì không có sự hiện diện của Chúa Shiva, thay vào đó thuyết này nói vì có đầu mà không có thân và có thân mà không có đầu nên sau khi bị Rahu và Ketu nuốt thì Thần Chandra tự thoát ra được.
Nhưng dị bản này không giải thích được tại sao Ngài Mahadev lại có mảnh trăng lưỡi liềm trên đầu.
Stephen Đoàn hỏi:
– Vậy tại sao Thần Mặt Trời cũng bị nuốt luôn?
– Vì Thần Surya là người thứ hai phát hiện ra sự giả mạo nên cũng bị ghi thù.
Nhưng, ông đủ mạnh để tự chống lại chúng, còn người em của ông thì không.
Châu Lợi xen vô:
– Đó là cách mà Ấn Độ Giáo nhìn nhận về hiện tượng nguyện thực – nhật thực.
Người cư sĩ phá lên cười:
– Hèn chi mà nguyệt thực diễn ra rất lâu, còn nhật thực rất mau.
Thanh Liên tiếp:
– Vị Thần Surya có đứa con trai tên là Shani, người này cai quản Thổ Tinh và là vị Thần Nghiệp Chướng và Công Lý.
Nhưng góc nhìn về Nghiệp của Phật Giáo với Ấn Giáo có lúc tương đồng có lúc không.
Không đi sâu vào Đạo người ta, ở đây tôi nói riêng bên Đạo tôi thôi, Đấng Thế Tôn cho rằng cầu nguyện, rửa tội trong dòng nước và vái van Thần Linh không thể chuyển hóa cũng như làm Nghiệp biến mất; ai gieo cái gì thì phải gặt cái nấy, nếu cứu được thì Đế Thích đã cứu mạng dòng tộc Thích Ca rồi.
Stephen Đoàn vừa dẻ cá vừa hỏi Thanh Liên:
– Tại sao dòng tộc Thích Ca bị tiêu diệt?
– Vì sự kiêu ngạo của một vài người trong dòng tộc và rất nhiều Duyên Khởi trong quá khứ.
Rồi Thanh Liên trở về chủ đề cũ:
– Thần Chandra có khuôn mặt phi phái tánh.
Thành ra diễn viên đóng vai của Thần luôn là những người đàn ông có thân hình lực lưỡng nhưng gương mặt và điệu bộ hơi giống nữ.
Đoạn Trần kể:
– Những Nữ Thần trong văn hóa Ấn Độ cổ rất mạnh mẽ và quyết đoán, không có người nào đợi người phối ngẫu tới cứu hết, hễ ai ghẹo gan họ là họ biến hình xử liền.
Trái ngược với sự phân tầng và kỳ thị giai cấp hiện hữu trong thời đại đó.
Phá Vân lên tiếng:
– Mà cũng ngộ thiệt, Ngài Mahadev nảy sinh tình ý khi Ngài Narayan hóa thành hình dạng Mohini mà cũng làm cho có con được.
“Đứa trẻ” đó là con quỷ bán nam bán nữ Kamasur.
Có tích lại nói hai Ngài “hợp thể” luôn.
Không hẹn mà hai người Thầy và hai sư huynh của Phá Vân liếc chú một cái cảnh cáo.
Chú hết hồn hết vía chắp tay thưa:
– Tôi đã phạm Vọng Ngữ, sẽ Tịnh Khẩu suốt đêm nay để sám hối tội này.
Thanh Liên cười khổ:
– Thôi, nói phứt ra cho rồi.
Con quỷ này tượng trưng cho sự ham muốn tình dục và phá giới – Vì Chúa Shiva là một nhà tu hành khổ hạnh và luôn ra công giữ cho bản thân được thanh tâm quả dục.
Con quỷ này từng ám Phá Vân, và đã tặng cho Phá Vân cái Quả là bị người ta vu khống mắc bịnh HIV/S.
Bữa nay nó đã quay lại nơi cửa miệng của cẩu.
Trì Thương tiếp:
– Sự ra đời của quỷ Kamasur đánh dấu một thời kỳ của những thứ và suy nghĩ tà dâm xuất hiện.
Nó khiến cho người ta bị đắm say trong ham muốn và không còn lo tu dưỡng đạo đức nữa.
Có thể người ta lập ra tích này để giải thích về những sự kiện bất chánh đã xảy ra trong thời đại mà họ đang có mặt, như loạn luân, cưỡng bức, ngoại tình, ấn phẩm đồi trụy,…!chẳng hạn.
Thanh Liên nói:
– Thường thì lên phim họ sẽ tuyển đàn ông đóng vai quỷ Kamasur, chắc là vì diễn viên nữ ngại đóng những cảnh…!gọi mời như vậy nên đoàn làm phim mới quyết định giao vai này cho nam.
Thành ra, coi y như phim hài; má tôi biểu, “Cái mặt vầy hổng biết sao mà rù quến được diễn viên nam trong phim nữa, chắc cũng nín cười dữ lắm đây.”
Châu Lợi bổ sung:
– Ngoài con quỷ trên, thì Chúa Shiva còn hai người con là quỷ nữa.
Một trong hai con quỷ này muốn mẹ của anh ta là Nữ Thần Parvati làm vợ của anh ta.
Stephen Đoàn không gọi con quỷ đang đeo bám tâm trí anh là “Kamasur”, thay vào đó là cái tên “Incubus”.
Anh không muốn mình phạm vào điều răn thứ Sáu nên đã hãm mình trong phòng hàng đêm để quỳ trước tượng Chúa đọc Kinh Sáng Danh và lần chuỗi Mân Côi.
Xuân, tại sao nàng lại quá giống với mẹ của anh lúc sinh thời vậy?
Nhìn vào mắt chàng Linh mục, Trì Thương cất giọng an ủi:
– Anh nên mừng vì trái tim của anh đã biết rung động.
Rồi một ngày nào đó, khi tuổi của anh đã cao, da dẻ anh đã trổ đồi mồi, những rung động vẩn vơ ấy sẽ làm chỗ dựa tinh thần cho anh trong những chương cuối đời người.
– Anh có rung động với Hoàng Lan không?
– Có.
Tôi coi Lan như một người chị dâu tương lai.
Đó cũng là một dạng thương nhưng không phải tình yêu mà là tình thân.
– Anh có thể thú nhận một cách thẳng thừng mọi chuyện mà chẳng lo mích lòng ai hết.
Ước chi tôi cũng được như anh.
– Nếu như anh nghĩ những lời nói của mình có thể cảm hóa và có lợi lạc cho chúng sanh thì hãy mạnh dạn phát biểu.
Dầu cho bị người ta ghét đi chăng nữa, vẫn phải thốt lên Sự Thật.
“Sự Thật sẽ giải thoát cho anh em” có đúng không?
Stephen Đoàn mỉm miệng cười mà lệ đã hoen mi:
– Phải.
Câu này bên tôi mà.
Đoạn Trần thở dài mà kể một vấn nạn thường gặp ở các đức tin:
– Các tín đồ Ấn Độ Giáo thường chọn cho mình một vị Thần Linh để thờ tự.
Thành ra có người theo Shiva, có người lại chọn Brahma,…!Từ đó dẫn đến chuyện dựng ra những dị bản đề cao vị này – hạ thấp vị kia, khiến những ai muốn tìm hiểu văn hóa Hindu không biết nên tin và hiểu theo bên nào.
Cho nên Phật Tổ hay gọi người Ba-La-Môn là ám chỉ những hạng người theo Đạo thờ Brahma – Phạm Thiên và thuộc về giai cấp này, chứ không phải có ý xúc phạm hay phân biệt đối xử với họ.
Stephen Đoàn hỏi:
– Một trong số những điển tích hay dị bản mà Thầy Trần thấy là có ý không tốt là gì?
– Đó là Chúa Vishnu đã hóa thân thành phái nữ để quyến rũ kẻ hung ác và A-Tu-La.
Trong số những lần đó có lần Ngài có con với Chúa Quỷ Bhandasur.
Tôi thấy những mẩu truyện này quá thiên về chuyện diễm tình và có ý hạ bệ danh dự của Ngài Rarayan.
Vợ của người cư sĩ hỏi:
– Quan niệm xây chùa được phước và được phù hộ có đúng với Chánh Pháp không mấy Thầy?
Thanh Liên mỉm miệng cười hòa ái:
– Nó đúng với bên Ấn Độ Giáo nhiều hơn là bên Phật Giáo.
Vì bên Ấn Độ Giáo tin rằng chỉ cần làm đẹp lòng Thần Linh và sống chừng mực là sẽ được đáp ứng mọi sở nguyện; thành ra mới có tích Chúa Brahma ban điều ước bất tử cho Chúa Quỷ.
Còn bên Phật Giáo tin rằng Thiện Nghiệp chỉ làm giảm bớt cái Quả Báo do Nhân xấu trong quá khứ gây ra chứ không thể bứng tận gốc rễ được; thành ra cho dù có cúng kiếng, đọc Kinh hay xây chùa cỡ nào đi chăng nữa thì vẫn phải hứng chịu Nghiệp – Quả như thường.
Stephen Đoàn ngại ngần hỏi:
– Trong văn hóa Ấn Độ Giáo, ai là Đấng Sáng Thế vậy?
Thanh Liên trả lời:
– Theo thiển ý của tôi và dựa trên những tài liệu mà tôi biết qua, thì đó là Đại Thiên Nữ Aadi Parashakti, hay còn gọi là Mẹ Nguyên Thủy đã khởi sinh ra vạn vật, kể cả ba Đấng Tối Cao Brahma – Vishnu – Shiva và vợ của ba Ngài cùng các vị Devi, Deva và Asura.
Nhưng có vài thuyết lại phản bác lập luận trên và cho rằng Mẹ Nguyên Thủy không phải là người đã tạo ra ba Đấng Tối Cao.
Thành ra, như tôi đã nói với người thân của Trì Thương và Hoàng Lan, ai là Đấng Sáng Thế và tiến trình diễn ra như thế nào thì vẫn còn là một chủ đề tranh cãi chưa nguôi ở Ấn Độ Giáo.
Stephen Đoàn lại hỏi:
– Ban điều ước suông vậy sao Thầy Trần?
– Không, phải có giao kèo, nếu phạm phải giao kèo sẽ nhận lãnh cái kết thảm khốc.
Ăn xong bữa cơm đầy ắp kinh sách và tích truyện của ba đức tin Ấn Độ – Phật – Kitô Giáo, nhóm Tăng sĩ, ông Tư Son và Stephen Đoàn trở về khách phòng nghỉ ngơi.
Ngoại trừ ông Tư Son va Stephen Đoàn, nhóm Tăng sĩ ở chung một phòng.
Trước khi đi ngủ, ai nấy đều đánh răng, rửa mặt và tắm gội sạch sẽ.
“Đêm trên vùng đất lạ” đầu tiên đã khiến cho Stephen Đoàn khó bề yên giấc.
Anh đành ra ngoài ngắm sao đêm và hít khí trời.
Vừa hay ngoài đó có chạc cây bần, Stephen Đoàn bèn leo lên đó ngồi.
– Sadhu.
– À, Thầy Trần.
– Cha Tê-Pha-Nô đang kiếm một người có bàn tay sáu ngón phải không?
Stephen Đoàn nhìn người Tăng sĩ ngoài sáu mươi bằng ánh mắt nghi ngờ.
– Có lẽ người đó là con trai của tôi.
Nó cũng mang sáu ngón tay như tôi.
Nó bị tự kỷ ám thị nên khó lòng kiểm soát hành vi của mình.
– Tức là sao?
– Nó thích hành hiệp trượng nghĩa, nhưng không thích sống theo khuôn khổ pháp luật, thành ra nó sẽ xuống tay hết sức tàn khốc.
– Hiện giờ anh ta ở đâu?
– Dưỡng trí viện Biên Hòa.
Làm bảo vệ trực ở trỏng.
– Tại sao Thầy không báo án?
– Bằng chứng.
– Không phải Thầy là nhân chứng sao?
– Nhân chứng có nhưng bằng chứng không thì không đủ cơ sở để lập án chứ đừng nói chi là kết tội.
– Hỏi khí không phải…
– Sao?
– Thầy nghĩ sao về tình dục?
– Cứ phóng khoáng, cứ sống theo bản năng và cứ tự xưng mình “đạo đức thật” thì sẽ có ngày bị như Phá Vân.
Đáng ra Phá Vân đâu có sa cơ thất thế đến như vầy, chỉ vì ám ảnh chuyện đó nên ngày nay phải lánh đời đi tu.
– Bộ không ai tin Thầy ấy không bị AISD à?
– Ngủ với ngần ấy người thì sao mà thiên hạ tin nổi.
Một vì sao băng sa xuống bầu trời phương Bắc.
Rồi hai, ba vì nối đuôi nhau lao xuống.
Sau đó tắt ngúm, để lại bầu trời đêm yên tĩnh và lu mờ ánh sao.
Đoạn Trần vịn tay lên nhánh cây bần mà kể lại quãng đời trước đây của mình:
– Tôi bỏ người phụ nữ đó để rảnh tay theo đại ca.
Cô ta uất quá mới uống thuốc phá thai.
Hai má con không chết, nhưng di chứng để lại là thằng nhỏ bị ảnh hưởng hệ thần kinh.
Trên lưng của tôi vẫn còn lưu giữ tên của người phụ nữ đó, hồi chúng tôi còn mặn nồng với nhau…
Nói tới đây, Đoạn Trần kéo vạt áo cà-sa xuống để cho Stephen Đoàn nhìn thấy hình xăm ấy.
– Con trai tôi được một bác sĩ chuyên khoa Thần Kinh nuôi dưỡng.
Sau này ông ấy chết, con ruột của ổng sợ con trai tôi tranh giành tài sản nên đã dựng hiện trường giả mà phao vu con trai tôi cưỡng hiếp em gái ổng.
Nó vốn không bình thường, bây giờ còn bị chọc tức nữa, nên đã xuống bếp lấy dao tính đâm chết nguyên nhà.
Chỉ chờ có vậy, họ bèn hú mấy ông cảnh sát thân tín ập vô bắt nó.
Cũng may huynh đệ giang hồ của tôi thương tôi nên đã bảo kê cho nó trong suốt thời gian thi hành án tù.
– Hai cha con Thầy không nhìn mặt nhau sao?
– Phải.
Tôi không xứng đáng để được nó gọi là “Cha”.
– Từ sai lầm trong quá khứ của mình, Thầy có nghĩ nên khuyên người khác bớt ham muốn tình dục không?
Đoạn Trần bật cười:
– Tại sao phải khuyên những người có sở thích đó bỏ sở thích đó đi?
Stephen Đoàn mời vị Tăng sĩ trạc tuổi cha anh giải thích thêm về câu nói trên.
– Người nào thực sự cần một lời khuyên thì Đấng Thế Tôn và tôn giả mới lên tiếng đáp lại.
Chứ còn những kẻ thích cà khịa, kiếm chuyện hay cái tôi quá cao thì mắc gì phải tốn thời gian cho họ; đối với hạng người này, Cha càng khuyên, họ càng làm ngược lại thôi.
Vả chăng, số phận của người nào thì do người đó quyết định.
Mình đâu có mắc nợ mắc nần mà cứ phải đi lo trum trủm hay nói ráo nước miếng để khuyến hóa họ.
Stephen Đoàn nhớ tới cái tật thày lay của mình mà bẽn lẽn gãi đầu cười trừ.
– Tôi có quen một thí chủ, chồng của người này rất ưa cổ võ phái nữ ăn mặc theo ý thích, nhưng tới chừng thí chủ này mặc củng đi dự đám cưới thì lại lớn tiếng thóa mạ rất nặng lời.
Stephen Đoàn bình phẩm:
– Miệng thì đòi nữ quyền và bình đẳng giới, nhưng người đầu ấp tay gối với mình thì đối xử hệt khuôn nô lệ thời Trung Cổ.
– Bây giờ ở trên mạng có nhiều kiểu vọng tưởng, thí dụ như, “Ai nói nhiều và hay chửi là người tốt và trung thực”, “Ai văn hoa sáo ngữ là đồ đạo đức giả”, “Ai phê phán chuyện tính dục là thứ thèm gần chết mà không được nên giả bộ thanh cao”,…!Thế giới này là thế giới tương đối, không có cái gì là tuyệt đối hết.
Stephen Đoàn khoanh tay ngẫm nghĩ.
– Tôi có quen một nữ thí chủ bị mắc chứng bịnh ám ảnh tình dục, mặc dù chưa từng trải qua một lần quan hệ hay không may bị cưỡng hiếp.
Căn bịnh này xuất phát từ việc bị dư hormone nữ quá nhiều, khiến cho cuộc đời của cổ bị rơi vào Địa Ngục A-Tỳ khi hãy còn đang trên dương thế.
Nhưng cổ đã không làm một chuyện gì trái với luân thường đạo lý, vì cổ có sức mạnh nơi đức tin và lòng hướng Thiện vô bờ.
Thành ra, cổ rất ghét ai coi trọng hay thích thú chia sẻ những thứ liên quan tới tính dục, cổ nghĩ họ có tinh thần lành mạnh hơn mình thì tại sao lại không dành thời gian tham gia các hoạt động giải trí bổ ích ngoài đời…
Mỗi lần nhớ đến nữ thí chủ này, tôi thấy cổ rất đáng thương và cũng rất đáng khâm phục.
Stephen Đoàn có cảm tưởng như đã bấu được sợi dây để cứu Kiều Xuân:
– Cổ có đi điều trị ở đâu không?
– Không.
Hễ căn bịnh phát tác, cổ lại đi tắm nước đá.
Do đó mà phổi của cổ đã bị tổn thương nặng, cổ nói cổ thà chết vì lao phổi chứ nhất quyết không để căn bịnh này khiến cô làm chuyện trái với luân thường đạo lý.
Tuy thất vọng nhưng chàng Linh mục không để lộ ra mặt.
Chàng nương theo chủ đề mà vị Tăng sĩ ấy khơi gợi:
– Thầy nói làm tôi nhớ tới những người sử dụng bừa bãi nhóm chữ “Trầm cảm”, “Đa nhân cách”,…!Họ giễu cợt trên chính nỗi đau của người khác một cách hữu ý.
Và thể theo lời khuyên của Thầy, tôi sẽ ngưng việc khuyên họ đừng nên ăn nói như vậy.
– Bịnh của cô Kiều Xuân cũng may chưa có thêm triệu chứng như nữ thí chủ thường hay cúng dường và dâng y cho chúng tôi.
– Dạ.
Và tôi cũng đã hiểu tại sao Thầy lại đề cập đến chủ đề rất khó nói ở trên.
Đoạn Trần nở nụ cười hòa ái:
– Xin mời Cha giải thích.
– Người không mắc bịnh thì lại muốn rước bịnh, người không muốn mắc bịnh thì lại bị bịnh vận vô người.
Đoạn Trần chắp tay mà nói:
– Lành thay.
Cha đã hiểu ý của tôi rồi.
Stephen Đoàn chắp tay và cúi đầu cảm tạ.
– Những người không biết cổ bị mắc bịnh trên nên khi nghe cổ bài bác ấn phẩm và hoạt động liên quan tới tính dục thì liền lao vô miệt thị và chửi cổ đạo đức giả, đầu óc phong kiến.
Quá đáng hơn, còn kẻ còn đăng những bức ảnh khiêu gợi để móc mỉa cổ.
Cái miệng thì bô bô cấp tiến và tự do ngôn luận, nhưng hễ ai phát biểu không theo ý mình thì gán mác cho người ta đủ điều; đó là căn bịnh nan y của rất nhiều người Việt.
Stephen Đoàn rầu rầu bình phẩm:
– Chỉ có người bị bịnh mới biết căn bịnh đó kinh khủng ra sao.
Thành thử, họ lúc nào cũng muốn người khác không bị mắc bịnh giống mình nên hễ có dịp là ráng sức khuyên nhủ.
Nhưng lòng nhiệt thành và hảo tâm của họ lại bị dập tắt bằng những gáo axit đậm đặc.
– Nói người ta đạo đức giả không làm cho mình có đạo đức thật đâu.
Đây là một trong những từ bị lạm dụng quá đà ở thời đại này.
Thuở trước, đa phần chỉ xài trong văn chương, song xã hội lại đạo đức thật lại nhiều hơn đạo đức giả.
Còn bây giờ thì ngược lại…
Stephen Đoàn buông xuống một tiếng thở dài nặng trịch.
– “Sa ngã thì rất dễ, nhưng làm lại cuộc đời thì rất khó.” Chính vì có đức tin nơi Phật Giáo mà cổ đã khống chế được căn bịnh quái ác còn hơn ung thư của mình.
Nhưng cũng bởi lẽ thế, không một ai thân thiết với cổ biết cổ bị bịnh này, nên chẳng ai kiêng dè mà cứ tự nhiên nói tới những chủ đề mà cổ không muốn nghe và phải tránh xa.
– Thầy làm tôi nhớ tới những người coi phim thiếu nhi mà cũng phải bình luận tục tĩu và khiếm nhã.
Và một người hành nghề bác sĩ đăng bình luận ngỏ ý mời mọi người đi hiến tạng cứu người sau khi mình hay thân nhân qua đời, lập tức bị chửi là “Phật online”, “Lừa đảo à?” và “Mày về kêu cả lò mày đi hiến đi thằng…”
Đoạn Trần chắp tay mà niệm “Nam-Mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật”.
Rồi ông mệt mỏi lên tiếng hỏi:
– Ngày mai tôi sẽ Tịnh Khẩu để sám hối tội Vọng Ngữ của mình, bây giờ Cha có còn khúc mắc nào muốn tôi đóng góp ý kiến nữa không?
Thấy chòm sao Bắc Đẩu đã đậu trên hướng Tây – Bắc, Stephen Đoàn không dám làm phiền Đại Trưởng Lão Đoạn Trần nên xin phép lui về phòng ngủ lấy sức để sáng mai còn viếng thăm các cơ sở Kitô Giáo trong vùng.
Nghe vậy, Đoạn Trần cũng xin phép cáo từ đặng về phòng thiền định.
…
Trước lúc lên xe ôm đi ngoạn cảnh, Stephen Đoàn hỏi:
– Tịnh Khẩu là gì vậy mấy Thầy?
Châu Lợi đáp:
– Điều gì đáng nói thì nên nói, chỉ vậy thôi.
Chạy được một đoạn, người tài-xế khuyên chàng Linh mục nên đi xuồng, đò, ghe hay sà-lan cho thuận tiện vì bốn bề minh mông nước.
Nhớ, cho chút tiền đổ dầu để đẹp lòng người cho quá giang.
Nhờ có anh bạn Linh mục Cà Màu mà Stephen Đoàn làm quen được một bác Giáo dân rất dễ thương.
Bác kể mình là giáo viên đã về hưu, hiện thời là giảng viên giáo lý cho Giáo xứ mà chàng Linh mục kia đang đảm trách kiêm “Ông lái đò” đưa khách qua sông.
Ai từng đời muốn dâng Lễ phải chèo vô nhà xứ.
Vừa vui vừa cực.
Mới hay đời Mục Tử thật lắm gian truân và thử thách.
– Sáng giờ ăn gì chưa Cha?
– Dạ, con chưa ăn gì chú.
Bác Giáo dân bèn chuyển hướng ghe vô khúc sông cái để tìm ghe hàng bán đồ ăn sáng.
Nắng Hè làm rực sáng con sông cái hiền hòa.
Vô số ghe, xuồng, đò, sà-lan và vỏ lãi tấp nập qua lại.
Tiếng chân vịt và máy nổ đã lấp mất âm thanh khua mái chèo.
Những vạt rừng cà-na rũ bóng soi mình dưới mặt sông chói lòa.
Trên bờ, những cái chợ cóc xôm tụ kẻ mua – người bán, lâu lâu lại có tiếng la làng hoặc đòi bắt đền vì bị quẹt xe hay ai đó ác đạn băng qua đường một cách bất cần đời.
“Từ bên này sông Tiền qua bên kia sông Hậu
Mang theo chiếc độc huyền điệu thơ Lục Vân Tiên
Với câu chữ, “Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả”
Tới Cà Mau, Rạch Giá đốt lửa cất chòi giữa rừng thiêng…”
Ca xong, bác Giáo dân giới thiệu:
– Đây là bài “Hương rừng Cà Mau” của nhạc sĩ Hà Phương.
– Nghe giống tên tập sách của nhà văn Sơn Nam.
Bác mỉm cười gật đầu.
Rồi nêu ý kiến:
– Theo thiển ý của ông thì có lẽ nhạc sĩ lấy cảm hứng sáng tác từ tập sách này.
Quẹo vô một con rạch biên biếc sắc tím bông mua, là đến một cái quán ăn dựng theo kiểu nhà sàn, chủ nhà ăn gian ra mé rạch hơn ba mét mấy.
