Sau chuyến đi Đà Lạt, Vệ Thương rủ hai anh bạn lớn tuổi xuống Vũng Tàu chơi.
Vừa hay bạn ba có căn biệt thự cho thuê còn dư nên nguyên đám không cần mất thời giờ chọn chỗ ở.
Điều khiến cậu trai vừa mới chớm đôi mươi ngạc nhiên là gió biển ở đây không mặn mòi mùi muối như những phố biển mà cậu từng ghé thăm.
Hương nhiệt đới ở đây thật lạ lẫm; với vốn liếng tiếng Việt hạn hẹp, chàng Út không sao diễn tả được bầu không khí nơi đây bằng thứ ngôn ngữ này.
Về phần Samuel Định và La Yến Thanh, hai người đang chụp hình bằng máy ảnh Canon đời mới nhất; đây là món quà mà ông Vệ Thu dành tặng cho họ vì đã bỏ thời gian và công việc để đi chơi cùng con trai mình.
– Anh Định, mày ơi!
Samuel Định nhíu mày hỏi:
– Gì đó?
– Út đói bụng rồi.
La Yến Thanh càm ràm:
– Suốt ngày chỉ biết ăn với ngủ.
Tuy miệng nói vậy song Út Thanh vẫn chiều ý thằng bạn đáng vai em.
Và cũng thể theo ý của nó, hai anh lớn chọn một quán có nhà vệ sinh rất sạch sẽ và không khai khai mùi phẩn dơ.
Suy cho cùng nó cũng là con nhà danh gia vọng tộc, đã quen với nền nếp sinh hoạt mỗi bước đi là một bước thơm tho, giờ bắt nó sử dụng nhà vệ sinh dơ hầy sao nó chịu cho thấu.
Út Thanh kể lại truyện xưa tích cũ:
– Ông thiết kế bồn cầu tạo ra cái cần gạt xả nước bự tổ chảng, có đui cũng mò thấy nữa, vậy mà đi xong không chịu “thò tay ngọc, thọc tay ngà” nhấn giùm chúng sanh một cái, để thúi rùm trời.
Hồi đó, lúc em mới sáu, bảy tuổi á, má em mắc tiểu quá nên phải dẫn em vô nhà vệ sinh nữ đứng chờ má cho chắc ăn.
Trời ơi, má em thấy một cảnh tượng khiếp đảm thần hồn: Bà nội nào đi xong rồi mà quên xả nước, bả mới lấy chân đạp lên cái cần gạt xả nước vì sợ vi trùng dính vào tay.
Út Thanh ngạc nhiên hỏi:
– Bộ hổng biết lấy miếng giấy bọc cái cần hả?
– Bởi vậy cho nên rất nhiều sở làm bên Mỹ mới từ chối cho người vô gia cư sử dụng nhà vệ sinh của chỗ họ.
Hổng phải kỳ thị gì sất, mà là đi xong trây trét tùm lum hoặc để lại dấu giày đen như hành quân ba năm bên Trung Đông trên sàn nhà nên người ta mới không cho xài.
Samuel Định cau mày hỏi:
– Có cần phải mua hàng hay làm giấy tờ không em?
– Được chứ.
Anh không cần phải mua hàng hay làm giấy tờ mà vẫn có thể đi nhờ nhà vệ sinh.
Nhưng nếu như anh đi bầy hầy, lần sau anh không được họ cho vô đâu.
Đi xong, nhớ chịu khó lau sơ bề mặt bàn ngồi một chút nếu mình lỡ làm dây phẩn dơ ra ngoài.
Thành ra, nhiều người Việt đi đã đời rồi không chịu dọn cho người ta, nên lần sau bị họ từ chối cho đi ké nhà vệ sinh.
Một số thấy vậy tự suy diễn rằng vì mình là người Việt nên bị kỳ thị, trong khi nguyên nhân là do lỗi ở mình.
Samuel Định hỏi trong lúc khui lon nước ngọt hiệu “Sprite” không đường:
– Sao họ biết mà chặn mình vậy?
– Dễ thôi mà.
Nếu thấy nhà vệ sinh dơ quá, người lao công sẽ báo cho quản lý hoặc chủ cơ sở hay; căn cứ vào hình ảnh lưu trữ trên máy giám sát an ninh gắn ngoài hành lang và cửa ra – vào và thời điểm phát hiện nhà vệ sinh quá dơ, họ sẽ suy ra được là quân nào vô phá.
Út Thanh thay đổi chủ đề:
– “Sở Giao Thông – Vận Tải” bên bển dịch sao vậy?
– Là “DMV”, tức “Nha Lộ-Vận” – chữ này đã được xài ở miền Nam trước năm 75.
– “Lộ” là “Công lộ” và “Vận” là “Vận tải” phải không?
– Mèn đét ơi! Tui đẻ ở bên Mỹ ông nội! Sao mà tui biết nổi ba cái “chiết tự” mí lị “chữ Nôm”?
– Ờ, tao quên…!Mày chỉ biết nghe và nói, chớ viết và đọc đâu có rành.
Trời bỗng giăng mưa.
Mặt biển nhuộm màu xám ngắt của thinh không khắp nẻo mây mù.
Không tìm thấy đâu một cánh chim biển; những chiếc tàu neo lại bến cảng nằm buồn ngóng trông bóng hình chúng.
Út Thanh mời thằng bạn nhỏ tuổi nghe một bản nhạc sôi động:
– “Tình giả vờ” do Hoàng Thục Linh trình bày, nhạc ngoại lời Việt do nhạc sĩ Ngọc Trinh chấp bút.
Samuel Định giới thiệu:
– Cô này về sau đã chuyển sang hát thể loại nhạc trữ tình vì giọng ca không phù hợp với thể loại kích động nhạc.
Lúc biểu diễn ca khúc trên cổ chưa đầy hai mươi tuổi.
– Khoái rồi phải hôn?
– Tao đâu phải bê-đê như mày đâu mà không khoái?
Một nhóm khách du lịch chừng hai chục mười đã làm không gian quán nhỏ ồn ào cực kỳ.
Ba đứa bạn thiết chỉ biết nhìn nhau mà lắc đầu cười khổ, rồi dẹp hết nhạc nhẽo để giảm bớt sự huyên náo.
– Uống gì vậy mậy? – Út Thương hỏi.
– Nước tăng lực “Red Bull” vị cà-phê.
– Ngon không?
– Dở ẹc.
– Vậy mua uống chi?
– Uống cho tỉnh ngủ.
– Mày có lái xe được đâu mà bày đặt tỉnh ngủ.
– Tỉnh ngủ mới ăn được nhiều chớ.
Samuel Định biết em trai thường được đi du lịch nên hỏi em trai về cách ăn uống của xứ Phù Tang.
Và nó trả lời như vầy:
– Thường người Nhựt sẽ nêm bột ngọt trực tiếp vào món ăn, thay vì bỏ vô lúc chế biến như bên mình.
Nếu em nhớ không lầm thì cái hũ đó tên là “Umami”.
Thành ra vị ban đầu của món ăn rất lạt lẽo, nếu mình muốn đậm đà thì rắc thêm “Umami” dzô.
Út Thanh vỗ đùi cái đét:
– Hèn chi mà nhiều người Việt sống ở bển chê đồ ăn Nhựt lạt nhách.
Thì ra là do không hiểu cách ăn uống của người ta.
– Dạ.
Samuel Định gật gù:
– Vậy qua xứ Phù Tang du lịch phải lưu ý tới hũ “Umami” để sẵn trên bàn.
Trời đổ mưa chừng mươi, mười lăm phút, nhân viên mới dọn bàn ăn.
Nguyên đám chọn món cua rang me, cua chiên mắm – tỏi, cua hấp bia, cua bỏ lò nướng phô-mai, cua xào sốt trứng muối và ớt chỉ thiên, tôm hùm Alaska sốt bơ tỏi, tôm tích nướng mỡ hành, hàu né và ốc móng tay luộc.
Trước ánh mắt ngại ngần của hai người bạn lớn tuổi hơn mình, Út Thương cười biểu:
– Ăn chừng nào dị ứng hải sản mới được về.
Út Thanh ghẹo:
– Mày dưới hai mươi mốt tuổi nên không được ăn cua hấp bia.
– Khỉ họ.
Du khách vào quán ngày một đông.
Trong đó có một gia đình năm người vô quán đồ biển mà gọi toàn mỳ xào và cơm chiên; biết gia đình ấy không có tiền mua món đặc sản ăn nên bộ ba quyết định chia bớt những món trên bàn mình sang bên bàn đó.
Hỏi ra mới hay gia đình này làm nghề chở đồ mướn và bán hàng lạc xoong ngoài chợ, lúc trước sống cũng khỏe lắm, sau bị giựt hụi và chủ doanh nghiệp phá sản mà tan nhà nát cửa; hồi còn rủng rỉnh túi ham làm kiếm tiền nên không chịu đưa con cái đi đâu chơi, giờ đây thong thả rảnh rang thì hầu bao chẳng còn được nhiêu.
Rời khỏi quán nhỏ vào lúc ba giờ chiều với cái bụng no căng và tâm trí đầy ắp những mẩu chuyện đời của bao người, ba người lên xe về lại thành đô yêu dấu.
Vì là người Công Giáo nên khi xe chạy ngang qua Đồng Nai, Samuel Định xin phép hai thằng bạn cho mình đi thăm các tu viện và nhà thờ trong vùng một lát.
Đi tới đâu anh cũng hỏi thăm về tung tích của Alphonso – Lữ Gia Hạp; nhưng chẳng có ai quen với anh ta hết.
– Mình ghé Long Thành mua sữa bò tươi nghen hai anh?
– Ừm, tao cũng muốn tới đó mua vài món làm quà cho gia đình.
– Tôi cũng vậy.
Út Thương bỗng ngỏ ý:
– Vặn bài nào sôi động xíu cho đỡ buồn ngủ đi mấy anh.
– “Mambo Italiano” qua phần trình bày của Khánh Hà.
Tôi chưa tìm được nữ ca sĩ Việt Nam nào hát bài này hay bằng chỉ.
– Ê, mày giỏi tiếng Anh, ca thử tao nghe coi.
– Mày có nghe tiếng Italia trong trỏng không? Với lại tiết tấu nhanh vậy sao tao đuổi kịp.
Đến Sài Gòn thì trời đã chập choạng tối, đường sá lúc này bị kẹt xe kinh khủng, nhích được một bước thì phải chờ nửa tiếng nữa mới tiến được bước thứ hai, càng vào sâu nội đô thì khoảng thời gian phải đợi càng lâu thêm một khắc.
Tràng kèn liên hồi của xe tải đậu sau lưng xe của bộ ba đã làm Samuel Định tỉnh ngủ.
Gã hạ cửa sổ xe xuống rồi thò đầu ra ngoài mà vẫy tay ra hiệu xin lỗi.
Người tài-xế kia cũng không muốn sinh sự nên chỉ trỏ-tay về phía trước mà nhắc anh mau chạy đi và không mở miệng nói câu nào.
Để giải cơn mộng mị, gã quyến định sẽ đi mua cà-phê ở tiệm bánh kiêm quán nước “Giấc mơ mùa Đông” của thằng bạn giang hồ; sẵn trả thằng Út Thương cho má con mợ Hai luôn.
Trong quán đang phát bản nhạc “Lamba-Reggae” lời Việt do Lynda Trang Đài biểu diễn, nhưng người đặt lời Việt đã đổi tên thành “Liên khúc: Lambada”; bài gốc rất nổi danh qua phần trình bày của ban nhạc “Kaoma”.
Lời Việt thứ hai mang tên “Vũ điệu Lamba-Reggae”, cũng không rõ ai đặt lời nốt.
– Mới tới hả mậy? Ô, có hai đứa kia nữa…!Vô đây phụ bưng bánh bày lên khay với anh mày nè…
– Đ* má, mới tới mà đã đè đầu tụi tao đi làm công cho mày rồi.
Pha ly cà-phê uống cho tỉnh ngủ coi.
– Gì?
– A…!- Samuel Định nhìn lên tấm bảng ghi thực đơn.
Những dòng chữ được viết bằng phấn trắng đã khiến đôi mắt kèm nhèm của gã không thấy rõ.
– Rồi, Cappuccino Caramel Latte.
– Thôi mày vô mày pha luôn đi con.
Đã “Cappuccino” mà còn “Latte” sao tao làm?
– À quên, tao đọc lộn.
– Ý của mày là “Espresso Macchiato” đá xay phải không? Xịt thêm whipped cream và kẹo bảy màu.
– Có caramel không?
– Trời đ* má.
Mày quên mất nghĩa của nhóm chữ trên rồi hả?
Út Thương cười tươi:
– Ảnh buồn ngủ dữ lắm rồi anh Hai.
Chú Thương bèn dìu thằng bạn trạc tuổi xuống nhà sau để lên võng nằm ngủ.
Về phần hai chàng Út, hai chàng đã nhờ nhân viên trong quán pha giùm hai ly cà-phê sữa đá bào có whipped cream và si-rô chocolate.
– Gái đây có ăn trân châu không, chị bỏ cho gái một nhúm?
Út Thanh bẽn lẽn gật đầu.
Samuel Định đã say giấc nồng.
Không biết có phải do đường xa gặp cảnh nắng mưa thất thường mà anh ta mau mệt, hay là đã mang bệnh sẵn từ mấy ngày qua, mà bữa nay thấy anh ta xuống sức quá.
Vừa lấy gối mềm kê đầu cho thằng bạn, chú Thương vừa đắp tay lên trán nó đặng kiểm tra nhiệt độ; nóng hầm hầm, nó đã muốn bị hành sốt rồi.
– Anh Hai.
– Chi đó Út Thương?
– Em có mua cua gạch, tôm tích, mực trứng và sò huyết cho mọi người.
Mỗi nhân viên đều được nhận một phần, nên lát ai có ra về anh nhớ níu họ lại để đưa nghen?
– Út hiền quá, sau này khó chèo chống tập đoàn.
– Dạ, em đâu có ham vô làm cho baba.
Em khoái làm Youtuber hà.
Chú Thương nhỏm người đứng dậy:
– Mợ Hai có chiên bánh tiêu và nấu sữa đậu nành.
Út có đói bụng thì lấy ăn trước đi, má anh chưa có nấu cơm xong.
Đứng nói chuyện nãy giờ mà vẫn không thấy tăm hơi mợ Hai đâu.
Thường thì nghe nhà có khách, bà sẽ bưng trà – bánh lên thết đãi hay nài khách xuống nhà sau dùng cơm nước với gia đình.
– Má Hai đâu anh Thương?
– Đi giành đồ giảm giá rồi.
Cứ hễ siêu thị gần đây treo bảng “Đại hạ giá” là má tôi có mặt ở đó liền.
Rồi chú Thương giở giọng hăm;
– Cho nên tụi bây phải ở lại đây để giữ quán phụ tao.
Có mình tao thì ai lo nhà dưới?
– Biết vậy tao hổng có ghé rồi.
– Samuel Định dụi dụi đôi mắt cay xè.
Gã lần tay vào túi áo trong mà lấy ra cử thuốc cảm, đoạn đứng dậy và đi rót nước uống.
– Đừng có lộn đơn vị tiền tệ nghen Út? Anh mày nghèo lắm, đổi từ “đồng” sang “dollar” là chết anh mày luôn.
– Có gì em “đắp” cho.
Công nhận “con nhà tông không giống lông cũng phải giống cánh”, chỉ cần liếc sơ máy tính tiền một cái là Út Thương đã rành rọt cách sử dụng.
Trái ngược hoàn toàn với má của Hai Thương, mặc dù đã được con trai và mấy đứa làm công trong quán hướng dẫn kỹ càng, bà vẫn không biết cách xài.
– Trời ơi, Út thông minh quá mà không chịu vô Đại Học.
Út Thương gãi đầu cười ngỏn ngoẻn:
– Bộ thông minh là phải vô Đại Học hả anh?
– Chứ mấy đứa ngu như anh muốn được vô giảng đường ngồi học một lần mà chẳng được.
– Nói vậy là…
– Tôi học mới được năm nhứt Ngoại Thương thì rớt cái bạch.
Út Thương bóp bóp cánh tay chú Thương mà dịu giọng an ủi:
– Thì anh cũng được ngồi một năm rồi mà.
Anh biết ông Michael Faraday không? Ổng hổng tới trường một ngày nào mà vẫn tìm thấy các định luật về điện, và đã bắt những người học cao hơn ổng phải chứng minh các thí nghiệm của ổng là đúng.
– Tại sao lại phải chứng minh?
– Vì các nhà khoa học khác cần ổng nêu ra phương trình toán học để chứng minh thí nghiệm của ổng là có thật.
Ổng còn hổng biết căn bậc hai là gì thì làm sao lập ra một phép toán.
Thành ra một nhà Toán Học danh tiếng đã lập phép toán giùm ổng.
– Ý của Út là tôi dở cái này nhưng giỏi cái kia phải không?
– Phải.
Samuel Định trở lên nhà trên với mâm bánh tiêu đầy vun.
Vì thuốc chưa tan nên thần trí gã còn hơi sật sừ và bải hoải, do đó trên môi vắng mất nụ cười và ánh mắt lờ đờ như cá chết.
– Sao hổng ngủ cho khỏe mậy?
– Cái miệng mày như cái bô, oang oang ầm trời đố bố cha tao ngủ được.
Chú Thương chưa kịp lên tiếng cự cãi đã nghe Samuel Định hỏi:
– Mày có biết ký giả Sương Tuyết làm việc tại tòa soạn “Canh Tân” không?
Chú Thương nhún vai:
– Tao đâu có quen với thằng cha khó ưa đó.
Samuel Định phì cười trước nhận định của thằng bạn.
Gã vừa kéo ghế ngồi xuống vừa bình phẩm:
– Người ta sống thì “thêm bạn – bớt thù”, còn thằng chả thì khoái “thêm thù – bớt bạn”.
– Chắc gì là “bạn” hay chỉ là mấy cái bè “thuận nước thì theo, nghịch nước thì tản ra”.
Tao còn nhớ trong một số báo, khứa đó ghi như vầy: “Dẫu bất đồng quan điểm, hai người vẫn không ghi hận trong lòng hay đem đối phương đi bôi nhọ và kể xấu với kẻ khác, họ chấp nhận sự khác biệt tư tưởng của đối phương và bình thản bỏ qua mọi lời ác ý trong cuộc tranh luận.
Một thí dụ điển hình là Trang Tử và Huệ Tử.”
– Mày thấy sao hả Thương?
– Bạn giống đách gì mà hễ nghe không lọt lỗ tai mình thì vu cho người ta “Đạo đức giả”, “Thứ phản động”, “Thì ra mày là người của phe kia…”
– Phải, “Cái bè” chỉ đi theo mình khi mình hùa theo nó, còn trái ý nó là nó trở mặt liền.
– Cho nên đâu có gì là lạ khi khứa ghét chửi thề mà lại chơi thân với khứa Ba Hói và nhóm ký giả “Nhạn – Vàng – Bình – Công”.
Khứa coi họ là tri âm tri kỷ nên không để tâm vô chuyện đó.
Và đó mới là tình bạn thực sự.
– Chứ giống ôn gì bạn bè mình mới nói một câu, nó sửa lưng mình gần hết chữ trong đó rồi.
– Sao tự nhiên mày lại nhắc tới cái thằng cha khó ưa đó vậy Định?
– Vì cái ba-lô đựng tang vật là của thằng chả nên tao muốn tìm hiểu “tông tích” của khứa ấy mà.
– Mấy đứa…!
Mợ Hai đã về.
Bà xách theo năm, sáu bịch đồ nặng trịch và một chậu bông giả bằng vải nhung rất cầu kỳ.
Út Thương buột miệng nói:
– Má Hai mạnh dữ!
Mợ Hai cười rổn rảng.
Ánh mắt bà ngời lên niềm vui và lòng thương mến vô vàn, làm những người bạn thiết của Hai Thương có cảm tưởng mình là đứa con đi xa lâu ngày mới về của bà.
Ai nấy bỗng bùi ngùi cảm động khôn xiết.
– Ở lại ăn bánh ướt với gỏi gà xé phay bóp rau răm rồi hẵng dìa mấy đứa.
– Má, lát má cạo gió cho thằng Định nghen.
Mợ Hai tươi cười biểu:
– Rồi, rồi, để má cất đồ cái đã.
…
Qua ngày hôm sau, chú Thương và Samuel Định đến hiện trường vụ án giết người cướp nội tạng.
Kể từ hôm xảy ra án mạng trên, lò mổ heo bị đình chỉ hoạt động; mà nếu không tạm ngưng việc giết – mổ, thì thịt heo ở đây bán ra cũng chẳng có ai mua đâu.
Chưa đầy hai tháng mà lò mổ đã tiêu điều và bốc mùi ẩm thấp như đã bị bỏ phế hàng chục năm trời.
Sàn nhà vốn dĩ loang lổ vết máu khô của tiết heo, nay không có người lau chùi và tẩy uế nên nó càng sậm màu và tanh tưởi.
Samuel Định xức dầu thơm hơi quá tay nên cái mùi cơ thể của gã kết hợp với mùi xạ heo tạo thành một loại “khí lỏng” khó chịu đến mắc mửa; người bạn đồng hành của gã vì chuyện này mà chửi gã không tiếc lời.
Thể theo ý kiến của Hai Thương, Samuel Định cùng anh ta đi vòng ra phía sau lò mổ để tìm kiếm dấu vết khả nghi.
Ngoài ra, còn nhằm để cứu vãn cái khứu giác đang sắp bị “ung thư” của chàng Hai.
Nơi đây cỏ mọc um tùm, bờ lau chen lộn với loài rau mơ và rễ tranh.
Lác đác vài căn nhà sàn vách tole rẻ tiền xây lấn ra sông, ánh đèn tù mù vọng ra từ gian bếp gieo chút vệt sáng cho bờ sông hoang lạnh.
Không thấy trẻ con hay người lớn đâu, có lẽ họ vẫn còn đang loanh quanh trong đô thành; hy vọng trẻ con thì đang ngồi học và người lớn thì đang đi làm, chứ không phải cảnh huống trẻ con thì đang đi làm và người lớn thì đang ăn nhậu, hút xách, bài bạc hay đ* đượi.
Căn nào thì cũng giống như căn nào, cũng cái kiểu “thiết kế” sàn nước lộ thiên với ống dẫn thủy xả trực tiếp ra sông, và gầm nhà để lủ khủ đồ ve chai – chỉ cần một mồi lửa nhỏ nhoi là toàn bộ cái xóm cháy thành than hết.
Máng xối thì ôi thôi dơ chưa từng thấy! Vậy mà vẫn dùng để hứng nước mưa đặng bớt được khoản tiền nào hay khoản nấy.
Samuel Định thương cảm hỏi:
– Sao họ phải sống ở đây vậy mậy?
– Bị cướp đất á…!Rồi tiền bồi thường không đủ giắt kẽ răng nên họ phải dắt díu nhau về đây “ở lậu”.
– “Ở lậu” ngay trên chính Quê Hương của mình?
– “Cest la vie”.
– Trước đây nhà họ ở đâu?
– Quận Nhứt.
– Chúa ơi…
– Ai cướp đất của họ?
– Cái ông nào bên Bộ Tài Chánh á.
– Có phải cái ông có đứa con gái đang cần hiến gan gấp không?
– Đúng vậy.
– Ê…!
– Mày có nghĩ giống tao hôn?
– Ờ há.
Hai người hớt hải trở ra xe.
Cửa vừa đóng sầm lại, Samuel Định đã quay qua nói với thằng bạn thân:
– Có tin đồn ông đó định bắt cóc con nít đặng cướp gan cứu con gái.
Người ta suy diễn từ chuyện cướp đất sang cướp gan luôn.
Chú Thương bèn đề nghị ghé nhà tên cướp đất đó thám thính.
Samuel Định ưng thuận liền.
Ngôi nhà của tay tham quan ấy tọa lạc tại Quận Tân Bình, gần phi trường Tân Sơn Nhứt, tổng diện tích ước khoảng cả ngàn mét vuông, kiến trúc theo kiểu Tân Cổ-Điển.
Có một chiếc xe Ferrari và một chiếc Lexus 450 đậu ở sân trước, trong nhà để xe cất ngoài sân còn có một dàn xe gắn máy hạng sang.
– Là con nhỏ đó phải không?
Nương theo hướng ngón trỏ của chú Thương, Samuel Định ngó lên ban-công lầu Hai.