Vừa lấy dây luộc cột vô cái cọc vạt từ cây bần để neo ghe lại, bác Giáo dân vừa la í ới:
– Có ai ở nhà hôn? Hổng trả lời là tui đi luôn à nha?
– Đi luôn đi.
Mới sáng sớm mà vác thây tới đây bẹo gan tui.
Stephen Đoàn liền hiểu ra sự tình.
– Cháu ông hả?
– Bậy.
Cha xứ trên thành đô xuống chơi.
– Cha ăn gì Cha?
Nãy giờ Stephen Đoàn chỉ nghe tiếng một người đàn bà coi bộ cũng trộng tuổi rồi nhưng chưa thấy hình hài ra sao, đâm ra bợ ngợ không biết đối đáp như thế nào cho phải.
– Bả đứng chải đầu ở trỏng đó.
Lát con trai bả ra bán.
Ngó thấy tấm bảng thực đơn sơn theo kiểu cổ gắn trên vách, Stephen Đoàn bèn chọn món bánh tằm cay của bổn xứ, còn ông Giáo dân kêu hủ tíu thịt – chả.
Một người đàn ông cao hơn mét bảy vác cái bụng bia ra làm món cho hai người Công Giáo.
Nước da của chú đó như màu bánh ít, tóc xoăn tít như Miên, vẻ mặt hiền queo và rất kiệm lời.
Ăn đâu được vài đũa, đang hít hà vì ban nãy lỡ bỏ thêm ớt bằm nhiều quá, thì Stephen Đoàn mới thấy bà thím ghệ ông Giáo dân chống nạng bước ra nói chuyện với hai người.
– Ông hay tin gì chưa? Có nhà nào bắt cá bằng thuốc nổ không may bị phỏng mặt kìa.
– Trời ơi, báo đài người ta nói rát cuống họng rồi mà không nghe.
Ham tiền chi dữ vậy.
May phước cho người bạn đồng tu của anh chỉ bị nám đen một bên mặt và không bị hoại tử da vùng đó.
Nhưng vẫn phải uống thuốc để chữa trị và ngăn ngừa nhiễm trùng máu.
Cũng nhờ khi ấy có Trần Cảnh Chiêu nên Y-Nhã mới bình an vô sự như vầy.
Không hiểu sao, Tê-Pha-Nô lại cảm thấy tiêng tiếc với lựa chọn trở thành pháp y của Mạc-Ty-Nho, bởi y học tinh thông của người trai xứ biển đó có thể cứu được mạng của rất nhiều bệnh nhân.
– Cha, sao Cha ngồi thừ ra vậy? – Bác Giáo dân nóng ruột hỏi.
Stephen Đoàn hồi thần.
Anh gượng gạo đáp nhỏ:
– Dạ, chuyện riêng tư thôi ông.
oOo
Vườn rau của Henrico Thạnh bữa nay có thêm mấy liếp rau và vồng đất.
Để có tiền chăm sóc và đi tập vật lý trị liệu cho người Thầy mà anh quý như cha, anh phải làm vườn gấp ba nên giờ đây thân hình còn mỏng hơn tờ giấy quyến.
– Nè, tụi bây ăn no rồi kiếm góc nào ngủ.
Đừng có ra ngoài đây phá vườn tao nghen?
Dặn thì dặn cho vui chứ Henrico Thạnh không biết mấy con chó đó có để tâm nghe không.
Trời vừa tang tảng sáng.
Hừng đông đã in bóng trên mảnh đất xanh ngắt màu rau cải và cây cỏ, nhưng vẫn chưa đủ nhiệt để xua tan bầu không khí se lạnh, ẩm ướt mà cơn mưa đêm qua để lại.
Một đàn cò trắng chao đôi cánh mà lượn bay theo chiều nâng của cơn gió cô liêu; gần đây có một cánh đồng lúa khá lớn nên ngày nào chàng Linh mục cũng thấy bóng dáng chúng.
Nơi gian bếp thơm mùi cà-phê phin, Hương Lan đang ca bài “Giấc ngủ đầu nôi” của nhạc sĩ Thanh Sơn:
“…!Khi em về quê xưa nhớ lại những chiều gió đưa
Trên bờ đê dắt nhau chạy đua
Bên kia con kinh, trưa trốn nhà lứa đôi tỏ tình
“Bìm bịp kêu nước lớn – nước ròng…”, bài ca dao hát ru đầu lòng…”
Tiếng ngáp dài vang lên từ phía bộ ngựa báo hiệu cho Henrico Thạnh biết Cha Dương đã thức giấc.
Đơn thuốc mà bác sĩ ở bịnh viện thuộc trường Đại Học Y – Dược Sài Gòn đã làm cho ông ngủ say như chết, nhưng vì mới uống được một tuần nên chưa thấy bớt đau mấy.
Henrico Thạnh tất tả bước vô gian bếp để pha cà-phê.
Trước lúc bắt tay vào việc, anh rửa tay hai bận với xà-bông diệt khuẩn.
– Đọc Kinh sáng chưa bây?
– Dạ chưa.
Con đợi Thầy dậy rồi hai đứa mình đọc chung cho vui.
– Chớ hổng phải mày làm biếng hả?
– Thầy nghi oan con không hà!
Augustino Dương vỗ vai con trai mà cười ha hả, rồi che miệng mà biểu nó đi lên nhà trên đốt đèn cầy, trải chiếu sẵn và sửa soạn bàn thờ lại.
Hai cha con mặc áo Dòng, mang vớ trắng đàng hoàng, tóc tai chải chuốt gọn ghẽ mới quỳ xuống đọc Kinh sáng trước bàn thờ Chúa.
Giữa bốn bề quạnh quẽ, giọng đọc trầm ấm và sang sảng của hai người làm rộn vang quang cảnh nơi đây.
Bầy chó giữ nhà mà Henrico Thạnh nuôi đứng nghe đâu được một lúc rồi nguẩy đuôi ra ngoài sau hè chơi.
Đàn sẻ nâu đã đợi anh sẵn ở sân trước, chỉ chờ giờ Kinh kết thúc là chúng sẽ được anh thết đãi lúa ngon; có vài con không kiên nhẫn được nên vừa nhảy nhót loạn xạ vừa kêu lên rinh rích.
Khi tiếng “Amen” của hai thầy trò lắng xuống, đàn sẻ nâu bắt đầu làm ầm lên.
Có con bạo gan nhảy chân sáo vô nhà trên hối thúc Henrico Thạnh; con này tròn vo như cuộn len, sắc lông bóng mượt, cổ có vòng cườm duyên dáng và đôi cánh be bé, xinh xinh, không biết nó làm sao bay được với cái hình hài này?
– Được rồi…!Được rồi…!Mệt mấy đứa quá…
Trong lúc ngồi coi con trai rải lúa cho đàn sẻ nâu, Augustino Dương nghe Chế Linh – Hương Lan song ca bài “Hoa Vông Vang trắng” của nhạc sĩ Y Vũ:
“…!Mỗi lần hoàng hôn chiều tan Lễ xóm Đạo đường đã thưa
Gặp nhau đây sao không nói, hai người đã yêu thầm
Tình Yêu như nụ hoa trinh trắng trong vườn son
Đã từng đêm về nghe hồn thao thức như đời đã chớm mộng…”
– Lát con chở Thầy đi kiếm quán nào ăn sáng, để có cái lót lòng mà uống thuốc.
– Ở đây có ai khá giả không Thạnh?
– Đầy dẫy luôn Thầy.
– Chứ sao Thầy thấy nhà cửa coi tiêu đìu quá…
– Trời ơi, xứ con hổng có trọng nhà cửa, vô nhà đi mới biết nghèo hay giàu.
– Mày nói vậy tao nghe cũng mừng.
– Mà nè…
– Dạ?
– Làm riết mày ốm tong ốm teo luôn.
– Ôi, “Ốm nhom ốm nhách” hay “Ốm o gầy mòn” gì cũng được, miễn sao có tiền chánh đáng xài là được rồi.
Uống được đâu vài hớp cà-phê đen đá, Henrico Thạnh rủ Thầy ra sau hè coi vồng đất mà anh mới đắp bữa trước.
– Mày giặm cây gì?
– Khoai từ, khoai môn, khoai lang, khoai sọ, khoai mì, khoai tây…!Bên củ thì có củ dền, củ năng, củ ấu, củ đậu, củ gừng, củ nghệ, củ ngải bún,…
– Khoan! “Ngải bún”?
Henrico Thạnh tròn mắt nhìn Cha Dương:
– Dạ.
– Mốt tao nấu đãi bây món bún cá lóc.
Có củ ngải bún vô nước lèo mới thơm và sớ cá không bị tanh.
– Nấu với con lươn được hôn Thầy?
– Được chớ.
Ăn lươn còn mát dữ thần nữa là.
– Mốt tát đìa con rủ mấy Thầy với mấy ổng mò phụ.
Nhiều lắm.
Con Tư Lành hễ tới dịp là qua rinh dìa đủ thứ tôm, cá, cua, lươn.
Thím Ba năm nào mà hổng cho con một hũ mắm tép bự chà bá lửa.
Nhờ mưa dầm mát mẻ suốt mấy ngày nay nên những vồng đất và liếp rau mau chóng đâm chồi nảy lộc.
Cỏ dại cũng được dịp lớn lên theo.
Đôi tay của Henrico Thạnh nhổ cỏ riết muốn mất hết đường chỉ và dấu vân tay; ý là anh đã đeo găng tay bảo hộ khi làm việc.
– Thạnh.
– Dạ?
– Con nghĩ sao về việc biết một thầy tu làm “cỏ lùng” mà không dám tố giác vì sợ bị gán mác “Chia rẽ Giáo Hội”?
– Con sẽ đứng về phía người tố giác.
Thà bị người ta phao vu đục nước béo cò còn hơn là để cho Giáo Hội bị uế tạp.
Im lặng một hồi lâu, Henrico Thạnh cau mày nhìn Cha Dương hỏi:
– Mà, ai là người đã khiến Thầy đặt câu hỏi này vậy?
– Stephen Đoàn.
Nó tự dưng hỏi mấy Thầy câu này.
– À, Thầy có uống thuốc ảnh đưa không?
– Ngưng rồi.
Uống hai – ba cái dễ “Tẩu hỏa nhập ma” lắm con.
Tuy rất muốn hỏi Cha Dương rằng tại sao anh Mỹ lại lên Cô Tô hoài vậy, song Henrico Thạnh ráng dằn xuống để khỏi làm buồn lòng ông thầy sắp thất thập cổ lai hy.
Thay vào đó, anh hỏi:
– Con không hiểu tại sao Giáo xứ lại mang tên Thánh Pio?
– Cha Vinh-Sơn rất ngưỡng mộ cuộc đời Đức Cha Padre Pio, tức Thánh Pio Năm Dấu, nên có suy nghĩ rằng nếu Đức Cha được tuyên Thánh thì sẽ chọn tên của Đức Cha làm tên cho Giáo xứ.
Thành ra trước đây Giáo xứ chỉ có tên trên giấy tờ là Giáo xứ Cây Mai, nhưng mấy mươi năm sau thì đổi thành Saint Padre Pio theo sở nguyện của Cha Vinh-Sơn.
– Nhưng mà ai cũng quen miệng kêu trước là Giáo xứ St.
Pio hả Thầy?
– Ừ, chắc là để tránh bị “đụng hàng” với mấy Giáo xứ khác.
Rồi Cha Dương buồn hiu cảm thán:
– Mà cũng mắc cười một cái là cuộc đời của Cha Vinh-Sơn cũng truân chuyên về đường phụng vụ như Thánh Pio vậy.
Trông thấy một củ khoai lang nằm nép mình dưới phiến đã xanh, mặc kệ cái lưng bị gai cột sống, Augustino Dương khom xuống bẻ.
Rồi “Ui da” một tiếng thiệt lớn.
– Trời đất quỷ thần thiên địa ơi…!Đã cái lưng đau mà cứ làm bé Xuân Mai hoài.
– Kệ tao mày.
Henrico Thạnh càm ràm vài tiếng nữa mới chịu thôi.
Anh hỏi lảng sang chuyện khác:
– Thầy có biết trong này nói “Đông như…” cái gì không?
– Đông như kiến riện.
– Con không hiểu tại sao những cái chết và bị trọng thương của Linh mục xứ này mau chìm nghỉm quá.
Được đâu rùm beng một quý rồi nín thinh luôn.
Lâu lâu có người hê lên hà rầm hà rì được mấy bữa rồi im ru tiếp.
Augustino Dương chỉ biết thở dài thườn thượt.
Trong lúc người Linh mục già hãy còn đang bối rối, bỗng một con chó mực từ đâu phóng xuống mà kéo ống quần của Henrico Thạnh.
– Có khách hả Mực?
Mực gục gặc cái đầu đen tuyền.
Vừa theo chân con trai ra sân trước, Augustino Dương vừa tấm tắc khen:
– Mấy con chó bây nuôi khéo quá.
Con nào con nấy hiểu tiếng người luôn.
– Tụi nó là cảnh khuyển về hưu, không ai nuôi, nên con đem về nuôi hết.
– Tự nhiên tao nhớ đến một câu: “Thổ tử, Cẩu phanh”, mặc dầu không liên quan gì tới bầy chó về hưu này.
Mấy con chó còn lại đang đứng gác hai chi trước lên những lỗ mắt cáo của tấm lưới B40 mà sủa váng trời.
Dù có gan hùm đi chăng nữa thì người khách này cũng không dám tự ý bước vô.
– Thưa Thầy, con là Martin – Matin Trần Cảnh Chiêu, nguyên quán Bạc Liêu, là Giáo dân của Giáo xứ Bá-Đa-Lộc.
Thể theo lời khuyên của gia chủ, pháp y Cảnh dựng xe ở nhà để xe đặng phòng trời đổ mưa bất thần.
Chiếc Air Blade của anh mà dầm mưa hơn một tiếng chắc chỉ còn có nước đem đi bán sắt vụn.
Chưa kịp xuống nhà sau pha trà đãi khách, Henrico Thạnh đã bị Martin Trần níu tay giữ lại.
Pháp y Cảnh mời hai vị Linh mục ngồi xuống nói chuyện trước cái đã rồi hẵng ăn uống sau cũng không trễ.
Và không để ai hở miệng, chàng trai xứ biển đã lên tiếng hỏi:
– Con muốn hỏi về nguyên nhân dẫn đến sự tử vong của Đức Giám Mục Vincent – Cao Nhật Trung.
– Không hiểu có chuyện gì mà bữa đó Cha Vinh-Sơn chạy ra hải cảng Ba Son vào lúc ba giờ sáng, khi trở về đem theo một bọc đồ…!biết cựa quậy.
Sáng ra thì bọc đồ ấy mất tiêu, hỏi Cha thì Cha nói có người bà con ở Đồng Nai nhân con nước thuận lợi nên hẹn Cha tới Ba Son lãnh gà về nấu cháo, thấy cặp gà bự quá nên Cha bèn cho một gia đình nghèo lại đông con trong Giáo xứ ăn.
– Thầy có kiểm chứng không?
– Có.
Gia đình Giáo dân đó không ngớt lời ngợi khen Cha Vinh-Sơn và nói cặp gà trống – mái ăn ngon hết sẩy.
– Vậy còn…!đứa con nít kia?
Augustino Dương thoáng giựt mình, nhưng ráng gượng cười mà trả lời:
– Thằng nhỏ mạnh cùi cụi hà.
Ít vô nhà thương lắm.
Hễ bú no là ngủ, thức thì ngồi chơi im ru chứ không quậy quạng gì.
– Tại sao Cha Matthias Hoàn lại không nuôi nó mà để mặc nó tự sinh tự diệt?
Augustino Dương sa sầm nét mặt:
– Đó là quyết định của Thầy ấy, tôi không muốn…
– Ở đây, con không đề cập tới chuyện đạo đức hay tín lý đức tin, con chỉ muốn hỏi lý do nào đã khiến Cha Hoàn phải bỏ mặc đứa nhỏ?
Henrico Thạnh xen vô trả lời:
– Vì Cha Hoàn còn phải nuôi một đứa con riêng, nếu như lãnh cậu này về nuôi thì rất có thể tánh mạng của dì ấy sẽ bị gặp nguy hiểm.
Pháp y Cảnh quắc mắt nhìn người Linh mục trẻ:
– Tại sao Cha Thạnh lại biết đứa nhỏ là nam?
Henrico Thạnh cũng đanh mặt lại mà lạnh giọng đáp:
– Tui nghe Thầy tui kể.
– Thầy nào?
– Đang ngồi chần dần một đống trước mặt anh đó.
Trần Cảnh Chiêu mời hai cha con qua Mỹ Tho ăn hủ tíu sa-tế.
Thay vì qua cầu, họ sẽ đi bằng phà: Không chỉ ngắm được quang cảnh Tiền Giang, mà còn bởi tuyến đường này hết sức an toàn và khách bộ hành không bị mất tiền vé.
Đến bắc Mỹ Tho, họ sẽ kêu taxi Uber tới rước.
Chiếc xe gắn máy của Martin Cảnh và Henrico Thạnh gởi ở bãi giữ xe trong chợ Tân Thạch, đương nhiên là phải mất tiền nhưng bù lại hai cái xe và ba cái nón bảo hộ còn nguyên-xi.
Gởi xe xong, Henrico Thạnh cười hỏi:
– Ăn gì hôn hai người?
Augustino Dương lắc đầu:
– No bụng rồi sao ăn ở bển nổi?
– Một phần có chút nị hà!
Vì đi từ Bạc Liêu lên Kiến Hòa từ hồi khuya nên giờ Martin Trần cũng cảm thấy hơi đoi đói, vậy là chàng pháp y xứ nhãn da bò bèn rủ Cha Dương đi ăn sáng.
Vốn không rành khu chợ nơi Cầu Bắc nên ba người Công Giáo chọn đại một xề bún riêu nằm ở mé hông trái của khu chợ.
“Quán” này mé trái nhìn thẳng ra cổng phụ, còn mé tay mặt có thể nhìn thẳng xuống cuối chợ nếu đường đi không bị xe cộ, khách bộ hành hoặc sạp hàng áng lối; cạnh bên có sạp bán bông cúng tỏa hương thơm phức, ngồi ăn mà tự nhiên nhớ Tết ghê!
Ngó vô tô bún riêu lớn hơn cái chén ăn cơm một xíu, Martin Cảnh cười hỏi:
– Bún riêu có bỏ đậu phộng rang nữa?
Henrico Thạnh nhếch miệng cười hỏi lại:
– Lạ lắm hen?
– Ờ.
– Lòng bò luộc bữa hổm ăn ngon lắm.
Luộc sao vừa ngọt vừa giòn vừa không tanh.
– Lòng bò phải luộc với nước dừa mới ngon đó Thầy.
Augustino Dương run giọng hỏi:
– Tao hỏi thiệt chứ xứ mày có món gì mà nấu không có trái dừa ở trỏng không?
– Có.
Món chiên, còn lại phần đông đều bỏ trái dừa vô.
Martin Trần hỏi:
– Bộ không chiên với dầu dừa sao?
Henrico Thạnh phá lên cười, rồi lắc đầu nguầy nguậy mà giải thích:
– Không, dầu dừa không để được lâu nên chiên lên hôi thấy bà cố nội luôn, ai nuốt cho trôi.
Trước đây thường chiên với mỡ heo, sau này thạnh hành dầu thực vật với cũng làm biếng thắng mỡ và thắng dừa làm dầu nữa nên người ta không còn chuộng hai loại trên.
Augustino Dương và Martin Trần chỉ biết cười trừ.
– Bởi, hổng phải làm phách, chớ dân xứ con thấy cây kẹo dừa là chạy xa tám giác.
Quanh năm suốt tháng ăn dừa gần như thay cơm nên mấy cái thứ đồ ngọt làm từ cây dừa dòm đã thấy ớn lên tới tận cổ thì làm sao nuốt cho trôi nổi.
Trước lúc lên phà, ba người ghé mua cà-phê ở một quán cũng mở trong khu chợ này; không chỉ để uống giải khát, mà còn khử mùi tanh đặc trưng của món mắm có trong bún riêu.
Men theo dòng người và xe cộ đông như mắc cửi, nguyên đám đã lên được chiếc phà còn nhiều tuổi hơn mình.
Để nhìn rõ cảnh sắc sông Tiền hơn, ba người quyết định ra mỏ phà đứng.
Henrico Thạnh cảm thán nói:
– Nếu muốn giúp đời sống bà con quanh đây khá hơn, hãy giữ lại bến phà này.
Nhờ có cái bắc này mà biết bao nhiêu người đã lay lắt sống tới ngày hôm nay, thậm chí có gia đình còn sắm được miếng đất – cất được cái nhà lành lặn.
Martin Cảnh góp lời:
– Phải, nó còn giúp phát triển ngành Du Lịch nữa.
Chắc chắn du khách sẽ rất thích linh đinh trên những chiếc phà có tuổi đời gần một Thế kỷ.
Henrico Thạnh tâm tình trong hai hàng nước mắt:
– Chưa bao giờ những chiếc phà này phụ rẫy khách của nó.
Chuyến nào chuyến nấy đều hết sức êm thắm, không một lần nào bị trục trặc giữa dòng.
Chỉ có con người là “có trăng quên đèn” mà thôi…
Bất giác, người trai xã Phước Thạnh ấy đưa mắt nhìn về cây cầu Rạch Miễu hẹp té như mành chỉ vắt qua dòng sông Tiền, lệ vẫn nhòa trên gương mặt chàng.
Có những niềm riêng không sao giãi bày được…
“Từ ngày xa đất Tiền Giang
Em theo anh về xứ cảnh đờn
Muỗi kêu mà như sáo thổi
Đĩa lềnh tựa bánh canh
Em yêu anh nên đành xa xứ
Xuôi ghe chèo miệt thứ Cà Mau…”
Tiếng hát chân phương của Hương Lan trong bài “Em về miệt thứ” của nhạc sĩ Mỹ Tho – Hà Phương vọng ra từ một chiếc xe vận tải cỡ nhỏ càng làm tâm sự của Phước Thạnh thêm nặng trĩu.
– Những người buôn gánh – bán bưng nhờ có cái bến phà này mà đã vượt sông qua Mỹ Tho an toàn…!Sức đâu mà cuốc bộ trên cầu nổi? – Henrico Thạnh vừa nói vừa nhìn vô chiếc xe bán chổi lông gà đủ màu sắc sặc sỡ.
Vài đứa trẻ bán vé số tụm lại nơi mỏ phà mà tỉ tê cho nhau nghe những chuyện mình thâu nhặt được trên đường mưu sinh.
Đứa nào đứa nấy đen nhẻm, tóc hôi mùi nắng cháy, mặt mày sạm nám hết, nhưng trên môi chúng không khi nào ngớt nụ cười.
Chúng làm gì có “Tuổi thần tiên” hay “Tuổi ngọc”?
– Mấy đứa…!
– Dạ?
Pháp y Cảnh vừa nói vừa mở bóp lấy tiền:
– Bán cho anh tờ vé số.
Đứa con gái thắt bính cười khoe hàm răng sún mà hỏi:
– Chú mua đứa nào chú?
– Mỗi đứa mười tờ.
Lựa giùm đi, chứ chú hổng có để tâm vô số “siết”.
Augustino Dương thương cảm hỏi:
– Mấy đứa ăn gì chưa?
Đứa con trai mặc cái áo tơi tả và lem luốc hơn “Trần Minh khố chuối” có sao nói vậy:
– Dạ rồi.
Ăn ổ bánh mì không rồi ông.
Biết Thầy nghèo “kinh niên” nên Henrico Thạnh lấy tiền của mình mà phát cho mỗi đứa vài chục ăn cơm trưa.
Đứa nào đứa nấy mừng rơn cảm ơn anh rối rít.
Xuống Bắc Mỹ Tho, trong lúc đợi chiếc xe Uber đã đặt tới rước, ba người đứng chờ dưới bóng mát của gốc cây thầu dầu ở đầu lộ.
Augustino Dương nói với giọng rầu rầu:
– Tụi nhỏ cần có người lo hơn là cần tiền.
– Con tính khi nào Giáo xứ được thành lập sẽ mở một ký nhi viện và các lớp khuyến học.
Trần Cảnh Chiêu xuýt xoa:
– Cha! Bộn tiền nghen?
Lệ Thu đang ca bài “Mùa Thu lá bay”; nhạc sĩ Kỳ Phát đặt lời Việt từ nhạc phim Đài Loan “Thiên ngôn vạn ngữ”.
Quán cà-phê ấy được thiết kế theo kiểu nhà Hội Đồng của xứ Nam Kỳ xưa, bên trong trưng bày rất nhiều đồ xưa và giả cổ, hầu để tạo bầu không khí xa xuôi và hoài niệm cho khách hàng.
Những chiếc xe gắn máy được xếp thành hàng ngay ngắn trên vỉa hè lát gạch mới coóng.