Một cô bé áng chừng vị thành niên đang khoanh tay lên lan-can mà ngồi ngắm cảnh, dáng điệu ốm yếu và ủ rũ khôn cùng.
oOo
Duy Trác đang trình bày bài hát “Trên sông Hương” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, một tình khúc Tiền Chiến tuyệt diệu của tác giả Huế đô có sự nghiệp sáng tác theo cảm nhận của con tim thật ngắn ngủi; cũng nên nói thêm, những bản nhạc Đỏ của ông không được mấy người yêu chuộng và phổ biến bằng các tác phẩm Tiền Chiến ít ỏi.
– Mi đân chi tau thời?
– Để yêm đọc thực đơn cái đã…!Gì mà iêng gấp gáp dữ rứa?
Võ Kiến Hữu vỗ đầu em trai mà cười xòa.
Đoạn ngó quanh quất quán nhỏ và hỏi:
– Quán ni coi bộ bán ế hỉ?
Không ngửng mặt lên nhìn anh, Võ Kiến Tường vừa lật sang trang mới vừa đáp:
– Dạ, nấu đúng kiểu Thần Kinh nên hơi khó ăn với dân trong đay, thành ra mối quen đa số là người ngoài nớ.
Chọn được đâu vài món, kế gia đình Hai Nghĩa và vợ chồng Sáu Nghệ bước vô.
– Thầy đâu anh Hai?
Hai Nghĩa cười mà rằng:
– Thầy mình bận đi lo tang lễ cho một Cơ Đốc Nhân tuốt ngoài Mũi Né rồi.
Chắc vài ngày nữa mới về.
Sợ thằng Hải đói nên Hoàng Minh Tâm và Trương Liễu Nham ngoắc bồi bàn lại đặt món.
Nó ăn bánh canh Nam Phổ, còn mẹ và cô nó thì ăn cơm hến.
Vì Kiến Hữu là người ngoại Đạo nên không tham gia đọc Kinh và làm dấu Thánh cùng mọi người.
Trong lúc chờ đợi, anh nhắn tin qua Viber với một người bạn thuộc hội thiện nguyện của Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
Sau giờ Lễ, Kiến Hữu hỏi Minh Tâm:
– Chắc chị có bầu chừng năm tháng hỉ?
Minh Tâm giựt mình hỏi:
– Răng anh đoán trúng phóc rứa?
Kiến Hữu huơ cả hai bàn tay lên hòng trấn an chị Hai của thằng em:
– À, tụi tôi có học qua một khóa thai sản để dễ bề sơ cứu cho họ khi cần kíp ấy mà.
Bữa ni tổ đãi hay răng mà tôi đoán ngay chốc.
Vốn đã quen khẩu vị và cách nêm nếm xứ Nam Kỳ nên anh, chị, em đồng Đạo với Năm Tường ăn không mạnh miệng cho lắm.
Chỉ duy có bé Hải dễ nuôi nên ăn hết veo tô bánh canh đầy ụ.
– Eng chè heo quay khôn quý vị?
– Thôi, thôi, thôi, thôi…!- Hai Nghĩa lắc đầu nguầy nguậy.
Kiến Hữu xụ mặt hờn:
– Răng mà phản ứng dị rứa?
Minh Tâm chữa lời:
– Ổng ngán ăn đồ nhiều dầu mỡ.
Thông cảm nghen anh Hữu.
Năm Tường nói lảng;
– Người ngoài nớ có bài hò về sự thương nhau mà khác Đạo hay lắm:
“Cây bình tinh, Lá bình tinh
Anh Đạo, em Ngoại đọc Kinh khó lòng
*
Cây bồ đề, Lá bồ đề
Anh Đạo, em Ngoại không hề chi mô…”
Sáu Nghệ hỏi:
– “Bình tinh” là chi rứa?
Kiến Hữu hướt mà trả lời:
– Cây ni cùng họ với lá dong, còn có tên khác là “Hoàng tinh”; trong Nam kêu “Mì tinh”, ngoài Bắc kêu “Dong tây”.
Rồi chàng ta hỏi:
– Quán ni có bột bình tinh khôn “cụ”?
Cậu nhân viên la, “Có”, rồi hỏi ăn mấy dĩa.
Kiến Tường cản:
– Bột bình tinh gần giống món ăn dặm của em bé.
Không quen vị dễ bỏ mứa.
Tội lắm.
Liễu Nham cười nói:
– Dạ, em ăn được, anh Năm.
Em hay mua bột ăn dặm của con nít về ăn.
Cậu nhân viên mau mắn:
– Rứa o đay một dĩa hí?
Liễu Nham nghệch mặt ra nhìn cậu ta.
Kiến Tường dịch:
– Cẩu nói, “Vậy cô một dĩa hen?”
– Dạ…
Nể mặt Kiến Tường, Minh Tâm kêu thêm một dĩa bánh nậm và chả tôm.
Về nhà thờ của Hội Thánh lúc mười một giờ, nguyên nhóm cất xe gắn máy để lên chiếc xe hơi của Năm Tường đặng xuống Kiên Giang chơi một chuyến.
Thời may chiếc xe của Năm Tường có tám chỗ nên những người cần đi có đủ ghế ngồi.
Vì cái thai của Hoàng Minh Tâm khá lớn nên vợ chồng chị ngồi riêng ở băng nhì, băng chót dành phần vợ chồng Sáu Nghệ cùng bé Hải và băng đầu là của hai anh em họ Võ.
– Mấy anh nghe tin gì chưa?
Minh Tâm vừa nhai cà-na muối ớt vừa hỏi:
– Sao chị Sáu?
– Không hiểu sao con nhỏ con ông viên chức bên Bộ Tài Chính cần ghép gan, thế là bỗng dưng có tin đồn ổng định bắt cóc con nít nhà người ta để lấy gan.
Hai Nghĩa cau mày hỏi:
– Ai mà dựng chuyện khốn nạn thế?
– Nghe đâu là một trong số những người đang tranh cử chức vụ của anh ta.
Sáu Nghệ đổi sang chủ đề khác:
– Trung Thu này tính tổ chức sao?
Hai Nghĩa trả lời:
– Bên ngoài nhà thờ như mọi năm.
Riêng năm nay Judas đài thọ nên sẽ có nhiều bánh Trung Thu và lồng đèn đẹp để phát hơn.
– Ai bày vụ múa lân? – Kiến Hữu cười hỏi.
Hai Nghĩa chống cằm nghĩ ngợi một đỗi, rồi cười khổ mà không trả lời chi hết.
Minh Tâm nói:
– Bữa hổm nghe bà Mai Hương ca bài “Tình yêu Thiên Chúa” của nhạc sĩ Vĩnh Phúc hay quá, chắc Giáng Sinh sắp tới ca đoàn của mình sẽ trình diễn bài này.
Hai Nghĩa góp ý:
– Bài gốc mang tên “What Child is this?” của tác giả William Chatterton Dix.
Đây là Thánh Ca của bên Tin Lành mình.
Sáu Nghệ hào hứng bày tỏ:
– Vậy thì OK quá rồi.
Năm Tường hỏi:
– Lát mình xuống Kiên Giang “thỉnh” đoàn lân – sư – rồng của “Kiến Nghĩa đường” hả anh Hai?
Hai Nghĩa day qua cầm tay vợ mà hỏi:
– Em ngồi xe nổi không?
Minh Tâm mắc cỡ nên nói xuôi xị:
– Thôi đi cha…!Định nhốt tui ở nhà hả?
Từ Sài Gòn về Cần Thơ khoảng độ vài tiếng, nếu bị kẹt xe thì tốn thêm hai tiếng, gặp lúc bầu – bì nên Hoàng Minh Tâm hay bị nặng bụng sinh mắc tiểu nên hễ đi được chừng một giờ là Kiến Tường phải tìm chỗ nghỉ chân đôi lát; nhưng cũng vì vậy mà mọi người mua được rất nhiều đặc sản của mỗi tỉnh lỵ ghé qua.
– Làm phiền mọi người quá…!- Minh Tâm ái ngại nói trong khi lấy khăn ướt lau mồ hôi trên mặt bé Hải.
Kiến Tường vẫn không khỏi thắc mắc tại sao người anh họ trên trời rớt xuống lại rành rẽ chuyện thai sản nhường vậy.
Đến địa phận Vĩnh Long, Hai Nghĩa mua bánh tàng ong, bánh dừa nhân ca-dé, bánh da lợn, bánh lỗ tai heo, bánh ít lá gai và bánh bò bông làm thức quà thết đãi bạn hữu và vợ con.
– Iêng.
– Chi rứa?
– Tháng ni đi đo lượng đường trong máu chưa mà đân nhiều béng ngọt a rứa thê?
– Ôi, tau ghét thứ dòng “ăn lấy hương lấy hoa”.
Vì một vụ đụng xe giữa hai chiếc xe gắn máy nên “Đoàn người lữ thứ” tới Kiên Giang trễ thêm một tiếng.
Bé Hải đã ngoẹo đầu ngủ mất đất, hai gò má phúng phính chảy xệ xuống làm Trương Liễu Nham ngứa tay nựng hoài.
Do không rành đường vườn nên Kiến Tường chạy lạc một đoạn khá xa rồi mới sực nhớ mà quành đầu xe lại, cộng thêm Minh Tâm đòi đi vệ sinh liên tục, thành ra lại mất thêm một giờ đồng hồ nữa.
– Em có bị bệnh thận không mà sao…
– Trong giai đoạn mang thai, bàng quang của nữ giới hay bị kích thích nên sanh chứng tiểu lắt nhắt.
Dù vậy, để tránh bịnh khác gây ảnh hưởng tới sức khỏe của hai mạ con, chúng ta nên đưa thai phụ đến bác sĩ khám cho chắc ăn.
Nghe những lời trên của Kiến Hữu, Kiến Tường càng thêm hoang mang, nhưng anh không nghĩ mình là ai mà có chỗ muốn giúp “anh họ” mạo nhận là bà con với mình được.
Vả chăng, anh đã đi xét nghiệm hết năm chỗ, chẳng lẽ “anh họ” lạ̣i dư tiền đến mức độ đút lót khơi khơi như vậy sao?
– Gần đến rồi.
Cho xe chạy chậm lại đi anh Năm.
– Sáu Nghệ nhắc nhở ông anh đồng Đạo.
Đón tiếp đoàn khách phương xa là sắc tím của hàng cây bằng lăng đại thụ cùng màu xanh lá bát ngát của vườn tược um tùm và sum sê trái chín.
Y quán của thầy lang Bạch Mai nườm nượp khách ra – vào; phần đông là bịnh cảm mạo, trúng nước, viêm họng, nghẹt mũi, ho hoài hay bị nhiệt hạch, với những ai bị bịnh nặng hơn hoặc đang có bầu cụ đều khuyên nên đến nhà thương lớn chữa trị và thăm khám.
Do hết chỗ đậu nên Năm Tường đậu luôn trong sân nhà riêng của gia đình cụ, mà không nói với gia chủ một tiếng.
Tư Kiền chưa kịp nói câu nào, Hai Nghĩa đã hướt mà mở miệng hỏi nhà vệ sinh đâu để dẫn vợ đi ói.
Nghe vậy, chàng võ sư lật đật dẫn đôi vợ chồng lạ mặt xuống sau hè liền.
Những võ sinh của võ quán ở lại tiếp chuyện với đoàn khách Sài Gòn.
Cũng có người lanh lẹ ướm hỏi họ rằng có phải tới đây là để mướn chúng tôi múa lân không; Năm Tường gật đầu xác nhận, rồi lên tiếng thương lượng về giá thuê và những khoản phụ thu khác.
Đang bàn bạc sôi nổi, bỗng nhiên nhóm võ sinh mặt mày quạu đeo rồi ngoảnh mặt đi một hơi vô phòng khách.
Vừa hay cảnh ấy lọt vào mắt Hai Nghĩa, anh cau mày mà lớn tiếng hỏi:
– Có chuyện gì vậy?
Tư Kiền ngó ra ngoài cổng, rồi không nói không rằng mà ra hiệu cho vợ chồng cùng đoàn khách theo mình vô nhà.
Thấy đoàn khách đã tề tựu đông đủ, Tư Kiền mời khách lớn lên trường kỷ ngồi, còn khách nhỏ thì lên võng nằm.
Đoạn rót trà vào chung cho từng người.
Hai Nghĩa lên tiếng trước:
– Sao tự nhiên quạu đeo vậy anh?
Vừa lấy khay mứt từ trên bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ, Tư Kiền vừa đáp:
– Có biết cái ông bên bộ Tài Chánh đang lùm xùm mấy vụ đất đai không?
Ai nấy thảy đều gật đầu.
– Ông đó ngày nào cũng phái đệ tử xuống nhà tôi tìm người hiến gan cho con gái ổng.
Minh Tâm nhíu mày bình phẩm:
– Hồi gia đình êm ấm sao không ăn ở có đức chút, giờ con gái bị hư gan mới sáng mắt ra.
Năm Tường hỏi:
– Nói vậy là ông ta xuống đây không phải chỉ để tìm thuốc cứu con, mà còn là gạ người ta bán gan cứu con gái mình?
Kiến Hữu hỏi:
– Có ai chịu giá mà bán không anh?
Sau một hồi phân tích ý câu của chàng Huế, Tư Kiền mới hiểu ra anh ta đã nói cái gì:
– Cũng được vài người…!Mà lần nào cũng bị cái vụ xét nghiệm hai bên không ghép được nên phải hủy hợp đồng.
Huynh trưởng của võ quán đập tay xuống bàn mà nói:
– Nghe con nhà võ khỏe mạnh nên cứ tới đây gù hoài hà…!Mà đ* má, người ta sống bằng nghề múa lân với biểu diễn võ nghệ, hiến gan lỡ ảnh hưởng cơ thể là nửa đời sau đi ăn mày luôn.
Sáu Nghệ xen vô:
– Ổng cho bao nhiêu mà không chịu?
– Khoảng một triệu Mỹ kim.
Bịnh hậu cũng hết, lấy làm giống đách gì.
Sáu Nghệ sửng sốt:
– Trời đất quỷ thần thiên địa ơi, làm công chức chánh phủ mà có một triệu Mỹ kim.
– Thì cướp đất, cướp nhà thiên hạ nên mới có số tiền đó.
Trương Liễu Nham buồn buồn nói:
– Rốt cuộc gia tài kếch sù cũng không mua được tấm thân lành lặn cho con gái ổng.
Mải lo tán dóc với nhau, nhóm người lớn không hay thằng Sáu Vĩnh đã dắt bé Hải ra bờ mương sau hè mà ngồi câu tôm.
Cái mương ấy nằm ven hàng so đũa và điên điển, đâu mặt với nhà mát cất bằng cây dừa và lợp bằng phên cỏ tranh.
– Mập.
– Dạ?
– Mày nhiêu tuổi rồi?
– Sang năm em tròn mười.
– Cha, mới có chút éc mà nói chuyện như người lớn ha?
Chừng trở lên xe, vợ chồng Hai Nghĩa mới phát hiện thiếu mất thằng con.
Vì sợ vợ bị động thai nên anh biểu nàng làm ơn làm phước lên xe ngồi trước, việc kiếm bé Hải hãy để mình lo.
Dù muốn dù không, Hoàng Minh Tâm cũng phải nghe lời chồng.
Trong lúc Trương Liễu Nham gấp cái ghế để leo vô băng chót, Năm Tường đưa cho chị Hai một chai nước suối và một viên thuốc ngăn ói mửa.
Chờ đâu được nửa tiếng, Hoàng Minh Tâm bỗng lật đật bước xuống để đi vệ sinh.
Võ Kiến Hữu nhận phần dìu cô tới đó.
– Vợ tôi đâu rồi Năm? – Hai Nghĩa vừa khiêng bé Hải qua cái ghế gập vừa cau mày hỏi.
– À, anh họ em dẫn cổ đi tìm nhà vệ sinh rồi.
Mất một tiếng nữa chiếc xe mới khởi hành.
Hương Lan đang ca bài “Ninh Kiều – Em gái Cần Thơ” của nhạc sĩ Lâm Hoàng.
Miền “Gạo trắng nước trong” là nơi nên duyên vợ chồng của cô dâu Minh Hương và chú rể miệt vườn.
Vừa lấy khăn giấy lau mặt cho bé Hải, Trương Liễu Nham vừa dịu dàng nói:
– Nó ngủ rồi…!Cô Hương Lan ru ngọt quá mà.
Trước lúc trở về thành đô, Võ Kiến Hữu mời nguyên đoàn lên Sóc Trăng thăm tịnh thất của nhóm cư sĩ Tứ Ân Hiếu Nghĩa; nhân tiện mua bánh pía luôn.
Hai Nghĩa khoát tay mà rằng:
– Có đem theo đồ đâu mà ở lại chơi?
Trương Liễu Nham và Hoàng Minh Tâm rụt rè thưa rằng mình đã chuẩn bị đủ hết rồi.
– Tau cũng lo cho mi rồi.
Hai Nghĩa lại cự:
– Vợ tôi đang bầu bì, con tôi…
– Tôi muốn đi chơi, còn thằng Hải cho nó nghỉ học có hai ngày chết ai đâu mà anh cản?
Năm Tường hồ nghi Kiến Hữu đã biết mình đang ngờ vực ảnh nên mới bày đặt ra chuyến đi này.
Càng lúc anh càng muốn trở về Huế để tìm hiểu lai lịch của người anh họ kỳ lạ ấy.
oOo
Sau mấy tháng phiêu lưu ký khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh, Xương Tuyết hội ngộ với nhà văn trẻ ở một quán cà-phê tại Quận Nhì.
Thể theo yêu cầu của anh bạn chung chí hướng, gã điên gọi người này với bí danh “Kiến Càng”.
Kiến Càng hỏi trước:
– Có đọc sách của một thi sĩ mới nổi không Tuyết?
– Cho biết cái tên đi.
Nghe xong, gã điên phá lên cười sặc sụa, đoạn biểu:
– Nội dung bài thơ thì cũ rích, cách gieo vần chẳng có gì đặc sắc, đọc lướt qua cứ tưởng đâu là mấy bài thơ nhăng nhít của con em tôi.
Ngữ này bưng cà-phê cho Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Nguyễn Tất Nhiên, Nguyên Sa, Lý Thụy Ý, Hà Huy Hà,…!còn không có cửa; chứ đừng nói chi là được xếp chung mâm với họ.
Kiến Càng cũng cười theo:
– Ừ, in được cuốn sách cái tự nhiên thành nhà văn, nhà thơ.
– Ngày xưa, không ai tùy tiện phong cho anh là nhà văn hay nhà thơ đâu.
Ngoài ra, không phải ai sáng tác thơ hay thì cũng viết văn giỏi, nên thường những người muôn năm cũ chỉ có được một trong hai danh xưng.
Tỷ như chú Hải viết thơ rất hay nhưng viết văn không có gì là nổi bật nên chỉ được gọi là thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên.
Hoặc giả như ông Quý, viết văn thật đặc sắc nhưng viết thơ thường thường bậc trung, nên ông chỉ được gọi là nhà văn Mai Thảo.
– Phải, đâu phải ai cũng được như Bùi Giáng, Nguyễn Đình Toàn, Phan Ni Tấn,…!
Xương Tuyết cười buồn:
– Hết đời tôi cũng không biết có ai giỏi như cụ Bùi Giáng không.
Vừa là thầy giáo, vừa là dịch giả, vừa là nhà văn, vừa là thi sĩ, vừa là nhà phê bình văn học.
– Thôi, gác chuyện văn chương qua một bên đi Tuyết.
Anh đi chơi xa có thấy điều chi lạ không?
– Tôi đã đi hết Nam Kỳ Lục Tỉnh.
Đi tới đâu cũng thấy nhà thờ Kitô Giáo được trùng tu hoặc xây mới.
Một đứa bé bán vé số lại gần hai kẻ mê viết lách, khiến họ phải ngừng cuộc trò chuyện mà lựa số mua giùm nó vài tờ.
Kiến Càng chợt kể:
– Bữa hổm tôi đi ngang qua một nha khoa, thấy bảng quảng cáo đề “Bảo tồn răng thật”; bộ răng thật là răng khủng long hay gì mà phải bảo tồn? Chỉ cần ghi “Giữ gìn” hoặc “Bảo vệ” là rõ nghĩa rồi.
Một người khách ở bàn bên mạn phép qua bàn họ ngồi tán dóc chung.
Anh ta giới thiệu mình đang sống ở bên Mỹ, làm hãng, nay nhân dịp em gái kết hôn với thằng bạn đồng nghiệp bên bển nên về Nước một chuyến.
Kiến Càng hỏi:
– Anh muốn bàn luận chuyện chi?
– Tôi muốn biết về Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có tác tệ như những gì mà một số người đồn thổi không?
Xương Tuyết nhếch miệng cười:
– Nếu như anh không biết gì về Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thì xin anh đừng vu khống rằng toàn thể Tăng – Ni đều làm chính trị và nuôi chứa đám đó.
– Anh có thể nói rõ hơn không?
– Người đầu tiên là một vị sư thầy có biệt hiệu “Tội nghiệp”.
Thầy sống trong một túp lều tranh rách nát với một người đệ tử.
Nhằm tránh phiền lụy tới Phật tử, hai thầy – trò trồng rau cải và khoai sắn để có cái ăn hằng ngày; thấy bữa ăn đơn sơ quá, Phật tử lại hùn nhau cúng dường gạo, tàu hũ và gia vị nấu đồ chay để cải thiện bữa ăn cho họ.
Thầy không tổ chức thuyết giảng hay nhận hiện kim, trong túi chẳng lúc nào có tiền, ấy vậy mà vẫn bị trộm như thường.
Số là như thế này: Tên trộm đó hay vô lấy cắp nồi, niêu, quánh, chảo đem về bán cho vựa ve chai hoặc hàng lạc-xoong.
Cứ hễ mỗi lần chùa bị mất đồ, Phật tử lại bỏ tiền túi ra mua cái mới.
Mất tới lần thứ năm, thứ sáu, một ông nóng quá mới đòi ngủ lại chùa để rình bắt tên trộm đó.
Khuya hôm ấy, gà chưa kịp gáy canh đầu, tên trộm đó đã có mặt ở gian bếp.
Ông Phật tử tính nhảy xuống giường bắt hắn, liền bị Thầy níu tay nói, “Thôi, đừng có la lên, kẻo cậu đó vấp té tội nghiệp.” Ổng tức quá mới cao giọng hỏi, “Nó vô đây ăn trộm mà Thầy tha cho nó được hả?” Thầy trả lời tỉnh queo, “Nó ốm yếu nên mới ghé chỗ tui trộm.
Chứ nó mạnh giỏi như con người ta thì đâu có làm cái nghề này chi.
Thôi, tội nghiệp nó mà cậu.” Sau cái buổi tối ngủ chung giường bắt trộm ấy, ông Phật tử kể cho bà con chòm xóm hay câu chuyện trên, không quên thuật thêm một chuyện nữa: Đó là dù bị muỗi cắn cỡ nào đi chăng nữa, Thầy vẫn kiên quyết không xuống tay giết chúng.
Qua chuyện khác: Mấy đứa nhỏ biết Thầy hiền nên rình rình xô xuống mương hay hù cho té hoài.
Bị như vậy mà Thầy vẫn cười và vẫy tay chào hỏi tụi nó, “Mấy con đi học dìa hả?” hay “Trưa nắng quá sao mấy con không kiếm chỗ mát nào chơi?” Tới một lần nọ, xui rủi sao mấy đứa nhỏ bị người lớn bắt gặp, người này tính giải tụi nó về nhà ba má cho ăn đòn mập mình rồi, Thầy đứng dưới mương trong bộ dạng ướt như chuột lột mà lên tiếng cản, “Thôi, mấy đứa nhỏ thấy tui buồn nên kiếm chuyện ghẹo cho tui vui mà.
Đừng méc ba má tụi nó, tội nghiệp.”
Cứ hễ qua mùa mưa là cái chùa bị hư hại nặng nề.
Bà con chòm xóm lại cùng nhau xây lại cái chùa.
Không bao giờ, Thầy lại vẽ hay nói bóng nói gió để mọi người xây cất chùa hoặc đúc tượng bề thế như mấy cha Ma Tăng hay lên khuyến dụ cả.
Thầy mất khi gần một trăm tuổi.
Phật tử tứ phương đổ về lo ma chay và góp tiền mua đất – lập mồ.
Trong suốt cuộc đời tu hành của mình, Thầy chưa hề có một buổi thuyết giảng được tổ chức đàng hoàng, nhưng chính cách sống của Thầy đã bảo chứng rằng Thầy là một bậc chân tu.
Hai ngôi chùa của hai bậc Đại Đức đó đều bị tịch thâu và biến thành nơi làm tiền thiên hạ.
Mà hàng đệ tử theo họ biến tướng gần hết vì lóa mắt trước đồng tiền cúng dường của các thí chủ sùng Đạo.
– Anh nghĩ sao về Bắc Kỳ, anh thấy có người tốt không?
– Ba tôi từng quen với một ông chú Bắc Kỳ.
Người này ghét Bắc Kỳ tới nỗi bỏ đất Bắc vô Nam và tự rèn cho mình nói chuyện giống người Nam Kỳ; ổng đi hồi năm 54.
Tánh tình người này rất tốt và luôn sẵn lòng giúp kẻ hoạn nạn.
Sau này ba tôi đổi chỗ làm, còn ông đó cũng chuyển sang vùng khác sống, nên hai bên không còn liên lạc nữa.
Mà cũng ngộ đời ở chỗ, ổng là Bắc Kỳ mà lại nói cái đám đó xài hổng có vô và đừng có nhắc tới tụi nó nữa tao ghét dữ lắm; ban đầu ba tôi nghĩ ổng giả bộ, sau nhiều lần tình cờ bắt gặp ổng nói chuyện với những người khác thì mới hay ổng có thành kiến thiệt.
Kiến Càng nói:
– Vậy trước năm 54 chắc gia đình ổng xảy ra biến cố gì khủng khiếp dữ lắm nên ổng mới mang lòng thù hận tới giờ.
– Ai mà biết.
Nhưng nếu ông chú đó không giả bộ thì cái giả thuyết của anh chắc thành sự thật tuyệt đối.
Ngoài ra, còn có một ông nữa.
Ông đó là Bắc Kỳ 54, luôn tự xưng mình là “Ông Sáu Bắc Kỳ”, mỗi lần bạn ổng muốn kiếm ổng thì ổng lại dặn, “Bảo tìm nhà “Ông Sáu Bắc Kỳ” là ra ngay.” Biết tại sao không? Vì nguyên vùng đó chỉ có mình ổng là Bắc Kỳ, không hề có một mống Trung Kỳ luôn.
Người khách Hoa Kỳ hỏi:
– Anh có biết cuốn sách nào về Nho Giáo là lá không?
– “Tư tưởng chính trị trong triết học Khổng Giáo” của Trần Quang Thuận; đây là cuốn sách của một người ủng hộ học thuyết này, anh có thể dùng làm tài liệu đối chiếu với những bài viết “Bài Nho”.
– Theo anh, cuốn sách đúng hay sai?
– Có chỗ đúng, chỗ sai, chỗ cường điệu và suy diễn thái quá theo thiên kiến cá nhân của tác giả.
– Theo anh, “Tiên học Lễ, hậu học Văn” có phải của Nho Giáo đặt ra không?
– Phải.
Nhưng câu đầy đủ là “Tiên học Lễ nhi hậu học Văn”.
Theo sách “Việt Nam tự điển” quyển Hạ, trang 316, của ông Lê Văn Đức và nhóm văn hữu Lê Ngọc Trụ biên soạn; nó có nghĩa như sau: Trước phải học lễ-nghĩa, sau mới học chữ; tức học hành, phải đặt nặng môn đức-dục.
Rõ ràng câu này đâu phải do thực dân Pháp chế ra để cai trị dân Nước ta, ấy vậy mà một người Bài Nho cứ khăng khăng câu này là của đám đó và khẳng định chắc nịch rằng chưa từng thấy câu này trong các tài liệu xưa bao giờ, rồi sau này lại đính chính nó của là phái Nho Gia đặt ra!
Tôi còn gặp một người Bài Nho đòi bỏ Tết ta, Tết Trung Thu, Vu Lan Báo Hiếu, Lễ Noel luôn.
Hầu như lễ lạt nào đối với người này cũng đều vô bổ và cản trở bước tiến phát triển của Đất Nước hết.
Bản thân hai người trên đã mắc chứng vĩ cuồng và tôn sùng một chủ thuyết mà họ không hay.
Kiến Càng ngạc nhiên hỏi:
– Chủ thuyết nào?
– Chủ thuyết cấp tiến, người sau còn bị dính thêm căn bệnh “Tống cựu nghinh tân” và bài xích tôn giáo thái quá.
Kiến Càng lại nói:
– Tôi cần anh cho một thí dụ.
– Thí dụ: Tôi thấy anh may áo bằng tay, tôi lên giọng mỉa mai anh rằng thời nào rồi mà không biết xài máy may.
Anh muốn may bằng tay hay bằng chân là tùy ý anh, tôi đâu thể áp đặt rằng cách may bằng máy mới tốt cho anh, chính anh mới là người quyết định may thủ công hay may có cơ khí phụ trợ.
– Nhưng mà anh có thể góp ý?
– Đương nhiên rồi.
Tôi nên nói: “Tôi thấy may máy lẹ hơn đó anh.
Sao anh không thử xài máy may đi?”
– Phải.
Người nghe vui lòng, mà người nói cũng còn răng để súc.
– Sau này, nói cụ thể hơn là ở chính thể miền Nam – Việt Nam trước năm 75, người ta đã biến cải câu “Tiên học Lễ nhi hậu học Văn” thành một câu mang hàm nghĩa tốt đẹp và hướng con người theo đường hướng nhân bản, và loại bỏ cái khuôn hủ lậu của Nho Gia thời quân chủ chuyên chế và sự tùng phục do thực dân Pháp diễn giải ra.
– Có nhiều người nói bên Tây không cần câu này vẫn Lễ – Nghĩa đầy ra, theo anh thì sao?
– Bên Tây có cúi đầu chào như Nhựt Bổn và Đại Hàn hôn? Có chắp tay trước ngực và cúi đầu chào như Thái Lan hôn?
– Không, họ chỉ gật đầu và bắt tay nhau thôi.
– Mỗi nước mỗi khác, cái gì hay và đáng quý thì nên giữ, cứ chạy theo Phương Tây riết y hệt như…
Tôi nói anh nghe điều này, có thể anh không tin, nhưng những ngôi nhà cất theo lối chữ Đinh và trang trí rặt Nam Kỳ xưa đã mai một lần lần.
Tôi đi rất lâu, tôi đi rất nhiều, họa hoằn lắm mới thấy một căn như vầy.
Bây giờ người ta chuộng xây nhà kiểu Thái, kiểu Pháp, kiểu Nhựt,…!
Nói đến đây, gã điên châm điếu thuốc mới.
Rồi lặng thinh luôn, cũng không để tâm tới người bạn Văn Chương.
– Có một ông Bài Nho cho rằng những người ghét nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thường thuộc nhóm tôn sùng chế độ cũ; ông còn phong cho cụ Sơn là “Nhạc sĩ của nhân dân”, đâu có ai tổ chức biểu quyết hay bầu cử mà ổng lại nghĩ vị nhạc sĩ này xứng đáng có danh xưng trên?
– Nhân dân trong đó chắc không có tôi với anh.
– Ngay cả nhạc sĩ Phạm Duy cũng chỉ có danh xưng “Cây đại thụ của nền âm nhạc Việt Nam”; chứ rất hiếm ai dám thậm xưng “Cây đại thụ âm nhạc của dân tộc Việt Nam” hết.
Còn nhạc sĩ Trần Thiện Thanh cũng chỉ được danh xưng “Nhạc sĩ của Lính”, vì ông thường sáng tác và trình bày những ca khúc về người lính; và “Lính” cũng chỉ là một phần trong dân chúng.
Người khách Hoa Kỳ hỏi:
– Vậy những ai sáng tác tình ca hay thì sẽ có biệt danh như thế nào?
– Thường người ta sẽ viết chữ “Tình khúc” cộng bút hiệu của nhạc sĩ; thí dụ: Tình khúc Lê Uyên – Phương, tình khúc Văn Phụng, tình khúc Lam Phương,…
Sau một tuần trà đắng chát, gã điên lại nói:
– Còn thêm một ông Bài Nho nữa, lễ hội dương v*t bên Phù Tang thì ca ngợi, trong khi đó lại dè bỉu lễ hội Nghinh Ông là mê tín dị đoan và đòi bài trừ; ông này cũng chung băng với những người đòi bỏ Tết ta.
Gương mặt của người khách Hoa Kỳ lộ rõ vẻ chưng hửng:
– Tại sao lại đòi bỏ Tết ta?
– Ông cho rằng do Tết ta và một số lễ lạt mà xứ này mới nghèo.
– Vậy theo anh tại sao dân mình nghèo?
– Tại vì tiền lương quá thấp, không ̣đủ sống, thế thôi.
Rồi gã điên bổ sung:
– Mức lương trung bình ở quê tôi là 225 Mỹ kim; trong khi đó, một dĩa cơm tấm có giá 1,75 Mỹ kim, một tô bún bò ở quán nổi tiếng có giá gần 3 Mỹ kim, còn nguyên liệu tươi sống cái nào cũng mắc mỏ và chỉ có chút xíu.
Anh thử nghĩ coi làm sao người ta sống với ngần ấy tiền?
Kiến Càng thêm:
– Vậy tính ra một ngày chỉ làm được có bảy đồng mấy.
– Hèn chi mà phần đông công nhân đều mỏng như tờ giấy quyến.
Xương Tuyết gật đầu:
– Cho nên năm nay bánh Trung Thu bị ế là vậy.
Tiền đâu mà người ta mua về ăn hay làm quà biếu.
Kiến Càng hỏi:
– Dòng họ anh sao Tuyết?
– Bên ngoại tôi cũng là lưu dân, nhưng đến đất Mỹ Tho chứ không phải Kiến Hòa như bên nội.
Người khách Hoa Kỳ hỏi:
– Bữa trước tôi có đọc bài viết của anh nói về những ngôi trường Công Giáo thuở xưa, anh có thể giới thiệu lại được không? Một ngôi trường thôi cũng được.
– Trường Thiên Mẫu nằm đối diện với nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nay đã trở thành Nhà Dòng Công Giáo.
Ngôi trường này nằm chung một con đường với ngôi trường nam sinh Nguyễn Đình Chiểu.
Ông nội của mẹ tôi, tức là ông cố của tôi, vừa hay làm việc ở Ty Quan Thuế gần đó nên đưa – rước rất thuận tiện.
– Mà chỗ đó ở đâu?
– Ngày xưa là Đại Lộ Hùng Vương, trong khúc ngã tư Nguyễn Trãi.
Bây giờ cũng thuộc đường Hùng Vương, nhưng thuộc phường Bảy.
Theo như trí nhớ của mẹ tôi, các anh học lớp Nhì, lớp Nhứt mặc áo dài trắng theo kiểu của Thầy Phó Tế; những người này đều là chủng sinh đang tu học để làm Linh mục hoặc Phó Tế.
Ở thời điểm đó mà trong trường đã có máy chiếu bóng, nội dung học sinh thường được coi là về cách giữ gìn sức khỏe và khoa học vui nhộn, nên ai đã từng theo học ở đây ăn bận sạch sẽ và sợ dơ lắm.
Mỗi phòng đều treo tượng Chúa Jesus thọ nạn trên cây Thập Tự ngay phía trên tấm bảng đen.
Trong trường còn có một phòng Xưng Tội, mẹ tôi kể mỗi khi ra chơi hay theo chân mấy đứa bạn lên phòng đó để coi tụi nó xưng tội; trong căn phòng ấy có dựng một bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh cao bằng hình người thật, dáng điệu của Bà hơi cúi, tay chắp trước khoảng không giữa ngực và bụng, không rõ ai đã điêu khắc nữa; cách thức Xưng Tội không ở buồng kín và giấu mặt, mà là quỳ trước tượng Đức Mẹ mà lầm bầm xưng tội, có thể do mẹ tôi nhớ lầm hoặc giả vì bà ngoại Đạo nên cho rằng đây là phòng Xưng Tội, chứ theo thiển ý của tôi thì nơi đây giống một Nhà Nguyện hay phòng Cầu Nguyện hơn.
Nhóm “Nhạn – Vàng – Bình – Công” và anh Ba Hói đã đến.
Họ định rủ thằng bạn đồng nghiệp đi ăn cơm tấm ở một quán nổi tiếng bên Quận Ba, rồi sau đó sẽ cùng nhau đi săn tin tức.
– Tuyết.
– Chi anh Ba?
– Mày nói trúng phốc rồi đó.
“Đường phân minh định khôn tìm chước.
Tước niên điền hoạch định thiên luân.”
Người khách Hoa Kỳ và Kiến Càng cũng ngỏ ý đi theo.
Đức Hoàng gãi đầu khó xử:
– Xe có bảy chỗ hà.
Giờ một người phải chịu thiệt đi riêng.
Kiến Càng bực mình hỏi:
– Không ngồi ăn gian được hả?
– Hông, cái băng chật nứt, thở sao nổi mà ngồi.
Người khách Hoa Kỳ bèn đề nghị thuê xe chín chỗ.
Anh có thằng bạn thân mở dịch vụ này nên sẽ có liền một chiếc.
Ai nấy thảy đều đồng ý.
Chiếc xe ấy hiệu “Toyota – Proace Verso” có màu trắng ngọc bắt mắt.
Tài-xế là một chú em tốt nghiệp Đại Học Kiến Trúc, do không có quen biết và tiền của đút lót nên giờ phải ra đây chạy xe mướn.
Thể theo ý kiến của anh Ba Hói, người khách Hoa Kỳ ngồi băng trên với tài xế, băng nhì là của anh Ba Hói, Xương Tuyết và Kiến Càng, và những băng còn lại là chỗ ngồi của nhóm “Nhạn – Vàng – Bình – Công”.
Xương Tuyết kể:
– Bà Hai của tôi làm việc tại một ngân hàng trên Sài Gòn trước năm 75.
Sau thời điểm này, bà Hai tôi lui về quê với hai bàn tay trắng.
Từ đó bà nảy ra sở thích nuôi chó để khuây khỏa tinh thần.
Trong đó có một con chó rất ngoan nhưng ai kêu nó cũng không lại hết.
Thắc mắc, bà con chòm xóm mới qua hỏi, “Con này sao ai kêu nó cũng không lại gần hết?” Bà hỏi lại, “Đâu, kêu thử cho tui coi.” Người ta liền vẫy tay kêu nó, “Đen, Đen, lại mày.” Bà mới bật cười mà cải chánh, “Trời ơi, nó đâu phải tên “Đen”, nó tên là “Del.” “Del?” “Ừ, Fidel Castro.” Người ta không tin nên kêu thử, thì quả thật nó chạy lại thiệt!
Chí Công bình phẩm:
– Tôi không ưa nuôi chó – mèo, rụng lông dơ lắm, còn phải lo hốt cứ* cho nó nữa.
– Mấy con chó bà Hai nuôi được cái rất tự giác.
Không hiểu bà huấn luyện bằng cách nào mà tụi nó rất thông minh, mình nói gì nó hiểu và làm theo liền, không phá phách hay cắn xé đồ đạc.
Tống Ngạn bật cười mà rằng:
– Phải chi bà Hai của anh mở trường dạy chó thì hay quá.
Nhiều người có khiếu huấn luyện động vật lạ kỳ, con thú dù dữ cách mấy cũng phải ngoan ngoãn nghe lời.
– Tôi cũng nghĩ như anh vậy.
Đức Hoàng hỏi Xương Tuyết:
– Có chuyện ma không anh?
– Có.
Trường Lê Ngọc Hân bên Mỹ Tho đã từng xảy ra một vụ tai nạn chết người; số là vầy: Có một cô giáo đi lên lầu vì bị trợt chân do đôi guốc quá cao giẫm phải tà áo dài nên đã bị té bật ngửa rồi đập đầu vô bức tường ở dưới mà gây ra chấn thương sọ não.
Từ đó về sau, hễ ai trực nhật buổi đêm là lại nghe tiếng guốc của bà vang lên lộp cộp ở các cầu thang.
Đức Hoàng đòi nghe thêm một chuyện nữa.
– Câu chuyện “Cô Ba cháo gà” là có thật.
Người thân trong gia đình tôi từng ăn cháo ở chỗ của bà, bữa ấy cũng ghé qua ăn nhưng thấy bà nghỉ bán luôn nên thắc mắc hỏi, thì bà kể nguyên văn như những gì viết trong sách giấy.
– Anh nghĩ sao về quan điểm “Ở Việt Nam sướng lắm, có thấy ai khổ đâu”? – Người khách Hoa Kỳ lại hỏi.
– Theo thiển ý của tôi, chắc người đó chưa từng ra khỏi nhà hay chỉ loanh quanh trong khu phố và những nơi sang trọng.
Vì nghề nghiệp là ký giả nên tôi phải đi khắp nơi săn tin.
Và tôi đã thấy đủ cảnh “Đoạn trường tân thanh”.
Thí dụ như một người bạn của ông cậu tôi có đứa con gái bị bệnh tim chỉ cần có một ngàn Mỹ kim là cứu được mạng nó, vậy mà ổng cũng không có, thế là ông cậu tôi cho luôn khoản tiền đó.
– Bộ ổng hổng có mua bảo hiểm hả?
– Có chớ.
Nhưng muốn điều trị phải đóng tiền thế chân một ngàn, điều trị xong hết thảy bệnh viện mới tính tới chuyện trừ tiền lại.
– Chính sách gì kỳ cục vậy? Bịnh thì phải chữa trước rồi mới đòi tiền chớ.
Nguyên đám ngó ông chú đã có quốc tịch Hoa Kỳ với nụ cười “Mona Lisa” trên môi.
Đức Hoàng hỏi:
– Có cuốn nào của tác giả Thôn Thượng Xuân Thụ chưa in ở Việt Nam không Tuyết?
– Haruki Murakami có một cuốn sách bị cấm xuất bản ở đây vì đề cập đến chiến tranh Việt Nam; tôi đã đọc qua bản Anh Ngữ với nhan đề “Pinball, 1973”.
– Ông có nói rõ không?
– Không.
– Ở chương mấy?
– Chương Một.
Người khách Hoa Kỳ đặt câu hỏi:
– Anh nghĩ sao về “khát nước”?
Xương Tuyết nhường cho anh Ba Hói trả lời.
Và gã ít tóc họ Từ trả lời như vầy:
– “Có nước mà không được hưởng quyền và phúc lợi của một người có nước thì có cũng như không.”
Cậu tài-xế bỗng dưng lên tiếng:
– Có một người lên bình luận như vầy, “Nhà nước ta luôn lo cho nhân dân.” Rồi cũng chính người đó mở miệng nói với tôi thế này, “Mày là cái thá gì mà nhà nước phải lo cho mày?”
Khán Bình che miệng cười sặc sụa, đoạn biểu:
– Rồi, bị ăn bánh vẽ rồi.
Lên xin tiền phúc lợi bị từ chối khéo phải không?
– Dạ phải.
Tôi tức quá mới bỏ đây lái xe luôn.
Kiến Càng thương cảm hỏi:
– Sao không làm nghề freelancer cho phù hợp với sở học của bản thân?
– Dạ, tại tôi cạnh tranh không lại với người ta.
Người khách Hoa Kỳ nhìn cậu với vẻ mặt bất bình:
– Học sao mà không cạnh tranh lại?
Cậu tài-xế đỏ mặt tía tai mà trả lời nhỏ rí:
– Tôi ráng học cho điểm cao thôi, chứ không rèn giũa phần thực hành.
Xương Tuyết kể:
– Tôi có một ông anh học rất khá, nhưng vì nhà nghèo không chịu đi học thêm mà bị đì, đã vậy còn bị khứa chủ nhiệm đó tráo điểm bài kiểm tra với đứa học sinh dốt trất của ổng.
Má anh tức lắm, đòi khứa đó phải trình ra bài kiểm tra của ảnh, nhưng khứa đó và nguyên đám nhà trường giấu biệt luôn.
Má ảnh đòi thưa luôn lên Bộ Giáo Dục, song ảnh can ngăn má, vì biết không thể nào làm được gì lũ ấy.
Sau chuyện này, ảnh bị sang chấn tâm lý mà không học Đại Học luôn.
Bầu không khí trong xe chợt trở nên nặng nề vô cùng.
Cậu tài-xế hỏi:
– Ảnh làm mấy điểm? Còn người đổi điểm với ảnh được mấy?
– Ảnh học môn đó lúc nào cũng trên năm điểm, còn người đổi điểm với ảnh nổi tiếng dốt “trường kỳ kháng chiến”.
– Khốn nạn.
– Người khách Hoa Kỳ đập tay lên taplo.
– Tôi còn một bà chị nữa.
Cũng vì không đi học thêm mà bị đánh rớt xuống học sinh Khá.
Số là vầy: Cứ hễ đến tiết Nữ Công Gia Chánh là cái bà đó lại tìm cách chửi mắng chị và chấm điểm rất thấp cho bài tập của chị; thành ra điểm tổng kết của chị không đủ để tính là học sinh Giỏi.
Xin nói thêm cho rõ, bà đó dạy hai môn: Một chánh và một phụ; vì môn chánh chị học giỏi quá nên bả đì không được, thành ra mượn môn phụ để chèn ép chị.
Người khách Hoa Kỳ trợn trừng mắt:
– Trời ơi, gì kỳ cục vậy? Học sinh Giỏi là giỏi về Toán – Lý – Hóa – Sinh, Quốc Văn, Sinh Ngữ, Công nghệ – Thông tin hay Sử – Địa; chớ còn ba cái môn thể thao – thể dục, vẽ vời hay nữ công gia chánh đâu có cần thiết mà phải bắt học trò đạt điểm cao?
– Cho nên nhiều người hay nói ở Việt Nam đâu có bất công hay kỳ thị.
Ừ thì làm gì có bất công và kỳ thị, toàn là vùi dập và ỷ mạnh hiếp yếu không hà.
oOo
Chế Linh đang ca bài “Làng Chăm quê em” của ông và Đăng Năng Quạ.
Bữa nay chú Thương và Hoàng Lan lên thăm nhóm Tăng sĩ, gần tới nơi rồi thì trời bất thần đổ mưa nên phải ghé quán cà-phê người Chiêm Thành ngồi nghỉ cho chắc ăn.
Đáng ra chỉ có hai người, nhưng vì tình cờ gặp hai ông Cha quản xứ St.
Pio nên thành một đoàn nhỏ.
– Té ra gia đình cô là Giáo dân “ly khai”? – Ignacio Cường hỏi trong lúc bẻ bánh ginraong laya (tức bánh củ gừng) làm đôi.
Hoàng Lan gật đầu mà thưa rằng:
– Dạ, sau lùm xùm của Cha Chánh xứ – Thành, gia đình của Lan bất mãn nên dọn đi chỗ khác sống rồi sinh hoạt và dự Lễ ở Giáo xứ cùng địa phương luôn.
Stephen Đoàn hỏi:
– Lan có biết ông đó không?
– Dạ không.
Năm đó Lan mới vừa làm Lễ Rửa Tội được đâu hai tuần thì ổng kiếm chuyện làm tiền nên ba Lan lên chửi cho một chập rồi nguyên nhà dọn đi luôn trong đêm hôm đó.
Chú Thương cằn nhằn:
– Có gì “thiên cơ bất khả lộ” đâu mà nói nhanh tới líu lưỡi luôn vậy em?
– Kệ tui.
Rồi cô day lại hỏi chuyện hai ông Cha trẻ:
– Còn hai Cha về quản xứ từ bao giờ vậy?
Ignacio Cường nhận phần trả lời:
– Cũng năm năm rồi cô.
Nhưng mới quản xứ hơn nửa năm nay thôi.
– Vậy ông đó có bị treo Chén không Cha?
Ignacio Cường lắc đầu.
– Sao kỳ vậy cà…
Ngó thấy đồng hồ đã điểm tám giờ, chú Thương hốt hoảng hối mọi người mau lên đường.
Hoàng Lan hoảng hồn hoảng vía giục hai ông Cha mau theo mình và cha Hai ra xe đi liền.
Chiếc xe bán tải năm chỗ hiệu GMC – Hummer EV đậu dưới gốc cây tra đại thụ mọc đối diện với quán nhỏ.
Vì không có áo mưa hay dù nên chú Thương lấy áo gió của mình làm tấm vải che mưa cho người thương.
Đường lên núi vào mùa mưa hết sức nguy hiểm và trơn trợt.
Cộng thêm chuyện không rành đường nên càng khó khăn tợn.
Mấy lần chiếc xe đã xém lủi đầu vô gốc cây hay lùm cỏ, rồi thì thiếu chút nữa là nhào đầu xuống chân núi.
– Hai ơi là Hai, ông làm ơn làm phước gọi Thầy Phá Vân giùm con.
Stephen Đoàn phụ họa:
– Đúng…!đúng đó…!Biểu anh Long xuống chở giùm đi.
Ignacio Cường cau mày hỏi:
– Vân và Long là ai vậy?
Stephen Đoàn cười mà đáp:
– Là Tăng sĩ Phan Thụy Long, Pháp Danh là Phá Vân.
Áng chừng nửa tiếng sau, mới thấy mặt mũi Phá Vân.