Augustino Dương tặc lưỡi:
– Hình như Stephen Đoàn đi chuyến xe đò của cái hãng xe bên bển.
Hai anh em Hùng – Dũng chi đó.
Pháp y Cảnh đưa mắt ngó theo hướng ngón trỏ của vị Linh mục già.
“Tin…”
Chiếc xe hơi hiệu Ford – Taurus trắng tuyết bóp kèn báo hiệu cho ba người hay rằng chủ nhân của nó đã tới.
– Cậu Chiêu lên đằng trước ngồi nghen?
– Dạ.
Vừa mới cài xong dây đai an toàn, người tài-xế trung niên kể:
– Quý vị có hay tin gì chưa? Tổng thống Khánh sắp ghé đây để tham dự một buổi triển lãm nói về ca – cổ nhạc.
Pháp y Cảnh giỡn:
– Ổng ca cải lương cũng lâu mà chưa chịu xuống há?
– Ui…!Dễ dầu gì chịu xuống.
Xuất thân thấp hèn như vậy, giờ một bước lên mây, mấy ai muốn quay về chỗ cũ.
Augustino Dương góp lời:
– Mà nghĩ cũng tài, lèo lái sao mà mấy cái Đảng họp lại hè nhau đuổi xuống mà quất không nổi.
– Hình như thằng chả nắm thóp từng khứa một hết rồi.
Mới hê lên chống đối là chả quăng bài ra diệt liền…
Chiếc xe bất thần thắng gấp để không ủi cái bà đi xe đạp thình lình băng qua lộ.
Báo hại Cha Dương lại đau lưng nữa.
– Chắc kiếp trước chả là “Thủ lĩnh thẻ bài”.
Nói đoạn, người tài-xế cho xe chạy tiếp.
– Chừng nào “Dân giàu, Nước mạnh” thì chả mới xuống, chắc tới khi chả còn cái cốt khô chả mới từ chức thôi.
Trần Cảnh Chiêu nhân đó hỏi:
– Mà, rốt cuộc Lê Hoài Sang họ Lê hay họ Trịnh vậy?
– Gốc là họ Trịnh, sau cải thành họ Lê.
– Bắc Kỳ phải không?
– Ừ.
Ổng vô Nam từ vụ “Nhân Văn Giai Phẩm”.
– Còn chi lạ nữa hôn anh? Cái máu nhiều chuyện của tôi nó nổi lên rồi.
Người tài-xế cười khẩy:
– Từ từ, đừng có nôn…!Để tôi kể “Truyện xưa tích cũ” của khứa Hoài Sang cho nghe.
Nhờ có người tài-xế Cái Bè mà chàng pháp y xứ nhãn da bò biết thêm rất nhiều tin tức liên quan đến Trịnh Hoài Sang.
Điều đầu tiên là dung mạo thời trẻ của ông ta rất tuấn mỹ và giọng nói thì đặc sệt Hà Nội – sau nhiều năm ở thành đô thì đã chuyển hẳn sang tiếng Nam Kỳ; trước đây làm việc tại một nhà in có tiếng gần Sở Thú, nhờ một cơ duyên mà đổi vận sang làm chánh khách cho đảng Dân Chủ, chẳng mấy chốc mà trở thành một thương gia giàu có và uy quyền trong xã hội.
Nghe đâu sau khi ổng chết con rơi con rớt bỗng đổ về như thác lũ, song người nào cũng là “ruột thừa” hết.
Augustino Dương bỗng nhớ tới đứa con “Chiên lạc” mang tên Ernest – Nguyễn Chí Công, rốt cuộc cha đẻ của nó là ai?
oOo
Sau lần chết hụt ở dưới Cà Mau, Ignacio Cường trở về Giáo xứ với một vết sẹo lớn nơi má trái.
Sẵn tánh lầm lì, anh lại càng khó gần hơn trước.
Louis Quế thập thò ngoài cửa buồng nãy giờ mà không dám bước vô.
– Vô đại đi.
Tôi không có ăn thịt Chiên đâu.
Nghe như vậy, Louis Quế mới dạn chân bước vô với một nụ cười mơn trên môi.
– Vợ tôi biểu tôi đem chè dưỡng nhan qua cho Cha ăn nè.
Ignacio Cường bật cười.
Vẫn trong tư thế nằm vắt tay qua trán suy tư, anh nói:
– Làm gì mà như sắp sửa tiến tôi vô cung vậy?
Thấy ông Chánh xứ không ngồi dậy chi sất, Louis Quế bèn lại gần và đỡ chàng ta ngồi dậy:
– Nè, ra ăn chè đi, nằm hoài sao mà khỏe được.
Không muốn làm buồn lòng Thầy Phó Tế, Ignacio Cường miễn cưỡng ra ngoài phòng khách ăn chè.
Trong lúc đợi Cha Sở đi đánh răng – rửa mặt và sửa soạn lại trang phục, Louis Quế xuống nhà sau pha trà; hộp trà Móc Câu này là do cháu trai của cố Phêrô Toàn mua nhân một dịp đi công tác ở miền ngoài.
Gian bếp của tu xá bày biện khá sơ sài và hơi…!bầy hầy, vì thiếu bàn tay chăm sóc của phái nữ; lâu lâu các Sơ có xẹt qua dọn dẹp giùm, ngăn nắp được đâu vài bữa rồi cũng trở về đơn vị cũ hết.
Từ trong nhà tắm vọng ra tiếng của Ignacio Cường:
– Chắc mốt tôi sẽ đổi tên Thánh: Từ Thánh Y-Nhã sang Thánh Y-Tế.
Louis Quế bật cười khúc khích, đoạn gục gặc đầu biểu:
– Ừ, không biết Cha bị cái chi mà gần nửa năm nay toàn bị thương trên mặt.
– Đã mặt mày không đẹp mà còn bị thẹo đủ đường.
– Cha mà “xí trai”, chắc không còn ai đẹp nữa…
– Đẹp chỗ nào?
– Bớt ngầu xíu là đẹp hà.
Ăn đâu được vài muỗng chè ngọt quá sức chịu đựng của mình, Ignacio Cường nhận được cuộc gọi từ một gia đình Giáo dân sống gần cổng Bắc của Giáo xứ.
– Có chuyện chi mà Cha giống như Songoku chuẩn bị biến hình vậy?
Ignacio Cường không nói không rằng mà chạy một hơi ra cổng Bắc.
Đi được nửa chừng, người Cha Sở gần tứ tuần gặp con trai trưởng của cố Phêrô Toàn; anh ta hối thúc Ignacio Cường lên chiếc xe bán tải của mình để kịp ra đó giải quyết sự vụ.
Một đội cảnh sát đặc nhiệm đã đứng dàn hàng ngang tự bao giờ.
Ba chiếc xe công vụ cũng đã đậu sẵn dưới gốc cây trứng cá, chừng như đang đợi bắt ai đó trong xứ.
Dưới sự ngáng đường của những trai tráng trong xóm Đạo, không một ai trong tốp cảnh sát có thể lọt vô nơi đây được.
Con trai Út của cố Phêrô Toàn đứng ra làm người đàm phán giữa hai bên.
Hai đứa con trai của anh Ba của Cha Vinh-Sơn cũng lên tiếng giảng hòa.
– Có chuyện gì đó? Sao lại kéo đến đây vậy hả?
Đội trưởng của đội cảnh sát lên tiếng:
– Cha có phải là Cha Chánh xứ ở đây không?
– Phải.
Xin hỏi trát tòa nào đã thổi các vị đến đây vậy?
– À…!Tôi không có giữ trát tòa.
Thanh tra giữ nó đang trên đường tới đây…
– Vậy thì chừng nào người đó có mặt thì các vị mới được vô trong xứ.
Cảm phiền các vị hãy tiếp tục đứng chờ ngoài đó đi.
Nhưng đội cảnh sát không có ý định nhượng bộ.
Nhân lúc cổng Bắc hãy còn chưa đóng, họ xấn xổ bước vô luôn.
Ignacio Cường phừng phừng lửa giận.
Anh xông tới chắn trước mặt viên đội trưởng mà gầm lên với đôi mắt long lên sòng sọc:
– Đâu? Trát tòa đâu? Ai giữ? Bước ra đây nói chuyện với tôi lẹ lên…!Mau!!!
Một viên cảnh sát rụt cổ cảm thán:
– Trời, Cha mà tưởng “Bố Cái Đại Vương”.
Chuông nhà thờ đã đổ.
Ba cánh cổng đã được đóng chặt, chỉ còn mỗi cổng Bắc mở toang mà thôi.
Những người trai tráng trong Giáo xứ đã thủ sẵn gậy gộc và giàn ná.
Viên đội trưởng nhếch miệng cười gằn:
– Hèn gì mà ai cũng biểu chốn này là “Ấp chiến lược” và “Khu tự trị”.
Ignacio Cường trừng mắt quát:
– Muốn bước chân vô đây, hãy trình trác tòa ra cho tôi coi! Còn nếu không có trác tòa mà vẫn muốn vô đây, trước hết hãy bước qua xác của tôi!
“Vút.”
Một viên đạn sắt bay ra từ giàn ná của một trong số những trai tráng của xóm Đạo là làm bể tấm khiên chắn của người đội trưởng.
Những mảnh vỡ nằm ngổn ngang dưới chân anh ta.
– Ở đâu ra “Tiểu Lý Quảng” Hoa Vinh vậy? – Một người cảnh sát run giọng hỏi.
Ignacio Cường ngoảnh đầu lại mà ra lịnh:
– Buông ná xuống hết!
– Dạ Cha!!!
Viên cảnh sát trưởng giận điếng người:
– Các người dám chống người thi hành công vụ hả?
Người trai vừa giương ná ra bắn la làng lên:
– Chúng tôi không chống, chúng tôi chỉ cảnh cáo và tự vệ thôi!
Cố Phêrô Toàn xuống nước năn nỉ:
– Có chuyện chi mà các vị phải thân chinh tới đây vậy?
– Chúng tôi nghi ngờ Giáo xứ đang chứa chấp tử tù bỏ trốn…
Ignacio Cường đã hiểu lý do nào mà họ phải phái cả đống nhân viên đến đây nên cơn Tam Bành càng lên cao tột độ:
– Đừng có xài chữ “Chứa chấp”, nếu không đúng Sự Thật thì coi chừng chúng tôi sẽ thưa anh ra tòa tới cùng vì tội vu khống và gây mất trật tự trị an!
Lời vừa mới dứt, những tràng hò reo ủng hộ đến từ bầy Chiên trong xứ vang lên ầm ĩ như sóng thần ập vào bờ.
Cố Phêrô Toàn và Thầy Phó Tế chắp tay năn nỉ bà con đừng bị kích động thái quá, rồi a thần phù mỗi người một góc mà nắm áo kéo ông Cha Chánh xứ dữ hơn cọp bị giẫm trúng đuôi lui về sau mấy bước.
Hai bên giằng co tới hơn hai mươi phút.
Tưởng chừng như sắp sửa xảy ra hỗn chiến thì đột nhiên khựng lại vì sự xuất hiện của một cô gái có má lúm đồng tiền rất dễ thương.
– Con mẹ “miền viễn Tây” nào nữa đây? – Một người trai tráng bực bội hỏi.
Một cô gái áng chừng ba mươi tuổi mặc đồ vest cách tân kiểu nữ bước tới gần Ignacio Cường mà nở nụ cười cầu hòa.
– Thanh tra đó hả? Có trát tòa không?
Châu Vỹ Tiên vừa nói vừa trao trát tòa cho ông Cha Sở bảnh bao như tài tử Hồng Kông:
– Dạ có.
Ignacio Cường xẵng giọng khoát tay mời:
– Cứ tự nhiên khám xét.
– Đội ơn Cha.
Rõ ràng người kia chỉ mới phạm tội “Cố sát”, nhưng đã bị định án là “Giết người”.
Kẻ chủ mưu đứng đằng sau chắc chắn không phải là kẻ bị đâm, mà là một ai đó cầm đầu đường dây buôn bán nội tạng…
– Cha.
– Sao?
– Đi với con nghen Cha?
– Đừng có xưng “Con” với tôi.
Thanh tra đây không phải là con Chiên trong Giáo xứ của tôi.
– Có ai khen anh đẹp trai chưa ông Cha trẻ?
– Thì sao?
– Người gì đâu sắt đá thấy sợ.
Tới khi hoàng hôn buông xuống, việc lục soát mới kết thúc.
Cô thanh tra tỏ ra khá thất vọng vì chẳng thu thập một xíu manh mối nào, thân nhân của tử tù cũng không trốn ở đây, ngay cả đồ đạc của nguyên gia đình ấy cũng không có để lại một món.
– Vừa lòng chưa?
– Dạ rồi.
Cố Phêrô Toàn sợ rằng hai bên lại bất hòa nên cuống quít mời cô thanh tra và lực lượng cảnh sát vô làm một ly nước giải khát rồi hẵng về.
– Thay mặt đồng đội, con xin cảm ơn cố.
Vì số thành viên của lực lượng cảnh sát lên đến năm mươi người nên phải chia khách cho mỗi quán cà-phê để làm mới xuể.
Do có chuyện riêng cần thảo luận với Cha Sở nên Châu Vỹ Tiên ngỏ ý mời ông Cha chọn một quán nào đó để cô làm chỗ thẩm vấn anh.
Quán cà-phê nằm ở cổng Nam Giáo xứ vẫn phát nhạc hà rầm như thường ngày dù trong quán không có một mống khách.
Sẵn đang ế, chủ quán bèn bắc ghế bố ra hông nhà nằm ngắm bông khế và nghe nhạc chơi.
Kiều Nga đang hát bài “Tình Hè rực nắng” do nữ nhạc sĩ Khúc Lan đặt lời Việt dựa trên nội dung ca khúc Pháp “Derniers Baisers” của nhạc sĩ Pierre Saka; giai điệu gốc của hai bản trên thuộc về tình khúc “Sealed with the kiss” của hai tác giả Gary Geld – Peter Udell.
– Xin phép tắt nhạc giùm con, thưa chú Năm.
Chú Năm lật đật ngồi dậy:
– Dạ Cha…!Cha với cô đây uống gì hôn tôi pha?
Trong lúc đợi đồ uống bưng lên, Châu Vỹ Tiên xin phép sử dụng nhà vệ sinh.
– Cha ơi…
– Dạ?
– Nhỏ đó là ai vậy?
– Điều tra viên Châu Vỹ Tiên, đến từ Tổ Trọng Án Đakao.
– Tự nhiên kéo đàn kéo lũ vô đây làm chi? Báo hại bữa nay chú lỗ sặc gạch.
Những gì mà hai người nói đều lọt vô tai Châu Vỹ Tiên.
Cô vẫn chưa vô nhà vệ sinh vì muốn nhìn thử phản ứng của ông Cha kỳ khôi kia, mặc dù bản thân đang hết sức khó chịu.
– Cô đi vệ sinh cho lẹ lên đi, rồi ra đây nói chuyện với tôi, đừng có đứng đó lóng tai nghe nữa.
Châu Vỹ Tiên sượng ngắt dạ nhỏ.
Cuộc thẩm vấn kéo dài một tiếng cũng không mang lại kết quả mà Châu Vỹ Tiên mong muốn.
Nhìn vào sắc diện của Cha Sở, cô không thể đoán được người này đang nghĩ gì trong đầu.
Mà phải công nhận, người gì đâu mà dữ và khó chịu bà sơ luôn.
Trước lúc ra về, Châu Vỹ Tiên cho ông Cha Sở số điện thoại cá nhân của mình, và xin anh ta làm ơn hãy liên lạc với mình khi nào có tin tức hoặc tìm thấy gia đình của người tử tù đó.
Ignacio Cường lưu số rồi, bèn gọi điện thử cho chắc ăn.
– Tôi cài nhạc chuông bài “Kill the Lights” của Britney Spears, anh thấy có hay không?
Ignacio Cường không ừ hử chi sất.
Châu Vỹ Tiên buồn bực nhún vai một cái, rồi cất giọng cáo từ.
May mà cha này đi tu, cha mà ở ngoài đời chắc làm khổ con gái người ta suốt đời.
Trời đã xẩm tối.
Người theo bước chim bay mà tìm về cái tổ của mình.
Hai hàng xe cộ qua lại ken dày như cá chốt miệt Bạc Liêu.
Những gánh hàng rong bày bán đầy trên vỉa hè rợp bóng mát đại thụ.
Ánh đèn phố thị không soi chiếu nổi những góc khuất của chốn phồn hoa đô hội.
– Đám ký giả về chưa? – Cố Phêrô Toàn chống gậy bước lại hỏi nhóm trai tráng.
– Dạ còn lẩn quẩn trong đây săn tin.
Cố Phêrô Toàn vuốt râu cười hiền:
– Biểu tụi nó vô đây lấy bài thì phải ăn ủng hộ quán xá trong này.
Trưa giờ có bán được nhiêu đâu.
– Dạ.
Rồi cụ day qua bảo Thầy Phó Tế đi mời Cha Sở đi ăn tối với gia đình mình.
Không dưng mà bão tố lại ập xuống cái Giáo xứ, cụ thừa hiểu tánh nết của cậu Linh mục nên dư sức biết nguồn cơn gây ra chuyện này.
Ignacio Cường đang ngồi một mình trên chạc cây ổi rừng đại thụ.
Hồi còn nhỏ mỗi lần gặp chuyện buồn hay trốn cây chổi lông gà, anh đều kiếm cái cây nào mà leo lên ẩn thân suốt mấy tiếng đồng hồ.
Bây giờ lớn rồi, anh vẫn giữ thói quen này, và còn thêm phần nghe nhạc.
Anh đang nghe Don Hồ ca bài “Đời quá điên cuồng”, không rõ ai đặt lời Việt từ ca khúc “Le monde est fou, le monde est beau” của đôi tác giả Julio Iglesias – Claude Lemesle; cùng nội dung với bản này, song phần trình bày của song ca Billy Shane – Duy Quang lại đề tựa là “Đời bao mộng mơ”, thế nhưng với màn biểu diễn của Vũ Khanh thì nó lại mang tên là “Thế giới điên cuồng”! Rốt cuộc tên bản Việt chính thức của nó và nhạc sĩ nào đã viết ra nó vẫn là còn một ẩn số đối với anh.
– Xuống ăn cơm với cố với vợ chồng tôi cho vui nè Cha.
– Xuống liền.
Hội Đồng Mục Vụ của Giáo xứ và ông Chánh xứ nhóm họp lại ở quán cơm của vợ chồng dượng Bảy.
Cố Phêrô Toàn trầm giọng hỏi:
– Cha phải cho Giáo dân biết rằng Cha có quen người tử tù đó không?
– Có.
– Có bao che không?
Ignacio Cường im lặng.
Cố Phêrô Toàn thở dài, rồi hỏi:
– Cái án đó oan hay là không?
– Không chắc.
Nhưng thể theo những gì mà người đó nói thì con thấy tòa tuyên án rất quá đáng.
– Tức là không đáng để chết phải không?
– Dạ.
– Thôi ăn cơm đi.
– Dạ.
Bữa cơm có món sườn xào chua cay, rau muống luộc, cá chẽm hấp kiểu Hồng Kông, tôm chiên sốt trứng muối, khổ qua – cà – ớt, canh măng nấu giò và móng heo, mực nướng sa-tế, chả giò rế nhân cua biển và gỏi ngó sen tôm – thịt.
Ignacio Cường hỏi Louis Quế:
– Mỹ chưa về hả Thầy?
– Dạ chưa…!Mà chắc sắp rồi đó…
Ignacio Cường cau mày:
– Suốt ngày lông bông ngoài đường.
Lời trên vừa vặn lọt vô tay Stephen Đoàn.
Anh ngó sững người bạn đồng quản xứ, rồi buồn hiu quay lưng đi một hơi ra ngoài lộ.
– Mỹ! Vô đây ngồi với cố nè con!
Ignacio Cường đứng phắt dậy, rồi chạy ra nắm áo Stephen Đoàn mà lôi xềnh xệch người bạn đồng tu vô trong quán.
Vừa kéo vừa trách:
– Sáng giờ đi đâu mà biệt tăm biệt tích?
Stephen Đoàn ráng sức gỡ tay của anh bạn đồng tu:
– Qua trường Dòng chấm bài thi phụ với mấy Thầy…!Tôi không có quởn đi yêu đương, tình tứ gì như anh nghĩ đâu mà anh lại giận tôi.
Những ngón tay của Ignacio Cường càng bấu chặt vào áo Dòng của ông Cha Phó:
– Cảm ơn vì anh đã không làm những gì như tôi nghĩ.
– Anh bớt nóng tánh lại đi.
– Tôi mà không dữ như vầy, cái Giáo xứ này còn nguyên hả?
Dì Bảy lật đật đi bới cơm và soạn đũa – muỗng cho Cha Phó.
Còn chồng dì thì đi lấy chai gel sát khuẩn cho Cha Phó rửa tay.
Phó Chủ tịch Hội Đồng lên tiếng hỏi:
– Cha Lớn với thầy Dự đâu rồi cố?
Cố Phêrô Toàn rầu rầu nói:
– Cha lại phải vô nhà thương chạy thận.
Thành ra thầy Dự phải đi theo hầu.
Louis Quế thở hắt ra một hơi, rồi khoanh tay mà giãi bày:
– Không nhờ Cha Thành im tiếng thì chắc Giáo xứ này bị thanh trừng rất nhiều người.
Ý là cha con ông Tám Què chỉ gặp Cha lần sau chót mà cô Liễu còn bị hại đời như vậy, huống hồ chi…
Dì Bảy hỏi Cha Phó muốn uống gì hôn để dì làm cho.
– Dì cho con xin một ly nước đá me, nhiều đá một chút nhe dì.
– Uống chanh muối nghen Cha Cường? Chiều giờ dây thanh quản hoạt động hết công suất rồi há?
Ignacio Cường nhếch miệng cười.
Sau bữa cơm căng thẳng như ngồi ăn trên bàn đàm phán giữa hai quốc gia đang có chiến sự với nhau, phần đông ai về nhà nấy, một số ít ở lại phụ vợ chồng dượng Bảy dọn dẹp và rửa chén – Hai ông Cha cũng có mặt trong nhóm này.
Chừng xong xuôi hết việc ở nhà dì Năm rồi, hai chàng Linh mục chia tay nhau mà đi làm chuyện riêng.
Loanh quanh trong Giáo xứ một đỗi hoài cũng mỏi chân, Stephen Đoàn bèn ngồi nghỉ nơi công viên mới xây của xứ.
Buồn tình, chàng ngồi thổi đàn bài “Xứ thâm trầm” của ca – nhạc sĩ Từ Công Phụng.
Những lời mà Trì Thương nói phưởng phất đâu đây: “Chỉ là huyễn tưởng anh dựng lên từ hình ảnh người mẹ quá cố.”
Từ ẩn ức trong đáy tim, chàng Linh mục xấu trai ngưng thổi mà cất cao tiếng hát:
“…!Tôi trở về xứ thâm trầm
Một mình sống âm thầm
Hoài đợi chuyến xe nào
Một lần đã qua
Đời chúng ta để lại dấu chân, người đã quên
Còn thắp lên, ngời sáng tình xưa…”
Hồi còn nhỏ, mẹ anh hay kể sự tích người hóa cọp, bây giờ anh đã được diện kiến tận mắt.
Con cọp đó đang nhìn anh chòng chọc như muốn ăn tươi nuốt sống.
– Hát hò gì hoài vậy?
– Hát cho vui ấy mà.
Ignacio Cường xụ mặt xuống trách cứ:
– Làm Linh mục mà suốt ngày “đờn ca tài tử”, há có dễ coi không?
Stephen Đoàn lắc đầu cười ngượng, rồi cất tiếng mời người bạn đồng quản xứ coi bộ phim kinh dị “Gates of Darkness”.
Ignacio Cường đồng ý, rồi nói rằng sẽ qua phòng của Stephen Đoàn coi phim.
Anh cũng nói luôn sẽ đem qua bắp rang bơ và nước ngọt.
Vì đất rộng Chiên nghèo nên đèn đường trong xứ quãng có quãng không, muốn đi đâu cũng phải xách theo đèn pin hoặc đèn soi ếch.
Với những người có tâm hồn lãng mạn thì nơi đây là chốn ngắm sao đêm và thưởng hoa khuya lý tưởng.
Còn những ai mê câu cá, bắt ếch thì cũng ̣được thỏa lòng.
Tu xá của họ nằm cách nhà thờ ba trăm mét, được cất theo kiểu nhà mái bằng và quét sơn màu xanh da trời.
Tầng trệt là tiền sảnh, phòng tiếp khách, bếp ăn, nhà kho, nhà để xe, thư viện, phòng dạy giáo lý kiêm luôn nơi tập đàn hát và biểu diễn văn nghệ phục vụ cho các buổi lễ lạc trong xứ.