Stephen Đoàn rối rít xin lỗi vì đã khiến người Tăng sĩ ấy phá giới do vi phạm luật định vào mùa An Cư Kiết Hạ.
Đáp lại sự áy náy của chàng Linh mục xấu trai, Phá Vân se sẽ lắc đầu với cái mỉm chi hiền lành trên môi.
Chú cởi bớt một lớp áo cà-sa, vì nó đã bị thấm nước mưa và lấm bùn, để tránh làm dơ nệm xe hơi.
Vừa đọc dòng chữ xăm trên lưng Phá Vân, Ignacio Cường vừa hỏi về nguồn gốc cái tên cúng cơm của anh ta.
– Tôi chào đời vào năm Rồng lúc canh ba gà gáy nên cha mẹ đặt tên là “Thụy Long”, tức “Con rồng hãy còn đang ngủ”.
Stephen Đoàn dè dặt hỏi:
– Nhưng tôi không hiểu tại sao cả hai bên anh lại chẳng theo phe nào?
– Vì chúng tôi đi theo sở nguyện của Đấng Thế Tôn: Không Giáo hội, cũng chẳng Giáo chủ, hay bám víu vô bất kỳ người Thầy nào trong đời này.
Ignacio Cường nhíu mày hỏi:
– Ngay cả Đức Đạt Lai Lạt Ma?
Vừa chỉnh kiếng chiếu hậu, Phá Vân vừa gật đầu thật nhẹ mà đáp, “Phải.”
Dù lần đầu tiên nhìn thấy chiếc xe này, nhưng Phá Vân sử dụng hết sức thành thạo.
Ngay cả những nút bấm ẩn chú cũng biết tuốt, còn chỉ lại cho chú Thương nữa chứ.
– Con ngựa hay chiếc xe đều giống như nhau, tức là chỉ có bấy nhiêu bộ phận mà thôi, nhuần nhuyễn rồi thì lên cái nào cũng điều khiển được.
Stephen Đoàn đặt câu hỏi:
– Chìa khóa xe nào cũng giống nhau hả anh Long?
– Không nghen anh Mỹ, mỗi chiếc xe có một chìa khóa mang mật mã riêng, thành ra anh mà lấy chìa khóa xe này tra vô xe kia là chiếc xe ấy chết liền.
Do lần đầu tới đây nên Ignacio Cường hết sức bợ ngợ.
Anh ngồi thừ trên xe một lúc mới bước xuống xe mà theo mọi người vào ngôi tịnh thất không tên.
Bầy chó hoang đã bao vây cái xe tự bao giờ mà anh không hay.
Ở nhà trên không có ai hết.
Trong thơ phòng và nhà dưới cũng không.
Vậy là Phá Vân bèn ra hiệu cho mọi người theo mình tới thạch động; từ đây tới đó cũng khá xa và nguy hiểm nên chú đề nghị nên đi xe cho an toàn.
Màn mưa lâm thâm làm cảnh rừng núi thêm phần huyền ảo, tịch liêu.
Đôi con nhạn chao đôi cánh mỏng trên nền trời xám xịt sắc mây; màu lông của chúng vô tình tiệp với màu trời nên càng khó phân biệt tợn, chỉ khả dĩ xác định được phương hướng của chúng thông qua tiếng kêu đặc trưng mà thôi.
Vài con bò đi lạc uể oải nằm nghỉ dưới một tán cây sanh đại thụ mọc gần mé rìa núi.
Tuy ngồi trong xe hơi bít bùng mà vẫn thấy lạnh thấu xương, huống hồ chi là…
– Sao thằng Thảo không xuống núi lập chùa tu cho đỡ khổ hén?
– Nhị sư huynh sợ rằng sẽ thành “Thảo kia”.
Dù muốn dù không, Stephen Đoàn vẫn phải kể cho cô Giáo dân nghe quyết định năm ấy của người cô thương.
Hoàng Lan ôm mặt khóc nức nở.
Rồi mếu máo kể rằng quả thật năm đó cô có thấy một người thanh niên mặt búng ra sữa đứng nhìn cô đăm đăm, nhưng vì hết giờ ra chơi nên cô cùng chúng bạn phải trở về lớp gấp thành ra không kịp bước lại bắt chuyện.
– Sao mà em với ảnh giống bộ phim hoạt họa Nhật Bản “Millennium actress”.
Đeo đuổi theo một viễn mơ không bao giờ có thực.
Thay vì đi vào bằng cửa trước, Phá Vân lại dẫn họ đi cửa sau.
Dù ngàn nhánh lan đương khoe sắc thắm tươi, không ai trong đoàn khách còn tâm trí thưởng ngoạn.
Từ trên gian Chánh Điện vọng xuống tiếng thuyết pháp của Đại Trưởng lão Thanh Liên; tiếng nói không phân định được là nam hay nữ, thanh âm nghe rất hay và rõ ràng.
Ignacio Cường hỏi:
– Đang giảng bài gì vậy anh Long?
– Kinh Nikaya, phần vấn đáp của Tỳ-Kheo Na-Tiên.
Sẵn, học tiếng Pali luôn.
Chú Thương gãi cằm:
– Học chi sớm dữ.
– Tới rồi thì dẫn họ lên đây luôn đi.
Đừng lóng ngóng ở đó làm chi.
– Dạ, thưa Thầy Trần.
Chánh Điện khá rộng, bên trong bày trí hết sức đơn giản mà u nhã.
Đèn điện không hiện diện ở đây; để thắp sáng không gian, các Tăng sĩ đốt bảy chiếc đèn cầy ly-đại.
Ngoài ra, nhằm xua đuổi mùi ẩm thấp và côn trùng gây bịnh, họ còn xông hương trầm và các loại túi thơm tự chế.
– Anh Thảo.
Trì Thương vẫn cúi mặt mà hý hoáy viết:
– Sao?
Hoàng Lan nghẹn ngào trình bày:
– Em…!em…!mời anh ăn bánh trung thu thập cẩm và cơm gà xối mỡ.
– Vậy cảm phiền Lan để đó.
Lát nữa tụi tôi tự bày mâm, cắt bánh.
Trì Thương lấy tập của Hoàng Kỳ để chấm bài.
Vừa làm vừa hỏi anh Hai:
– Có khăn giấy lau mặt sao không đưa người ta xài?
– À…!Tao quên.
Hoàng Lan thấp giọng cảm ơn cha Hai.
Kể từ ngày quen nhau, ổng đã nghe theo lời cô mà thủ sẵn khăn giấy; lúc nào cũng là mùi bông hồng, hương hoa cô yêu thích nhất.
– Mày cứ ngồi đó hoài.
Bị liệt hay gì mà không biết đứng dậy phụ tao một tay.
Trì Thương nhờ Phú Lâm đi dẹp đồ giùm mình.
– Còn hai Cha không ngồi xuống đi, tính làm “Linh hồn tượng đá” hay gì?
Hoàng Kỳ bèn nhận phần đi lấy bồ đoàn.
– Nè, lót ngồi đi hai vị.
– Biết nói tiếng Việt hả?
– Ở đây không biết nói tiếng Việt thì làm sao sống nổi đại huynh?
Châu Lợi lên tiếng:
– Nó cãi lộn bằng tiếng Việt rành sáu câu vọng cổ.
Đến lúc này Trì Thương mới chịu đứng dậy.
Chú cùng Thủy Diệu và Đoạn Trần dẹp bàn viết, kế cùng nhau trải chiếu để dọn bàn ăn.
Thời may nhà sau có điện nên Hoàng Lan hâm đồ ăn và cắt bánh rất dễ dàng.
Chiếc máy phát điện này là do Thủy Diệu tự tay làm ra, nhiên liệu cho máy là dầu hôi, vì đã được gắn ống lọc khí thải nên làn khói của nó không tạo mùi gắt mũi hay ảnh hưởng xấu đến môi trường.
– Mốt Diệu làm cho tôi hai cái máy giống vầy được hôn? – Chú Thương vừa hỏi vừa săm soi chiếc máy phát điện.
– Rất sẵn lòng.
Ignacio Cường hỏi:
– Anh làm luôn cho tôi ba cái nghen? Có gì tôi sẽ gởi tiền lại.
– Tôi theo Phật nên không còn giữ tiền nữa, anh à.
Chú Thương thắc mắc:
– Sao lại cần máy phát điện hả Cường?
– Phòng khi bị cắt điện thì nhà thờ vẫn tổ chức sinh hoạt như thường.
Sẵn có nước đá nên Trì Thương làm cho mỗi người một ly nước trái nhàu uống giải khát.
Nghĩ cũng ngộ cho dân xứ này, biết bao nhiêu loại cây trái ở ngay trên Quê Hương là bài thuốc quý mà không chịu tìm uống, lại bỏ tiền mua thực vật xứ người và giết chóc các loài vật vô tội vạ chỉ để lấy một phần thân thể của chúng về bồi bổ cho bản thân.
Như trái nhàu chẳng hạn, công dụng chẳng kém nhân sâm, mà vừa rẻ lại dễ uống, đi đâu cũng có thể mua được.
– Mày thấy tao với má tính hay không Thảo? Không mua tủ cấp đông thì làm sao có đá lạnh mà trị liệu.
Trì Thương gật đầu mà cười mỉm chi.
Ignacio Cường ướm hỏi:
– Trị liệu?
– Tức là, thí dụ như có ai bị đứt lìa tay – chân thì có nước đá ướp liền.
Hoặc giả người ta bị sốt cần đá lạnh chườm mát thì mình có cái cho người ta xài.
Còn không thì thường ngày uống giải nhiệt cũng được.
Ignacio Cường lại hỏi:
– Ở đây có nhà vệ sinh không…!
Hoàng Kỳ ngỏ ý dẫn chàng Linh mục tới đó.
Ignacio Cường gật đầu chấp nhận.
Chừng Hoàng Kỳ và Ignacio Cường trở về, mâm cơm đã được bày xong.
Ignacio Cường nêu câu hỏi:
– Ông Địa là ai hả mấy Thầy?
Châu Lợi đáp:
– Ông Địa là ông Thổ Thần.
– Tôi có nghe một người tu sĩ bên mình nói rằng Ông Địa là một trong những hóa thân của Đức Phật.
– Ông Địa không phải là hóa thân của Di-Lặc Tôn Phật đâu.
Phú Lâm bật cười khúc khích:
– Trời ơi, Bồ-Tát Di-Lặc còn ở cung Trời Đâu-Suất mà hết người này tới người kia nhận hình tượng này là hóa thân của Ngài hoặc bản thân là đệ tử của Ngài!
Ignacio Cường thoáng nhăn mặt nhưng vẫn ráng dằn khí nóng xuống mà mời nhóm Tăng sĩ giải thích cặn kẽ hơn.
Thanh Liên đặt ngón trỏ lên môi mình, ngụ ý ra hiệu cho chàng sư đồ thày lay làm ơn bớt nói một chút.
Đoạn mới an tâm trình bày:
– Thời xưa, dân Đàng Trong chỉ thờ Thổ Thần.
Trải qua biết bao năm tháng, dần dần “cải biên” thành Ông Địa – Thần Tài.
Trong văn hóa của người Cao Miên, Thổ Thần có cái tên là “Ông Tà”.
Trì Thương nghiêng đầu mà cười biểu:
– Hai vị quên đọc Kinh tạ ơn Đức Chúa trước khi ăn rồi.
Hai ông Cha đồng xứ ồ lên cùng một lượt, rồi xin phép dành ra ít phút đọc Kinh và làm dấu Thánh.
Hoàng Lan cũng xin phép hệt thế.
Xong xuôi hết rồi, Hoàng Lan mới hỏi:
– Vậy mấy anh nghĩ sao về việc làm đám giỗ?
Trì Thương nhận phần trả lời:
– Nên làm.
– Tại sao?
– Đối với những đứa trẻ nhà nghèo, chúng luôn mong trong nhà có đám – quải để được ăn ngon, vì mỗi lần như vậy ba má chúng sẽ không tiếc tiền mà mua đồ ăn – thức uống mắc mỏ về nấu cúng.
– À, tạo cái cớ để tụi nó được ăn ngon và gia đình cùng chòm xóm quây quần bên nhau.
Ăn được đâu vài muỗng cơm, Hoàng Lan khe khẽ bộc bạch:
– Nhưng sao em thấy làm đám giỗ như là làm màu vậy…
– Lan có chắc hồi ba má của những người đó còn sống họ đã đối xử tệ bạc với đấng sinh thành không?
– Dạ không.
– Vậy thì tại sao lại phiến diện cho rằng làm đám giỗ là làm màu?
Chú Thương nạt em trai một tiếng, rồi day qua trấn an người thương đôi câu êm dịu.
Song Trì Thương vẫn lạnh giọng trình bày:
– Lan chỉ mới phải chịu cảnh khổ thân có một ngày nên chưa từng biết sự thèm ăn của một đứa trẻ bần hàn là kinh khủng cỡ nào.
Có những đứa nghèo khổ tới độ hễ nghe đình làng tổ chức cúng Thành Hoàng là a thần phù chạy xuống đình xin xôi – thịt ăn, hay thậm chí xin vô phụ dọn dẹp ở các đám cưới chỉ để có một ly kem hay hũ rau câu…
Thanh Liên giơ tay lên, ngụ ý xin phép được cắt ngang:
– Có những chuyện buộc phải du di và không chấp nhặt.
Bởi nếu vướng phải hai điều trên, đức tin chẳng khác nào một thể chế độc tài toàn trị.
Stephen Đoàn nhớ lại bữa ăn hôm hổm nên nhoẻn miệng cười mà hỏi:
– Thành ra, mấy anh không ép người khác phải ăn chay hay phải tránh sát sanh trực tiếp?
– Đúng vậy.
Chúng tôi chấp nhận Cộng Nghiệp sát sanh với người ấy luôn, chứ không lên tiếng ngăn cản và ép phải tuân theo Giới Luật của mình.
Phú Lâm ngó Hoàng Lan mà cười khổ:
– Họ cúng xong thì phần đó gia đình họ hưởng chứ có phải liệng sọt rác đâu mà nặng lời trách cứ?
Ignacio Cường nêu câu hỏi:
– Cũng có nhiều người vin vào đức tin để bài xích lễ nghi, truyền thống, tập tục và hình tượng tín ngưỡng của quê cha đất tổ; theo mấy anh thì cách nhìn đó là đúng hay sai?
Thanh Liên vẫn nhận phần trả lời:
– Nếu họ tin vào hình tượng đó mà trở thành một con người tốt và tự tin hơn thì hà tất gì phải tiêu diệt hình tượng đó.
Tỷ như một người yếu bóng vía nhưng vì sanh kế phải đi làm lụng từ lúc nửa đêm, chỗ dựa của họ chỉ là bàn thờ Phật, Tổ Tiên và Thần Tài – Ông Địa, nỡ lòng nào mà đi “đạp đổ” chỗ dựa của họ.
Đoạn Trần tiếp:
– Để tồn tại giữa chốn Ta-Bà này, mỗi người tự tìm cho mình một “liều thuốc tinh thần”.
Một người vô thần tin khoa học cũng vậy; họ dựa vào thuyết của các nhà bác vật để hiểu và giải thích về những hiện tượng trong cuộc sống, cũng như là chỗ dựa tâm thức, thí dụ tiếng kêu ai oán mỗi đêm ở gần nhà là hiện tượng “Đỉnh gió hú”.
Hoàng Kỳ, Thủy Diệu và Phá Vân im ru ăn uống, không dám hó hé một tiếng, bởi lẽ họ đã nhận thấy mồi thuốc xung đột tôn giáo đã bắt đầu âm ỉ cháy.
Ignacio Cường cười hỏi:
– Đối với những người bài xích đức tin của mình, anh Liên nghĩ sao?
– Đối với những người bài xích đức tin của mình, tôi thích những ai nói thẳng hơn là những người sử dụng uyển ngữ như “Ngẫu tượng”, “Dị giáo”,…!Như năm xưa Bà-La-Môn đã làm với Phật Giáo vậy.
– Thôi.
– Châu Lợi đập tay xuống chiếu.
Trì Thương đưa mắt nhìn Thanh Liên mà nói:
– Từ nãy đến giờ chúng ta đã phạm Giới nhiều quá rồi Đại Trưởng lão ha?
– Ngoại trừ việc nói trong giờ Thọ Thực ra, còn lại tôi không phạm Giới gì hết.
Thí chủ này hỏi chi thì tôi đáp nấy, dựa trên thiên kiến và những lần trải qua trong thực tế của mình.
Chừng nào tôi nói dối lòng mình để làm vui lòng người hòng cầu cạnh Danh – Lợi – Sắc – Cảm thì mới đúng tôi đã phạm Giới.
Không hiểu sao Ignacio Cường lại thích cái tánh này của Thanh Liên dễ sợ.
Anh nói thẳng thì bị Giáo dân trách anh nóng quá, chuyện có chút xíu mà cũng lên giọng được; anh nói ngọt thì bị Giáo dân lờn mặt, đã dặn đừng có tái phạm rốt cuộc cũng làm y như cũ.
– Tôi muốn sống giống anh Liên…!Đôi lúc phải “cho roi cho vọt” chứ không thể “cho bánh cho kẹo” được.
Người nghe tưởng lầm cái sai ấy nhỏ xíu nên không chịu sửa đổi, để rồi sau này gặp chuyện lại quay sang đổ trút lên đầu người-nói rằng sao hồi đó không nói huỵch toẹt ra để họ sửa đổi.
Thanh Liên làm ấn thủ xác tín.
Đoạn chắp tay mà thưa rằng:
– Bởi vì Phật Tử ưa ngọt nên mới bị Ma Tăng dẫn đi vào đường tà đạo.
Nếu đã theo đức tin này, hãy chịu khó tìm đọc Tạng Kinh, rồi sẽ thấy cách ăn nói của Ngài ra sao; có lúc Ngài rất hiền, cũng có lúc lời ăn tiếng nói của Ngài rất nặng nề, sầu khổ hay vương mang những niềm đau trần thế.
Với lại, tùy vào cảnh huống, Nhận Biết, Hành Thức, Duyên Khởi và Nghiệp Chướng của từng người mà Ngài lại diễn giải một bài kinh – kệ theo nhiều cách hiểu khác nhau.
Do đó không nên tùy tiện đem áp dụng tích truyện mà Ngài đã từng thuyết giảng lên ai đó trong đời này.
Châu Lợi nhắc nhở Thầy ông rằng mau ăn uống đi kẻo hết giờ Thọ Thực thì sẽ mắc tội bỏ mứa.
Hoàng Lan hỏi người thương:
– Bộ giới luật không cho phép nói chuyện trong lúc ăn hả anh Thảo?
– Phải.
– Tại sao vậy?
– Theo thiển ý của tôi, để rèn luyện tánh “nhất quán”.
Đi chỉ biết mình đi, thiền chỉ biết mình thiền, làm cái gì thì chỉ biết mình làm cái đó…!hòng tập cho tâm không bị lung lạc và loạn tưởng bởi những tác động bên ngoài.
Chú Thương bĩu môi một cái, rồi quay qua mời những Tăng sĩ im ru như “loài chim bói cá trên cọc nhọn trăm năm” ăn thêm canh rong biển và cơm gà.
Ai nấy thảy đều đồng ý.
Ban nãy chú có uống thử nước trái nhàu, nhưng không quen nên không rót thêm, mà làm lại một ly “Sá-Xị Chương Dương” ngon ngọt dễ uống.
Chỉ còn nửa tiếng nữa là hết giờ Thọ Thực, Hoàng Lan quýnh quáng chạy xuống nhà sau cắt bánh Trung Thu.
Ổ bánh này cô đặt mua của “Minh Tâm” tuốt dưới Mỹ Tho; thể theo yêu cầu của cô, họ bỏ nhưn trứng muối, gà quay, vi cá, jambon, mứt sen, hột bí, hột dưa, lạp xưởng và đậu xanh ngào.
Ignacio Cường đặt câu hỏi với Thanh Liên:
– Anh nghĩ sao về “Tây Du Ký” hả Liên?
– Hình tượng Tôn Ngộ Không làm tôi liên tưởng tới Thần Khỉ – Hanuman trong Ấn Độ Giáo.
– Còn gì nữa không?
– Yêu quái Kim Sí Điểu có nét tương tự với Thần Điểu Garuda, vị này là thú cỡi của Chúa Vishnu.
Một vị Bồ Tát trong phim có tạo hình giống với Nữ Thần Durga, vị Nữ Thần Ấn Giáo này cỡi sư tử và có tám tay – mỗi tay cầm một đồ vật khác nhau.
Ngoài ra, yêu quái Chim Công khá giống với Thần Điểu Mayur – đây là thú cỡi của Chiến Thần Kartikeya, vị này là con trai của Chúa Shiva.
Chú Thương bình phẩm:
– Vốn dĩ nước Thiên Trúc là Ấn Độ cổ đại mà.
Trì Thương từ chối miếng Bánh Trung Thu thứ hai mà Hoàng Lan mời ăn.
Đây là một trong những giới luật mà chú luôn ráng tuân thủ; ấy là không được ăn quá no, cũng như ăn quá nhiều món vừa miệng mình hay bản thân yêu thích.
Thấy vậy, chú Thương hớt mà lủm luôn, không thèm để ý tới sắc mặt tối thui của người thương.
Châu Lợi kể:
– Hầu như vị Thần nào trong Ấn Độ Giáo đều rất thương và có hiếu với người mẹ hơn là người cha.
Thanh Liên tiếp:
– Qua bên Ấn Độ mà nói họ thờ ngẫu tượng là không còn đường về đâu.
Đức tin của họ vốn được thành lập trước cả Phật Giáo, nên nền móng vô cùng vững chắc và bền bỉ.
Ignacio Cường cau mày hỏi:
– Anh có biết chính xác thời điểm thành hình không?
– Trước thời điểm Thiên Chúa Giáng Sinh.
Dám chừng hơn năm ngàn năm rồi.
Phá Vân buột miệng:
– Phật Giáo là 2600 năm.
Ignacio Cường gấp gáp hỏi:
– Tôi muốn biết cách theo vị Thánh bên họ.
– Hễ đôi vợ chồng nào chậm hay muốn có thai, họ thường lại đền một vị Thần mà khấn nguyện xin con.
Nếu sau đó người nữ cấn bầu, đôi vợ chồng ấy sẽ chọn vị Thần đó làm Cha/Mẹ đỡ đầu của đứa trẻ.
Nhược bằng thất bại, họ sẽ chọn một vị Thần khác, làm như vậy cho đến khi nào có mang mới thôi.
Ngoài ra, Chúa Shiva thường hay gởi con xuống trần thế hoặc tự mình đầu thai để cứu độ chúng sanh.
Chúa Vishnu cũng vậy, nhưng thường nghiêng về vế thứ hai hơn.
– Vậy cha của đứa bé là ai?
– Là một người đàn ông trần thế, có thể thuộc giới quý tộc, thầy tu Bà-La-Môn hoặc giai cấp bình thường.
Họ kiên trì cầu nguyện quá lâu hay sự sùng kính của họ quá lớn nên hai vị Chúa này mới chấp nhận ban cho họ một đứa con hoặc trở thành con của họ luôn.
Cũng có lúc hai vị Chúa bị nguyền rủa nên phải tái sanh làm người.
Khi ấy thế giới vào thời kỳ hỗn mang vì vắng bóng họ, chừng nào họ chuyển kiếp trở lại thế giới mới được bình yên.
Một trong những câu chuyện nổi tiếng nhứt phải kể đến là biến thân Krishna của Chúa Vishnu.
Hoàng Lan ngó Trì Thương mà hỏi:
– Em muốn biết thêm về chuyện xảy ra với gia đình Nữ Thần Parvati sau khi Bà tự thiêu? Cái lúc mà Bà là Sati đó anh.
– Cái kiếp đó, sau cái chết của vợ mình, Chúa Shiva đã chặt đầu cha vợ và cho ông sống lại trong hình hài “mình người đầu dê”.
Vì con dê phát ra tiếng kêu gần giống với âm tiết của đại từ nhân xưng “Mee – Tôi” nên Ngài Mahadev mới chọn loài vật này.
Ignacio Cường nhướng cao chân mày:
– Tôi vẫn chưa hiểu lắm.
– Do lúc sanh thời ông chỉ biết nghĩ đến bản thân nên Chúa Shiva mới trừng phạt ông bằng cách để cho ông kêu “Tôi”, “Tôi”,…!suốt ngày.
Chừng khi vợ Ngài trở lại, Ngài Mahadev đã giải lời nguyền cho ông.
Hoàng Lan lại hỏi:
– Bên Nhựt chắc theo Kitô Giáo nhiều hả anh Thảo?