Tầng một có sáu phòng ngủ và một ban-công ngắm cảnh – đón gió với ánh sáng.
Cả hai tầng đều có nhà vệ sinh và phòng tắm.
Stephen Đoàn ở phòng số Bốn, nằm ở mé tay mặt, sát với ban-công; còn Ignacio Cường ở phòng số Một, nằm ở mé tay trái, sát với cầu thang.
Một bộ phim kinh dị không mấy xuất sắc, tình tiết thường thường bậc trung, thành ra Ignacio Cường không hiểu tại sao anh bạn đồng tu lại muốn mình coi chung bộ phim này.
Vừa vốc một bụm bắp rang bơ hạnh nhân, Ignacio Cường vừa hỏi:
– Tại sao anh lại cho tôi coi bộ phim này?
– Bởi tôi muốn hỏi anh: Nếu chúng ta thấy cỏ lùng, chúng ta sẽ câm cái miệng lại hay là lên tiếng bài trừ?
Ignacio Cường che miệng nhai bắp rang và hỏi:
– Anh nghi ngờ Cha Lớn?
– Tôi không hiểu vì lý do nào mà chuyện mạo danh Cha Thành không tới Tòa Thánh Vatican…
– Đức Cha Thái có hướng đi của riêng mình.
Stephen Đoàn buộc miệng:
– Hướng đi nào? Bao che cho tội phạm hả?
Ignacio Cường nắm cổ áo anh bạn đồng tu mà gằn giọng hỏi:
– Anh dám vu khống cho Cha sao?
Hết cách, Stephen Đoàn đành thuật chuyện của cha ruột.
Kể xong, anh nói sẽ gọi cho phụ tá của Đức Tổng Giám Mục Gabriel – Đinh Thái, tức là Raphael Đinh Lễ.
– Ở đâu anh có số điện thoại riêng của Raphael Đinh Lễ?
Stephen Đoàn ấp úng:
– Tôi xin từ một người bạn…
Ignacio Cường giơ hai tay chịu phép:
– Thôi, xin của ai cũng được.
Sau một hồi đổ chuông, đầu dây bên kia vang lên một giọng nói thật trẻ và hiền:
– Xin hỏi ai ở đầu dây bên kia vậy?
Ignacio Cường hướt mà đáp:
– Cha Sở Ignacio – Huỳnh Đức Cường và Cha Phó Stephen – Đoàn Ngọc Mỹ; đồng quản trách Giáo xứ Saint Pio.
– Làm gì mà hai anh kiếm tôi một lượt vậy?
Stephen Đoàn vào đề luôn:
– Có thể ra ngoài nói chuyện một lát được không?
– Không.
– Tại sao?
– Sợ bị bắt cóc.
Ignacio Cường bực mình nạt:
– Đồng ý hay là không? Chuyện này không đáng để giỡn đâu.
– Chúa ơi, Cha gì mà dữ như cọp vậy? Thôi con ra liền cho vừa lòng cha.
Chỗ nào?
Kết thúc cuộc gọi, Stephen Đoàn quay qua trách Ignacio Cường:
– Anh thấy không, ai cũng nói anh dữ như cọp vậy.
– Giờ muốn đi chung xe với cọp hay đi riêng?
– Đi chung.
Đi taxi.
– Được.
Ước khoảng hơn nửa tiếng, chiếc xe Uber mà hai ông Cha đặt mới tới Giáo xứ.
Đô thành về đêm đèn đường rực sáng.
Giấc ngủ vắng mặt ở những con đường Bùi Viện và một vài địa điểm khác.
Đã lâu mới ra đường vào giờ này nên hai chàng Linh mục lấy làm lạ lẫm và bợ ngợ lắm.
Thú ăn chơi của một người đàn ông ngoài đời có đôi lần nhen nhóm trong trí óc họ, nhưng rồi nhanh chóng bị thổi tắt mất.
Vốn thân phận tu sĩ nên họ rất ngại khuyên những nam giới đồng trang lứa với mình đừng quá mê mẩn chuyện gối chăn.
Nhiều người bị nặng tới nỗi hễ mở miệng ra là phải đề cập đến, ai khuyên bớt bớt lại thì quay sang chửi ngược người đó đạo đức giả và thóa mạ đủ điều.
Riết rồi biết ai có sở thích như vậy thì họ tự động không chấp nhận “Kết bạn” trên các nền tảng xã hội; khuyên không được thì cũng khỏi cần thấy luôn.
Đến Lăng Ông – Bà Chiểu, hai người nhắn tin cho Đinh Lễ hay rằng họ đã tới.
– Tôi đây.
Một người thanh niên khoác áo jacket, mặc quần jeans xanh, đi giày Converse cất tiếng chào hai người.
Rồi lững thững dắt chiếc xe gắn máy phân khối lớn lại gần họ.
Sau một đỗi ngắm nghía hai ông Cha trẻ măng, Raphael Lễ bật cười nhận xét:
– Tôi gặp Cha Sở mà tưởng đâu gặp Võ Tánh.
Còn bên này là Ngô Tùng Châu phải không?
Stephen Đoàn đùa lại:
– Vậy chắc anh là Trịnh Hoài Đức?
Raphael Lễ tếu táo đáp:
– Không, tôi là Đinh Lễ.
Ba người Linh mục ghé một quán nhỏ ven bờ kè Thị Nghè ngồi nói chuyện.
Quán dựng bằng cây dừa và lợp mái bằng cỏ tranh, bốn bề gió lùa vô nên không gian trong nhà hết sức mát mẻ và thoáng đãng.
Vài đôi tình nhân vừa ăn uống vừa trao nhau những lời ngọt ngào; thành ra chủ quán phải chọn những tình khúc lãng mạn để chiều theo ý khách, do đó mà nơi đây không khi nào ngớt câu ca – tiếng nhạc.
Trong quán đang phát bài “Hãy vui đùa” do Ngọc Lan hát chính, còn Minh Phúc hát bè; ca – nhạc sĩ Minh Phúc đặt lời Việt từ bài hát “Jouer pour gagner” của ca – nhạc sĩ Pháp Klaxon.
– Giãn hai cái lông mày ra đi rồi chúng ta vô đề.
– Raphael Lễ ngó Ignacio Cường mà cười khổ.
– Đã rõ.
Biết cuộc đàm đạo này sẽ kéo dài ít nhất hai tiếng, Raphael Lễ bèn gọi vài dĩa đồ ăn để làm đẹp lòng chủ quán.
Anh kêu phao câu nướng, chân gà nướng sa-tế và tôm nướng muối ớt.
Stephen Đoàn ngần ngại ngỏ ý:
– Tôi muốn biết xuất thân của Đức Cha Thái.
– Đưa điện thoại của hai anh cho tôi giữ.
Sau khi làm theo yêu cầu của Raphael Lễ, hai ông Cha mới được nghe người Linh mục phụ tá kể lại đầu đuôi mọi chuyện:
– Sinh ra trong một khu xóm nghèo nàn ở Bình Dương, thành ra Cha Gabriel không được cho đi học theo đúng độ tuổi quy định, mãi đến khi được mười tuổi mới được đi học ở một lớp bổ túc ban đêm.
Năm mười một tuổi bắt đầu tham gia một băng du đãng để kiếm sống.
Năm mười lăm tuổi dời địa bàn lên Sài Gòn; không may trong một phi vụ cướp xe gắn máy, bị chủ nhà phát hiện đập gãy giò…
Raphael Lễ ngừng kể để ăn một xâu phao câu nướng.
Ignacio Cường sốt ruột hỏi:
– Sao đó sao anh?
Vừa che miệng nhai, Raphael Lễ vừa nói:
– Từ từ cha…!
Stephen Đoàn gọi thêm một hộp xâu đồ chiên cỡ lớn và ba hột vịt lộn chiên bột.
– Đồng bọn chạy hết, để lại Cha Gabriel ngồi bệt trên vỉa hè với cái chân bê bết máu.
Lúc đó Cha Giuse – Blanc đang đi mua đèn cầy về cho Cha Vinh-Sơn, trông thấy nên động lòng trắc ẩn mà giúp đưa tới nhà thương của Dòng Chúa Cứu Thế.
Nếu hôm đó Cha GB đến trễ hơn một chút hoặc giả là không đi ngang qua, ắt hẳn Cha Gabriel đã bị cưa chân.
Sau ngày hôm ấy, Cha Gabriel ở cố lì trong Giáo xứ St.
Pio luôn, và suốt ngày vùi đầu vào học tập cũng như rèn luyện thể thao, nên chẳng mấy chốc Cha Gabriel đã hoàn thành được chương trình phổ cập giáo dục và tốt nghiệp xuất sắc ngành Thần Học cùng Tâm Lý học.
– Chịu ơn nặng vậy chắc Cha GB làm gì Cha Gabriel cũng…
Stephen Đoàn chưa nói hết lời đã bị Raphael Lễ cắt ngang:
– Tôi không tin Cha Gabriel thiên vị như vậy đâu.
Rồi ngập ngừng, chàng Linh mục họ Đinh ấy giãi bày:
– Nhưng độ rày, Cha Gabriel mới thăm lại Cha GB, còn khoảng độ hai mươi năm về trước thì không.
Hồi đó mỗi bận đi gặp Cha GB, Cha Gabriel buồn bực dữ lắm, nhưng người nào hỏi hay đề cập tới đều bị Cha Thái gạt phăng.
Ignacio Cường cau mày hỏi:
– Còn bây giờ thì sao?
– Mừng như Bá Nha gặp lại Tử Kỳ vậy.
Stephen Đoàn hỏi:
– Cha GB vô bệnh viện chạy thận sáng giờ, anh có nghe Cha Gabriel vô thăm không?
– Có.
Ở trỏng sáng giờ nè.
…
Cũng trong đêm đó, ở một bốt điện thoại công cộng trên con đường Trịnh Hoài Đức, Thường Khán Bình đang nói chuyện với một người tự xưng là có vài tin tức liên quan đến anh Hai Khán Cảnh của hắn.
Trong lúc đợi anh ta quay lại, anh ta mời Khán Bình nghe bài “You belong to the City” do Glenn Frey trình bày.
Chừng mười lăm phút sau, mới thấy anh ta gọi tới.
Đầu dây bên phía anh ta vang lên tiếng rè rè như tiếng quạt máy đang chạy.
– Ông Thường Khán Huyền và bà Nguyễn Kiều Trinh mạnh giỏi chứ?
– Thầy mạ tôi vẫn thường, cảm ơn anh.
Mặt Xương hỏi Khán Bình:
– Sẽ ra sao nếu cậu biết chính người thân của thằng bạn là nguyên nhân dẫn đến cái chết của anh Hai cậu?
– Tôi chưa thể nào chấp nhận được.
– Đang có một chiến dịch xui người khác tự tử để cướp nội tạng.
Loại thuốc mà chúng bày bán có thể làm ngưng tim của người uống tạm thời; nhân lúc nạn nhân bất tỉnh, chúng sẽ mổ sống nhằm bảo đảm nội tạng của nạn nhân còn tươi…
– Tại sao anh lại nói chuyện động trời này với tôi?
Nhưng người đàn ông đó đã cúp máy.
Để lại Khán Bình đứng suy tư như bức tượng.
– Bình!
Ba hồn bảy vía của Khán Bình tưởng chừng bay đi đâu mất tiêu vì tiếng thét của thằng bạn Bảy Núi.
– Đi ăn mỳ Quảng với tụi tao…
– Ai trả tiền?
– Đương nhiên là thằng Ngạn rồi.
– Tưởng mày chắc sáng mơi tận thế.
Quán cao lầu ấy nằm đối diện với vũ trường “Midnight”, mở cửa từ lúc mười một giờ trưa đến ba giờ rưỡi sáng, lúc nào cũng lai rai khách.
Ai nấy đều kêu thêm chén da heo chiên và bánh tráng mè nướng.
Về đồ uống, mỗi thằng đều gọi theo sở thích riêng.
Trong lúc đợi đồ ăn – thức uống dọn lên, nguyên đám ngồi nghe Duy Quang ca bài “Tình điên” của nhạc sĩ Trần Quảng Nam.
Ăn mỳ Quảng thì phải nghe nhạc của ông nhạc sĩ gốc Quảng mới đúng điệu.
Nguyễn Chí Công cho mấy thằng bạn coi hình chụp cha mình.
Đức Hoàng sáng trí nên đã hiểu ra vấn đề, hắn bèn nêu ra giả thuyết:
– Bởi vì cái bà đó và ba mày, hai người ấy đều học chung một trường Mỹ Thuật, thành ra…
Nguyễn Chí Công nhìn thằng bạn Thần Kinh mà kêu:
– Bình.
– Sao?
– Nếu tao là con của Lê Hoài Sang…!tao có nên đòi lại tài sản của mình không?
Khán Bình nhếch miệng cười khinh khỉnh:
– Ba mày do tham nhũng mà có ngần đó tiền, chưa đụng tới là tài “con buôn” của má ghẻ mày, nên họ mới giàu kếch sù như vầy.
Mà, tự nhiên thấy sang bắt quàng làm họ chi vậy?
– Sao mày biết bả là má ghẻ của tao?
– Vì cái bản mặt mày có giống bả chỗ nào đâu, nên nương theo giả thuyết của mày thì tao luận rằng mày với bả không phải ruột thịt.
Tống Ngạn càm ràm:
– Cái nhà kiểu gì mà không có một bức ảnh cưới hay hình chụp cha Sang hồi trẻ.
Làm như ổng là Pharaoh vậy.
Đức Hoàng nhắc:
– Thôi lo ăn đi.
Nhưng những gì mà người xa lạ đó nói vẫn vang vọng nơi tâm trí em trai người tử tù oan Khán Cảnh.
Khán Bình hỏi Đức Hoàng:
– Theo mày thì sao ổng – bả không bỏ nhau?
– Bởi vì hai người cần cộng sinh với nhau để kiếm tiền nên họ quyết định không ly dị.
Có thể nói tâm trạng của bà ta hệt khuôn bài “Rumor has it” của Adele.
Vừa hay nhân viên dọn bàn ăn lên nên Chí Công không bị buộc miệng mà nói hớ.
Đợi nhân viên rời đi, Đức Hoàng mới bình phẩm:
– Bà đó nói chuyện y chang “Trinh nữ lầu xanh”.
Tống Ngạn chen vô nói:
– Thì “Gái đ* già mồm” mà.
Đức Hoàng lại nhận xét nữa:
– Suốt ngày lên đài dạy người ta chăm lo gia đình, trong khi cái nhà của mình thúi rùm.
oOo
Bữa nay má con mợ Hai rủ Hoàng Lan ra Phú Quốc chơi.
Họ thuê một căn homestay một lầu có tầm nhìn hướng ra biển, được ba phòng ngủ có nhà vệ sinh riêng và nhà để xe đủ rộng để cất một chiếc xe hơi và ba chiếc xe gắn máy.
Tần ngần nhìn cái đầm hai dây một đỗi mà mợ Hai vẫn không dám mặc.
Hồi còn xuân sắc thì không có tiền mua về diện và cũng chẳng có dịp đi biển chơi để bận, giờ có tiền có của thì đâu còn thân hình nuột nà năm xưa.
– Mặc đại đi má, mình đi biển mà, bận đồ kín mít mới kỳ đó.
– Thiệt hả con? Hổng có gạt má nhe?
– Gạt chi trời?
Nghe con trai khích lệ, mợ Hai mừng rơn trở về phòng thay đồ.
– Cha Hai.
– Chi em?
– Đứng cho tôi đo cái.
Chú Thương đứng nghiêm cho mối tình đầu lấy thước đo.
– Còn cái đáy quần…
– Ghi đại năm tấc đi.
Hoàng Lan liếc xuống một cái, rồi bĩu môi nói:
– Ghi vị bụng hai tấc là quá lắm rồi.
Tính làm dân Hip-hop hay gì mà mặc cái quần xệ đáy dữ vậy?
Chú Thương tủm tỉm cười.
– Thôi, lát tôi nhờ mợ Hai đo giùm.
Nói xong, Hoàng Lan ngồi vào bàn may đồ tiếp.
Chưa kịp ghẹo người thương câu nào nữa, điện thoại của Trần Kim Thương đổ chuông nên anh phải tiếp cuộc gọi này.
– Biết gì hôn Thương?
– Hông.
Có nói đâu mà biết.
Ba Beo bực mình kể lể:
– Xém chút nữa là “Máu nhuộm sân chùa” và “Hỏa thiêu Hồng Liên tự” rồi…
Nghe hết đầu cua tai nheo sự tính, tự nhiên chú Thương rất muốn dán cho nó lá bùa trị ngu mà hồi nẳm hồi năm Lâm Chánh Anh đã từng dán lên mặt mấy con cương thi.
Khi khổng khi không rước cái thằng ôn dịch “Gạo thơm Sóc Trăng” về nuôi làm chi cho mang họa.
Than thở chán rồi, Ba Beo cười hỏi:
– Tính làm “Gia Long phục Quốc” hay gì mà ra tuốt ngoài ngoải vậy?
– Mày nói chuyện y như người tao yêu.
– Mày đừng nói mày yêu tao nha?
– Bớt khùng đi mậy.
– Á…!à…!Có con Lan đi theo phải hôn? Trời ơi con nhỏ đó có thương mày đâu mà bâu theo nó hoài vậy…!A-lô…!A-lô…
– Bạn con gọi tới mà sao cúp máy ngang dạ?
– Nói chuyện nghe thấy ghét.
– Nó nói đúng mắc gì ghét nó?
Biển này thông với Thái Lan.
Biển Bình Đại – Bến Tre cũng vậy.
Những đoạn sử thiêng của nước Việt Nam ghi biết bao dấu ấn ở tại đây.
“Máu nào phác họa sơn hà
Xương nào gây dựng cơ đồ Việt Nam.”
Trước lúc tới nhà hàng ăn trưa, ba người nán lại dâng hương và sắp mâm bánh trái cho một cái miễu vô danh ven đường.
Mợ Hai gác tay lên thành cửa sổ mà ngậm ngùi nghe Hoàng Oanh ca bài “Ưu tư lần đầu” của nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng, trong bài này ba ông ký tên là Mạc Phong Linh.
– Phải chi ba bây còn sống thì hay quá.
Chú Thương giờ mới nhớ ra hồi đó ba má mình đã ghé Phú Quốc hưởng tuần trăng mật.
– Ổng cũng là một người sanh bất phùng thời, phải vùi chôn tài năng theo dòng đời để tồn tại.
Do muốn riêng tư nên tuy chỉ có ba người họ vẫn đặt phòng ăn.
Căn phòng đó nằm trên tầng Hai, có thể nhìn thấy rất rõ khung cảnh hai bên đường.
Trong phòng bật những bản nhạc không lời du dương của Mozart, Beethoven,…!nghe thật hay và êm tai.
Sau bữa trưa đầy mỹ vị, do biển động nên ba người đành quay về nhà, chứ không tản bộ tiêu thực như đã định.
– Con lại may đồ nữa hả Lan?
– Dạ.
Sắp có cuộc thi thiết kế trang phục dạ vũ cho nam nên con phải làm gấp.
– Hèn chi mà con biểu thằng Hai làm người mẫu.
– Í, mợ đo giùm con phần đáy quần đi.
Con hổng đo đâu.
– Anh nói rồi mà: Năm tấc.
Mợ Hai vỗ vô mông con trai trưởng cái chát:
– Năm tấc con khỉ chứ năm tấc.
Nó may đồ dạ vũ để nhảy đầm chứ hổng phải nhảy Hip-hop.
Hoàng Lan xém chút nữa là đẩy ngón tay vô kim dập vì tức cười chịu không nổi.
Vừa lấy thước dây đo, mợ Hai vừa bình phẩm:
– Mà bó quá “thằng nhỏ mệt” thì thằng lớn cũng khó sống.
– Bữa đó anh làm người mẫu cho em nghen?
– Nhờ vả người ta nói ngọt ghê luôn!
– Giờ cha muốn con nói xẵng phải hôn?
Sẵn đây, mợ Hai hỏi:
– Mợ vẫn không hiểu tại sao lúc đó không ai giúp con?
Hoàng Lan ngừng may, cô ngẩng mặt lên nhìn bà mà trả lời:
– Dạ, khu vực đó có nạn chăn dắt trẻ em cơ nhỡ, chúng bắt tụi nó đóng giả là con nhà tử tế đi lạc người thân, hễ ai hảo tâm tới giúp đỡ là chúng sẽ kiếm cớ làm tiền liền.
Thành ra ai cũng sợ con là đồng bọn của chúng hết.
– Rồi sao cái bà bán bột nui đó giúp con?
– Dạ, thím Ba nghe con nói chuyện với anh Thảo thì nắm được đúng thiệt con có gia đình đàng hoàng nên đã gọi điện báo cảnh sát tới mà nhờ họ tìm người thân giùm con.
Lúc đó hổng có anh Thảo chắc con chết vì khát nước rồi.
– Sao con hổng xin người ta miếng nước?
Hoàng Lan lắc đầu:
– Cũng vì cho tụi nó đồ ăn – thức uống mà rất nhiều người đã bị làm tiền.
Số là vầy: Hễ ăn uống được một miếng, tụi nó sẽ ôm bụng la làng la xóm ầm ĩ, tỏ ý là bị trúng thực; rồi đó đồng bọn của chúng sẽ ùa ra bắt đền, người nào không ói tiền ra trả là bị hành hung dã man…
– Trời ơi!
– Cái ơn cứu mạng của anh Thảo lớn lắm.
Bởi giờ biểu con thương cha Hai con không có thương nổi…
Mợ Hai tặc lưỡi:
– Vậy tại sao con lại lộn thằng Thương ra thằng Thảo?
– Một phần vì sợi dây chuyền, một phần vì con nghĩ hồi đó mình còn nhỏ và cũng đang trong cơn bấn loạn nên nghe lầm thành “Thảo”.
Chú Thương buồn hiu bỏ xuống nhà bếp làm bánh.
Vừa hay Vệ Thu gọi điện qua nên phần nào đã giúp mợ Hai thoát khỏi cơn lúng túng.
Bà hấp tấp bắt máy và nói:
– Ông hả?
– Tui đây.
Xin giới thiệu với bà thằng con thứ Hai của tui.
– Vệ Cung đây hả?
Người đàn ông đó độ chừng ba mươi hai, ba mươi ba, mái tóc hơi xoăn màu nâu hạt dẻ để dài ngang vai và cột lại thành một túm nhỏ ở chóp đuôi bằng sợi dây thun màu đồng.
Dáng dấp cao ráo, thanh mảnh, nhưng vẫn có khí chất can cường, nam tính chứ không bị yếu đuối, èo uột.
Dòm tới gương mặt thì có vẻ là con lai, mà hên sao lai toàn nét đẹp và quý tướng nên trông bô trai, bảnh tỏn lắm.
– Bà coi, tui mới dìa bển có bao lâu đâu, mà nó rình rình để tóc dài với bấm khuyên tai rồi.
Trong mười hai con giáp hổng giống con nào.
– Giống ba là được rồi.
– Tao ở bên kia thì tao dính thằng Thương, tao quành về đây thì tao bị mày.
Trước sự bợ ngợ của bà ghệ và nhỏ Lan, Vệ Thu niềm nở giới thiệu:
– Bà ngoại nó mang hai dòng máu Tây Ban Nha – Phi Luật Tân: Tây của ông cố và Phi của bà cố; còn ông ngoại nó là Hoa kiều Hồng Kông.
Tui là Hoa – Việt: Ba người Hoa và má người Việt.
– Hèn chi cái mặt nó nửa Tây nửa Tàu nửa Á nửa Ta.
– Bà miêu tả nó giống cái bánh bông lan mà bà hay bán quá, chia làm bốn phần mới chịu.
– Ảnh có đi làm người mẫu không chú?
– Nó đi bộ còn vấp té, huống hồ chi là đi catwalk.
Nó ném về trớt quớt thì có.
– Ủa kỳ vậy chú?
– Nó bị cận con ơi.
– Uổng ha?
Vệ Cung mỉm cười mà nói cảm ơn Hoàng Lan bằng thứ tiếng Việt lơ lớ của mình.
– Nó hổng phát âm được chữ “Cua” tròn vành rõ chữ đâu.
Mỗi lần nó nói là y như rằng sẽ bỏ mất vần “A”.
Rồi bỗng nhiên ông đổi chủ đề:
– “Phát âm” thì kêu “Đài từ”.
Cái chữ này gốc Tàu chứ không phải là Hán – Việt.
Hoàng Lan tiếp:
– “Phi hành đoàn” thì kêu “Tổ lái”.
Mợ Hai tò mò hỏi:
– Công việc bên ông độ rày sao rồi?
Vệ Thu vô đề luôn:
– Có nhiều người tính tiền ăn gian ở quầy thu ngân tự động.