– Theo thiển ý của tôi là sai, bởi lẽ Nhựt Bổn cũng có Đạo riêng mang tên Thần Đạo, y như Ấn Độ ngày nay vậy; tuy ngày nay hơi ít người xứ đó tự nhận theo đức tin này nhưng nền Văn hóa – Nghệ thuật – Lối sống của họ đã thể hiện bản thân họ bị ảnh hưởng từ nó.
Một điều thú vị là khá nhiều hình tượng Thần – Thánh trong Thần Đạo có nguồn gốc từ Ấn Độ Giáo, như Nữ Thần Laksmi – Vợ của Chúa Visnhu trong văn hóa Phù Tang có tên là Cát Tường Thiên Nữ hay Phước Thiện Thần Nữ.
Điểm thú vị thứ hai: Phật Giáo và Thần Giáo pha trộn lại với nhau y như cái cách hòa lẫn ba hệ tư tưởng Khổng – Lão – Phật thành một thể Tam Giáo bên mình; song cũng vì lẽ trên nên bên bển mới có hệ phái Tăng sĩ lập gia đình như người ngoài đời, và chuyện này đã phạm phải Giới Luật do Đấng Thế Tôn đề ra, nên dưới con mắt của nhóm chúng tôi, chúng tôi coi họ là cư sĩ chứ không phải là một Sa-môn.
– Còn Đại Hàn thì sao?
– Theo cảm nhận riêng của tôi, xứ này vô thần nhiều hơn là hữu thần.
Ignacio Cường vừa lắc lắc ly Sá-Xị vừa hỏi:
– Vậy tôi đố anh: Nước nào ở Á Châu theo Kitô Giáo nhiều? Kể tên một nước thôi cũng được.
– Phi Luật Tân.
Tôi thấy gần như là quốc giáo của xứ đó.
– Anh nghĩ sao về hiện tượng lên đồng gọi hồn?
– Nếu chuyện này có thật thì người dựa họ là Vong Linh cấp thấp như Quỷ, Ma, Cô hồn hay Yêu Quái, chứ không thể nào là Chư Thiên hay A-Tu-La được.
– Tại sao?
– Lan đang chưng diện rực rỡ, có khi nào lại chịu đắp áo cà-sa chưa giặt của Hoàng Kỳ không?
– Mắc cỡ thấy mồ.
– Chư Thiên và A-Tu-La cũng vậy.
Mình mẩy của họ thanh cao, sạch sẽ; há chăng lại chịu hạ mình dựa vô xác phàm đầy dẫy ô trược và phẩn dơ?
Còn những Vong Linh cấp thấp thì ngược lại.
Như thể một người sa chân vào sình lầy, bỗng vớ được tấm khăn lau, nên liền chịu quấn lấy liền; thành ra đưa họ vô thì dễ chứ đuổi họ ra thì khó.
Ignacio Cường ướm hỏi Thanh Liên:
– Trên mạng có một cô tự nhận là đệ tử Di-Lặc Tôn Phật, anh nghĩ sao?
– Không nghĩ sao hết.
Châu Lợi trình bày một câu chuyện có liên quan tới chủ đề mà ông Cha Sở trung niên muốn tìm hiểu:
– Thường những người làm tướng khi chết sẽ trở thành Anh Linh Hộ Quốc.
Song, vị tướng đó phải thuộc dạng Trung Quân Ái Quốc hay Vị Quốc Vong Thân, chứ còn phường bán nước hại dân thì dễ bị trở thành Quỷ Hồn vất vưởng hơn.
Trên đây là cách nhìn nhận của Đại Thừa, bên Theravada ít có luận bàn về thế giới bên kia.
Ignacio Cường hỏi tiếp:
– Vậy mấy anh nghĩ sao về vô thần?
Đoạn Trần nhận phần trả lời:
– Một số người vô thần vọng tưởng rằng họ khôn ngoan hơn người có đức tin vì họ cho rằng tôn giáo là cái vòng kim cô do một nhóm người tạo ra, họ không bị ảnh hưởng bởi tôn giáo nên họ tự suy ra họ sáng suốt hơn những người hữu thần.
Tương tự vậy, một số người hữu thần vọng tưởng rằng họ đạo đức hơn người vô thần, vì họ cho rằng họ có Giới Luật và Điều Răn, nên theo cách nghĩ của họ, những người vô thần không tin và tuân thủ một cách nghiêm ngặt những điều trên là những kẻ buông thả, sống phóng túng đâm ra đạo đức thấp thỏi.
Cả hai điều này chỉ tổ gây ra sự Vô Minh cho bản thân mà thôi.
Ignacio Cường và Stephen Đoàn cau mày suy ngẫm.
– Thí dụ tôi và anh tranh chấp tiền bạc tới nỗi ẩu đả nhau, cả hai đều vớ được con dao, nhưng tôi không dám xuống tay với anh vì sợ Quả Báo, còn anh không dám xuống tay với tôi vì sợ sự phán xét của Chúa…!Vậy tôi hỏi anh, nếu trong tình huống đó thì người vô thần sợ gì?
Stephen Đoàn đáp liền:
– Sợ pháp luật.
– Cho nên, không thể bừa bãi phán xét người vô thần là đạo đức thấp thỏi hoặc có tư cách tệ hại được.
Ignacio Cường gật đầu mà rằng:
– Chúng ta có tôn giáo nên chúng ta có hai cái ngáng chân: Một cái là Đức tin và Một cái là Pháp Luật; còn người vô thần thì chỉ có một.
Nhưng không vì thế mà tự tiện kết luận nhân cách của họ theo chiều hướng xấu xa hoặc tự cho rằng nhân cách của mình cao đẹp hơn được.
– Lành thay…!Anh đã hiểu ra rồi.
Đoạn Trần tiếp:
– Nhiều người khi làm phim hay quay Youtube không chịu lia máy đến những mảnh đời cơ cực, bần hàn mà chỉ chăm chăm hướng ống kiếng vô những nơi xa hoa có những con người ăn bận rực rỡ và giàu sụ, để tự huyễn hoặc rằng xứ này bây giờ phát triển và phú cường lắm lắm.
Đó cũng là một dạng vọng tưởng, và họ truyền bá cái vọng tưởng của mình sang những người coi đài của họ.
Ignacio Cường bổ sung:
– Và khi quay bên ngoại quốc, họ lại chọn chỗ nghèo và đầy dẫy tội phạm…
Stephen Đoàn cũng góp lời:
– Cái đầu thứ Năm của Brahma.
Câu hỏi cuối cùng mà Ignacio Cường đặt ra cho Tăng đoàn như sau:
– Có nhân vật nào trong Ấn Độ Giáo và Phật Giáo có điểm tương đồng không?
Thanh Liên tươi cười trả lời:
– Trong văn hóa Ấn Độ Giáo có một vị Thần tên là Buddha, chủ quản hành tinh Sao Thủy, tượng trưng cho trí huệ, ảo tưởng và lòng từ bi độ lượng.
Cha của Ông là Thần Chandra, còn Mẹ là Nữ Thần Tara.
Một điểm trùng hợp rất thú vị là bên Tây Phương cũng công nhận tính chất của Thủy Tinh y hệt vậy, dưới cái tên “Mercury” đến từ La Mã cổ đại.
Vì Buddha chỉ là một cái tên cho nên sự trùng tên này chẳng có gì đáng để băn khoăn nhiều.
Thần Voi Ganesha cũng có đầy đủ ba đặc điểm trên.
Và rất nhiều vị Thần khác trong văn hóa Ấn Độ Giáo cũng có nét tương tự vậy.
Châu Lợi tính ra hiệu cho Tăng đoàn dừng cuộc đàm đạo, nhưng đã bị Thanh Liên cản lại.
Vai vế của Thanh Liên là bậc trưởng thượng nên ông không thể cãi lời được.
– Câu hỏi này hơi đụng chạm chút.
Thanh Liên bình thản nói:
– Từ hồi nãy cho đến bây giờ đã đụng chạm rất nhiều rồi, thành ra không có gì để cho anh khó xử nữa đâu.
Ignacio Cường hỏi luôn:
– Anh nghĩ sao về việc Kitô hữu xài chữ “Sân si”?
– Vậy anh nghĩ sao về việc người Lương xài chữ “Chúa Nhựt”?
Vì quá ngạc nhiên nên chàng Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế nhất thời không tìm ra câu trả lời.
Anh đành nín thinh nghe người Tăng sĩ Theravada trình bày tiếp.
– Đó cũng là một dạng vọng tưởng dựa trên Chấp Ngã “Tôi theo Đạo Kitô nên phải tránh những chữ này thì mới là một người ngoan Đạo.” Ngôn ngữ chỉ là một hình thức biểu đạt ở trần thế, hà tất phải cân – đo – đong – đếm chi cho mệt.
Vả chăng, Thầy bên anh và Thầy bên tôi nói ngôn ngữ ở xứ sở cổ đại cách đây mấy ngàn năm, chúng ta chỉ có thể truyền đạt ý của Thầy chứ không thể thuật lại giống hệt nguyên mẫu cách xài chữ của Thầy mình được.
Vậy thì mắc giống gì phải chấp vô từng li từng tí ngôn ngữ bản xứ ở thời đại mình đương sống?
Do chưa nghĩ ra lời biện luận hợp tình hợp lý để phản bác lại nên Ignacio Cường quyết định lần sau sẽ đối đáp lại.
Cũng bởi lẽ đó mà anh đã đổi sang câu hỏi khác:
– Anh nghĩ sao về quan điểm một bậc chân tu là không “được thấy lỗi người”?
– Đức Phật nói một đằng, đời sau giảng lại một nẻo.
Châu Lợi ngoảnh mặt ra sân trước để ngắm bóng cây xao động trong luồng gió mát lành.
Đọc nhiều kinh sách bên Đạo mình lắm lúc cũng không phải là một điều tốt, bởi tư duy ngộ Đạo của mình sẽ bị phủ bóng Thầy mình, từ đó khiến cho bản thân trở thành một kẻ sùng tín mù quáng và mất hết khả năng biện luận theo chánh kiến của riêng mình.
– Theo thiển ý của tôi, câu nói trên nhằm ám chỉ xét người thì nhớ xét luôn mình; chớ không phải Ngài biểu hàng Tăng sĩ làm thinh trước mọi chuyện trên đời.
Như tôi đã nói với anh hoài, và quá nhiều lần, rất nhiều người theo Đạo Phật bây giờ không chịu tìm hiểu kinh điển Theravada mà chỉ lo nghe lời giảng của Tăng sĩ, thành ra mang tiếng là theo Đạo Phật nhưng sự hiểu biết của họ về đức tin này quá ít ỏi và sai lệch.
Chợt, từ trong màn mưa lâm thâm, một người đội nón lá và mặc áo mưa bước những nhịp gấp gáp vô hang động.
Vừa thấy mặt Thanh Liên, ông ta liền lên tiếng:
– Mấy Thầy có gì cho tui ăn ké với.
Đi lạc trên núi nãy giờ ướt hết mớ thuốc rồi.
Thanh Liên gật đầu và mỉm miệng cười:
– Có.
Có cơm gà xối mỡ và bánh Trung Thu.
Để tôi nấu nước pha trà bạc hà cho thí chủ uống giải cảm.
Chú Thương nhận phần xẻ bánh và hâm cơm.
Và Hoàng Lan đã thấy lại ánh mắt trẻ thơ năm nao trên gương mặt thanh nhã của anh Thảo.
Ấy là cái nét hân hoan vì đã giúp một người qua cơn đói khát.
Đẹp đến đau lòng nàng.
– Anh Hai…!Coi chừng cắt trúng tay!
Chú Thương hết hồn rụt ngón trỏ lại.
Thật là:
“Ai ơi cái kiếp si tình
Bỏ đi thì khổ, buộc mình thì đau.”
– Hai người tự thắt lòng thọng vô cổ mình.
– Trì Thương buông lời thương cảm, rồi quay lưng đi một hơi xuống vườn lan.
Cắt bánh xong, chú Thương mượn cớ đi đường xa mỏi mệt nên xin phép vô phòng nằm ngủ một lát.
Cư sĩ hái thuốc ấy không hiểu sao Thầy Thương và anh ruột lại khác biệt về mặt tinh thần quá thể; nhiều đến mức chỉ cần nói chuyện đôi ba câu là biết ngay người nào là người nào liền, không thể ngụy trang hay che giấu được.
Thanh Liên hiểu được cư sĩ đang nghĩ về hai anh em song sinh cùng trứng nên mỉm miệng cười.
Trà tim sen Đồng Tháp thật thơm và thanh mát, kết hợp với hoa ngâu và bông cúc khô, hương vị càng thêm tuyệt hảo.
– Cha, Thầy Liên sao trà càng ngày càng lành nghề nghen.
Thanh Liên chắp tay mà nói, “Sadhu.”
Bánh trung thu Minh Tâm là một thương hiệu lâu đời, thành lập vào năm 1968, lò bánh ấy đã hiện hữu trên “Mỹ Tho đại phố” hơn nửa Thế kỷ.
Ngoài món ngọt ra, ở đây còn có bán heo quay và vịt quay; vì mấy món mặn hợp khẩu vị nhà mình nên chú Thương hay mua về ăn.
– Thầy Liên.
Thanh Liên mỉm miệng cười mà lắng tai nghe.
– Có cần cúng dường cho chùa thường xuyên không Thầy?
– “Phụng sự chúng sanh là cúng dường Chư Phật.”
– Dạ?
– Có một người Phật tử đã đem phần cơm cúng dường Đức Phật cho một con chó ghẻ sắp chết ăn.
Làm xong, anh ta bỗng nhiên đâm ra sợ hãi, vì nghĩ rằng mình đã phạm Nghiệp bất kính với Đấng Thế Tôn.
Anh ta đứng khóc ở đó cho đến chiều thì quyết định sẽ tới tịnh xá mà Ngài đang cư ngụ để thú tội.
Trái với suy nghĩ của anh ta, Ngài chẳng la rầy hay nổi xung chi sất, mà ngược lại còn hân hoan thốt lên, “Đây là phần cơm cúng dường tràn đầy hương vị Pháp Thí nhất mà Tôi đã nhận được trong suốt mùa hè ở chốn này.” Anh ta mới bạo gan hỏi sao Ngài không tức giận vì bị mất phần cơm cúng dường, mà tên được hưởng lại là một con chó lở lói, hôi hám.
Ngài cười mà giải thích rằng, “Phụng sự chúng sanh là cúng dường Chư Phật.
Thành ra anh không có tội chi hết, ngược lại anh còn được Phước nữa.”
Stephen Đoàn thắc mắc:
– Vậy bữa đó Đức Phật nhịn đói sao?
– Có thể là tôn giả Ananda hoặc một ai đó đã san sẻ phần cơm của mình cho Ngài.
Châu Lợi vừa lùa cơm canh vào cái tô của bầy chó hoang vừa nói:
– Với một người tu hành thông thường hay một ai khác, họ sẽ nghĩ rằng mình bị coi nhẹ hơn con chó mà nảy sinh lòng thù hận lẫn ác ý.
Ông thầy thuốc Nam tếu táo nói:
– Dám đi kiện luôn ấy chớ.
Ngẫm đến chuyện mấy bữa nay nên ai nấy thảy đều buồn cười.
Thanh Liên giảng giải cho ông thầy thuốc hay:
– Thành ra, mỗi một Thiện Nghiệp mà chúng ta làm trong đời cũng coi như là một lần cúng dường Chư Phật.
Do đó không cần thiết phải đi chùa thường xuyên hay cúng dường cho Tỳ-Kheo đều đặn.
Đức Phật thường nói về lợi lạc của việc nghe Pháp, gần gũi bậc trí tuệ – thân cận người hiền, làm lành – lánh dữ; chứ không cổ xúy đi chùa và phục dịch cho Tăng sĩ ở cái chùa đó, điều này do bên Đại Thặng thêm vô rất nhiều.
Ignacio Cường bình phẩm:
– Cũng giống như Công Giáo và Tin Lành.
Phú Lâm xen vô nói:
– Ngài bị chửi suốt một tuần lễ còn không để bụng.
Vậy mà mới bị nói một câu đã đi thưa đi kiện.
Thanh Liên tiếp:
– Sau ngày Đấng Thế Tôn Niết-Bàn, Tăng đoàn bị chia thành hai nhánh: Bảo thủ và Tân tiến.
Chính vì Tân Tiến mà Đạo Phật ngày nay mới sa lầy như vầy…
Ignacio Cường hỏi:
– Nói rõ hơn được không anh Liên?
– Tân Tiến sửa Giới Luật của Đức Phật Thích Ca, gồm mười điều, trong đó có hai điều gây ảnh hưởng xấu đến con đường tu học của Tăng – Ni đời này: Thứ nhứt, cho phép ăn phi thời và thứ nhì, cho phép nhận tài vật và hiện kim.
Ignacio Cường lại hỏi:
– Có điều gì anh thấy khả dĩ chấp nhận được không?
– Có, uống nước dừa.
Ignacio Cường ngạc nhiên hỏi:
– Uống nước dừa mà cũng cấm sao?
– Vì nước dừa có thể lên men làm rượu nên Ngài khuyến khích Tăng – Ni nên hạn chế uống.
Stephen Đoàn khẽ hỏi:
– Mấy anh chắc là theo Bảo Thủ? Nếu vậy, có Giới Luật nào mà mấy anh không tuân thủ không?
– Có, Giới Luật dành cho Sa-Di, ở khoản “Không được ăn phi thời”.
Vì các Sa-Di là trẻ vị thành niên nên chúng tôi bắt buộc phải cho các trò ăn đầy đủ hai bữa chánh thì mới có sức đề kháng mà khôn lớn được.
Đấng Thế Tôn đã nói Giới Luật của Ta còn được duy trì nghiêm ngặt tới chừng nào thì Đạo Phật còn sống tới chừng ấy.
Ngày nay Giới Luật đã bị mai một dần hoặc biến cải theo lẽ xu thời, thành ra ngày tàn của đức tin mới thật gần nhường vậy.
Đến đây là hết giờ trò chuyện của Tăng đoàn.
Ignacio Cường xin phép về phòng ngủ trưa, còn Stephen Đoàn và Hoàng Lan thì làm một chuyến du ngoạn ở vạt rừng gần đó.
Stephen Đoàn ngồi xuống một bệ đá bị dòng suối mùa nước nổi mài mòn thành ra nhẵn thín như đầu ông sư, rồi cầm harmonica lên thổi một khúc nhạc tình.
Bóng mây đụn lên thành từng gợn, trông xa như một dãy núi mới đắp.
Núi và Mây.
Mây và Núi.
Tuy hai mà một, khách thập phương khó lòng nhận ra đâu là thật và đâu là hư ảo.
– Cô Lan.
Hoàng Lan che miệng cười khúc khích.
– Sao cô cười?
– Thưa Cha, tại tôi nghe lộn là “Cô Long”, thành ra tôi mới tức cười.
Stephen Đoàn ghẹo:
– Vậy Cô Long đây còn Quá Nhi đâu?
Hoàng Lan phụng phịu đáp:
– Có con điêu chứ hổng có Quá Nhi.
– Tôi thấy con điêu thương cô Lan thật lòng thật dạ, sao cô không hồi đáp người ta?
Hoàng Lan nói lảng:
– Cha đàn tôi hát được không?
Biết cô Giáo dân xinh đẹp không muốn trả lời câu hỏi của mình, Stephen Đoàn cũng không xoáy sâu thêm, mà ân cần hỏi tên nhạc phẩm mà nàng ta muốn trình bày.
– “Bước chân người tình” – nhạc Nhật, lời Việt do nhạc sĩ Phạm Duy đặt, song ca Ngọc Lan – Duy Quang trình bày bài này nghe buồn lắm.
– Thành thật xin lỗi, tôi không có nghe nhạc Nhật nhiều nên không biết bản này.
Vừa hay chú Thương tới nên chàng Linh mục tìm được cớ để thoái lui.
Một mình Kiều Xuân là đủ để các Thầy anh “long thể bất an” rồi.
– Anh mới kiếm được mấy trái điều nè.
Anh còn làm muối ớt cho em ăn bớt chua nữa.
Hoàng Lan cầm lấy cái y bát đựng đầy trái điều mà rưng rưng lệ:
– Cái này là…!y…!y…
– Y bát của tôi.
Nói đoạn, Trì Thương bỏ đi một hơi vô rừng già.
Ngó theo bóng lưng của mối tình đầu, Hoàng Lan vừa gạt nước mắt vừa nói:
– “Tình” của nhạc sĩ Văn Phụng, vợ ông là bà Châu Hà ca hay lắm.
Sau này có cô Ngọc Lan hát lại rất mùi mẫn.
Chú Thương ra hiệu cho ông Cha Phó hãy chơi khúc nhạc đó để xoa dịu “Cơn đau tình ái” của người con gái mà chú nguyện sẽ yêu đến muôn đời.
Công nhận, Hoàng Lan hát dở thiệt.
Người chơi nhạc hay bao nhiêu, thì người cất tiếng ca tệ bấy nhiêu; đến nỗi chàng Linh mục xấu trai phải lên tiếng xin hát giùm nửa đoạn còn lại.
Và tiếng hát tuyệt diệu ấy đã khiến cho một người “vô Đạo” và cô Giáo dân sửng sốt tột cùng.
Họ không thể ngờ nổi giọng ca đó quá ư là tương phản với dáng vẻ vừa hiểm vừa xấu của chàng.
Duy chỉ có một người sẽ nhận ra thanh âm ấy là của chàng, và chẳng tỏ vẻ gì ngạc nhiên; cho đến khi chàng về với Chúa, chàng dám chắc trên đời này cũng chỉ có một mình người đó mà thôi…
Có một tình khúc mà nói lên tâm sự của cả ba người.
Thành ra, không cần ai bảo ai, chuyện hát hò bị dẹp qua một bên.
Sẵn có Hoàng Lan, chú Thương mở lời nhờ nàng kể rõ chuyện tương ngộ với thằng Thảo.
– Gia đình tôi vốn là con nhà nghèo, nhờ bán vải gặp thời và nghề may khéo léo của mẹ tôi nên lên hương, nhưng cũng vì vậy mà mấy bà cô bên nội mới kiếm chuyện…
– Nói rõ hơn được không Lan?
– Số là vầy: Ông nội thấy mẹ tôi có tài nên muốn bán mấy công đất đặng gia đình tôi có vốn khuếch trương lên.
Mấy bà cô phản đối.
Kế, tôi bị dụ vô cái khu có nạn chăn dắt trẻ em; xém chút nữa là bị ở lại đó với tụi nó rồi.
– Ai dụ cô? – Stephen Đoàn áp tay lên má mà hỏi.
– Mẹ tôi nghe nói khu này có nhà tính mở tiệm bán áo dài và đồng phục nên muốn đến đó bàn chuyện mối mai, sẵn dịp dẫn cả nhà đi chơi luôn.
Tới nơi mới hay không có ai muốn mở tiệm giống vầy hết.
Đang trong cơn hoang mang, tự nhiên ai đánh xuống cánh tay ba tôi một cái đau điếng, làm ba giựt mình buông tay tôi ra.
Người đó liền kéo tôi đi xềnh xệch.
Tôi có la hét cách mấy cũng chẳng giúp ba mẹ nhìn thấy tôi vì lúc đó xe cứu thương trờ tới để đưa bịnh nhân vô cấp cứu gấp, với lại đang buổi trưa nên mọi người đổ ra ngoài mua cơm đông dữ lắm.
Đi tới đầu hẻm của chỗ nào đó thì tôi bị bỏ lại.
Thành ra tôi phải đi lòng vòng hơn nửa ngày trời mới kiếm được đường cũ.
Ai mà ngờ đâu ba mẹ tôi quýnh quá nên không nán lại tìm mà tủa ra kiếm ở những khu khác.
Chú Thương hướt mà hỏi:
– Có báo cảnh sát không?
– Có chứ.
Nhưng vì đây là địa bàn của tội phạm nên mấy ông cảnh sát cũng ngán, đâm ra không dám mạnh tay tra hỏi.
– Họ sợ người thân sẽ bị liên lụy phải không?
– Phải.
Hoàng Lan ngắt một bông mười giờ đã say ngủ rồi thả nó xuống dòng suối trong veo.
Đôi mắt của anh Thảo năm ấy và năm nay chẳng thay đổi chi sất, ánh nhìn luôn bao dung và không vương một xíu bụi trần.
– Anh Thảo thấy tôi ngồi khóc dưới chưn cột đèn, anh mới nhăn mặt hỏi, “Sao em khóc?” Tôi tức tưởi òa lên mà kể lể hết tất cả cho ảnh nghe.
Và như thế, ảnh đã bước chân vào cuộc đời tôi…
Ignacio Cường đằng hắng một tiếng, rồi mạn phép được cùng anh bạn đồng tu xuống núi ngoạn cảnh và nếm thử đặc sản của địa phương.
Anh tính ngủ một lát cho khỏe người nhưng vì lạ nước lạ cái nên không sao yên giấc được, do đó trở mình dậy luôn.
Vậy là hai con người trần thế bèn quày gót về thạch động ngắm hoa lan.
Về phần hai ông Cha trẻ, trong lúc hai người đang loay hoay tìm đường xuống núi thì Hoàng Kỳ xuất hiện.
– Thầy Liên nhờ tôi dẫn hai vị đi chơi.
Ignacio Cường cười hỏi:
– Thầy Liên đâu?
– Mỗi ngày chúng tôi chỉ được phép nói chuyện trong vòng vài ba tiếng đồng hồ.
Stephen Đoàn gật gù:
– “Tịnh Khẩu”.
Hoàng Kỳ chắp tay mà thưa rằng:
– Sadhu.
Thay vì đi đường tắt như lời ngỏ của Hoàng Kỳ, hai ông Cha đồng xứ lại đề nghị đường vòng để ngắm được nhiều cảnh đẹp và tận hưởng bầu không khí thanh mát của núi rừng ngát xanh.
Tiếc thay, Hè đã qua nên không còn tiếng ve nào nữa.
Cũng chẳng còn sắc đỏ phượng rơi.
Lại vào mùa mưa nên bầu trời thường hay mây mù khắp nẻo, thoảng hoặc mới có được một ngày nắng đẹp và không bị sình lầy.
Hai bên đường nhìn đâu cũng thấy hoa cỏ ngậm sương và chuồn chuồn bay là đà.
Ignacio Cường hỏi:
– Gia đình anh sao hả Kỳ?
– Gia đình tôi sống ở tiểu bang Philadelphia, cả hai đấng sinh thành của tôi đều chết vì thuốc phiện – một thì bị bắn chết do tranh chấp địa bàn làm ăn, còn một thì sử dụng quá liều nên bị trụy tim, thành ra hồi nhỏ tôi sống trong cô nhi viện thuộc sự quản trách của một nhà Dòng Công Giáo.
Stephen Đoàn ngó thấy đôi bàn tay của Hoàng Kỳ cứ vặn xoắn vào nhau.
Anh tự nhiên cảm thấy đồng cảm với người Tăng sĩ đen thui, bởi lẽ cả hai đứa đều có đấng sinh thành bất hảo; nhưng anh còn may chỉ có một người, đằng này anh ta có đủ hết.
Nghĩ vậy nên anh mới chia sẻ chuyện đời mình.
Nghe đến đâu, ánh mắt anh ta buồn thảm tới đây; song không thốt lên một câu cảm thán nào.
Thảng đâu một đỗi, Stephen Đoàn mới nghe tiếng của Hoàng Kỳ.
Anh ta nói:
– Anh muốn uống thử nước thốt nốt lạnh không? Tôi biết có một quán này bán rẻ mà ngon lắm.
Nhưng đi hơi xa một tẹo…
– Ở đâu lận?
– Một quán nhỏ ở gần khúc Ngọa Long Sơn.
– Ở đây có taxi không?
Hoàng Kỳ bèn đọc số điện thoại của cậu tài-xế Uber thất nghiệp nên bỏ bằng cấp mà ra đây lái xe kiếm cơm.
– À, tôi có lưu số mà quên béng…
Do cậu tài-xế lái xe còn yếu nên ba chàng nhà tu phải cuốc bộ xuống núi cho chắc ăn.
Dọc đường đi, ba chàng bắt gặp những người tài-xế xe ôm đang chở khách lên hoặc xuống núi; có nhiều du khách hiếu chuyện hỏi liên tu bất tận tới nỗi làm tài-xế đang chở họ không biết đường đâu mà lần.
– Có bị chèo kéo không? – Ignacio Cường hỏi Hoàng Kỳ.
– Có, nhưng mình nói không đi thì người ta cũng không tỏ thái độ gì quá đáng.
Vì không quen đường núi nên Stephen Đoàn đi được vài bước là muốn sụm bà chè.
Cũng may người bạn đồng hành của anh y hệt trái núi nên đủ sức nắm tay giữ anh lại, không thôi anh đã lăn xuống dưới rồi.
Nhưng được cái này thì mất cái kia, “Sau mỗi lần gối mỏi” là một lần cánh tay của chàng Cha xứ thâm tím một vùng; quả đúng là võ sĩ quyền Anh hạng nặng đã từng vang danh trên các sàn đấu mà!
– Lần sau tôi có sắp té, anh thương tình để tôi té luôn đi.
Chứ anh níu lại kiểu này hoài, chắc lát tôi không còn miếng xương nào quá.
Hoàng Kỳ bẽn lẽn mà nói lời xin lỗi nho nhỏ.
– Hồi đó anh có bị người ta trả thù vì bại trận hoặc đút tiền để đánh thua không?
– Có, thường như cơm bữa.
Nhưng họ không chặn đường đánh tôi mà rút súng bắn cảnh cáo thôi.
Còn những ai bị tôi từ chối thỏa hiệp dàn xếp kết quả trận đấu sẽ kiếm chuyện trả đũa tôi, tỷ như khiến tôi ít được nhận lên đánh võ đài hơn.
– Chỉ có thế thôi sao?
Hoàng Kỳ bật cười khúc khích mà xoa xoa cái đầu bóng lưỡng của mình:
– Tôi chẳng là cái thá gì để đến nỗi họ phải tự đẩy mình vào sự phiền phức của pháp luật.
Cậu tài-xế không chở họ bằng chiếc xe bốn chỗ hôm bữa, mà bằng chiếc xe hiệu “Hyundai” mười sáu chỗ có gắn cầu hoa trước mũi xe.
– Trời đất ơi, tôi với Father đây đâu phải cô dâu – chú rể mà chở bằng xe này?
– Ai biểu Thầy lớn xác quá chi, xe tôi nào kham nổi khổ người của Thầy?
Nói đoạn, cậu tài-xế thả đôi dép xỏ ngón xuống chân Hoàng Kỳ.
Rồi chưng hửng hỏi:
– Ủa mang dép rồi hả?
– Sợ dơ xe của cậu nên tôi thủ sẵn rồi.
– Dạ, vậy cảm ơn Thầy.
Xe này đi rước đàng gái mà bị dính sình lầy, chắc ổng chém tôi quá.
Dù trần xe rất cao nhưng Hoàng Kỳ vẫn không tránh khỏi chuyện bị cụng đầu.
Chú vừa xoa xoa cái đầu trọc lóc vừa cười hi hi trong khi kiếm chỗ ngồi “vừa chân”; thành ra, tuy hai người đi chung nhưng hai chàng Linh mục ngồi cùng băng với tài-xế, còn chàng Tăng sĩ thì ngồi ở băng thứ ba.
Cậu tài-xế cười khổ:
– Hiền khô dzậy ai tin là dân quyền Anh chớ?
Ngang qua xóm Chùa Miên, cái xe mới tắm thảm thương hứng chịu từng cơn xốc nảy và khói bụi do đường xấu.
Cũng may không ai bị nhồi máu cơ tim hay đau bụng.
– Đường vừa xấu vừa hẹp, mỗi lần cho xe chạy ngang qua là về sửa thấy mẹ.
Stephen Đoàn hỏi:
– Khu này Cao Miên nhiều hả cậu? Từ bảng hiệu bên đường cho tới sắc mặt người dân, tôi đều thấy phảng phất nét Miên.
– Dạ phải, lai Miên nhiều lắm.
Đầu quắn, da ngăm, khuôn miệng hơi đưa ra một chút,…!là những điểm thường thấy trên vẻ bề ngoài của họ.
Rồi đột nhiên, cậu tài-xế bật cười nắc nẻ.
– Sao cười vậy cậu? – Stephen Đoàn cũng vui lây mà hỏi.
– Số là vầy: Ở dưới một miệt của xứ miền Tây, có một bà má sanh ra hai đứa con trai khác một trời một vực: Anh giống Miên, em giống Ấn.
Thằng anh xấu bao nhiêu là thằng em đẹp bấy nhiêu, đã bô trai thì chớ lại còn trắng bóc như hột gà luộc.
Thành ra không ai tin là con cùng cha hết trơn, chỉ khi bà má tức quá chỉ vô cái đầu quắn của hai thằng con, người ta mới chịu xuôi xị im tiếng một chút.
Tới chừng lớn lên, đứa em vẫn rất đẹp trai và bảnh tỏn hệt khuôn công tử bột, còn đứa anh y như mấy thằng cha đóng vai ở đợ hay hạng cùng đinh trong phim vậy.
Cho nên mới có một chuyện dở khóc dở cười xảy ra: Hai anh em đi mua lúa ở nhà nọ, do đường xa nên mướn một bà đẩy xe ba gác phụ kéo về.
Sau khi trả tiền xong xuôi, người anh mới cùng bà đó đẩy xe lúa về nhà trước, còn người em ở lại bàn tính vụ mùa kế với chủ nhà.
Ông chủ nhà tự nhiên khen, “Công nhận hai vợ chồng hồi nãy xứng đôi ghê luôn.
Nghèo mà chí thú làm ăn với nhau ghê.
Thiệt là thấy thương hết sức.” Người em cười mà mặt mày méo xệch, “Ông đó, anh ruột tui á.
Còn cái bà đó đó, người dưng á.”
Ông chủ nhà ổng chỉ cười cười mà không có chịu tin.
Đến lúc qua nhà chơi mới té ngửa.
Ignacio Cường phì cười mà rằng:
– Ấn Độ sao trắng được cậu?
Cậu tài-xế cự:
– Ấn Độ mà gốc Mumbai mới trắng.
Rồi cậu ta nói bằng giọng xuôi xị cho êm đẹp:
– Bởi vậy nhiều khi Tiết Nhơn Quý không chịu nhận Tiết Cương là con cũng đúng.
Mình trắng tươi, còn nó đen thui, tin cha con sao nổi?
Trong quán nước giải khát đang chiếu tiểu phẩm hài “Thầy bói trúng số” do Lê Huỳnh và Kiều Oanh thủ diễn.
Chủ quán đang nạo cơm thốt nốt với nụ cười tủm tỉm trên môi.
Khách nhàn du ngồi đợi đồ uống coi cũng đông lắm.
Do Giới Luật không được ăn phi thời nên Hoàng Kỳ uống nước Coca đá và không kêu thêm món gì.
Ngồi chưa ấm ghế mà bộ tứ đã nghe thấy tiếng bàn tán xì xào của mọi người, nội dung chính là về vấn đề ký tên để truất phế tổng thống Khánh và yêu cầu điều tra lại thảm án “Hai Mươi”.
Dường như có ai đó đang thúc đí* nhân dân tiêu diệt ông Khánh dưới chiêu bài trừ gian diệt ác, nhằm mục đích củng cố quyền lực cho bè đảng của hắn.
…
Sáng hôm sau, Trì Thương nhận phần dẫn anh Hai, Hoàng Lan và hai vị tu sĩ Công Giáo đi thăm làng Chăm theo Ấn Độ Giáo.
Đón họ vào làng là bài hát “Tình cây thốt nốt” do Nhã Thanh ca, ca – nhạc sĩ Giáng Ngọc đặt lời Việt theo giai điệu nhạc Cao Miên; người mở ca khúc này là anh hướng dẫn viên đang ngồi đợi đoàn khách Mã-Lai, chiếc xe lam mà anh ta dành chở khách du lịch vẽ cảnh dãy núi Sam nằm khuất sau những tán cây thốt nốt.
– Anh Thảo.
– Phải.
Người Chăm theo Ấn Độ Giáo thường tập trung ở Ninh Thuận và Bình Thuận, còn theo Hồi Giáo thường tập trung ở Nam Kỳ.
Đây là một ngôi làng Ấn Giáo rất nhỏ, chưa được một ngàn dân, nhưng vẫn có đền thờ và chức sắc tu sĩ hẳn hoi.
Hoàng Lan cười chúm chím:
– Sao em chưa hỏi mà anh biết rồi?
– Sadhu…
Những quầy hàng của bà con Chiêm-Thành bày bán đủ món bánh trái của dân tộc họ và xứ Ấn Độ.
Nhiều người hảo tâm còn mời đoàn khách ăn thử coi có hạp miệng không rồi hãy hẵng mua.
Ngoại trừ Trì Thương, ai nấy đều mua về đủ loại bánh.
– Sạp vải bên đó đẹp quá.
Anh Thảo giúp em trả giá nếu họ bán thách nghen.
– Ở đây không có chuyện bán thách đâu Lan.
Bây giờ những người trần thế mới hay người Tăng sĩ biết tiếng Chăm.
Nghe anh ta giải thích thì người dạy ngôn ngữ ấy cho anh ta là Trưởng lão Chiêm-Thành.
Song không biết hai người đó nói về chủ đề gì mà Trì Thương thôi tươi cười.
Anh cau mày mà lắng tai nghe câu chuyện của ông chủ sạp vải, chừng ông ấy ngừng nói anh mới lên tiếng khuyên giải và trấn an.
– Có chuyện gì vậy Thảo? – Chú Thương nóng ruột hỏi dồn.
– Con gái của vị thí chủ này đã bị mất tích sau khi đi thử vai trên Sài Gòn.
Nghe đâu đoàn làm phim ấy Phá Vân có quen biết nên vị thí chủ này muốn nhờ mình đi hỏi giùm.
Ignacio Cường chép miệng:
– Hèn chi mà hồi nãy sắc mặt anh tối sầm.
– Em tưởng đâu ổng nói lời thất thố khiến anh giận chớ.
Rồi Hoàng Lan biểu Trần Kim Thảo nói tên của cô gái đó cho mình biết.
Vốn làm trong ngành thời trang và làm đẹp nên cô có mối giao hảo với những người trong giới giải trí rất rộng.
Sau khi nghe Tăng sĩ Theravada thuật lại lời của cô gái ăn bận theo mốt kim thời, ông chủ sạp vải vội vàng kiếm viết – tập nhằm ghi tên con mình cho thật rõ ràng.
Ông vừa ghi tên trong tiếng Chăm, vừa ghi luôn tên trong tiếng Việt; cộng thêm đặc điểm nhận dạng của nó nữa.
Do quá nóng ruột nên nét chữ của ông không ngay hàng thẳng lối mà cong cong vẹo vẹo như hàng rào bị xe đạp mất đà lủi vô.
Trước lúc ghé thăm núi Cấm, Hoàng Lan mua vài xấp vải nhuộm có màu sắc sặc sỡ.
Bên Pháp đang tổ chức một cuộc thi thiết kế thời trang với giải thưởng rất hấp dẫn nên cô muốn thay đổi phong cách sáng tạo nhằm nâng cao phần thắng.
Nếu đoạt giải Nhứt, cô sẽ mời má con Hai Thương và ba mẹ mình đi du lịch Pháp một chuyến.
Ngày vui chóng qua, đêm lặng đã đến.
Hoàng Lan và Hai Thương không xuống núi mà nán lại thưởng trăng với hai chàng Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế và nhóm Tăng sĩ Theravada.
Vì Hoàng Lan hành kinh bất thần nên cô phải xin nhóm Tăng sĩ cho mượn phòng tắm.
Vậy là nhóm Tăng sĩ rời khỏi tịnh thất mà tập trung lại dưới gốc đại thụ ở sân trước nơi ẩn tu.
– Lát nữa ai vô dọn vậy? – Hoàng Kỳ nói với sắc mặt đỏ bừng.
– Để tôi.
– Trì Thương đáp.
– Vậy mà hồi đó đệ cũng có người yêu, hay thiệt.
Châu Lợi nghiêm mặt nhìn Phá Vân:
– Tính nói bậy chi đó?
Phá Vân le lưỡi chối:
– Có đâu huynh.
Hai chàng tu sĩ ngó nhau mà cười khúc khích.
Áng chừng trăng lên, mới thấy Hoàng Lan mặt sượng ngắt trở ra.
– Anh Thảo.
Em dọn xong hết rồi.
Kể cả tẩy uế và khử mùi.
– Cảm ơn Lan.
Thủy Diệu thở phào nhẹ nhõm, rồi xin phép lui vô tịnh thất làm chuyện riêng.
Những người còn lại trong Tăng đoàn và Ignacio Cường cũng xin phép vào rừng chơi.
Riêng chú Thương, chú có hẹn đi nhậu với mấy thằng bạn giang hồ ở một nhà hàng trong vùng Ba Chúc.
Còn lại Stephen Đoàn và Hoàng Lan, hai người ra bờ suối mà hôm trước từng ghé qua mà ngồi ngắm ánh trăng bàng bạc và đón hoa quỳnh nở.
Bồ công anh mọc lác đác ven hai bên bờ suối.
Cỏ mật gấu chạy dài theo dòng chảy của con suối nhỏ; loài này hái làm thuốc uống trị bệnh cũng hay lắm.
– Cha cho con nghe thêm một khúc đàn cầm đi.
Stephen Đoàn vừa lau khẩu cầm bằng chiếc khăn mùi soa vừa cười hỏi:
– Bài chi cô?
– “Đêm buồn mênh mang” do Ngọc Lan ca, nhạc sĩ Nhật Ngân đặt lời Việt từ tình khúc “Ce soir, Je ne dors pas” của nhạc sĩ Michel Berger.
Sau khi nghe hết bản nhạc để biết giai điệu mà thổi, Stephen Đoàn mới cười buồn mà rằng:
– Có lẽ bài này đặt lời Việt riêng cho tôi.
– Dạ?
Nhưng Stephen Đoàn không ừ hử chi sất.
Anh lặng câm thả hồn vào phím đàn harmonica.
Đến giờ này thì anh đã thấu hiểu những gì mà Cha Matthias Hoàn đã nói trước ngày anh tham dự cuộc thi “lên chức” Linh mục, song chẳng còn thời gian đâu để anh thay đổi nữa…
– Làm Cha thì không được nếm trái cấm.
– Tôi biết.
– Làm Tỳ-Kheo cũng vậy.
Một cặp rắn bò ra từ trong cái hang thâm thấp; cái hang ấy bị bụi cỏ cao nghệu che mất, thành ra hai người không để tâm tới.
Hoàng Lan đứng phắt dậy, rồi chạy ra sau lưng ông Cha xứ xấu trai.
Stephen Đoàn nhếch miệng cười:
– Chúng chỉ đang “Tìm nhau trong thống khổ” thôi cô.
Mình lại chỗ khác ngồi chơi đi.
– Dạ.
Thời may ánh trăng đủ sáng để dẫn lối cho hai người khách phương xa rảo bước một cách an toàn.
Đi tới đâu cũng nghe thấy tiếng chim kêu vượn hú hay giọng tặc lưỡi của một loài kỳ đà núi, vốn nhát gan nên Hoàng Lan sợ đến nỗi thở không ra hơi.
– A…
Stephen Đoàn day qua nhìn cô Giáo dân với ánh mắt đầy khó hiểu.
Ánh trăng đêm Rằm soi rọi hình hài Trần Mộc Thảo.
Chú vẫn điềm nhiên ngồi tọa thiền trên tảng đá.
Gần nửa cuộc đời lánh thân nơi rừng sâu núi thẳm đã làm chú miễn nhiễm với Thất Tình Lục Dục và thị phi thế gian, thành ra đối với chúng sanh cõi Ta-Bà chú là một con người bất bình thường và cao ngạo.
“Trong mộng Trang Châu mơ là bướm
Trong mộng ta ngộ mình đang mê.”
Stephen Đoàn sợ mình và Hoàng Lan sẽ khiến buổi hành thiền của Trì Thương bị xao lãng nên anh mời cô Giáo dân đã “bỏ xứ” cùng mình đi thưởng dạ lan hương.
Đến nơi mới hay Thủy Diệu đang ở đây.
Chú đang đi kinh hành một mình, quãng đường đó bắt đầu từ gốc cây sơn trà cho đến bụi dạ lan hương.
Đã từng là người mẫu danh tiếng nên nhịp bước của chú hãy còn vương nét sàn diễn thời trang, nhìn dáng đi đẹp đẽ ấy tự nhiên làm nhà thiết kế tên Lan tiếc nuối khôn cùng.
– Công nhận anh Diệu hay thiệt.
Thủy Diệu ngừng bước mà nghiêng đầu chờ nữ Giáo dân nói tiếp.
– Anh biết cách làm cho mợ Hai hiểu rõ ý mà anh muốn nói là gì.
Cái vụ “Sausage Vietnam” á.
Thủy Diệu cười mỉm chi:
– Đối với những người không biết tiếng Anh, mình nên sắp xếp câu theo cấu trúc tiếng Việt để họ nắm được cái ý mà mình muốn đề cập.
Hoàng Lan gật gù:
– Có những lúc mình phải nói sai để người ta hiểu đúng…
– Nhưng trong chuyện tình cảm, không thể nói sai được, phải thẳng thừng thừa nhận quan điểm của mình thôi.
Hoàng Lan hỏi lảng:
– Sao tôi ít thấy Sơ quá vậy dạ anh Diệu?
– Bên Theravada có rất ít Tỳ-Kheo Ni, vì hiếm có Tỳ-Kheo nào đủ đầy về mặt trí huệ và đạo đức để đứng ra làm Lễ Quy Y Tam Bảo cho họ.
Stephen Đoàn thắc mắc hỏi:
– Sao bữa hổm tôi thấy có một đoàn Ni Cô lận mà.
– Bên đó là bên Bắc Tông, không phải Nguyên Thủy Phật Pháp.
Hoàng Lan hấp háy mắt mà hỏi:
– “Deep hatred”, anh dịch sao?
– “Thâm cừu đại hận”, “Mối thù sâu đậm”, “Hận thù khôn nguôi”,…!Còn cô?
– “Thù dai”.
Nói đến đây, ba người bật cười khúc khích.
Với nghề dịch giả, người viết không những cần giỏi sinh ngữ, mà còn phải truyền tải được cảm xúc và ý nghĩa của câu đó theo ý đồ của tác giả.
Cũng không muốn làm rộn tâm người Tăng sĩ đẹp như tranh vẽ, hai người bèn chia tay chàng mà đến Sân Tiên ngắm mây.
Trên đường tới đó, Hoàng Lan mời Cha xứ nghe “Tình ngàn năm còn nhớ” do Ngọc Lan ca, nhạc sĩ Vũ Xuân Hùng đặt lời Việt từ ca khúc “Ya des jours comme ca” của nhóm tác giả Alain Nakache – Claude Nakache – Gérard Nakache – Marc Nakache và Nobert Nakache – những người này đều là thành viên của ban nhạc gia đình “Nacash”.
Nghe được nửa bài, Stephen Đoàn bình phẩm:
– Bài này còn một lời Việt nữa mang tên “Em/Anh vẫn buồn như xưa” của nhạc sĩ Lữ Liên.
Có Anh Tú và Lưu Bích ca buồn dữ lắm.
– Sao Cha biết hay vậy?
– Thuở còn tại thế, mẹ tôi thường nghe nhạc Pháp.
Sở thích ấy càng tăng vọt vào những ngày cuối đời của bà.
Thành ra tôi mới biết nhiều đến vậy.
Chú Thương về núi với cái giỏ đệm đầy ụ thức ăn và nước uống.
Không biết cha này đi nhậu hay đi hốt-của thằng bạn nữa đây.
– Lan và mấy Cha, lại ăn gà đốt Ô Thum nè.
Mùi rượu phảng phất trên người cha Hai đã khiến Hoàng Lan khó chịu ra mặt.
Ông thần này cái gì cũng được, ngoại trừ khoản uống rượu như nước lã, nhìn chẳng khác nào cái hũ hèm biết đi.
Ignacio Cường và Stephen Đoàn vừa trải bạt vừa đuổi theo suy nghĩ riêng tư.
Trong tầm mắt hai chàng là đôi nam – nữ vướng mắc vì yêu lầm, ngó xuống thấp hơn là mâm thức ăn thịnh soạn bao gồm những món gà đốt Ô Thum, cá nướng da giòn cuốn bánh tráng, gỏi bồn bồn trộn lỗ tai heo ăn kèm với bánh phồng tôm và cuối cùng là̀ món khô ếch.
Chú Thương ngó người yêu mà hát với tiếng ca nhừa nhựa men rượu chếnh choáng.
Bài hát ấy mang tên “Dáng Lan” của nhạc sĩ u sầu Đỗ Lễ:
“Anh thương làn tóc xõa
Anh thương dáng Lan gầy
Môi em mọng thương nhớ
Tay gom nắng mai đầy…”
Stephen Đoàn và Ignacio Cường nhìn nhau cười khổ.
“…!Ai đem sầu tê tái
Cho Lan khóc đêm dài
Lan mang tình Thu chết
Đem chôn đáy tâm hồn
Lạnh lùng như mùa Đông
Lan chờ trông như lá mùa Thu
Lá khô rơi buồn tênh…”
Hoàng Lan mong chờ một lần nhìn Thương ra Thương chứ không phảng phất bóng hình Thảo.