Nói cho bà dễ hiểu: Thí dụ bà mua năm món, nhưng “cà” mã vạch chỉ có bốn món; thành ra ở siêu thị mà tôi đang hợp tác làm ăn, họ phải cắt cử nhân viên đứng canh và soát hàng, bằng cách hễ ai “cà” mã vạch xong thì phải đứng đợi nhân viên đó kiểm tra và quét thẻ xác nhận rồi mới bấm nút tính tiền được.
– Nhưng ăn gian dễ hôn ông?
– Hông.
Hễ bà xách món nào mà chưa tính tiền bước qua cửa trước, “con chip soát mã vạch” gắn trên thanh ngang của cánh cửa sẽ hú liền; lúc đó tên tuổi và hình ảnh của bà vụt sáng hơn minh tinh Hollywood.
– Rủi nó hổng báo động thì sao?
– Thì cũng có sản phẩm bị lỗi mã vạch.
Mã vạch của nó sẽ không “cà” được và cũng không kêu lên nếu bà bước qua cửa trước.
Nhưng xác suất đó còn thấp hơn tỷ lệ thấy sao băng bằng mắt thường nữa.
Mợ Hai hỏi:
– Sao người ta thích tự tính tiền vậy ông?
– Tại tự mình tính tiền thì hóa đơn sẽ không bị tính thuế.
Còn nhờ nhân viên làm thì sẽ bị cộng thuế để phụ siêu thị trả tiền mướn người đó ấy mà.
– Vậy ra ông bán máy tính tiền, máy bán đồ ăn – thức uống, máy rút tiền, máy đếm tiền,…
– Máy hong khô tay, máy khử mùi và diệt khuẩn cho cầu tiêu – nhà tắm, máy gắp thú nhồi bông, máy giao dịch các loại tiền điện tử, máy bán vé số, máy pha chế nước giải khát và kem,…
– Mèn đét ơi! IQ cao dữ thần vậy? Sớt bớt cho tui miếng coi, ông chồng tui hồi xưa chửi tui ngu hoài hà!
– Cái này là bà tự thừa nhận chớ hổng phải tui nói à nha?
– Hèn chi thằng Thương nó giống tui, học hành như nước đổ lá môn.
– Ủa thằng Thương bên tui đâu phải con bà sao nó…
– Nó giống má nó.
Mùi bánh nướng thơm phức bay lên nhà trên làm hai cô cháu ngoáy đầu lại nhìn.
Không biết Thương đang làm món tráng miệng gì thết đãi họ.
Bên phía hai cha con họ Vệ, Vệ Cung đang ngồi ăn nửa khúc bánh mì “Subway” và uống cà-phê “Starbucks”.
– Bà có biết bên đây tui không ưa điều gì hôn?
– Gì?
– Lúc nào cũng đòi khẩu phần thiệt lớn.
Bà thấy cái ổ bánh mì dài bằng cánh tay tui không? Vậy mà vẫn còn bị nhiều người lên trang mạng của công-ty phàn nàn nhỏ quá, mắc quá, nhưn ít quá, ăn không đáng tiền.
– Trời đất ơi, cái bánh dài thoòng như con nưa mà còn chê có chút éc, hèn chi phần đông người bên bển bị mập.
– Ừ, cỡ bà với nhỏ Lan ăn chung nửa khúc còn không hết chớ đừng nói chi là một ổ.
Chú Thương ở nhà sau hỏi vọng lên:
– Chú thấy người Mễ sao chú?
– Họ mạnh dữ lắm đó con.
Năm người Việt mình mới bằng sức làm của một người Mễ.
Nhưng cũng vì vậy mà sức ăn của họ rất khỏe, thành ra họ kiếm được bao nhiêu thì đổ gần hết vô tiền ăn rồi.
Song, Ông Trời không cho ai toàn mỹ hết.
Về độ khéo léo thì người Việt mình trội hơn người Mễ rất nhiều.
Bên đây, ngành thẩm mỹ và những nghề cần có hoa tay thì dân Châu Á chiếm một tỷ lệ rất cao và khó lòng mà những sắc dân khác cạnh tranh nổi.
Nói chuyện nãy giờ không để ý, lúc này mợ Hai mới thấy cái đồng hồ nơi cổ tay trái của ông ghệ.
Bà chưng hửng hỏi:
– Ê cha, cha là tỷ phú phải không?
– Không, không, em mới tới triệu phú thôi chị.
Bán ba cái này nghe “hào nhoáng” vậy chớ hổng có lời bao nhiêu đâu.
– Xạo…
– Kệ chị.
– Đeo cái đồng hồ Rolex đính hột xoàn chiếu muốn đui con mắt mà nói lời hổng có bao nhiêu.
– Kim cương chị ơi, hổng phải hột xoàn.
– Thôi nghe người giàu nói chuyện mệt lỗ tai quá…!Tui xuống lấy bánh lên ăn đây…
– Khoan đi đã!
Mợ Hai nhướng mày suy nghĩ, rồi tặc lưỡi ngồi lại chỗ cũ.
– “Triple Leaf Teas – Sugar Balance”, rất tốt cho phụ nữ mãn kinh.
Tui còn có mua loại “Cold and Flu time” cho má con bà uống ngừa cảm cúm.
Riêng cô Lan…
Đôi mắt Hoàng Lan mở bừng:
– Sao bác Hai?
– Bác biết con làm trong ngành Thời Trang nên có mua cho con mấy hộp trà giảm cân, đốt mỡ và thanh lọc cơ thể.
“Toxic” nè, “Diet Green” nè, “Ultra Slim” nè…!tùy nghi lựa chọn hén? Theo lời tư vấn của nhỏ thơ ký, thì mỗi lần nên uống hai gói và nên làm theo kiểu trà chanh mật ong cho dễ uống.
Mợ Hai cảm động quá chèn nhưng không sao thốt lên được một lời nào tri ân.
Kể từ ngày chồng mất, một mình bươn bả nuôi con, chịu bao nhiêu khổ sở từ thể xác đến tinh thần, đến nay mới gặp lại một người biết nhớ về mình.
– Mà nhớ, trà này dễ gây buồn ngủ nên chỉ uống vào ban đêm thôi.
Uống buổi sáng lỡ buồn ngủ thì nguy hiểm lắm.
Cũng đã đến giờ ra phi trường để sang tiểu bang Texas bàn chuyện làm ăn nên hai cha con họ Vệ chia tay mợ Hai và Hoàng Lan.
Thì ra hai cha con đang ở trong khách sạn gần phi trường, hèn chi mà hai cô – cháu cảm thấy cách bày trí đồ đạc hơi ngồ ngộ.
Mợ Hai xuống nhà sau phụ con trai làm bánh, còn Hoàng Lan trở lại bàn máy may chuẩn bị trang phục cho cuộc thi sắp diễn ra vào đầu tháng Mười Một.
Hoàng Lan mở bài hát “Bong bóng mưa” của nhạc sĩ Trịnh Nam Sơn qua phần trình bày của Ngọc Lan.
Ngoài rơi mưa rả rích mơi, tiếc rằng biển ở quá xa nên không thể tận mắt chứng kiến cảnh “Mưa trên biển vắng”.
Năm nay cô đã ba mươi lăm tuổi, cái tuổi đã quen với những lời hối thúc cưới chồng của gia đình, cũng đã sớm quen với nỗi đau mà tình đầu vô vọng đem lại.
Vì chàng, cô đã tìm hiểu tích truyện tôn giả Ananda và A-La-Hán nữ Ma-Đăng-Già, và rồi đã bật khóc tức tưởi khi đọc đến đoạn Đấng Thế Tôn hỏi bà rằng, “Cô yêu Ananda ở chỗ nào?” Bà đáp, “Cái gì của Ananda, con cũng đều yêu hết, thưa Ngài.” Phải, cái gì của Thảo, con cũng đều yêu hết, thưa Chúa.
“Phải chi hôm ấy đừng mưa
Phải chi hôm ấy đừng đưa em về…”
Lời bài hát “Mưa bong bóng” của nhạc sĩ Lý Dũng Liêm đã khiến trái tim Hoàng Lan thêm nhói đau.
Nếu như cô kết hôn với cha Hai, ắt hẳn cô sẽ ngoại tình trong tư tưởng, vì cô mượn thể xác của người anh sinh đôi cùng trứng với chàng để khỏa lấp niềm khát khao không bao giờ thành của mình.
Cái kèn lá năm xưa cô hãy còn lưu giữ.
Lúc nào nó cũng nằm ngoan trong cuốn album đã ố vàng của cô.
Chàng đã hứa sẽ thổi những ca khúc mới sau khi nhận được băng nhạc; lời nào ngọt môi và đắng tim bằng lời của chàng?
– Bánh tart nhân sầu riêng ngon không em?
Hoàng Lan tủm tỉm cười:
– Ngon.
Tôi đang giữ eo mà cha toàn đưa đồ ngọt.
– Ốm quá như ma cây, đẹp chỗ nào mà mấy chị ham dữ vậy?
Rồi chú Thương buông xuống một câu kết:
– Chị cũng có tuổi rồi đó, ốm quá da đùn…
– Biến!
– Biến liền nè…
Bỗng dưng, chú Thương mời mối tình đâu nghe Giao Linh trình bày tình khúc “Lạnh lùng” của nhạc sĩ Đinh Việt Lang và thi sĩ Vạn Tuyết Linh.
Bài này Sĩ Phú ca cũng rất hay.
– Anh thích bài “Lạnh lùng” của hai ông Hoàng Trọng – Quách Đàm hơn, Duy Trác ca bài này số dzách.
Lời bài hát của ông Lang như cào nát trái tim của cô Giáo dân xinh đẹp.
Cô bực mình với tay giựt điện thoại để tắt nhạc của cha Hai rồi lớn giọng trách cứ:
– Đừng có móc họng tôi ác như vậy chứ!
– Bài hát này dành cho cả hai đứa mình, chứ không riêng gì em đâu…
…
Vệ Thu không dám nói với má con bà ghệ rằng ông cảm thấy Út Thảo mới là người đàn ông mà nhỏ Lan cần.
Mộc Thảo có những ưu điểm mà ông rất muốn thằng Út có được: Bản lĩnh, khí phách, trầm tĩnh, uyên bác và ăn nói mực thước.
Kim Thương cũng rất giỏi nhưng khó lòng làm ăn lớn được vì bản tánh chụp giựt, bộp chộp, thày lay và bạ đâu nói đó mà không suy xét Thiệt – Hơn.
Ông mà nói ra dám hai má con từ mặt ông luôn chứ chẳng chơi.
Chiếc phi cơ riêng đã cất cánh khỏi đường băng.
Bình minh đã hiện diện nơi phi trường Los Angeles, muôn vàn ánh mây hồng xếp lớp như vảy cá nằm ngoan ở đằng Đông, vòm trời đã đổi sang tấm áo lam đậm màu, và sương mù kèm gió lạnh cứ thế nhấn chìm cảnh vật trong sự u tịch của màn đêm đã qua.
Thông qua ô cửa sổ nhỏ xíu, Vệ Thu trông thấy những chiếc phi cơ chở khách và hàng hóa đang từ từ bay lên theo lịch trình đã hoạch định.
– Baba.
– Kích đó hả con?
Vệ Kích ngó xuống cổ tay cha gã mà cười biểu:
– Bữa nay gặp mối chúa nên baba “trang bị” dữ dằn há?
– Ừ.
– Mà nè…
– Sao?
– Ông đó ổng biết tiếng Việt á.
Baba đừng có nói sau lưng ổng nghe?
Vệ Thương tròn mắt hỏi:
– Vậy hả bây?
– Dạ.
Để cho ba đứa con trai nói được tiếng Việt, Vệ Thu đã tốn không bao nhiêu công sức và tiền của.
Ông thương lắm cách gọi “Ba” theo kiểu phát âm trong tiếng Việt, nó gợi cho ông nhớ những ngày sum vầy bên gia đình, nơi có ba có má và hai đứa em trai và mâm cơm độn khoai – độn sắn.
Về lại Quê Hương, định bụng tìm lại hai thằng em, nhưng thấy tụi nó đã thay đổi hoàn toàn nên không còn thiết lui tới nữa.
Ngay cả tiếng nói mà cũng không giữ được, ông còn mong cầu gì ở tụi nó nữa.
…
Ngày tiếp theo, chú Thương hẹn mối tình đầu ra bãi cát vắng ngồi nói chuyện.
Hoàng Lan gật đầu đồng ý.
Vậy là vào khoảng mười giờ rưỡi tối, hai người có mặt ở một góc biển chưa bị du lịch xâm chiếm.
Hàng phi lao và rặng trâm bầu hãy còn reo vui trong hương gió biển khơi.
Để bầu không khí bớt ngượng ngập, hai người mua bánh tráng trộn khô bò, trứng cút xào me và trà sữa.
Hoàng Lan mở hộp bánh tráng trộn và hỏi:
– Anh biểu tôi ra đây có chi không?
Chú Thương mời người trong mộng nghe cô Ngọc Lan ca bài “Nắng Xuân”, nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời việt từ tình khúc “Solenzara” của bộ ba tác giả Gabrielle Baldassari – Dominique Marfisi – Phillippe Olivieri, về phần lời Pháp thì của ca sĩ kiêm nhạc sĩ Enrico Macias.
Nghe xong bản nhạc, Hoàng Lan ngước đôi mắt phượng lên nhìn người giống anh Thảo như lột:
– Em xin lỗi anh…!Em vẫn chưa thể nào quên được anh Thảo…!Anh với em mà thành hôn, sau này bên nhau cũng khổ…
– Em ba mươi lăm tuổi rồi.
Còn bao nhiêu cơ hội để có con?
– Có con mà mình không thương chồng mình nổi thì có con làm chi hả anh?
Chú Thương ứa nước mắt hát:
“…!Ta hãy yêu nhau trong đời
Kiếp nhân sinh ôi không dài…”
Sóng biển xô vào bờ những vỏ ốc đủ màu đủ kiểu.
Cũng xoáy sâu vô nội tâm rối bời của hai con người lầm lạc trong tình yêu.
Trăng càng lên cao, thủy triều càng dữ dội.
Trời lại chuyển mưa xám đen nên họ phải ra về sớm, trong khi chưa nói cho nhau nghe hết nỗi lòng của mình.
oOo
Ngọc Lan đang ca bài “Mối tình oan khiên” do nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ ca khúc “Amour defendu” của bộ ba tác giả Eddy Marnay – Christian Bruhn – Robert Jung.
Cố Phêrô Toàn đang trả lời Châu Vỹ Tiên.
Bữa nay cô đến để thăm dò tâm tánh Cha Cọp, sẵn để mua chè khúc bạch và sâm dứa sữa ở quán nước của chú Năm, lần trước ăn thấy ngon quá nên ghé lại mua nữa.
– Cha chứ không phải ông cố nội của Giáo dân.
Cái gì đúng thì nghe và làm theo, cái nào sai thì phải góp ý và chống đối đến cùng.
Châu Vỹ Tiên vừa gật gật đầu vừa ăn chè.
– Nhiều Cha trẻ trước đó tới đây làm việc với suy nghĩ “Cha thiên hạ” nên bị tụi tôi trả về đơn vị cũ hết.
Thế là nguyên cái Giáo xứ bị gán cho biệt danh “Khu tự trị”.
Đúng là “Cha nào, Giáo dân nấy”, khẩu khí y chang nhau.
– Trong nhà thờ và khi làm Lễ, cẩu xưng mình là “Cha”; còn ở chỗ khác, tùy vào vai vế và tuổi tác người đối diện mà cẩu sẽ xưng hô sao cho thích hợp.
Chú Năm xen vô:
– Tụi tôi cần một Mục Tử, tụi tôi không cần một ông cố nội.
Ignacio Cường đang lom khom cuốc đất bên vồng sắn mới đắp tuần trước.
Cách đó không xa, nói cụ thể là hơn ba mươi mét, Stephen Đoàn đang móc đất vét mương.
– Giáo xứ mình tính làm gì mà thấy…
Cố Phêrô Toàn hướt mà trả lời:
– À, lập lò mứt và trái cây – rau cải – củ -sấy khô, nhằm cải thiện kinh tế cho Giáo dân trong xứ.
– Xứ mình nghèo nhiều hay giàu nhiều?
– Nghèo nhiều hơn giàu.
Nội cái quạt trong nhà thờ biến thành máy chém là chuyện thường tình; tuần nào mấy đứa trai cũng phải bắc thang leo lên sửa lại hoặc thay luôn cái mới.
Đèn đường khúc có – khúc không, nên đêm hôm đi vớt người té mương là chuyện hết sức quen thuộc.
Vườn trẻ chưa đủ sở phí để thành lập, nhà máy lọc nước sạch và chế biến chưa thải vẫn còn là một giấc mơ xa vời.
Châu Vỹ Tiên ngó bóng lưng Ignacio Cường mà chống cằm nói:
– Cha Cọp cũng có lúc dễ thương…
– Ừ, lúc nào mà nó không nổi sùng là rất dễ thương.
Nghĩ sao để hai Linh mục trạc tuổi nhau đồng quản xứ, tuổi trẻ máu nóng, hễ có chuyện là xấn tới quyết không nhường.
– Mà già quá thì lú, ở tuổi đó đi tiêu – đi tiểu còn lo chưa xong, thì hỏi làm sao mà quản xứ được.
Không chừng Cha Phó “nhiếp chính” luôn.
Người vừa nói câu trên là Cha Lớn.
Thầy Dự đã nhảy xuống mương vét phụ Stephen Đoàn từ nãy giờ, nhưng do áng cái cây mù u nên chẳng ai hay biết.
Cố Phêrô Toàn thấy người dìu Cha Lớn không phải là con trai nuôi của nó nên gặng hỏi:
– “Hiệp khách hành” nào đây bây?
– Con nè cố.
– Ê, tiếng nghe quen quen ha?
Nhưng người đó không lên tiếng trả lời.
Ông chỉ chắp tay thưa cố Phêrô Toàn rồi xin phép đưa Cha Lớn về tu xá nghỉ ngơi.
– Dự.
– Vâng.
– Cậu đó tới từ Ả Rập hay sao mà che mặt kín mít vậy?
– Vatican.
– Ê, đừng có giỡn hớt kiểu vậy nghen?
Simon Tử cười cười mà không nói năng chi sất.
– Cha, tu xá coi cũng khang trang quá anh Thành há?
– Ừ, nhờ Hồng Ân Thiên Chúa và tình thương của Giáo dân mà các Linh mục có chỗ ở rất tốt.
Gabriel Thái bước lại bàn thờ Chúa mà làm dấu Thánh và đốt nến thơm.
Rồi mới theo người anh kết nghĩa lên lầu.
– Nhà tắm sạch sẽ, thơm tho, không có một miếng váng nhện.
Ở dưới cũng vậy, mà trên lầu cũng vậy.
– Lát nữa ra viếng mộ cha mình nghen?
– Dạ.
Ngôi mộ của Đức Giám Mục Vincent – Cao Nhật Trung nằm quạnh quẽ trên một bờ đất trồng đầy cây bạch mai.
Cỏ xanh mọc lúp xúp, những loài hoa dại nằm đan xen trong sắc biếc hiền hòa ấy.
Nơi đầu mộ của Cha Vinh-Sơn có dựng một bức tượng Thiên Thần gác tay lên thành gạch mà áp má tư lự.
– Cái người tạc bức tượng này có phải là chỉ không?
– Phải.
– Chỉ yêu Cha sâu đậm tới nỗi mọi bức tượng đều có hình bóng của Cha.
GB Thành chỉ biết thở dài thườn thượt.
– Mà nè…
– Sao?
– Có cần thêm Linh mục phụ xứ không?
– Thôi, thôi, thôi, thôi…!Có hai đứa mà còn muốn đánh lộn, rước thêm một cậu về nữa chắc thành “Tam quốc diễn nghĩa”.
Sẵn có băng ghế đá kê dưới gốc một cây bạch mai đại thụ, hai ông già bèn lại ngồi nghỉ chân.
Đứa nào đứa nấy đều đã có tuổi, đâu còn là hai thằng nhỏ đi phá làng phá xóm với mấy thằng anh em cột chèo.
– Anh làm ơn nói rõ cho em biết hai mươi năm qua anh đã đi đâu, làm gì và ở với ai?
– Trời đất ơi, hỏi cung tao hả mậy?
– Người ta tò mò thôi mà.
– Tao không thể kể cho mày biết được, vì sẽ ảnh hưởng tới tiến trình điều tra – phá án.
Nhưng xin mày hãy tin rằng tao không làm gì trái với ý Chúa và lương tâm tao đâu.
– Tìm dượng mệt bở hơi tai luôn.
Nói rồi, Raphael Lễ chắp tay và cúi đầu thưa Cha Thành và Cha Thái.
– Lễ đây hả? Tên vậy mà mặt hiền khô.
– Dạ, con đây, thưa Cha Thành.
Hai Cha đói chưa, con đãi bữa cơm?
Cha Thành ngần ngại hỏi:
– Làm Linh mục lương đâu có bao nhiêu mà đòi thết với chả đãi?
– Con có nguyên vườn trái cây dưới Lái Thiêu đó Cha.
Thể theo ý của hai ông Cha, Raphael Lễ chọn quán cơm của vợ chồng dượng Bảy ăn trưa.
Vô tình gặp hai anh em họ Võ cũng đang ngồi dùng bữa, Cha Thành bèn lên tiếng hỏi thăm vài câu, hai người nhã nhặn trả lời từng câu một.
Đinh Lễ nhìn quanh quán nhỏ một hồi rồi hỏi:
– Hứa Văn Cường đâu rồi?
Dượng Bảy hướt mà đáp:
– Đang làm việc với Phùng Kính Nghiêu.
Gabriel Thái đập lên bàn tay trái của cháu trai và hỏi:
– Muốn vô đây làm Đinh Lực hôn?
Raphael Lễ rùng mình:
– Thôi con hổng muốn làm “Đinh lục” đâu.
Ông Cha mà có bốn cái nanh, dữ gì mà dữ dễ sợ.
Gabriel Thái gục gặc đầu, rồi nói:
– Antonio Vũ lì đòn dữ lắm mà cũng chịu không thấu.
Dì Bảy cười xòa:
– Mấy đứa con nít hồi xưa đi dự Lễ còn quậy quạng, kể từ ngày Cha Cường chính thức làm Cha xứ, đứa nào đứa nấy xếp ve hết.
Rồi dì biểu:
– Trời ơi vô quán ngồi ăn thì cởi bịt mặt ra đi ông.
Để…
Gabriel Thái chiều lòng nhỏ con má Năm.
Để rồi nhận về một tràng tiếng la hét như vỡ bờ của mọi người trong quán:
– Đức Tổng Giám Mục Gabriel – Đinh Thái???
– Nó đó.
Cho nó ăn bữa cơm bình yên được không cô Bảy?
– Được.
Rồi Gabriel Thái lầm bầm cảm thán:
– Tổng Giám Mục chứ có phải tổng thống Khánh đâu mà xúm lại coi mặt vậy?
Nhớ hồi nào còn là thằng nhỏ đầu đường xó chợ ôm cái chân quấn băng – nẹp xương cứng ngắc về xóm Đạo sống, giờ đây là trở thành một Linh mục tài đức vẹn toàn.
Dù có chức sắc cao bên Đạo, nhưng Đinh Thái vẫn giữ cái tánh bình dân và lối nói chuyện như cũ, không sáo ngữ cũng chẳng màu mè, kiểu cách.
Vợ chồng dượng Bảy dọn lên những món mà Đức Cha Thái thích ăn, kể đầy đủ thì có tô mỳ sườn heo cỡ lớn, chén thịt xá xíu – chả quế và dĩa tóp mỡ đầy vun.
Trước lúc ngồi vào bàn ăn, Gabriel Thái xin phép vợ chồng dượng Bảy cho phép mình lên thắp nhang cho má Năm; má đã nuôi cơm ông hằng bao nhiêu năm mà tới chừng ông lớn ông chẳng đền đáp được gì.
– Hai Cha nhỏ vô ăn mỳ nè.
– Dượng Bảy vẫy tay ngoắc.
Hai người chắp tay và nói lời cảm ơn với ông, rồi hẹn rằng để về tu xá tắm rửa cái đã rồi mới vô ăn.
– Cô Bảy nêm nước lèo hơi khác má Năm.
Cũng ngon nhưng không bằng cái vị má nấu ngày xưa.
GB Thành tặc lưỡi:
– Chắc tại hồi đó mày đói quá.
– Dạ, chắc vậy.
Má Năm đã đem theo hương vị tuyệt vời đến Nước Trời.
Để lại vợ chồng dượng Bảy loay hoay gìn giữ thương hiệu mà má Năm đã dành cả đời lập nên.
Vì chưa từng ăn đồ má Năm nấu nên chàng Linh mục phụ tá cảm thấy món mỳ không có chỗ nào chê, đúng là chỉ có người trong cuộc mới cảm nhận được sự khác biệt kỳ lạ đó.