Cô nợ Thảo một mạng sống, một cuộc đời sang giàu; và nợ Thương một lần yêu, một kiếp chồng vợ mặn nồng.
Bất giác, cô đưa mắt tìm chàng Tăng sĩ họ Trần.
Trì Thương đã khuất dấu.
Dường như thiên nhiên đã ôm trọn chàng vào lòng hòng che chắn chàng khỏi Danh – Lợi – Sắc – Cảm của chốn Nhị Nguyên miên miên khổ tận.
– Không phiền các vị ăn uống nữa, tôi muốn đi dạo một mình.
Biết người thương đang buồn nên chú Thương không đòi đi theo, chú chỉ biết dõi mắt theo trong sự lặng câm đau đớn.
oOo
Đây là lần đầu tiên Kha Ngạn đi uống cà-phê ở quán “Sóng Nhạc”.
Quán khá rộng, chỗ ngồi rất thoải mái, nhân viên vừa chu đáo vừa dễ thương; có điều giá tiền hơi cao so với những quán khác, chắc có lẽ là do chủ quán khấu trừ vào chi phí mua băng – đĩa, sửa chữa máy hát và lau chùi dàn loa gắn trên trần.
Chủ quán trẻ hơn Kha Ngạn tưởng.
Gương mặt anh tuấn, nhưng ánh mắt luôn đượm buồn đã phá hỏng dung mạo đẹp đẽ của anh ta.
Chiều cao của anh ta áng chừng gần mét tám.
Vóc dáng cân đối và nở nang.
Không có nét nào giống với gã điên cùng họ kia, tuy vậy anh vẫn không loại trừ anh ta ra khỏi danh sách nghi phạm của Tổ Trọng Án.
– Ai đang ca bài gì vậy bác Hai?
Ông bác vuốt râu mà trả lời rằng:
– “Tôi đã hát, sẽ hát và Ta phải hát” do Chế Linh ca, đây là một sáng tác của chính ông – trong bài này ông ký tên là “Tú Nhi”.
– Bài hát hay mà buồn quá bác…
– Cần chi hôn anh?
– Một ly trà sâm dứa sữa.
Nhiều đá.
Ngọt vừa.
Đáp xong, Kha Ngạn lại ngồi ở cái bàn ở trong góc khuất mé tả gần lối dẫn xuống khu nhà vệ sinh.
Ở đằng này, Thừa Tân đang nói:
– “Rống lên nốt cao” hoàn toàn khác “Hát lên nốt cao”.
Người khách ngạc nhiên hỏi:
– Nghĩa là sao?
– “Rống lên nốt cao” có nghĩa là do hơi không đủ nên phải rống lên để hát tròn câu, ngoài ra còn vì ca sĩ non trẻ hoặc bị quên lời nên phải lên cao một cách đột ngột thành ra câu hát bị gượng gạo và nghe rất chói tai.
– Tôi vẫn chưa hiểu ý anh lắm.
– Thí dụ như anh từ dưới lòng đường lên vỉa hè, anh sẽ nhảy lên hay bước lên?
– Rất nhiều ca sĩ trẻ thời nay thay vì “bước” lên nốt cao, họ lại “nhảy phốc” lên; nên âm điệu nghe rất chói tai, nặng trịch và mệt đầu khán giả.
Không biết nghe nào đám xúi biểu phải hát được nốt cao mới là ca sĩ mà nhiều người hiện nay đã tự phá hư giọng trầm độc đáo của mình.
Thừa Tân xin phép ngừng cuộc trò chuyện một lúc để ra kiểm tra đơn hàng của cậu nhân viên thuộc công-ty giao hàng.
Kha Ngạn hỏi mượn cuốn sổ nhạc để ở trong quầy thu ngân, người nhân viên đưa liền.
Hơn mười ngàn bài hát “khóc cười theo Mệnh Nước nổi trôi”, “vẫn sống thênh thang trong lòng muôn người biết thương đời Lính” và “ca những lời yêu đương hay chuyện tình gãy gánh giữa đường” được ghi lại thật cẩn thận và rành mạch.
Với những nhạc sĩ rõ danh tánh, chủ quán còn gắn hình chụp chân dung của họ vào để khách biết được dung nhan của bậc tài hoa ấy.
– Anh mới tới đây lần đầu tiên hả?
Kha Ngạn tỏ vẻ ngạc nhiên.
– Vì anh phải cần tới cuốn sổ này để chọn nhạc, những mối quen biết ít nhứt cũng cả ngàn ca khúc nên họ không thèm dòm cái này đâu.
Kha Ngạn nở nụ cười hòa hoãn:
– “Tư vấn” được không?
– Muốn nghe nhạc Lính thì có Trần Thiện Thanh, Hùng Cường, Duy Khánh, Chế Linh,…!Muốn nghe nhạc Tình thì có Lam Phương, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng,…!Muốn nghe nhạc Đời thì có Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Trúc Phương,…!Muốn nghe nhạc Xanh thì có Lê Hựu Hà, Tùng Giang, Nguyễn Trung Cang, Trường Kỳ,…!Muốn nghe nhạc Quê Hương thì có Anh Việt Thu, Thanh Sơn, Hoàng Thi Thơ, Phạm Thế Mỹ,…!Muốn nghe nhạc Ngoại lời Việt thì có Nhật Ngân, Kỳ Phát, Xuân Vinh, Khúc Lan,…!Muốn nghe nhạc Sử ca thì có Lê Thương, Văn Giảng, Hùng Lân, Thẩm Oánh,…!Muốn nghe nhạc Thời Cuộc ca, hay còn gọi là Phản Chiến ca, có Trịnh Công Sơn, Nguyễn Đức Quang,…!Muốn nghe nhạc Truyện ca có Thái Ngọc Sơn, Hoàng Trang, Đài Phương Trang, Vinh Sử,…!Muốn nghe nhạc phổ từ thơ có Anh Bằng, Nguyễn Tất Nhiên, Nguyễn Đình Toàn,…!Muốn nghe nhạc Du ca có Ngô Mạnh Thu,…
Cậu nhân viên đứng chống nạnh mà ôm ngực thở hổn hển một lát mới nói tiếp nổi:
– Mới kể sơ sơ thôi đó.
– Trời đất ơi!
– Giờ, nghe bài của nhạc sĩ nào?
– Thôi anh chọn giùm tôi luôn đi.
Tôi làm trong bệnh viện.
– Được, “Cát bụi tình xa” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, sẽ được trình bày qua giọng hát của ban “Thúy – Hà – Tú”.
Nhưng vì không biết cách xài máy hát kiểu xưa nên cậu nhân viên không dám táy máy, đành hẹn với vị khách mới toanh rằng chừng nào ông chủ trở vô sẽ nhắn, rồi a thần phù lủi xuống nhà sau canh nồi trân châu đang luộc gần chín.
Vừa bỏ cái dĩa than có ca khúc ấy lên trên cái mâm của máy hát, Thừa Tân vừa nói:
– “Hát không lên nổi nốt cao” và “Hát lên nốt cao không hay” hoàn toàn khác nhau.
Tỷ như Duy Trác, giọng của cụ không hợp với những ca khúc có tông cao, thành ra các nhạc sĩ toàn chọn cho cụ những bài tông trung hoặc hơi trầm.
Nhờ sự thẩm âm tinh tế của các nhạc sĩ mà cụ mới có những phần trình diễn để đời và gây rung động tâm can thính giả.
Gặp mà cô Thanh Thúy là ca sĩ thời nay là coi như “lụt giọng” luôn.
Vì suốt ngày cứ bị chỉ trích ca sĩ gì mà hát nốt cao không hay, rồi thêm một đám “chỉ đạo” ca sĩ là phải biết hát opera hoặc bài này – bài kia theo ý họ.
Người khách ấy nhớ đến màn song tấu mà như chủ nợ và con nợ đang cãi tay đôi với nhau mà cười như được mùa.
– Anh thử tưởng tượng cô Thái Thanh mà ca bài “Một chuyến bay đêm” của đôi nhạc sĩ Song Ngọc – Hoài Linh đi.
– Đúng là…!chỉ có “Tiếng hát lúc nửa đêm” Thanh Thúy mới thể hiện được cái hay của nhạc phẩm.
– Và, cô Thanh Thúy với bài “Đưa em vào Hạ” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng.
– Trớt quớt.
– Ai mà nói nhạc Vàng dễ hát thì tôi sẽ mời họ ca bài “Đưa em vào Hạ” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng.
Ngoài Duy Khánh ra, tôi chưa thấy ai trình bày nhạc phẩm này thành công.
Một người khách nữ yêu cầu một giọng ca vừa quen mà phải lạ.
Vậy là Thừa Tân chọn bản “Nắng chiều” của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn do Ngọc Long trình bày.
– Sao quen mà lạ vậy anh?
– Ông Ngọc Long là em trai của danh ca Anh Ngọc.
Giọng thì quen nhưng tên tuổi thì lạ hoắc lạ huơ.
– Hèn gì hai cái giọng na ná nhau.
Một người khách vừa móc bóp lấy tiền trả vừa hỏi anh chủ quán:
– Nhạc sĩ Phạm Duy có bài nào rất hiếm người biết không?
– “Chào mừng Việt Nam” của nhạc sĩ Phạm Duy.
Một trong những bài hát hiếm người biết đến của cụ.
Để tiễn chân người khách ưa thóc cáy đang nấn ná bên quầy thu ngân, Thừa Tân mời anh ta về bàn mà ngồi nghe Duy Khánh ca “Mấy độ Thu về” của đôi nhạc sĩ Minh Kỳ và Hoài Linh.
Đoạn, anh quay qua đặt ly cà-phê mới pha cho vị khách quen im hơi lặng tiếng nãy giờ.
– Có một bài hát về miền Tây mà tôi được bạn mời nghe, tôi cảm thấy rất hay và thú vị.
Nhưng đáng tiếc thay, phần giai điệu lại trùng khớp đến tám mươi phần trăm ca khúc “Tôi nhớ tên anh” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ; hai bên chỉ khác nhau ở chỗ, chữ cuối bài kia là vần huyền, còn bài của ông Thơ là thanh ngang, thí dụ cho dễ hiểu thì nó như vầy: Bài kia là “Bùi ngùi” – “Sụt sùi”, còn bài ông Thơ là “Xanh xanh – Nhanh nhanh”.
– Thí dụ trên không liên quan tới bài hát gốc phải không?
– Phải.
Bài gốc của mỗi bản không có chữ nào như vậy.
Tôi thí dụ như vầy để anh dễ mường tượng thôi.
– Anh có nghĩ nhạc sĩ trẻ kia đạo nhạc không?
– Không.
Vì chắc gì người này biết Hoàng Thi Thơ là ai hay đã nghe qua tác phẩm “Tôi nhớ tên anh” của ông.
Đây chỉ là một sự tương đồng ngẫu nhiên thôi.
Một người khách lớn tuổi nhận xét:
– Hơn nửa thế kỷ, giai điệu mà giới trẻ ngày nay tán dương mới mẻ hóa ra là một giai điệu cũ mèm mà đám già sắp xuống lỗ nghe riết mòn tai.
Một người khách nữ, trông có vẻ là một ký giả, lại quầy mà xin được mời phỏng vấn Thừa Tân.
Anh cười tươi gật đầu, rồi mời đặt nàng ta hỏi.
Câu hỏi đầu tiên như sau:
– Anh nghĩ thế nào về quan điểm người nghe nhạc cũng cần phải “có trình độ” và “học thức”?
– Xin phép được trả lời vòng vo một chút…
– Dạ, xin anh cứ tự nhiên.
– Nhạc sĩ Phạm Duy chưa hề dám phán, “Ai muốn nghe nhạc tôi phải “có trình độ” và “học thức” cao.” Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dù nhận được rất nhiều phê bình tác phẩm trái chiều, cũng không dám hộc ra câu phản bác lời chê bai, “Ai muốn hiểu nhạc tôi phải có khả năng cảm thụ âm nhạc cao và trải đời nhiều.” Tôi biết cái người đặt ra quan điểm ấy là ai, và biết rõ luôn người đó đang thiếu cái gì…
– Dạ, thiếu cái gì?
– Thiếu sự khiêm nhu và “kính trọng khán giả như kính trọng thầy mình”.
– Anh có biết tại sao dòng Nhạc Vàng vẫn còn tồn tại tới thời nay không?
– Theo thiển ý của tôi, chính những ca khúc dễ nhớ, dễ hiểu, dễ thuộc và dễ chế lời đã góp phần làm cho Nhạc Vàng “sống dai”.
Trong khi đó, Nhạc Tiền Chiến phần đông là những tác phẩm có lời bài hát cầu kỳ, giai điệu trúc trắc và đòi hỏi người trình bày phải qua trường lớp mới ca nổi, thành ra nó đã bị dòng Nhạc Vàng “dìm chết”…
– Vậy có bài nào của dòng Nhạc Tiền Chiến mà còn sống tới giờ không anh?
– Có chớ.
“Tía em – Má em” của nhạc sĩ Nam Kỳ rặt – Văn Lương.
Ca – nhạc sĩ Duy Khánh đã từng song ca với vài nữ ca sĩ.
– Có phải là “Tía em là một người nông dân.
Má em là một người nông dân…”
– Nó đó.
– Có người cho rằng ca sĩ miền Nam ít ai ca nổi Opera.
Theo anh, nhận định trên đúng hay là sai?
– Thể loại Opera chưa từng được chào đón ở xứ Nam Kỳ nên chẳng có ai mặn mòi dự vô nó.
Do đó nghệ sĩ Hùng Cường không để tâm học cũng đúng thôi, chứ chưa chắc ông không ca nổi thể loại này; thành ra nhận định trên là sai bét.
Một người khác xen vào:
– Cũng giống như cô bán món đậu hủ thúi trong một khu xóm không biết và cũng hổng thích ăn, cô bán ế rồi phải dẹp tiệm là lẽ đương nhiên.
Tùy theo thị hiếu của thính giả mà mình chọn dòng nhạc thích hợp, mắc giống gì phải ôm khư khư cái bằng được cấp của mình rồi mốt “chết” cùng nó luôn.
Thừa Tân tự ý đổi chủ đề:
– Người hâm mộ ca sĩ có thể chính là nguyên nhân khiến tài năng của họ bị thui chột và sự nghiệp bế tắc.
– Tại sao?
– Khi một ca sĩ bị phê bình hát đớt, hát dở hoặc hát không nghe được chữ nào, thay vì đón nhận lời góp ý, thì nhóm hâm mộ lại lên tiếng mắng chửi và phản bác bằng những câu không liên quan xíu nào như, “Ghen ăn tức ở muôn đời nát”, “Có hát được như người ta không mà chê”, “Ờ, người ta hát như dzậy mà là ca sĩ nổi tiếng”,…!
Ngược lại, khi một ca sĩ trình bày một ca khúc có tiết tấu khó nghe, không mấy bắt tai và lời bài hát thì khó hiểu, thì nhóm hâm mộ lại tự phong bản nhạc này chỉ có dân sành về âm nhạc và “trình độ cao” mới thấm thía được, và đương nhiên đối tượng đó chính là bọn họ!
Cô ký giả đã lấy được những ý cần thiết để viết bài đăng báo nên cất giọng từ tạ anh chủ quán.
Một người khách trạc tuổi Thừa Tân hỏi anh:
– Anh nghĩ có bất công không khi người ta sáng tác một bài hát mà chẳng ai quan tâm đến nguồn gốc sáng tác?
– Chỉ khi nào ca khúc nổi tiếng thì anh hẵng mong được thổ lộ nguyên nhân sáng tác nên nó.
Như nhạc sĩ Lam Phương chẳng hạn, gia tài tác phẩm của bác vô cùng đồ độ, nhưng số bài hát được biết đến và được nhiều người yêu cầu giới thiệu hoàn cảnh sáng tác chỉ chiếm một khoảng nhỏ.
– Tôi muốn anh tặng tôi một ca khúc thật ít người biết của nhạc sĩ Lam Phương.
– Được.
“Tuyết muộn”, sẽ do Ngọc Lan trình bày.
– Nhưng như vậy có bất công đối với những người làm nghề sáng tác không anh? – Người khách lặp lại câu hỏi.
– Bất công gì? Anh đâu thể ép người khác phải thích hay trân trọng tác phẩm của mình.
Cái gì hay và nhân bản thì để càng lâu càng hiển lộng; cái gì tệ lậu và phi nhân thì để càng lâu càng lộ rõ bản chất thối nát.
Tác phẩm của anh cũng vậy thôi.
– Đúng là giai điệu của bài “Tuyết muộn” không mấy đặc sắc, thành ra dù phần lời rất hay cũng không thể giúp nhạc phẩm này thành công được.
– Nhạc sĩ Lê Dinh có sáng tác nào nổi bật không anh? Tôi thấy ông có vẻ “lép vế” so với Anh Bằng và Minh Kỳ.
– À, ông Dinh thiên về dạy nhạc nhiều hơn là sáng tác, nên số lượng tác phẩm không bằng hai anh bạn thiết cũng là lẽ dĩ nhiên.
– Anh có thể nói rõ hơn được không?
– Thường thì…!ba ông phân chia như vầy: Nếu ai lên ý tưởng chính, còn hai người kia lo phần chỉnh sửa lời bài hát và soạn nhạc, thì họ sẽ đề bút hiệu như sau, thí dụ: “Lê Dinh – Phương Trà”, làm như vậy sẽ giúp nổi bật tên tuổi của người khởi xướng ý tưởng và làm cho khán giả hiểu ngầm rằng ông Bằng và ông Kỳ chỉ là “cha đỡ đầu”, không phải “cha đẻ” của ca khúc.
Còn nếu họ ghi bút hiệu đôi, thí dụ như: “Lê Dinh – Minh Kỳ”, “Minh Kỳ – Anh Bằng”,…!tức là nhạc phẩm đó chỉ có sự đồng sáng tác của hai trong ba ông.
Và ba ông còn có một sở thích ngộ nghĩnh như thế này: Hễ bài hát nào mà họ không tự tin vào việc nó sẽ nổi tiếng hay tự cảm thấy nó “xoàng xĩnh” và “xuề xòa” quá, họ sẽ dùng bút hiệu khác để ký tên, thí dụ như: “Phương Trà”, “Mạc Phong Linh”, “Mai Bích Dung”,…
– Đâu, anh cho tôi một bài hát mà ba ông giấu tên đi.
– Người trình bày sẽ là đôi song-ca Duy Khánh – Thanh Huyền.
Ca khúc biểu diễn có tựa đề “Hỏi anh hỏi em” của nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng, trong nhạc phẩm trên ba ông ký tên là “Hoàng Liên – Phạm Mạnh Chí”; bài này Chế Linh – Thanh Tuyền, Thanh Phong – Sơn Ca, Tuấn Vũ – Phượng Mai và Nhật Linh – Giáng Thu song ca cũng rất hay.
Rồi vừa bỏ đĩa than vô máy hát, Thừa Tân vừa cười biểu:
– “Hoa Linh Bảo” là bút hiệu của nhạc sĩ Lê Mộng Bảo.
Hồi trước tôi nhầm lẫn rằng đây là một trong những bút hiệu của nhóm Lê Dinh – Minh Kỳ – Anh Bằng.
– Tại ba vị này đặt nhiều bút hiệu quá nên anh bị “hột vịt lộn” phải hôn?
– Ờ.
– Nhưng mà cho tôi một ca khúc của nhạc sĩ Lê Dinh đi chứ?
– Được.
– Bài hát này sẽ do đôi song-ca Trung Chỉnh – Hoàng Oanh trình bày, tựa đề của nó là “Cỏ hoa”.
Nhận được cuộc gọi của pháp y Cảnh, Kha Ngạn lật đật trở về nhà xác đặng xem kết quả khám nghiệm của cái xác bị phân thây ở lò heo hôm bữa.
Ngoài chuyện tản mạn về âm nhạc, chủ quán chẳng có nói đến ai hay chủ đề nào khác.
Tên điên kia cũng không thấy đâu.
– Được.
“Trước ngày đi” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh và sẽ do Minh Hiếu ca.
Độ rày nhiều khách lạ ghé quán anh quá, không biết trong số đó có bao nhiêu cảnh sát chìm và ký giả.
Cậu nhân viên mới vô làm mời Thừa Tân uống thử nước trà dâu cậu làm.
– Hơi lạt.
Rất vừa miệng tôi, nhưng với những người hảo ngọt thì nên nêm thêm đường một xíu.
– Dạ.
Em ghét uống ngọt nên không biết cách pha vừa miệng mấy người hảo ngọt.
Rồi cậu nhân viên tủm tỉm cười:
– Riết em thấy anh như “nhà nghiên cứu âm nhạc”, gì đâu mà hỏi liên tu bất tận luôn.
– Quan điểm cá nhân chứ nghiên cứu âm nhạc gì mậy? – Thừa Tân phì cười mà khỏ đầu thằng em nhỏ.
Một người khách mặc áo sơ-mi kẻ ca-rô lên tiếng:
– Kiếm chủ đề gì nói đi Tân.
Tao buồn tai quá.
– Để uống nước cái đã cha.
Sau một hồi đắn đo suy nghĩ, Thừa Tân đã chọn được chủ đề:
– Sau năm 75, các nhạc sĩ mất đi những người bạn hòa âm phối khí tuyệt hay, thành ra số tác phẩm thành công chỉ đếm trên đầu ngón tay hoặc thường dựa vào các tình khúc nhạc ngoại lời Việt.
Thí dụ như Nghiêm Phú Phi, Nghiêm Phú Đạt, Lê Văn Chấn, Lê Văn Thiện, Võ Đức Thu, Hùng Lân, Hoàng Trọng, Duy Cường, Văn Phụng, Văn Khôi,…
Thế hệ tiên phong qua được hải ngoại có Duy Cường, Văn Phụng, Lữ Liên và Lê Văn Thiện.
Thế hệ tiếp nối là Trúc Hồ, Anh Tài và Tùng Châu.
Anh sáng tác ra một bài hát hay chưa đủ, anh cần phải có sự giúp sức của ban nhạc và “người chỉ huy” giỏi hòa âm phối khí.
Như vậy hãy còn chưa đủ, anh lại cần một giọng ca phù hợp với giai điệu của bài hát đó nữa.
Người khách ấy bình phẩm;
– Giống như Hoàng Trọng phải không?
Thừa Tân gật đầu:
– Cái hay của ông Hoàng Trọng là dẫu bài hát đó có giai điệu dở như hạch, qua bàn tay tài hoa của ông, nó vẫn biến thành một tác phẩm đặc sắc và đáng nhớ.
Thành ra nhiều nhạc sĩ ngày xưa viết thể điệu Tango cho ca khúc thường nhờ ông hòa âm phối khí lại giùm.
Không có một nhạc viện nào có thể giúp anh “sở hữu” được khả năng thiên bẩm về hòa âm phối khí như ông Trọng.
Cho nên, người ta xưng tụng ông là “Ông hoàng Tango” cũng không có gì là quá lời.
– Còn sửa lời giùm là phải cậy đến nhạc sĩ Hoài Linh?
– Ừ.
Trước lúc chia tay thằng bạn thiết, người khách mặc áo sơ-mi kẻ ca-rô khẽ nói:
– Mày có ca khúc thuộc thể loại Chiêu Hồi nào mà ít người biết không?
– “Mẹ Việt Nam ơi, chúng con vẫn còn đây” do nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 phổ từ thơ của thi sĩ Hoàng Phong Linh, chỉ có cô Thái Thanh trình bày là đúng lời gốc nhứt.
– Cảm ơn mày.
Để tao về tìm nghe.
Đang vào mùa mưa nên thời tiết biến đổi mau cấp kỳ, mới thấy trời nắng đó mà thoắt cái đã chuyển sang mưa tối đất tối trời.
Khách mới không vô, khách cũ thì nấn ná đụt mưa, đâm ra bữa nay anh bị lỗ sặc gạch.
– Mấy đứa…
– Dạ?
– Bữa nay ế quá nên nghỉ sớm.
Ai có đói bụng thì kiếm cái gì ăn đi, tao bao.
Vậy là đám nhân viên bèn kéo nhau ra mua ủng hộ những gánh hàng rong của bà con đang bán nhờ nơi khu đất trống của quán cà-phê.
Thấy bà con dầm mưa dãi nắng nên hay cảm mạo, anh chủ quán thương tình mà bỏ tiền túi ra thuê người làm mái che có lỗ thông gió và gắn mấy cây quạt trần.
– Chú.
– Chi vậy con?
Quỳnh Như bĩu môi, rồi lay lay tay ông chú lớn hơn nhỏ hai mươi mấy tuổi.