– Đức Cha.
– Là Đức Cha thật sao? – Ignacio Cường cau mày hỏi.
– Dzô đây ăn đi hai con.
– Dạ.
Sợ Võ Tánh ngồi gần nên Raphael Lễ bèn nắm tay Stephen Đoàn kéo anh ta ngồi xuống.
Rồi đánh trống lảng bằng cách cúi mặt ăn mỳ tiếp.
Ignacio Cường không để bụng.
Anh nhắm mắt, chắp tay và đọc Kinh cầu một mình, không đợi người bạn đồng quản xứ làm chung.
Thái độ bất cần của anh đã làm cho Đức Tổng Giám Mục phật lòng; hiệp hành mà như thế sao?
Ăn xong phần của mình, Ignacio Cường không nán lại nói chuyện cùng mọi người mà lên xe về Kiến Hòa.
…
– Thạnh, anh có ở nhà không?
– Có.
Đang ấp hột vịt lộn, có chi hôn anh Cường?
– Ra mở cửa cho tôi vô.
Henrico Thạnh hớt hải chạy ra rước “ông Ba Mươi” vô nhà.
Tới nơi mới hay anh bạn đồng tu cũng chạy xe gắn máy phân khối lớn như mình.
Công nhận “Người sao, của chiêm bao y vậy”, không khác được một li.
– Ăn hột vịt lộn không?
– Không.
Trưa giờ ăn còn chưa tiêu nè.
– Vậy tắm rửa, thay đồ và mặc áo Dòng rồi theo tui lên nhà trên đọc Kinh tối.
– Anh không có xứ để quản mà vẫn làm đúng Lễ sao?
– Dầu chỉ có một mình, tui vẫn duy trì việc thờ phượng Chúa đúng Lễ như thường.
Sau giờ Kinh tối, Henrico Thạnh xuống bếp luộc hột vịt lộn, hột gà vữa và trứng cút; đặng phòng hờ ai có đói bụng thì có cái mà ăn.
– Tôi sợ Stephen Đoàn gặp chuyện nên xuống đây thay cẩu.
– Tôi nhớ có một ông Cha đăng bài khuyến hóa Giáo dân xứ ổng đừng nên đi theo kẻ xấu và “khóc thuê chửi mướn” cho đám đó.
Tự nhiên một người ngoại Đạo ở đẩu đâu bay vô chửi ổng tàn tệ và còn kéo phe kéo đàn vô đăng hình bôi nhọ Chúa.
– Thì có tật thì giựt mình mà.
Người ta khuyến hóa bầy Chiên xứ người ta, mà càng đọc càng thấy giống việc mình đang làm nên nổi sùng thôi.
Ignacio Cường đọc:
– “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước.”
– Ga 15, 18 – 21.
Rồi Ignacio Cường thuật lại lời khuyên mà Tăng sĩ Đoạn Trần đã nói với Cha Phó Stephen Đoàn cho Henrico Thạnh nghe.
– Ừ, tui thấy ông sư đó nói đúng đó.
Mắc giống gì phải khuyên những người không muốn nghe mình nói.
Kệ cha họ đi.
– Tôi với anh đồng quản xứ chắc xóm Đạo thành Thủy Bạc Lương Sơn luôn.
– Tui hạp tánh anh.
Thành ra tui hổng sợ ông Cha Sở tương lai đâu.
Sau một tiếng gầm lớn như muốn xé toang màn đêm tịch mịch, mưa bắt đầu rớt hột.
Từng trận gió dữ lùa qua song cửa sổ làm chái bếp rung rinh tựa hồ sắp sập.
Ngoài sân, bầy gia cầm hốt hoảng kêu ầm lên; bầy sẻ nâu cũng hối nhau lao vô chái bếp để nương thân qua cơn dông lớn.
– Hèn chi mà anh không đóng cửa sổ.
Henrico Thạnh cười tươi làm đôi mắt híp hịp:
– Ờ, để cho tụi nó vô đụt mưa.
Đáng ra Ignacio Cường đã ngủ lại trên bộ ngựa kê ở chái bếp, nhưng vì dông lớn nên phải dời lên phòng riêng của Henrico Thạnh.
Công nhận phòng riêng của anh bạn đồng tu cũng bầy hầy không kém gì cái ổ chuột của anh.
Vì gió lùa vô rất mát mẻ nên hai người không bật quạt.
Thay vào đó chỉ giăng mùng ngủ ngừa muỗi mà thôi.
– Trong hay ngoài?
Ignacio Cường sầm mặt hỏi:
– Gì?
– Tui hỏi anh nằm trong hay nằm ngoài?
Ignacio Cường sượng ngắt đáp:
– Ngoài.
Vừa mắc mùng, Henrico Thạnh vừa khúc khích cười:
– Nghĩ gì bậy bạ dzậy cha?
– Tôi nghĩ tôi đã kiếm được địch thủ rồi.
– Bởi, Thầy Dương lâu lâu cũng lên tăng-xông máu vì cái mỏ của tui lắm.
Rồi Henrico Thạnh ngó anh bạn đồng tu mà cười biểu:
– Bản mặt ông hồi nãy y chang lúc quan Phan uống thuốc độc.
Nhìn dễ coi ghê.
Muốn hun hết sức vậy đó hà.
Tấn mùng xong, Henrico Thạnh với tay tắt đen rồi ngả lưng xuống giường cái phịch.
Ignacio Cường nghe rõ từng đốt sống lưng của anh bạn kêu răng rắc.
– Dễ chịu quá…!
– Thầy Dương đâu rồi Thạnh?
Henrico Thạnh khượi khượi móng tay mà trả lời:
– Ổng về trên lo chấm thi rồi.
Chắc mơi mốt gì xuống đây á.
– Hèn chi…
Bỗng, chàng Linh mục xứ dừa quay qua hỏi anh bạn đồng tu:
– Anh dám mần gà, mần vịt không?
– Dám chứ sao không.
– Dòm mặt này là dám rồi.
Thời loạn chắc là võ tướng quá.
– Mơi nấu món gì mà cần mần gà, vịt?
– Anh thích ăn món gì nè?
Ignacio Cường phì cười, lại vắt tay trên trán:
– Tôi dễ nuôi lắm.
– Nói nghe trớt quớt! Tui hỏi anh muốn ăn món gì thì mơi tui nấu.
Nói nước đôi dzậy ai biết cha?
– Cà-ri vịt đi.
– Ở dưới Đồng Tháp quê anh thích bỏ sữa đặc và mít ướt vô nồi cà-ri hả?
– Ừ.
– Vậy thôi nấu kiểu “Bến Te” đi há? Thay bằng nước cốt dừa với khoai lang.
Chớ tui nghe cách nấu bên nhà nội anh là thấy run rồi đó.
Ignacio Cường tặc lưỡi:
– Muốn nấu “Bến Te”, Xiêm Riệp hay Đề-Ly thì tùy ý anh.
…
Trời vừa tang tảng sáng, Henrico Thạnh đã đạp xe ra mua đồ về nấu và đồ ăn sáng cho mình và anh bạn đồng tu.
Đêm qua nói cho vui miệng chớ anh hổng tin vô tài cắt cổ vịt của cha nội này đâu.
Chừng Ignacio Cường thức dậy đã có sẵn phần điểm tâm gồm có một ly cà-phê ít đường và một gói xôi mặn cỡ lớn.
Sau giờ Kinh sáng, Henrico Thạnh ra ngoài vườn chăm sóc huê màu và cho đàn sẻ và gia cầm nuôi ăn uống.
– Sau không rủ tôi đọc Kinh chung?
Vẫn hì hục cuốc đất, Henrico Thạnh nhíu mày phân bua:
– Ngủ say như chết kêu gì nổi.
Trước lúc ngồi vào bàn ăn điểm tâm, Ignacio Cường lên nhà trên đọc Kinh một mình.
Khi chàng Linh mục họ Huỳnh trở ra sân đã thấy Henrico Thạnh leo lên bẻ cau.
Nhìn anh ta leo còn hay hơn diễn viên xiếc, mà cũng vì không phải diễn viên xiếc nên càng dòm càng bị mệt tim.
Thay vì leo xuống luôn, tới lưng chừng trời, Henrico Thạnh lấy thế nhảy ùm xuống mương.
Cái mương xâm xấp nước ấy không đủ làm giảm tiếng ồn nên âm thanh nghe inh tai như trời sập.
“Ầm!”
– Chết, chết…
Henrico Thạnh vừa lắc lắc cái đầu vừa cười tươi trấn an:
– Sống nhăn răng.
– Cha có họ hàng gì với Tarzan hay Robinson không vậy?
Henrico Thạnh chỉ cười cười mà không đáp.
Anh xách buồng cau lại hàng lu kê dưới hàng ba mà cầm gáo múc nước xối cho sạch.
Xong chuyện bẻ cau, Henrico Thạnh đi bẻ dừa.
Cây dừa lửa lùn xịt ấy nằm ở một cái mương đầy nước.
Chỉ cần đứng ở dưới đất là có thể chặt ngon ơ.
Sau một nhát dao ngọt sớt, Henrico Thạnh đã lấy được một buồng dừa nguyên hiện.
Anh bỏ vô cái giỏ đệm, rồi giao phần xách nó cho anh bạn đồng tu.
Chái bếp hãy còn vương mùi thơm của cà-phê phin.
Cái bếp củi vẫn còn dư âm đỏ lửa nên Henrico Thạnh sẵn dịp lùi khoai lang luôn.
Đoạn chọn ra ba trái dừa ngon nhứt rồi tung từng trái lên mà lấy dao vạt đầu và chế nước vô cái ca; cuối cùng xẻ đôi cả ba trái.
– Ông làm bình thường được không?
– Hông.
Thuận tay nên thấy dễ ụi.
Henrico Thạnh giao vụ nạo cơm dừa cho Ignacio Cường.
Không quên đưa luôn bàn nạo dừa và chỉ cách làm.
Về phần mình, anh đi nhổ lông và rửa lại con vịt.
Trong lúc sơ chế nguyên liệu, hai người nghe Hương Lan ca những bài dân ca Nam Bộ cải soạn, một trong số đó là bản “Lý Cây Khế”.
– Anh vắt cơm dừa giùm tui nghen?
– Chứ hổng phải nước cốt dừa đóng lon hả?
– Trời ơi, xứ dừa mà xài nước cốt dừa công nghiệp, nghĩ sao vậy cha?
Tuy bán tín bán nghi, nhưng Ignacio Cường vẫn tò mò làm thử.
Chỉ sao hai công đoạn vắt và lược qua rây, những giọt nước cốt dừa tươi trắng ngần như sữa bò mau chóng có trong cái tượng.
Chưa đầy hai chục phút là đã ra lò tượng nước cốt dừa tươi nguyên chất.
– Uống được hôn?
Vừa gọt vỏ bí rợ, Henrico Thạnh vừa giỡn:
– Được.
Mà nhớ, uống thì phải lựa chỗ nào gần nhà cầu xíu nghen.
Ignacio Cường long mắt lên nhìn Henrico Thạnh.
– Đây là nước cốt dừa sống, không phải nước cốt dừa nấu chín đâu mà uống.
– Nếm thử hen?
– Ừa, một muỗng nhỏ thôi nghen.
Ignacio Cường lấy loại muỗng chuyên dành để pha cà-phê mà múc một muỗng.
Sau mấy bận chép chép miệng, anh tấm tắc khen:
– Lạt nhách, nhưng rất béo và thơm.
– Bởi nhiều người hổng biết nói dân xứ này ăn nước cốt dừa riết bị tiểu đường.
Nước cốt dừa tụi tui xài trong bữa cơm là nước cốt dừa sống, thành ra hổng có bỏ đường như nước cốt dừa nấu, ăn bao nhiêu cũng không sợ.
Nước cốt dừa nấu chỉ dành để ăn chè, ăn chuối đập, ăn bánh trái này nọ,…!thôi.
– Vậy thì tôi yên tâm rồi.
Sợ nấu cà-ri mà ngọt như nấu chè.
Nồi cà-ri đang riu riu sôi trên cái bếp củi thì con Mực chạy xuống cắn ống quần chàng Linh mục xứ dừa.
– Có khách hả Mực?
Con Mực gật đầu xác nhận.
Ignacio Cường sửng sốt hỏi:
– Chó gì mà dị hợm vậy? Làm giống người quá chừng.
Con Mực nhe nanh gầm gừ.
– Anh nói gì, nó hiểu hết đó.
Chợt Ignacio Cường đanh mặt đe trước:
– Anh mà nói tôi dữ giống con chó này là “Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi” liền!
Henrico Thạnh cười tới nỗi híp luôn hai con mắt:
– Jesus – Ma, cha nghĩ chớ tui đâu có nghĩ đâu.
– Cái bản mặt cha đang toát lên điều đó đó.
Do đang bận tay chụm củi nên Henrico Thạnh nhờ Ignacio Cường ra coi giùm mình.
Chàng Linh mục họ Huỳnh đi tới đâu, bầy cảnh khuyển đi theo tới đó.
Vườn tược rậm rạp không làm giảm bớt cái nắng gắt của ngày Hè, nên mồ hôi mồ kê tươm ra trên người anh nhiều không sao kể xiết.
– Thầy Dương…!Chúa ơi, đau lưng mà còn xách theo cái gì nữa vậy?
Augustino Dương vòng tay ra sau lưng cho đỡ đau, nhưng trên gương mặt vẫn gượng cười trấn an thằng con:
– Ui, thấy lôm chôm ngon quá nên Thầy mua vài ký thôi mà.
Vừa tra chìa vào ổ khóa ở cổng, Ignacio Cường vừa càm ràm trách Thầy vài câu.
Ông Linh mục già chưa kịp bước chân vô sân, thì đã bị con trai hớt lấy mấy cái bịch nylon cầm trên tay và cái ba-lô đang quải trên vai.
– Trời đất ơi, già rồi mà còn hành quân nữa.
Nói xong,Henrico Thạnh cầm giùm anh bạn cái ba-lô.
Bữa cơm trưa đó có thêm món phá-lấu lòng heo, cải chua giòn rụm và mấy ổ bánh mì đã không còn nóng – xốp.
Ignacio Cường được nghe Cha Dương kể những chuyện thiếu thời của mình và các thằng bạn đồng tu; càng nghe, anh càng thấy mến thương Dòng Chúa Cứu Thế.
– Tụi con có biết Thánh Augustino gắn liền với câu nào không?
Henrico Thạnh đáp:
– “Từ tội nhân đến Thánh nhân”.
– Đó là ý nguyện mà Cha Vinh-Sơn gởi gắm cho Thầy.
Ignacio Cường cười hỏi:
– Là sao Thầy?
Vừa tách thuốc ra khỏi vỉ, Augustino Dương vừa kể:
– Lúc đó Cha Bề Trên đã đưa Thầy đi kiểm tra sức khỏe tâm thần, vì ông cho rằng Thầy mắc phải hội chứng không kiểm soát được hành vi nên ngày nào cũng phải kiếm chuyện phá phách.
Thì quả đúng như vậy, Thầy bị mắc bịnh tăng động.
Hèn chi mà Thầy chơi đá banh hay thục bi-da rất giỏi, vì phản xạ vô cùng mau lẹ.
Cứ hễ có hội thao nào là Thầy đều bị tuyển vô chơi.
Hai đứa con của ông bật cười.
Ông lại kể:
– Tụi Thầy thường hay nói lén sau lưng Cha Giám thị rằng, “Cha này có hoàn tục cũng hổng ai thèm cưới đâu.
Gì mà khó tổ sư bà đình.” Bởi, tự mình rước họa vào thân, ổng nghe được đi, ổng cho mỗi đứa “cưới” một cái đòn gánh; bắt xách thùng tưới nước nguyên cái vườn bông, tưới xong thằng nào thằng nấy rụng nụ hết.
Hai đứa, Thầy có đem xuống trọn bộ album ảnh hồi Cha Vinh-Sơn còn sống nè.
Một tấm hình chụp ở trang cuối đã làm Ignacio Cường chú ý.
Anh quay qua hỏi Cha Dương, và nhận về một câu trả lời khiến anh bàng hoàng.
oOo
Kể từ ngày Yên Hồng vào nhà ở, Đặng Thừa Tân có cảm tưởng rước Bạch Cốt Tinh vô.
Thái độ của con nhỏ khiến anh hết sức bực mình và quạu quọ.
Nhưng anh ráng dằn xuống để tránh bị con nhỏ hãm hại; hơn thế nữa, anh sợ rằng mình sẽ làm đồ uống dở nếu tâm trạng xám xịt.
– Anh có bài hát nào “Hàn lâm – Học viện” không anh?
– Có.
Nhưng người nhạc sĩ này không hề tự nhận mình là “Hàn lâm – Học viện” hay “Nhạc sang – Nhạc thính phòng” gì sất.
Thường khán giả mộ điệu gọi ông bằng cái tên “Tình khúc Từ Công Phụng”.
Nói xong, Đặng Thừa Tân mở bài “Hóa thạch” của ca – nhạc sĩ Từ Công Phụng và thi sĩ Hà Huyền Chi.
– Giai điệu độc đáo, lời ca mới lạ và giàu hình tượng.
Tại sao ít người biết đến vậy anh?
– Ai mà biết.
– Còn bài nào của ông Phụng mà hay nữa không anh?
– “Vào mưa” do Kim Tước ca.
Một trong những bản nhạc tôn lên được giọng hát thanh thoát của bà.
Và xin được nói thêm, bản thâu âm sau năm 75 hay hơn bản trước đó, vì phẩm chất đĩa nhạc tốt hơn.
Một người khách ngồi ở cái bàn đối diện quầy thu ngân lên tiếng:
– Ông Phụng là người Chăm-pa.
Đặng Thừa Tân gật đầu xác nhận, rồi giới thiệu tác phẩm mới:
– “Đừng nữa nhé chia lìa” phổ từ thơ của thi sĩ Du Tử Lê.
Số người hát được ca khúc này chắc chỉ đếm trên đầu ngón tay, vì câu chữ được sắp xếp hết sức ngẫu hứng nên muốn hát được trọn bài phải thuộc nằm lòng từng từ từng chữ.
Với những người thích hát khoe giọng thì còn lâu tâm trí họ mới có đủ chỗ để ghi nhớ hết lời bài này.
Một người khách có mái tóc húi cua và vết sẹo trên chóp đầu kể cho Thừa Tân nghe:
– Tôi nhớ cái bài hát “Bão hòa rồi kết tinh mạnh mẽ…”, tôi nghe xong tôi bị sang chấn tâm lý luôn.
Vừa kiểm tra đơn hàng của khách trước khi đưa cho người vận chuyển, Thừa Tân vừa bình phẩm:
– Nhiều người thích “Thần thánh hóa” công việc sáng tác của mình mà quên bẵng đi rằng một tác phẩm không nằm lại trái tim của người nghe là một tác phẩm vô giá trị.
Anh học cao bao nhiêu, giáo lý giỏi thế nào, mà không viết nên nổi những lời ca đi vào lòng người và trường tồn theo năm tháng như rất nhiều nhạc sĩ thuộc dòng Tân Nhạc trước năm 75, thì coi như sự dùi mài kinh sử của anh có cũng như không, và nặng lời hơn, anh chỉ là một kẻ học vẹt.
Một người khách nam khác đi lại quầy tính tiền.
Sẵn dịp hỏi:
– Anh có biết sự khác nhau giữa nhạc Tiền Chiến và nhạc Vàng không?
– Nhạc Tiền Chiến có lời ca trau chuốt, cầu kỳ và ưa sử dụng điển tích trong thơ ca Trung Hoa.
Nhạc Vàng lại thiên về “có sao nói vậy người ơi” hơn, giai điệu được dùng để phổ nhạc dễ nghe và ghi nhớ, nội dung phong phú hơn nhạc Tiền Chiến nhiều.
– Thí dụ như?
– Ở nhạc Tiền Chiến ít nói rõ lý do nào đã khiến lứa đôi bị chia cắt.
Còn nhạc Vàng thì nói huỵch tẹt luôn; thí dụ là bài “Người tình Luật Khoa” và “Sao muốn giết người yêu?” của nhạc sĩ Vinh Sử, “Nếu anh nghèo em yêu anh không?” của nhạc sĩ Đoàn Trung, “Tình thiên thu (Chuyện tình của Nguyễn Thị Mộng Thường)” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh,…
Nhạc Tiền Chiến thường do nhạc sĩ Bắc Kỳ viết.
Còn nhạc Vàng thì Nam Kỳ nhiều.
Riêng Trung Kỳ thì nổi trội ở mảng nhạc Vàng hơn nhạc Tiền Chiến.
Một người khách ngồi mé tay mặt người đàn ông ấy lên tiếng hỏi:
– Có bài Tiền Chiến nào hay mà ít người biết không?
– “Bướm Hoa” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương và sẽ do Thái Thanh ca.
Có khách ở một tiệm vải đặt mua hai mươi ly đồ uống đủ loại nên Thừa Tân quýnh quáng hối nhân viên pha chế phụ mình.
Thành thử, anh không còn tâm trí đâu mà thảo luận với khách.
Samuel Định bật cười khi nghe đến câu, “Chàng chưa hề yêu…” Nói khí không phải, ước chi anh tìm được một người thương có tánh nết giống như Út Thanh.
Áng chừng hai mươi phút sau, Thừa Tân mới được nghỉ tay một chút.
Trước lúc để nhân viên giao đồ uống, anh kiểm tra lại địa chỉ và hóa đơn, cũng như phẩm chất đồ uống coi có điều chi bất thường không.
Một người khách nói giọng Bắc hỏi:
– Có bài hát nào về Hà Nội không anh?
– “Ảo ảnh chiều Thu” của nhạc sĩ Trần Văn Nhơn, tôi chỉ mới thấy có Quỳnh Giao ca thôi.
Ông lính già miền Nam bật cười hỏi:
– Ủa ông Nhơn này là người Nam hay người Bắc?
– Dạ, Sài Gòn.
Nhưng vì công tác ở ngoài Hà Nội nên hay sáng tác bài hát về vùng đất này.
Một cụ bà móm mém bình phẩm:
– Quỳnh Giao tên đầy đủ là Công-Tằng Tôn-Nữ Đoan-Trang.
Tôi còn đây, mà chỉ đã đi rồi.
Thể theo yêu cầu của người khách nói chuyện với mình từ hồi nãy đến giờ, Thừa Tân mở bài hát Tiền Chiến “Một buổi chiều mơ” của nhạc sĩ Dzoãn Mẫn và cũng do “người con gái triều Nguyễn” Quỳnh Giao trình bày.
Bên ngoài trời đã bắt đầu nổi gió làm mưa.
Quán vắng có thêm vài mống khách, nhờ vậy không gian quán cũng bớt trống trải hơn.
Mùi cà-phê mới sôi nhuộm thơm quán nhỏ.
Tiếng nhạc vẫn không ngừng dịu dặt phát ra từ chiếc máy hát dĩa hay máy Akai nhiều năm tuổi.
Đọc tin tức trên mạng xong, một người khách quay qua nói với mấy thằng bạn, mà âm thanh như đang nói với cả quán:
– Tự nhiên tôi thấy có một bản Bolero rất hợp với hai cái người đang nổi đình nổi đám hiện nay, đó là bài “Tình lỡ” của nhạc sĩ Thanh Bình:
“Thôi rồi còn chi đâu anh ơi
Chỉ còn lại chăng dư âm thôi
Trong cơn thương đau men đắng môi…”
Nguyên quán cười rần vì giọng hát dở ẹc của anh ta.
Rồi đó, ai nấy đều im lặng để nghe lại những bài hát xa xưa.
Mỗi ca sĩ ngày ấy đều có giọng hát riêng, không phải “Gà học viện” như rất nhiều ca sĩ thời nay bị mắc phải.
Đã là ca sĩ thì nên có sắc thái trong giọng hát riêng, dù ca không được nốt cao hay nốt trầm bị “mẻ” thì vẫn hơn làm ca sĩ “một màu”; như Thái Thanh không xuống được những bài cần nốt rất trầm như Thanh Thúy, và Thanh Thúy cũng không lên nổi những bài cần nốt rất cao như Thái Thanh, nhưng hai bà vẫn là giọng hát vượt thời gian, và cho đến thời điểm này chưa tìm được ai có giọng hát giống vậy.
Những người khách ghé quán Thừa Tân ít ai nói nhiều.
Có lẽ cảnh sắc của quán đã làm họ muốn chìm trong tư lự hơn là mở lời.
Nhờ vậy mà bản nhạc nghe rõ ràng và hiển nhiên hay hơn.
Stephen Đoàn ướm hỏi anh chủ quán trước khi ra về:
– Có bao nhiêu bài “Tan vỡ” vậy anh?
– Theo sự hiểu biết của tôi thì có bảy bài: “Tan vỡ” của Lam Phương, “Tan vỡ” của Đỗ Lễ, “Tan vỡ (Lạnh hương nguyền)” của Đỗ Huyền – Huyền Linh, “Tan vỡ” của Đào Duy, “Tan vỡ” của Trịnh Nam Sơn, “Tan vỡ – Nhạc Anh lời Việt” chưa rõ nhạc sĩ, “Tan vỡ – Nhạc Hoa lời Việt” của Quang Nhật,…
Quán cà-phê bữa nay ế khách nên Thừa Tân quyết định nghỉ sớm.
Nhưng nhân viên vẫn được hưởng tiền đủ.
Được làm chủ thì nên sống sao cho có đức chút, đừng hở xíu là lường công – trừ lương – bắt chẹt người ta; chết có đem theo được đâu mà sao nỡ bạc ác với người xung quanh dữ vậy?
Vẫn như thường ngày, Thừa Tân lãnh phần phụ trách đổ rác.
Vừa giở nắp thùng rác lên, chàng chủ quán liền thấy một bức thư dán ở mặt dưới của cái nắp.
Đọc xong bức thư nặc danh, sắc mặt của Thừa Tân xám ngắt.
Tự nhiên anh hết muốn về nhà và chỉ muốn dông xe về quê trốn lánh.
Con nhỏ này đúng thật là Bạch Cốt Tinh, may phước thay nó chưa cho anh Bạch Cốt Trảo.
Thể theo lời khuyên trong bức thư, anh sẽ giả đò như không hay không biết và cố gắng nhẫn nhịn cho tới ngày bắt được kẻ gian đã hăm họa anh.
Yên Hồng gọi điện đến.
Nó cậy anh mua giùm một hộp cơm gà quay – xá xíu.
Anh gượng gạo đáp, “Được”, rồi hấp tấp đem giấu lá thơ vào trong chiếc két sắt ở phòng trữ nhạc.
Chừng trở ra đóng cửa quán, Thừa Tân trông thấy Quỳnh Như đã đứng đợi mình ở đó.
Không biết ai đã chở nhỏ tới đây, vì anh không thấy chiếc xe đạp Martin đâu cả.
– Chú.
– Gì vậy nhỏ?
Quỳnh Như e dè nói:
– Em muốn chú chở đi hóng gió vài vòng được không?
Dù rất muốn từ chối nhưng Đặng Thừa Tân phải mở miệng đồng ý, vì anh muốn nhân dịp này mà hỏi Quỳnh Như vài điều về con nhỏ kia.
– Nhỏ.
– Sao chú?
– Cài dây vô.
Quỳnh Như cười bẽn lẽn:
– Quên, nhà nghèo nên ít được đi xe hơi lắm.
– Yên Hồng nhờ tôi mua giùm cơm gà quay – xá xíu, muốn ăn không tôi đãi một phần?
– Ăn!
Con đường bị mưa giăng trắng xóa nên hết sức khó lái xe.
Chỉ có người khách đi ké là thích thú mà thôi, Quỳnh Như reo lên thích thú mỗi khi nghe trời gầm và ánh chớp hắt lên khung cửa sổ.
Tiếng hát ngọt ngào của Ngọc Lan trong bài “Sài Gòn” của nhạc sĩ Y Vân đã làm Quỳnh Như bật cười khúc khích.
Nước không có chỗ thoát nên bắt đầu tràn ra khắp mặt đường.
– Chú, Sài Gòn đẹp lắm chú há?
– Ừ, Atlantis mà.
Để tránh chiếc xe hơi ca bài “Thôi rồi ta đã xa nhau”, hai chú – cháu bèn vô thương xá có tầng hầm nổi đặng đợi cho cơn mưa qua đi.
Vì cũng cảm thấy đoi đói nên Thừa Tân rủ con nhỏ đi ăn món nào mà nó thích.
Nó liền chọn món khoai tây xoắn ốc và Takoyaki.
Quầy hàng ấy nằm ở dưới tầng Một, đối diện với xe điện ngầm, bán cũng lai rai chứ không đông khách mấy.
– Cháu thấy chú có vẻ ác cảm với những bài hát tân thời?
– Không.
Bài hay vẫn ủng hộ thôi.
– Vậy chú ghét nhạc tân thời ở điểm nào?
– Quá lạm dụng nhạc điện tử và nhu liệu chỉnh sửa âm thanh.
Số khác có giọng hay – hơi khỏe thì không chịu hát bình thường mà toàn ráng phô trương hết cỡ khả năng của mình, khiến âm thanh của ca khúc nghe rất mệt lỗ tai và nhức đầu; như nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 đã không thích cách biểu diễn của Bằng Kiều trong bản “Buồn ơi chào mi” của cụ.
Quỳnh Như lém lỉnh hỏi:
– Vậy cái chị miền Tây gì đó hơi hám sao?
– Cổ dư sức hát trọn vẹn “Trường ca Hòn Vọng Phu” của nhạc sĩ Lê Thương với tông giọng gần theo kịp bà Thái Thanh.
Thành ra nó không hiểu nổi tại sao hát mà cứ phải hả cái miệng bự chảng làm chi.
Nó xuống nốt trầm với khuôn miệng khép hờ, ấy vậy mà tôi vẫn nghe rõ chữ đó và độ ngân cần thiết của câu hát.
Rồi buồn buồn, Thừa Tân nói:
– Nhưng với điều kiện hôm đó nó không bị căn bệnh viêm xoang hay rối loạn thần kinh – tim hành hạ.
Quỳnh Tư cảm thán:
– Có tài thường hay có tật.
Và được tặng kèm một chứng bịnh mạn tính.
– Tật thì Lê Văn Duyệt.
Bệnh thì Nguyễn Du.
Bùi Giáng thì có cả hai.
Đồ ăn và thức uống đã được dọn lên.
Nhân viên là một bà thím tuổi đã ngoài sáu mươi rất nhanh nhẹn và hiếu khách.
– Chú ngồi đây ăn được không? Chú đâu có thích nghe thể loại nhạc này.
– Kệ, thì ngồi lựa coi có bài nào hay không.
Tới một bài hát đang thịnh hành, Quỳnh Như khều ông chú đến từ trước 75 mà hỏi:
– Cô này hát hay nè chú.
Phần lời cũng có ý nghĩa nữa.
– Phần lời này á hả? “Xào” của Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Phạm Duy,…!chắp nối lại thành một bài hát có nội dung vô cùng rời rạc như thịt kho rệu.
Về phần giọng hát, có cần phải luyến láy như gọi đò “Bên kia sông Đuống” không? Bà Thái Thanh cũng hay luyến láy, nhưng bà không có lạm dụng và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một ca khúc như cô này.
Quỳnh Như trề môi:
– Chú mà chấm thi chắc thí sinh rớt từ vòng gởi xe.
– Cô làm tôi nhớ tới một người hát nhạc Trịnh bằng giọng bé Xuân Mai.
Vốn hát không hay, chỉ được cái mã ngoài, nên cô này lúc nào cũng ráng ép tiếng ca sao cho thật dễ thương và nũng nịu.
Tôi nghe cô Ngọc Lan ca quen rồi, tôi nghe cô này…!À mà thôi, nói ra bị chê là ông già khó tánh.
– Tức là giọng của cô Ngọc Lan dễ thương thiệt, còn cô kia là dễ thương “rặn”?
Thừa Tân mắc cười quá nên bị sặc nước ho sù sụ.
Chừng cơn đau rát nơi cổ họng dịu xuống, anh trách yêu:
– Cái con nhỏ này…!Xém chút nữa là cô giết người rồi thấy chưa?
– Vậy chú thấy ai hát không làm dáng?
– Cô Kiều Nga.
Giọng sao hát vậy.
Không bắt chước Ngọc Lan, không là bản sao của ai hết, cũng không phô trương kỹ thuật thanh nhạc quá đáng.
– Thôi bỏ qua chuyện nhạc nhẽo đi chú, có cái này em muốn kể chú nghe.
Ý là Thừa Tân đã kiếm chuyện đánh trống lảng mà vẫn bị con nhỏ lôi về chủ đề mà anh không muốn nghe.
– Chị em đã từng dụ dỗ em cặp với một ông quan chức bụng phệ.
Nhờ vậy em mới biết chị em là má-mì.
Em có nói lại với má mà má hổng tin em, còn chửi em học hổng lo học, lo coi ba cái phim tào lao năm vố rồi nghĩ bậy cho người ta…
– Ba em làm cảnh sát mà cũng dám…
– Chị em bị khùng anh ơi.
Không có nghĩ tới nó, chỉ sống không nổi đâu.
– Em biết nhưng phải giấu nên sắc mặc lúc nào cũng rầu rầu phải hôn?
Quỳnh Như buồn hiu gật đầu.
– Giờ má em tin em rồi phải không?
– Má tin, nhưng lại đổ trút cái sai của chỉ lên đầu em, má qua má nhận lỗi với gia đình chỉ và nói tất cả là do em biết mà không báo lại nên mới xảy ra cơ sự như ngày hôm nay.
– Gì kỳ vậy? Em đâu có liên quan hay trách nhiệm giám sát nó?
– Cho nên mấy bữa nay em mới đi rong cho đỡ buồn.
Đã có kinh nghiệm bị ép cung và bức cung, thành ra Thừa Tân không sấn tới hỏi thêm nữa.
Vả chăng, anh cũng sợ con nhỏ này là “chim mồi” cho con nhỏ kia để nắm thóp hay gài bẫy anh.
oOo
Bữa nay là cúng thất tuần ông bạn văn chương.
Vài người trong Hội Nhà Văn và cánh Báo Chí được mời; Xương Tuyết cũng ̣được tham dự, nhưng vì không ưa ai trong số khách mời nên ngồi chơi được một lúc anh xin phép Phước cho mình lên gác nằm nghỉ lưng.
Từ căn gác nhìn xuống sẽ thấy vườn hồng loe ngoe vài cái bông sắp tàn, bên kia hàng rào là xe bánh bánh mì của một bà ở tuốt chân cầu chữ Y.
Và ngoài lộ, lúc nào cũng có quẹt xe, kẹt xe và ngập nước vì bề ngang nhỏ hơn cái lỗ mũi và cái cống có cũng như không.
May phước vỉa hè còn giữ được hàng cây gòn gai nên mùa nắng bớt nóng hơn những cái xóm khác.
Còn mùa mưa thì tha hồ bơi lội, chèo ghe, bắt cá và lướt ván.
– Biết thể nào anh cũng trốn lên đây mà, “Người Việt trầm lặng”.
– Lâu quá không gặp, Hạnh.
– Có bạn trai chưa? Bỏ thằng kia rồi hả?
– Anh nói yêu đương mới nhớ, tự dưng con em tôi lôi tôi vô truyện của nó, và giờ thì…
– Thì anh phá luôn cốt truyện của nó?
– Ai dủ nó lôi tôi vô làm chi.
Hạnh để cái gối ra sau lưng để ngồi dựa cho êm.
Anh xách theo chai rượu đế và một xâu nem chua.
Khắp người nặc nồng mùi rượu.
– Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có bài “Đêm nay hòa bình (Sao mắt Mẹ chưa vui)” ít thấy ai biểu diễn lại.
Mà cũng không hiểu sao, cụ không biểu diễn bài này vào năm 75…
Xương Tuyết nhếch miệng cười:
– So với bài “Mặt trời mù” của nhạc sĩ Trúc Lam, thì bài “Này em có nhớ” của cụ rất dở.
Nếu như đã viết mệnh đề Chúa – Phật bỏ rơi nhân loại thì những câu tiếp theo phải thể hiện rõ được nguyên do, diễn biến và kết quả; còn đằng này cụ lại lẩn quẩn một mình với những câu lặp đi lặp lại cho đến khi kết thúc ca khúc.
– “Công Sơn trịnh trọng phiêu bồng.
Thưa rằng thơ nhạc có ngần ấy thôi – Bùi Giáng”.
Rồi Hạnh hỏi:
– Vậy chứ anh thấy nhạc sĩ Sơn sáng tác bài nào hay?
– “Người con gái Việt Nam da vàng.” Dù rằng tôi biết “người con gái” mà cụ tôn vinh thuộc về bên nào.
– Vì không có “người con gái” nào tự nhiên “một hôm qua làng” cả.
– Phải.
Nếu như anh để ý kỹ thì anh sẽ phát hiện thôi.
Còn nếu chỉ muốn nghe vì thích giai điệu và lời bài hát thì…!”nói năng chi cũng thừa”.
– Vậy ra anh đã nghe rất nhiều bài hát của nhạc sĩ Sơn?
– Ừ.
Tác phẩm phần nào nói lên con người tác giả.
Tôi muốn tìm hiểu về ai tôi phải tham khảo rất nhiều tác phẩm của họ.
Thành thử ra, tôi không thích những ai mới đọc qua một tác phẩm mà đã nhận xét về người viết rồi.
Hạnh nốc mấy ngụm rượu rồi hỏi:
– Anh thấy “Thi sĩ điên” Bùi Giáng sao?
– Cụ Bùi Giáng ưa xài vần “Ồn” như “Lá hoa cồn”, “Tồn liên”, “Tồn sinh”,…!nhiều lần bị “lẹo mắt” đọc lộn thành…
Hạnh phì cười, rồi kể câu chuyện của mình:
– Hồi xưa, mới tìm đọc sách của cụ, tôi nghe cụ phân trần thấy thương lắm, nào là xin quý độc giả độ lượng hải hà mà bỏ qua sự dài dòng và dịch không sát nghĩa.
Tới chừng đọc chương đầu mới chưng hửng…!Ủa tác giả phương Tây thì ở đâu ra có Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, thơ Đường, Dương Chiêu Quân, Thúy Vân – Thúy Kiều,…!Sau này mới hiểu cụ vừa dịch vừa sáng tác luôn.
– Bởi, tôi đọc sách của cụ phải ngắt quãng chứ không thể nào đọc trơn một lần.
– Anh nghĩ sao về việc nhiều người cho rằng quan lại thời xưa chỉ giỏi Nho Giáo?
– Nếu như bậc quan Văn thời trước chỉ biết có mỗi lý thuyết Khổng – Mạnh, Lão – Trang, Liệt – Dương,..
thì làm sao rất nhiều người lại có thể thiết kế được các đồn lũy, thành quách, cầu bắc qua mặt nước,…? Chỉ vì xứ ta thời đó không coi trọng Toán – Lý – Hóa – Sinh như nền khoa giáo Tây Phương mà rất nhiều người có tài trong bộ môn này không thể tiếp cận và tiến xa hơn được, thành ra sở học bị bó buộc trong các môn liên quan tới lý thuyết nhiều như Chính trị, Kinh tế, Lịch sử, Triết học, Y dược…!Cho nên tôi không đồng tình với quan điểm mà anh vừa nêu trên.
Thí dụ như “người trai Thần Kinh có sở học uyên bác” Hồ Đình Phương, giáo sư Triết Học kiêm thi sĩ Nguyên Sa – Trần Bích Lan, cảnh sát kiêm nhạc sĩ Minh Kỳ – Nguyễn-Phước Vĩnh-Mỹ,…!và con cháu của cụ Hồ Biểu Chánh nữa.
Nếu tổ tiên các vị ấy chỉ giỏi lý thuyết suông thì dẫu các vị ấy có sinh ra ở quốc gia cấp tiến đi chăng nữa thì vẫn chẳng thể thành công trong sở học được.
Anh thấy đó, con cháu của rất nhiều phường bán Nước hại Dân dù học tập ở xứ nào cũng không thể lập được thành tích gì nổi trội.
Tổ tiên anh thông minh thì phần trăm anh được hưởng điều này rất cao; và ngược lại cũng vậy.
– “Trứng rồng lại nở ra rồng.
Liu điu lại đẻ ra dòng liu điu.”
Xương Tuyết nhớ về hai bên nội – ngoại, tự nhiên anh cảm thấy buồn buồn.
– Tôi nhớ hồi xưa anh có bình luận về một nhân vật lịch sử triều Nguyễn, và nhờ câu nói này mà ba tôi đã nhận anh làm nghĩa tử:
“Trung thành cho cố tổ dzô
Tới khi tàn cuộc đem ra chém đầu”
– Tôi vẫn còn nhớ mang máng một đoạn “Văn tế Trung Quân” của mình:
“Thương thay cho bậc trung quân
Một đời phụng Quốc đắp vầy non sông
Chừng khi ngài được làm vua
Ngài sao quên hết nghĩa tình năm xưa
Người thì xiềng mả, tịch biên
Người thì chịu kiếp oan khiên lưu đày…”
Mà tôi đâu nói về triều Nguyễn, tôi chỉ nói chung chung về những bậc vua – chúa vong ơn bội nghĩa mà tôi đã từng đọc qua mà thôi.
– Như ai?
– Thành Cát Tư Hãn chẳng hạn.
Hồi xưa, khi đọc tác phẩm dã sử “Thành Cát Tư Hãn” của đôi tác giả Du Trí Tiên và Chu Diệu Đình, tới đoạn Thiết Mộc Chân bị trọng thương mà trong doanh trại không còn sót lại một thùng nước, sông – suối thì quá xa và gần kề với doanh trại địch, nên tánh mạng của ông Khả Hãn này ngàn cân treo sợi tóc.
Dã Lặc Miệt không quản hiểm nguy mà một thân một mình đột nhập vào doanh trại địch để lấy nước cho chủ công uống.
Vì sự lơ là của quân địch mà Dã Lặc Miệt đã trộm được một thùng sữa chua uống.
Nhờ có thứ nước này mà Thành Cát Tư Hãn đã thoát chết.
Nhưng sau khi khỏe khoắn được một chút, ông liền sanh nghi Dã Lặc Miệt là nội gián của quân địch nên mới có thể trộm sữa một cách dễ dàng và mau chóng đến vầy.
Dã Lặc Miệt tức quá chỉ biết ứa nước mắt nhìn vị Khả Hãn một cách trân trối và không phân bua được một lời.
Cũng may ông ta nghe theo lời can gián của vợ mình cùng các tướng lãnh khác nên Dã Lặc Miệt mới không bị bêu đầu oan mạng.
Hạnh thở hắt ra một tiếng nặng như chì.
Anh ướm hỏi:
– Hình như gốc bên ngoại anh là quan viên triều Nguyễn?
Xương Tuyết không nói “Có”, mà cũng chẳng lắc đầu phản bác.
Thấy vậy, Hạnh bèn đổi chủ đề khác:
– Anh nghĩ sao về các tác phẩm của Hồ Trường An?
– Tôi không thích các tác phẩm nói về thời xưa ở xứ Nam Kỳ của ông.
Có rất nhiều cuốn sách bị rập khuôn về mặt nội dung và thiết lập nhân vật, thành ra đọc được nửa cuốn đã mau chán rồi.
– Anh có thể nêu ra thí dụ được không?
– Một trong số đó là đề cao Phật Giáo quá xá, hễ nhân vật bị gì là sẽ đi cầu khấn – cúng vái Trời – Thần là sẽ tai qua nạn khỏi liền, rồi người ác nào cũng biết sám hối và quay đầu hướng Thiện, còn nhân vật nữ nào muốn giữ chồng đều luyện phép chồn hay bỏ bùa ngải…
Hạnh giỡn:
– Tôi tưởng anh khoái chứ, bởi anh theo Đạo Phật mà.
Xương Tuyết lắc đầu nguầy nguậy:
– Không, anh viết tiểu thuyết đời sống – xã hội, chứ không phải là viết sách truyền bá tín ngưỡng mà anh đang theo.
Nếu xét về tác phẩm theo lối văn Nam Kỳ có nội dung đặc sắc và phong phú, tôi thích sách của nhà văn hải ngoại Tiểu Tử hơn.
Anh ít đoán trước được cái kết của mỗi tác phẩm, cũng như hiếm khi nào cụ bị rơi vào trường hợp viết theo lối mòn như nhà văn Hồ Trường An.
– Như Victor Hugo hỉ? Trong những tác phẩm của mình, ông đã để hình tượng Thiên Chúa ẩn hiện, chứ không khai thác quá lộ liễu.
Thí dụ như trong cuốn “Những người khốn khổ”, mà sau này cụ Hồ Biểu Chánh đã phóng tác thành “Ngọn cỏ gió đùa”, nhờ gặp ông Cha mà nhân vật Jean đã thay đổi số phận và sửa đổi tâm tánh của mình; nhưng trong cuốn “Thằng Cười”, Chúa lại vắng bóng trong quãng đời các tuyến nhân vật, và điều đó đã ảnh hưởng tới hậu vận của từng người theo chiều hướng tăm tối và hết sức cay nghiệt.
Nói đến đây, Hạnh lột một miếng nem rồi bỏ vô miệng nhai ngon lành.
Chừng ăn xong xuôi, lại hỏi:
– Anh bắt bẻ ông Hồ Trường An gắt gao như vậy, có tác giả ngoại quốc nào cũng bị anh phê bình “siết” giống vầy không?
– Có chứ.
Haruki Murakami cũng rơi vào trường hợp gần giống vậy, chỉ khác nhà văn Nhật Bản này bị ở chỗ xây dựng hình tượng nhân vật và chi tiết miêu tả.
Nói cho rõ ràng hơn thì tác phẩm nào của ông cũng có giới LBGT, nhân vật thích đọc sách tâm lý của các tác giả nổi tiếng như Freud, Socrates,…!thích ăn mỳ Ý sốt cà chua, bánh Donut và trứng luộc, thích uống rượu Whisky, thích con mèo, thích nghe hoặc sẽ tình cờ nghe thấy những bản nhạc Âu – Mỹ xưa cũ,…!nhân vật phụ có cảm tình hoặc đã từng qua đêm với nhân vật chính.
Về phần chi tiết miêu tả, tác phẩm nào của ông cũng có người chê cà-phê có vị như mực in, người có lỗ tai đẹp, người tự sát, người có vấn đề tâm lý rất nặng, người ngoại tình, người ly dị và người bị nghiện tình dục; còn khi muốn diễn tả nhân vật chính đang xây xẩm hoặc mọi chuyện quá mơ hồ thì ông lại mô tả rằng “Giống như nhìn phong cảnh từ xa thông qua một ô cửa sổ”,…!Ngoài ra, ông còn hay đề cập tới những cuộc cách mạng của sinh viên nước ông, cuộc chiến tranh mà nước ông đã khơi mào và kèm theo những lời chất vấn Thiên Hoàng tại sao lại đẩy người dân xứ ông vô cuộc chiến này – Anh có thể kiểm chứng trong quyển “Biên niên ký chim vặn dây cót””, góc nhìn chính trị – kinh tế – xã hội và một số lời nhận định về thời cuộc, cách sống của giới trẻ, trăn trở về việc nước ông nên “thủ cựu” hay “nghinh tân”, tôn giáo là điều tốt hay xấu cho xứ ông,…
Hạnh tròn mắt nhìn Tuyết.
– Đặc biệt, Thôn Thượng Xuân Thụ bị rất nhiều nhà phê bình văn học quê ông chỉ trích ông là nhà văn phương Tây chứ không phải là nhà văn Nhật Bản, vì có nhiều chi tiết phê phán xứ ông khá nặng lời và nhân vật có lối sống rất Tây như ăn hamburger, bánh Donut,…!thay cho món ăn Nhựt như cơm nắm, bánh Mochi.
Hạnh đùa:
– “Không thích thì cút sang Mỹ sống.”
– Ông và vợ hiện đang định cư bên Hoa Kỳ.
Hạnh phá lên cười thích thú.
– Ông nói thẳng luôn là ông không thích ăn món Việt Nam và Trung Hoa.
Về món Nhựt, ông chỉ ăn được vài món; còn ẩm thực nước ngoài, ông ưng được một số món Ý như mỳ spaghetti sốt cà chua.
Dó đó mà ẩm thực trong tác phẩm của ông hết sức đơn điệu, tẻ nhạt và trùng lặp hoài.
Cụ Hồ Biểu Chánh cũng bị vậy nhưng vì lý do khác, đó là cụ sống một ̣đời liêm khiết nên không có tiền ăn sang hay thử món ăn mới.
– Có điểm gì ở ông Murakami mà anh thấy ngộ không?
– Ông không nói mình là người theo Đạo Phật nhưng kết cục của câu chuyện lại đi theo hướng Nhân – Quả.
Đa phần những người nghiện tình dục hay ngoại tình sau này đều mắc bệnh giang mai hay phải chết một cách nhục nhã, còn không thì cũng trở thành người điên.
Về phần lính Nhựt, họ phải chịu những cái chết đau đớn và nếu sống thọ thì lại phải trải qua một kiếp người khốn khổ như bị nguyền rủa.
– Hèn chi nhiều nhà phê bình xứ Phù Tang bài xích ổng.
– Hai người nói chuyện xôm quá ha? Cho dzô góp vui được hôn?
Người vừa nói câu trên là một nhà văn trẻ khá nổi tiếng.
Anh ta thường viết đề tài về Nam Kỳ, đã có một quyển sách được chuyển thể thành phim bộ, hiện thời được mời về giảng dạy tại một trường Nhân Văn – Xã Hội.
– Anh nghĩ sao về tác phẩm của tôi hả Tuyết?
– Nếu như anh muốn giữ được tiếng Nam Kỳ, anh phải “đa dạng hóa” nội dung tiểu thuyết, chứ không phải suốt ngày lấy bối cảnh cổ hoặc chọn tình tiết quá ư thân thuộc.
Mà ngộ đời ở chỗ, nhiều người viết về bối cảnh cổ mà suốt ngày áp đặt lối sống ở đẩu đâu hay tư tưởng hiện đại vô; không biết thì đừng có viết, viết đặng viết đùa không ra giống ôn gì hết.
Ngoài ra, nếu anh cứ chọn bối cảnh cổ hoài, vô hình trung anh sẽ tạo tâm lý tiếng Nam Kỳ là tiếng “thượng cổ”, chỉ có thời xưa mới xài.
Thành ra, nếu thật tâm anh muốn quảng bá tiếng Nam Kỳ, anh phải viết về những chủ đề thời nay và không nên bó buộc trong vài đề tài nhàm chán.
– Tức là phải làm sao cho nó thật gần gũi?
– Phải.
– Anh có quan trọng cách hành văn của những nhà biên khảo thời trước không?
– Không.
Bởi tôi cho rằng cái hành động đó giống hệt như anh vô một vườn hoa, thay vì đi tìm hiểu các giống loài ở đây ra sao, anh chỉ lom khom săm soi mấy cái lỗ mọi hay cái lá nào có sâu không vậy.
Vả lại, họ cũng hơn tôi rất nhiều.
Họ dám dấn thân, dám chịu tổn hao tiền bạc để đi đến tận nơi khảo cứu, dám bày tỏ chính kiến về mọi việc, dám in ra thành sách,…!chứ không phải ngồi một chỗ đợi người ta viết ra cái gì thì ngồi xào nấu lại như nhiều người cùng nghề “bán chữ nuôi thân” với tôi.
Anh Ba Hói đưa cho thằng em kết nghĩa một cuốn chả giò rế.
Nó nói lời cảm ơn anh, rồi trở lại chủ đề ban nãy:
– Vả chăng, thời nay còn được mấy mống chịu khó đi đến tận nơi sưu khảo và nghiên cứu như Sơn Nam, Huỳnh Minh, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Hầu,…!phần đông toàn là sao chép tài liệu của người xưa không hà.
Vậy nên tôi ít khi nào nói về phong tục – tập quán Nam Kỳ, thay vào đó tôi thích giới thiệu sách của người xưa hơn.
Nhà văn đang lên khoanh tay mà bình phẩm:
– Thời nay họ thích quay video du lịch hơn, cũng dễ hiểu thôi, vì mau thu hồi vốn, nhanh nổi tiếng và lợi tức rất cao.
Thành ra đa số mang nội dung y như cái áo rách bị chắp vá, nghe người dân bản địa kể sao thì đăng luôn vậy chứ không trải qua nhiều đợt kiểm chứng và so sánh biên khảo của tác giả khác như những cây viết thuở trước; mà người coi cũng hời hợt không hơn không kém, coi video sao thì tin sái cổ hệt vậy chứ cũng không muốn bỏ chút thời giờ ra phân rõ thực – hư của nội dung trong thước phim ấy.
Anh Ba Hói nâng cửa sổ lên để đón gió trời.
Nhưng chưa được năm phút đã vội vàng hạ xuống vì âm thanh hỗn tạp và khói xăng xe cộ ùa vào phòng nườm nượp.
Tiền điện tăng cao quá nên anh không dám ngỏ ý bật máy lạnh.
– “Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh” của nữ sĩ Phương Lan – Bùi Thế Mỹ.
Chú ý đọc đoạn do cụ Ninh viết sẽ nhận ra được lối văn kiểu Nam Kỳ ngày xưa như thế nào.
Tôi rất thích đoạn phê bình triết học Khổng – Mạnh, Lão – Trang do cụ chấp bút, phải vậy mới là phê bình, chứ không phải chụp mũ một cách thiếu lý luận như một rất nhiều người bài Nho bây giờ.
Anh bạn đồng sở thích bật cười:
– Vậy mới hiểu sự đọc cần thiết ra sao.
– Phải, đọc nhiều sách, anh sẽ tự khắc có chính kiến của mình.
Bên dưới nhà ầm ĩ tiếng cụng ly, khui bia và cười nói om sòm.
Lần nào gặp Hội Nhà Văn cũng nghe than thân trách phận như “nàng Kiều lỡ bước”, viết được thì viết, không sống nổi thì kiếm nghề khác làm, có nói tụt lưỡi cũng chẳng có ai quan tâm chứ đừng nói chi thương hại.
– Dừa khô có thể thay thế than đốt.
Nếu như xuất cảng miểng gáo được, người dân xứ tôi chắc chắn vừa kiếm được rất nhiều tiền vừa góp phần bảo vệ môi trường.
Anh Ba Hói xen vô, giọng đã ngà ngà say:
– Chưa kể đến là lá chuối khô, lá dong, lá cách, mùn trấu,…!Xuất cảng được là đổi đời hết.
Anh bạn đồng nghiệp hỏi:
– Có cây viết nào mà anh thấy ngộ không Tuyết?
– Có.
Rồi gã điên kể:
– Có một bà nhà văn chuyên viết truyện tung hê Trung Kỳ và hạ bệ hai miền còn lại.
Ban đầu, đọc xong một cuốn, tôi không để tâm vô chuyện này vì nghĩ đây chỉ là tình tiết của tác phẩm mà thôi.
Nhưng rồi đọc hơn năm, sáu cuốn của bả, hễ có nhân vật xuất thân từ miền Trung là bả đều tô vẽ như “Đấng cứu thế” hay “Chư Thiên thập toàn thập mỹ” và luôn bị hai miền còn lại ức hiếp, hãm hại; còn nếu không có sự hiện diện của nhân vật Trung Kỳ, bả sẽ miêu tả nhân vật Nam Kỳ và Bắc Kỳ bớt xấu tánh hơn một chút.
Hạnh cười hỏi:
– Ai vậy Tuyết?
– Bà này hiện đang là thành viên của Hội Nhà Văn nên tôi không thể tiết lộ danh tính và bút hiệu được.
Anh Ba Hói xen vô:
– Nhà văn Duyên Anh – Vũ Mộng Long là Bắc Kỳ chánh tông mà viết truyện chửi Bắc Kỳ nát nước.
Nhà văn Hồ Biểu Chánh là Nam Kỳ chánh tông mà viết truyện phê phán thói hư tật xấu ở xứ Nam Kỳ rất thẳng tay.
Chỉ là một tác phẩm hư cấu mà vẫn khư khư ôm cái tâm vị kỷ thì khó lòng mà tiến xa trên con đường Văn Học – Nghệ Thuật.
Xương Tuyết cười kể:
– Bởi vậy viết gần hơn nửa đời người mà bả vẫn không có một tác phẩm nào độc đáo.
Cái tâm vị kỷ đã khiến bả sáng tác nên những câu chuyện rập khuôn và “dân tộc tính” quá đáng.
Hạnh lại hỏi:
– Anh nghĩ sao về tiếng miền Trung hả Tuyết?
– Nữ sĩ Thùy An hồi trước viết văn bằng giọng rặt Trung, sau năm 75 chuyển sang giọng Bắc.
Tôi cứ tiếc hoài cái giọng văn ngày xưa của bà.
– Tôi chưa mường tượng được nội dung tác phẩm của bà An…
– Thì anh cứ liên tưởng tới các nhà văn viết về đề tài hoa học trò và tuổi thơ thời nay, “đi nhẹ nói khẽ” không muốn dính tới những chủ đề dễ gây mích lòng khác.
Cho nên đọc xong một lần là như “nước trôi qua cầu”, không có gì gây ám ảnh hay đáng nhớ hết.
Hạnh tiếp:
– Nhắc mới nhớ, có một ông nhà văn khá nổi tiếng hiện nay chuyên đạo ý từ những tác phẩm nói về tình yêu đôi lứa của nhà văn Duyên Anh; ngay cả những tình tiết gây cười cũng y khuôn.
Anh Ba Hói cười nửa miệng:
– Ông Duyên Anh mà còn sống chắc ổng soạn “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” tế sống luôn.
Xương Tuyết phì cười:
– Đọc bức tâm thư mà ông Duyên Anh soạn ở cuốn “Tuổi Ngọc” tập Hai, số 154 phát hành năm 1971 là biết cái miệng ổng hiền cỡ nào.
– Chắc cũng ngang ngửa cái miệng mày thôi Tuyết à…
Nói đến đây, bầu không khí như chùng hẳn xuống.
Cha của Phước – Hạnh đã từng muốn giúp thằng nghĩa tử xuất bản sách, nhưng sau khi đọc xong những gì nó viết ông ngần ngừ hoài mà không dám nói cho nó biết…!Để rồi một ngày mùa Hè có mưa rơi không dứt, cơ hội chuyển thể sách thành phim của nó tan biến như bọt bèo, và người thay thế nó là nhà văn đang lên kia.
Ông khuyên nó nên viết hiền lại, nịnh đầm thiên hạ một chút, giả vờ bợ đỡ ông này ông kia để được in sách.
Nó buông xuống một câu, “Khỏi cần”, rồi vứt thẻ thành viên của Hội Nhà Văn lại và lui về sau làm ký giả và làm vườn.
Tập sách “Lúa trổ đòng đòng” đã đem đến một sự thương cảm và day dứt khôn nguôi cho gia đình ông bạn Văn Chương, và tới nay vẫn còn trong tâm khảm hai người con của ông.
“Lúa trổ đòng đòng
Người hiền chết ngắt
Chuột lắt lên ngôi
Tôi đòi xẻ nước…”
– Tuyết.
– Gì Hạnh?
Hạnh cười khổ rồi lắc lắc đầu.
Để khỏa lấp bầu không khí ngượng ngập, Xương Tuyết kể:
– Tôi có chị đồng nghiệp miền Tây mua đồ của một anh bán hàng xứ Quảng mà không hiểu ảnh nói gì hết nên chỉ xin ảnh nhắn tin qua giùm.
Người trong một Nước mà y như hai quốc gia.
Nhân đó, Hạnh nói hùa vô:
– Quảng nào?
Anh Ba Hói trả lời thay:
– Chắc Quảng Đại.
Nguyên đám phá lên cười.
Rồi anh bạn nhà văn ép Xương Tuyết phải uống với mình hết một lon bia Sài Gòn mới được.
Uống đâu được một ngụm, Xương Tuyết thuật chuyện mình:
– Thuở còn đi học, văn của tôi thường được chọn làm văn mẫu của lớp.
Nhưng không bao giờ tôi làm được quá tám điểm văn.
Trái lại, những người chép văn mẫu trong sách lại luôn được điểm cao hơn tôi.
Tôi cũng còn nhớ, lời khen của thầy – cô rằng tôi có thể trở thành nhà văn.
Bây giờ tôi không phải là nhà văn, chỉ là người thích ngồi viết truyện theo trí tưởng tượng của mình mà thôi…
Nhà văn đang lên cắt ngang lời kể của gã điên:
– Anh có thất vọng không?
– Không.
Nhưng đôi lúc, tôi cảm thấy rất có lỗi vì đã phụ lòng mong mỏi của mọi người.
Anh Ba Hói cười biểu:
– Ai biểu thôi nôi mày chọn cây viết làm chi? Nên giờ phải rước lấy cái Nghiệp này vào người.
– Sao anh Ba không chọn cây lược? Biết đâu giờ này còn nhiều tóc để chải rồi.
Anh Ba Hói vật thằng em trai xuống mà cù-lét một trận cho hả giận.
Báo hại Hạnh và nhà văn kia được phen cười ngặt nghẽo.
…
Xương Tuyết nói với anh bạn đồng sở thích:
– Sắp tới đây tôi sẽ nghỉ viết vài tháng mà lên núi “bế quan tu luyện”.
– Anh đi đâu?
– Chưa biết nữa.
Còn tiền là còn đi.
Hết tiền thì quay về sớm thôi.
– Bên anh có hai Mạnh Thường Quân mà?
Gã điên lắc đầu cười.
– Vậy cuối năm gặp lại nhau trong tiệc Giáng Sinh nghen?
– Ừ…!Hút thuốc không?
– Xin một điếu.
Chàng ta phân bua sau khi đã rít một hơi thuốc dài:
– Mười cha làm nghề sáng tác thì hết chín cha rưỡi bị ghiền thuốc, nghiện rượu và có vấn đề về thần kinh hoặc là người sống thiên về nội tâm.
Anh Ba Hói tới đón thằng em về Vũng Tàu.
Trước khi đi, anh không quên tặng cho người bạn mới quen hai ký mực một nắng đặc sản quê nhà.
– Tao đi chung với mày nghen?
Xương Tuyết chỉ cười cười mà không ừ hử chi sất.
Rồi đó, anh Ba Hói đưa cái nón bảo hộ cho em trai.
Nó cài xong, lại phì phà hút thuốc tiếp.
Chán nản, anh kể:
– Pháp y Cảnh nói tao là luật sư của mày…
Thấy đứa em trai kết nghĩa mải lo hút thuốc mà không nói năng gì hết, Từ Hớn Mai bực mình giựt điếu thuốc rồi lấy mũi chân dí lên nó đặng dập tắt lửa.
– Hồi xưa mày hay nói với tao ai hiểu mày mới là bạn mày, tao còn la mày cao ngạo, giờ thì tao biết mày nói đúng rồi.
– Dù thương hay ghét cũng là người dưng.
– Tao đã hiểu câu, “Đường phân minh định khôn tìm chước.
Tước niên điền hoạch định thiên luân”, của mày rồi.
Đội nón bảo hộ vô đi, rồi tao sẽ trình bày cho mày nghe.
Nghe hết những gì người anh kết nghĩa nói rồi, nét mặt gã điên mới giãn ra.
Anh vỗ vai anh Ba mà cười nói:
– Vậy thì đi theo em được.
Anh đã hiểu em rồi đó.
Anh Ba Hói vừa vặn tay ga vừa cười đáp:
– Chơi với mày riết điên lây theo mày.
Nhưng còn hơn là sống “vuốt đuôi” để lấy lòng thiên hạ.
oOo
Kiều Xuân đang nghe Stephen Đoàn ca bài “Vào mưa”, đây là một sáng tác của nhạc sĩ Từ Công Phụng.
Stephen Đoàn đã ngưng hát từ lâu mà Kiều Xuân vẫn chưa ngừng khóc.
– Em thấy Cha Cường không vui vì anh về đây.
– Ảnh làm đúng mà.
Anh là Mục tử, anh phải chăn Chiên và phụng sự Chúa.
– Hồi mẹ tôi còn sống, bà cũng thường gội đầu bằng bồ kết tự nấu.
Kiều Xuân vươn tay chạm lên mái tóc đặc trưng của Linh mục ấy mà cười biểu:
– Tóc anh cứng như rễ tre.
Stephen Đoàn ngượng nghịu trả lời:
– Ngày nào cũng gội mà nó vẫn cứng.
– Gội riết rụng hết bây giờ.
– Vậy hả?
– Trời ơi là Trời…
– Anh Mỹ hổng có thương cổ, Thầy làm riết ảnh thương luôn bây giờ.
– Mày hay quá há?
Cự nự nhau vài câu nữa, hai cha con không máu mủ ruột rà vô nhà sau nấu cơm tối.
– Mình nấu món chi Thạnh?
– Bò hon.
– Có nước cốt dừa?
– Dạ.
Augustino Dương đành thuận theo ý con trai.
Rồi đó, hai cha con lục đục dưới bếp để sửa soạn mâm cơm ngon lành.
Món bò hon sẽ ăn với bún tươi và rau sống.
Tráng miệng thì có khóm chấm muối ớt.
Vừa xắt đu đủ thành từng miếng vuông, Augustino Dương vừa hỏi:
– Con mua cây sơn trà này ở đâu vậy?
– Dạ, ở vườn kiểng dưới Ba Tri đó Thầy.
Rồi chàng Linh mục xứ dừa vui miệng kể:
– Giống cây này được đặt dựa theo tên của một thầy tu Dòng Tên.
Tên khoa học của nó là “Camellia”, còn tên của nhà hóa học và thực vật học kiêm Linh mục là Geogr Joseph Kamel; người chọn cái tên này cho bông trà là nhà thực vật học Card Linnaeus.
– Nó còn có tên là “Trà My” phải không anh Thạnh?
– Đúng đó cô Xuân.
Kiều Xuân ngồi xuống bộ ngựa mà lặt rau sống.
Bữa nay mới hay cô pha trà và cà-phê uống rất thơm ngon, vậy mà bấy lâu nay “giấu nghề”.
Stephen Đoàn ngồi vào bàn soạn bài giảng với Ignacio Cường.
Có sự cố vấn của Thầy Dương và Thầy Hoàn, bài giảng của hai người không những gãy gọn hơn mà còn rất vui và thú vị; mấy đứa nhỏ cũng bớt buồn ngủ và ngáp ngắn ngáp dài.
– Cái người mà con nói đến hôm bữa là sao với con vậy Cường?
Ignacio Cường nhíu mày:
– Là Linh mục Alphonso Lữ Gia Hạp, anh ta đã mất tích hơn mấy năm nay, ông Út Tiếp tháng nào cũng ghé Giáo xứ tìm con.
– Khoan.
Hồi trước cái cậu này là Linh mục phụ tá của Giáo xứ?
– Dạ.
Augustino Dương vừa đỡ cằm vừa đi tới đi lui.
Ông ráng hết sức nhớ coi cậu này là học trò của Cha nào và đã từng học ở khóa mấy.
Mỗi năm trường Dòng đón hơn một ngàn chủng sinh vào học nên nghĩ bưng cả óc mà ông vẫn không thể nhớ ra nổi Alphonso – Lữ Gia Hạp là ai.
– Thôi, hổng nhớ nổi thì đừng có ráng nhớ, Thầy.
– Henrico Thạnh lại tủ lạnh rót cho Thầy một ly nước lạnh.
Augustino Dương khoanh tay mà thở dài thườn thượt:
– Tao già rồi bây ơi…!Còn nhớ mặt mấy đứa bây không hà…!
– Bởi vậy đừng có nghĩ nhiều, nghĩ riết lú quên mất tụi conthì sao?
Ngoài sân dạ lý hương đã nở, hương thơm ngào ngạt mùi trần ai.
Con trăng Thượng Huyền mỏng như lá lúa nằm chơi vơi trên một khóm mây xam xám, trăng trắng.
Màn đêm lác đác ánh sao.
Vài cơn gió thoảng đưa hương vườn tược, ruộng đồng vào chái bếp đơn sơ mà đong đầy tình thương ấy.
– Ước chi trời làm trận mưa hả bây? Nực quá chèn rồi.
– Ổng ráo hoảnh vầy thì sao mà có mưa nổi Thầy.
Kiều Xuân cười mơn:
– Vậy con làm đá me cho mọi người uống nghen?
Augustin Dong mỉm miệng cười và gật đầu thay cho một câu đồng ý.
Nồi bò hon đã gần mềm, giờ ăn gấp cắn vô dai nhách như dây thun luồn lưng quần, đã vậy còn bị hư răng – sưng nướu – phỏng miệng.
Thành ra dù đã đói meo nhưng không một ai hối thúc bằng cách chụm thêm củi và miểng gáo.
Cứ để cho nó riu riu trên lửa vừa.
– Muốn thịt bò hầm mau mềm thì nên bỏ đu đủ còn xanh vô.
Riêng nấu bún bò thì nên bỏ vài miếng khóm.
– Kiều Xuân vừa nói vừa hứng nước đá từ cái tủ lạnh hai cánh hiệu Samsung.
Rồi cô quay sang nhìn Henrico Thạnh mà cười biểu:
– Em mê cái tủ lạnh nhà anh dễ sợ.
Bự tổ chảng.
Tha hồ trữ đồ tùm lum.
Lại còn biết làm đá cục và lạnh nước lọc nữa.
Má em ngán tiền điện nên hổng chịu mua về xài.
Ghét ghê vậy hà!
Bữa nay thần sắc Kiều Xuân đã bớt ngây dại, ánh mắt không còn vẻ lạc thần, tóc tai cũng đã biết chải chuốt gọn gàng, quần áo cũng thôi xộc xệch và nhếch nhác.
Chính vì lẽ đó mà Stephen Đoàn quyết định sẽ xuống đây hoài hoài, để “Búp bê bằng sứ” mà anh thương sẽ còn nguyên vẹn về mặt thể xác lẫn tinh thần.
Xin Chúa thấu lòng con!
Ignacio Cường không hiểu nụ cười của Stephen Đoàn hàm ý điều chi nên nảy ra những ý tưởng bất chánh.
Anh không muốn người bạn đồng quản xứ mà anh rất quý sa ngã vào cám dỗ thế gian.
Thím Năm xẹt qua dòm chừng con gái một chốc rồi ra về.
Bà để lại một bịch chả giò rế và một hũ chanh muối thiệt bự, và nhận lại từ tay Henrico Thạnh hột vịt lộn và hột gà vữa – mỗi thứ hai vỉ, mỗi vỉ một tá.
– Công nhận má con chiên chả giò ngon thiệt!
– Con quấn khéo hôn Cha?
– Khéo! Ai mà cưới được con chắc có phước…
Không hẹn mà ông Cha già, ba chàng Linh mục và cô gái bạc duyên đưa mắt nhìn ngó nhau một lượt.
Kiều Xuân cúi đầu thưa mọi người, rồi ra ngoài sân đứng thưởng hoa dạ lý hương và các thứ bông khác.
Chừng nghe anh Mỹ gọi vô nhà, Kiều Xuân mới hay mình đứng ngoài này đã một tiếng, nồi bò hon cũng đã hoàn thành.
– Uống thuốc nghen? – Stephen Đoàn vừa nói vừa đưa cử thuốc và ly trà lài thơm ngọt.
– Dạ.
Đợi Kiều Xuân uống thuốc xong, nhóm Linh mục mới bắt đầu buổi kinh cầu.
Trong lúc chờ, Kiều Xuân phe phẩy quạt mo đuổi rồi.
Bỗng nghe xào xạc gió đùa qua kẽ lá như có ai đang đứng trong lùm cây mà nhìn trộm vô nhà.
Không muốn phá hỏng buổi kinh cầu, Kiều Xuân bước xuống bộ ngựa rồi chụp lấy cây củi khô làm vũ khí phòng thân.
Cô run run đi ra ngoài sân.
Bên ngoài vắng tanh, tịnh không một bóng người.
Chỉ có bóng hoa – ảnh lá đang giỡn dưới ánh trăng leo lét sắp tắt.
Nhà dế và họ lưỡng cư đang thi nhau kêu réo ầm ĩ, những đợt sóng cỏ đang xào xạc dưới chân Kiều Xuân.
Hốt nhiên, một bàn tay ai đó lay vai của cô thật mạnh.
Cô ứa nước mắt la lên:
– Á!
– Là tôi đây mà, Xuân.
Sao tự nhiên lại bỏ ra ngoài này vậy? – Vừa nói, Stephen Đoàn vừa cẩn thận tước thanh củi đầy gai khỏi tay người con gái yêu mình.
Kiều Xuân kể lại rành mạch mọi sự mà mình đã nghe.
Henrico Thạnh nhướng mày và khoanh tay mà nói:
– Để tui vô nhà lấy đèn pin ra xịt thử.
Lóng rày trộm cắp lộng hành dữ lắm.
Dứt tiếng xong, chàng Linh mục xứ dừa chạy xộc vô buồng ngủ lấy cây đèn pin và cái đèn soi ếch.
Ignacio Cường và Thầy anh ở lại giữ nhà.
Còn Henrico Thạnh và Stephen Đoàn thì đi theo sự chỉ dẫn của Kiều Xuân.
– Ở đây nè hai anh…
Henrico Thạnh phát một nhát dao chặt dừa vào cái cây nhãn nằm sát bên bụi rậm.
Trong lùm liền vọng ra tiếng kêu khóc của hai đứa nhỏ.
– Mấy đứa, sao dzô đây phá vậy?
Đứa trai tức tưởi thuật lại hết cảnh đời của mình với đứa em trai.
– Trời ơi, ở đâu ra “Phạm Công – Cúc Hoa” vậy?
Than xong, Henrico Thạnh mời hai đứa nhỏ vô nhà ăn cơm.
Hỏi ra mới hay, chúng bị mẹ kế bạo hành nên đã trốn về quê ngoại; trong suốt chặng đường đó, chúng sống nhờ lòng hảo tâm của bà con cô bác chung quanh.
Cũng vì cuộc gặp gỡ trên mà Henrico Thạnh quyết định mở ký nhi viện, dẫu rằng tài chánh không được bao nhiêu..