– Muốn dẫn tôi đi đâu?
– Ra coi cái xe con mới được cho đi.
Vừa lau cái máy Akai, Thừa Tân vừa nói:
– Con đợi chú lau máy cái nghen?
Quỳnh Như phụng phịu mà “Dạ” một tiếng yếu xìu.
Chừng trời ngớt mưa, Thừa Tân mới theo chân cô nữ sinh ra sân trước coi xe.
– Chiếc Mobylette của hãng “Motobécane” thuộc dòng AV54 có màu cam Cali.
Thừa Tân phì cười:
– Sao lại là màu cam Cali?
– Tại cam bên mình ít có vỏ màu vàng mật nên em ví với màu cam Cali cho chú dễ mường tượng.
– Có yếm luôn hả em?
Quỳnh Như gật đầu.
Rồi phồng mũi hãnh diện mà nói:
– Gần ba ngàn Mỹ kim.
Thừa Tân nhún vai.
Anh nào hiểu nổi cách xài tiền của giới nhà giàu.
– Thôi, để chú dắt xe xuống nhà sau, khóa cửa kỹ lưỡng, rồi hai đứa mình vi vu vài vòng hén?
Quỳnh Như cười híp cả mắt.
– Con không được ngồi xe hơi đâu.
Xe chú tới kỳ bảo trì nên phải mất hai ngày nữa mới đem về được.
– Vậy mình ngồi xe gì?
– Xe Honda phân khối lớn.
Cũng may con có nón bảo hộ sẵn.
Không tụi nó phạt chú chết.
Do Quỳnh Như phải tới nhà bạn ôn thi nên hai chú cháu phải khởi hành sớm.
Mong rằng mấy thằng ôn dịch không quậy banh cái quán nhỏ xíu của chú.
Chiếc xe gắn máy phân khối lớn đưa hai chú – cháu qua Quận Thủ Đức.
Con đường thành đô bỗng hóa thành biển cả, với những chiếc xe đủ loại và kích cỡ lướt trên đó.
Chiếc xe của Thừa Tân chật vật giành từng tấc đường với những chiếc xe khác; tiếng kèn xe vang lên inh ỏi, đôi lúc văng vẳng giọng chửi thề của ai đó vì bị tranh đường hoặc bị va quẹt xe.
Đèn giao thông lắp đặt không hợp lý cũng là nguyên nhân khiến cho nạn kẹt xe thêm nặng; thay vì đèn xanh chỉ cho xe của hai làn ngược đường khác hướng chạy thẳng hoặc quẹo trái – quẹo phải, thì đèn xanh lại cho xe vừa có thể chạy thẳng vừa có thể quẹo trái hoặc phải, vậy là bên kia đổ qua bên đây, bên đây nhào sang bên kia, không ai chịu nhường ai bởi cái cớ đèn này tôi được quyền chạy theo ý muốn của mình.
Giữa bầu không khí tạp nham hơi người thơm – thúi, Quỳnh Như vui vẻ hát bài “Tuổi mộng mơ” của nhạc sĩ Phạm Duy:
“…!Em ước mơ, mơ gì, tuổi mười lăm – tuổi mười sáu?
Em ước mơ không nhiều, xin một điều yêu dấu
Không ước mơ xa xôi, chỉ ước mơ nên Người
Cô gái yêu Nước Việt bước chân theo giống nòi…”
– Bài này tôi chỉ ưng mỗi giọng Thái Hiền lúc bà còn nhỏ.
– Tại sao?
– Người đã đứng tuổi và nếm mùi đời rồi ca không còn nét hồn nhiên và vô tư lự nữa.
Nghe nó gượng gạo sao đó…
Quỳnh Như mời ông chú nghe bài hát yêu thích của mình.
Thừa Tân nhận xét:
– Sáng tác một bài hát là phải làm các câu liên kết với nhau.
Thí dụ như đang nói về đôi lứa chia lìa, tự nhiên chen vô hình ảnh đoàn tàu một cách lãng giang, sẽ khiến nội dung nhạc phẩm trớt quớt liền.
Cho nên nhiều bài thời nay phần nhạc và trình bày rất khá, nhưng bị phần lời phá hỏng hết.
Nhạc sĩ Phạm Duy có bài “Thương tình ca” bị chê ở câu “Đừng cho không gian đụng thời gian”.
Những người phê bình cho rằng câu này vô nghĩa và cụ đã bị thất bại khi cố gắng viết theo lối “Phân tâm học”.
– Mà cũng ngộ chú hén, hồi xưa chê Bolero ủy mị, ướt át, giờ một lô một lốc bài hát lụy tình, ảo não.
– Chung quy, hầu như ai đã dính vô nghiệp sáng tác đều phải sống nhờ đề tài Tình Yêu.
Ba cái nội dung phục vụ chính trị không những chết yểu, mà về sau còn bị người ta đào lên để cười vô mặt nữa.
– Í, í, í…
Xém chút nữa là chiếc xe của Thừa Tân lủi vô đí* cái xe tải bất thần thắng gấp.
Hai chú cháu được một phen đau tim muốn chết.
– Chị của em…
– Dạ?
– Có từng đi nhà thương điên chưa?
– Hình như…!mấy lần rồi…!Sao vậy chú?
– Tôi thấy…!nên cho điều trị định kỳ, chứ khùng dữ lắm rồi đó.
Vì tim rất mệt nên Thừa Tân dẫn cô nhỏ tắp vô vỉa hè ăn bò bía và uống đậu xanh rau má.
Quỳnh Như giờ mới hay sức khỏe tâm thần của ông chú không mấy tốt, tự nhiên nhỏ thấy tội nghiệp ông chú người dưng khôn cùng.
– Ăn gì nữa hôn?
– Con ăn chú buồn hay vui?
– “Biết nói lời gì.”
– Hả?
– Thôi muốn ăn gì thì ăn đi.
Vậy là Quỳnh Như kêu thêm bột chiên và bánh hẹ.
Rồi cô nhỏ hỏi:
– Chú, chú thấy ca khúc này có hay không?
– Cái này là bài hát hay bài đọc vậy? Để tôi nghe hết bài cái đã rồi sẽ ca lại cho em nghe.
Quỳnh Như bĩu môi:
– Chứ chẳng lẽ dòng nhạc xưa không có bài nào ngang chàng sao?
– Tôi mời em ca thử bài “Đi về phía mặt trời” của nhạc sĩ Anh Việt Thu.
Ngang chàng đó, nhưng phải giọng cỡ Duy Khánh hay Hoàng Oanh mới hát nổi.
– Bài đó sao chú?
– Bài hát này là lời trối trăn mà ông Sang để lại cho trần thế.
Nội dung trong ca khúc như ghi lại một đoạn “hồi quang phản chiếu” trước khi chết của ông; trong cơn mê man hấp hối, ông thấy mình trở lại thời thơ ấu nơi miền An Giang tươi đẹp, tại đây ông đã có biết bao kỷ niệm với bạn bè và phong cảnh cố hương…
Dây dưa đến hơn hai tiếng sau, hai chú – cháu mới tới được ngôi nhà cổ ấy.
Bước qua cánh cổng sắt chạm trổ bức “Long – Phụng hòa minh” thếp vàng, Thừa Tân theo chân con nhỏ vô phòng khách.
Nơi đây được trang hoàng theo kiểu nhà Hội Đồng xứ Nam Kỳ, với vật liệu chủ yếu là gỗ tốt và gạch nung.
Sàn nhà lót gạch bông, tường nhà quét sơn trắng ngần, còn trần nhà không đóng la-phông mà để lộ cốt dầm.
Gian phòng khách hướng ra mảnh sân trước lót gạch không trơn; trong sân trồng vài bụi duối, mấy cây cau kiểng và bày chục chậu kiểng được cắt tỉa rất công phu.
Cái sập gụ kê dựa vách phải, đối diện với cái ghế nghi có chiều dài hơn một mét rưỡi.
Nằm trước án thờ là bộ trường kỷ bằng cây cẩm lai “đầu lân – chân móng” chạm trổ Nho – Sóc; có lẽ do được lau chùi mỗi ngày nên nước sơn của nó bóng loáng và bề mặt hết sức trơn láng, mát lạnh, không vương một miếng bụi nào.
Chính giữa vách trái đặt một cái bàn bán nguyệt, mỗi bên có một cái ghế dựa lưng; cả ba đều làm từ gõ mật, lót bên trên mặt đồng-dạng một loại đá non nước và chạm trổ cùng tích “Mẫu đơn – Công”.
Về phần án thờ, ngoài cái tủ thờ đóng bằng cây trắc bề thế và hai cái ghế nghi ra, còn có đôi liễn giáng hương treo vách, trên mỗi tấm liễn đề một câu đối về cách hành xử ở đời; phía trên tủ thờ, đằng trước để một cái bát hương thuộc dạng gốm Pháp Lam, tiếp nữa bày một bộ lư mắt tre và hai cây đèn bằng đồng nguyên chất, kế đó là một chiếc độc bình cũng bằng men sứ Pháp Lam, và sau rốt là ảnh thờ của người trong gia tộc – riêng ảnh Chư Phật và Bồ-Tát thì đặt ở trên cái bệ cao, gia chủ còn biểu thợ làm ảnh động và gắn đèn chiếu tạo ánh hào quang.
Nhằm làm tăng thêm nét hoài cổ, gia chủ đã cất công tìm những thợ giỏi để vẽ tranh kiếng treo tường, cũng như đặt làm những tấm màn – tấm sáo kiểu xưa.
– Con Tiểu Uyên nó còn ngủ, con đợi xíu nghen?
Quỳnh Như cúi đầu dạ nhỏ, rồi xin phép ông thương gia họ Vương cho mình được dẫn chú đi thăm vườn.
Ông Vương Tinh Vũ nói xong, bỏ ra hông nhà cắt tỉa cây kiểng tiếp.
Những chậu bonsai được tạo hình mười hai con giáp rất công phu và sống động.
Ngoài ra, ông còn trồng một cây mai tứ quý và một cây bạch mai; giữa hai gốc cây ông giăng một cái võng bản rộng để nằm chơi, đối diện với cái võng là bộ bàn ghế đẽo từ gốc cây trò chỉ đủ chỗ cho mười hai người ngồi.
– Phụ thân của bác Vương lấy từ câu “Tinh hà dục chuyển thiên phàm vũ” của ông nào tên Lý Thanh Chiếu sống ở thời nhà Tống.
Bữa hổm bác có giải thích cho em hiểu mà em quên phứt rồi.
Thừa Tân sợ làm bể mấy món đồ cổ nên ngồi xếp ve trên trường kỷ, vô tình anh nhìn thấy cuốn sách “Thú chơi sách” của học giả Vương Hồng Sển nằm bẹt ra như hình cánh chim trên mặt ghế.
Đọc cuốn “Thú chơi sách” mà giữ sách như vầy sao Trời?
– Bác tính đặt cho nó cái tên thiệt là kêu, nhưng bác gái chê rườm rà, nên chốt hạ tên nó là “Đỗ Uyên”.
– Sao không đặt “Đỗ Quyên” cho thuận miệng?
– Vì chữ “Quyên” có thể ghép với chữ “Sinh” nên hai bác né.
– Trời!
– Nhưng tụi em quen miệng toàn kêu nó là “Quyên”.
Vương Tinh Vũ biểu người ở dọn bàn ăn đãi khách.
Vì mối lái và bạn bè rất đông nên trong nhà ông lúc nào cũng chuẩn bị sẵn nguyên liệu nấu lẩu cù lao, hoành thánh, sủi cảo, xíu mại,…!cùng một số đồ nướng khác.
Mặc cho Thừa Tân rối rít từ chối do đã no bụng rồi, ông vẫn nài ăn vài miếng chơi cho ông vui.
Vậy là hai chú cháu xuống sân sau nhập tiệc.
– Chú có số hưởng thiệt.
Thừa Tân chỉ biết cười trừ, rồi tiếp tục phụ bà giúp việc sửa soạn bàn ăn.
Vương Tinh Vũ vừa cời lửa cho cái bếp than vừa hỏi:
– Con trai của tôi có lần ghé quán cà-phê “Sóng Nhạc” nên biết cậu…!Cậu có bán đĩa than hay máy hát không?
– Tôi không có buôn bán thứ này, nhưng có thể giúp ông đây mua được máy tốt về xài.
Đứng tán dóc một hồi mới thấy mặt mũi của Đỗ Uyên.
Hình như con nhỏ mới khóc xong, mặt mũi phờ phạc thấy mà tội.
– Sao mày khóc suốt vậy Uyên? Có chuyện thì phải nói dza cho ba má mày hay chớ?
Đỗ Uyên gượng cười biểu:
– Con hổng có sao mà ba.
oOo
Những tháng cuối năm ế đơn đặt hàng nên mợ Hai phải đóng cửa sớm.
Khách hàng ngày một giảm, mà lương nhân viên phải tăng đặng cho tụi nó có đường sống, nên hai má con họ Trần rầu rĩ khôn xiết.
Cũng may bà còn có ông ghệ triệu phú đỡ đầu, chứ nếu không thì chắc bà phải sang tiệm mất.
Hồi xưa bán đắt không có thời giờ coi một bộ phim yêu thích, giờ đây rảnh rang lại xem không vô vì lo lắng chuyện bán buôn ế ẩm.
Hết chỗ này giựt hụi, rồi đến chỗ kia trốn nợ, thêm nạn doanh nghiệp phá sản nên công nhân thất nghiệp, lại tới vụ lùm xùm của hàng loạt nhà băng và giới thương mại, cộng thêm hàng nông sản bị con ma nhà họ Hứa chơi xỏ.
– Má đi ngủ trước nghen Hai.
Chú Thương vừa lấy kéo cắt bịch kem chuối vừa hỏi:
– Má hổng làm kem chuối hả?
– Ờ há…!Má quên.
Đang thời buổi khó khăn mà mất thêm mối này chắc nghỉ bán luôn.
Nói đoạn, mợ Hai hớt hải lại gần tủ lạnh mà lấy nguyên liệu chế biến kem chuối ra.
Chuối này bà đặt hàng dưới quê nên rất bảo đảm phẩm chất, duy chỉ có điều vì vườn này không xài phân thuốc nên buồng chuối khá so-le về hình dạng.
Đang xắt chuối thành từng lát mỏng, chợt nhạc chuông Viber trong Laptop reo lên.
Mợ Hai liền ngừng tay và day qua nhấp chuột để mở cuộc gọi theo định dạng “Video Call”.
– Ủa hổng đi làm hả cha nội?
– Chủ Nhựt mà thím.
Độ rày buôn bán sao, cần tui cứu bồ không?
Mợ Hai ngượng ngùng:
– Thôi, tui hổng mượn tiền ông nữa đâu.
– Bà đâu phải Thúy Kiều đâu mà bày đặt mắc cỡ…!Ê, ê, ê, ngộ giỡn xíu mà, lị đừng có tắt máy chớ.
Mợ Hai vùng vằng ngồi xuống.
Rồi trề môi hỏi:
– Bên đây te tua xơ mướp, bên ông sao?
– Tiền công một giờ đã lên tới mười lăm đồng, phần đông hàng hóa và dịch vụ tăng giá, giá nhiên liệu giảm được đôi chút.
Chuỗi siêu thị cộng tác với tập đoàn tôi đã không còn miễn thuế cho quầy thu ngân tự tính nữa.
Mợ Hai gục gặc đầu ra chiều đã hiểu.
Những lát chuối chất cao dần theo nhịp dao của bà, chẳng mấy chốc mà cái rổ bự chảng đã đầy vun.
Ngồi bên cạnh bà, cậu Hai nhà họ Trần đang lặt rau bồ ngót để trưa mai nấu canh ăn giải nhiệt.
– Tôi có từng ghé qua một trang mạng do người Việt bên Việt Nam sáng lập, họ đăng một video và ghi tiêu đề với đại ý nói nạn phân biệt chủng tộc ở Mỹ, trong video đó quay cảnh một người vô gia cư da đen chưa kịp ngồi xuống ghế thì bị một người gốc Á kéo ghế khiến cho té nhào.
Nhưng sự thật thì không phải vậy.
Chẳng có thù oán hay ghét bỏ gì sất.
Người gốc Á này là một Youtuber chuyên dựng clip “Nếu…!Thì…”, tức là “Nếu tôi làm vậy thì mọi người sẽ phản ứng ra sao”, để kiếm tiền và danh tiếng cho bản thân.
Trong video đó, anh ta bước vô đại một quán ăn và rình coi vị khách nào sắp sửa ngồi xuống thì kéo ghế cho té rồi bỏ chạy; thành thử mới có cảnh trên.
Sau khi biết được người mình vừa ghẹo là một người vô gia cư đang trầm cảm nặng, anh ta đã quay lại xin lỗi rối rít và biếu một khoản tiền bồi thường thiệt hại tinh thần cho người đó, nội ngay sau cảnh quay ấy luôn chứ không chần chờ thêm phút nào nữa.
Bên trang mạng đăng lại đã cố tình cắt bỏ khúc sau, chỉ chừa khúc đầu để xuyên tạc nội dung video gốc.
Mợ Hai thắc mắc:
– Sao cái cậu đó lại chọn người vô gia cư này?
– Tại vì anh ta thấy người vô gia cư này ăn bận tử tế, sạch sẽ thì tưởng lầm là nhân viên trong tòa nhà gần đó tới đây ăn trưa nên mới chọn người này.
Khách mời mà anh ta nhắm tới là nam giới mạnh khỏe và chưng diện bảnh bao, thành ra lần này anh ta mới bị huốt.
Tui thấy sự hả hê một cách mù quáng của rất nhiều người trẻ tuổi thì vô cùng kinh hãi.
Họ để mặc sự thù ghét dắt mũi họ đi như một con bò.
Ngoài ra, còn một đám người ưa ru ngủ bản thân rằng ở đâu cũng tệ như nhau nên những bất công mình đang hứng chịu là có thể chấp nhận được và không đáng gì.
Mợ Hai cười buồn:
– Bởi vậy tui làm biếng coi mấy cái trang nổi tiếng và nhiều lượt theo dõi trong Nước.
Có trang đăng video công an đánh người mà lại viết tiêu đề rằng, “Người mặc cảnh phục có dấu hiệu tác động vật lý lên thân thể thanh niên vi phạm luật Giao Thông.”
Vệ Thu che miệng cười ngặt nghẽo.
Trước khi trò chuyện tiếp, ông uống một ngụm cà-phê đen đá
– May phước tui biết tiếng Anh nên đã tìm ra video gốc, chứ nếu không cũng trở thành một con bò rồi.
– Ở bên đó có chuyện gì ngộ với cộng đồng người Việt không ông?
– Không hiểu sao một số người gốc miền Trung và miền Bắc lại giả giọng miền Tây và còn tự xưng mình quê quán trong Nam nữa.
– Ủa? Sao tui nghe nhiều đứa trẻ thời nay hay chê miền Tây thất học, mà sao mấy người đó lại mạo nhận mình là người trong Nam?
– Ai biết đâu.
Ông quê Đà Nẵng thì nói mình là người Cần Thơ.
Tới chừng tui hỏi ở bến Ninh Kiều có gì vui và đặc sản không, thì ú ú ớ ớ lái qua chuyện khác.
Xong phần xắt chuối, mợ Hai chuyển sang quậy bột.
Chú Thương vẫn chưa lặt rau xong, vì chú vừa làm vừa nhắn tin với bạn.
– Ông nè…
– Hửm?
– Ông nghĩ sao về chuyện gọi Russia là Nga La Tư hay Singapore là Tân Gia Ba? Có nhiều ý kiến cho rằng kêu dzậy là bắt chước Tàu hoặc sính Tàu.
– Vậy chắc “Thái Lan”, “Đài Loan”, “Hồng Kông”, “Hàn Quốc”, “Triều Tiên”,…!là tiếng Tàu rặt há?
– Đó là chữ Hán – Việt.
Tàu ở đâu ra mà Tàu.
– Cho nên xài mấy cái danh từ như “Hoa Kỳ”, “Mễ Tây Cơ”, “Phi Luật Tân”,…!đâu phải là sính Tàu.
Tiếng Việt mình có “chữ mượn”, chữ Hán – Việt, chữ Nôm,…!nhờ có kho tàng ngôn ngữ hết sức phong phú mà nền Văn chương – Âm nhạc của chúng ta có biết bao nhiêu tác phẩm đặc sắc và giàu nhịp điệu.
– “Chữ mượn” là sao?
– Là những chữ hay những thứ mình không có nên phải đi xài chữ của người ta.
Thí dụ như: “Café” thành “Cà-phê”, “Chocolat” thành “Sô-cô-la”, “Banque” thành “Nhà băng”, “Bière” thành “Bia”,…!
– Còn tiếng Tàu rặt thì sao??
– Ở các trang nói về C-biz đầy dẫy.
– Thay vì nói, “Diễn viên này “bạo hồng” lắm”; sao không đổi sang câu gần tương tự như: “Diễn viên này đang lên hương/nổi tiếng/phất…” Thay vì nói, “Diễn viên này có “lưu lượng” lớn lắm; sao không trình bày theo kiểu bên mình, “Diễn viên này có chỗ dựa/công-ty chống lưng/gốc…” Thay vì nói, “Diễn viên này “đài từ” không rõ; sao không biểu, “Diễn viên này phát âm không rõ…”
Ngoài ra, thay vì nói “quan hệ”, nên sửa thành “giao thiệp” hoặc “quen biết” thì sẽ chính xác và đúng nghĩa hơn.
Mợ Hai gật đầu.
Rồi quay qua la thằng con ham tán dóc vì chưa lặt rau xong.
Nhìn hai má con cự nự với nhau mà Vệ Thu mắc cười gần chết.
– Chính vì không hiểu rõ chữ Hán – Việt nên mới có chuyện lấy câu “Tọa sơn quan hổ đấu” ra bình luận túc cầu.
Đã vậy thằng cha phát biểu còn nói trật thành “Tọa sơn con hổ đấu”.
“Tọa sơn quan hổ đấu” là một kế sách dùng trong binh pháp và thương trường.
Tức là nước A khiến nước B và nước C động binh với nhau rồi đợi chừng nào hai nước này suy kiệt sẽ đem quân qua đánh chiếm cả hai.
Còn thương trường cũng tương tự vậy, thời nay thiếu cha gì thí dụ cụ thể, không cần tui nói bà cũng thấy trước mắt rồi.
– Vậy lấy tích “Trai – Cò đánh nhau, Ngư ông đắc lợi” cho rồi.
– Thì câu nào mình rõ nghĩa thì mình xài.
Mắc giống gì phải lấy câu “phức tạp” để khiến người ta cười lên đầu mình.
Rốt cuộc mợ Hai phải lặt rau phụ thằng con.
Dòm nó chướng mắt một hồi chắc ói máu chết.
– Còn nữa, thêm cái tật thích xài từ “Tư bản chống lưng”.
Tôi dám chắc hơn phân nửa số người nhắc đến nhóm chữ trên không hề hiểu “Tư bản” nghĩa là gì, cũng như trong tâm khảm luôn có thành kiến và ác ý với nó.
Nói “bình dân học vụ” như bên mình không được sao? Tức là: “Cô/Cậu này có chỗ chống lưng/nhà đầu tư lớn lắm.”
Vệ Thương vừa mở cửa tủ lạnh vừa hỏi:
– “Phong sát” thì sao baba?
– Thì cứ nói, “Cô/Cậu này bị cấm thực hiện các hoạt động liên quan tới Văn hóa – Nghệ thuật và xuất hiện trên đài truyền thông.” Mắc giống ôn gì phải ôm khư khư hai chữ “Phong sát” của bên Tàu?
Ăn uống gì chưa hả Út?
Út Thương cười khoe hàm răng mới đi cạo vôi:
– Ăn rồi.
– Đừng có ăn ba cái đồ chiên xào ở mấy tiệm bán đồ ăn liền nghen?
Út Thương sợ bị ba la rầy nhì nhằng nên ba chân bốn cẳng lại lên lầu một hơi thẳng cổ.
– Cái thằng…!Ỷ chân dài như con chàng hiu…
– Còn ông chân ngắn như con chàng bè.
– Chấp bà mang guốc cao tới vai tui.
Mợ Hai đổ quạu nên quay qua lấy thằng con ra làm thớt:
– Sao mày hổng khuấy bột làm kem đi, còn ngồi chàng ràng ở đó nữa?
– Con đâu có ngồi chàng ràng, con ngồi chàng hảng mà.
Vệ Thu lên tiếng dàn hòa.
Công nhận tánh nết hai má con nhà này hệt khuôn nhau, nếu chỉ nghe tiếng mà không thấy mặt thì dám tưởng lầm rằng họ là đôi bạn thân thiết.
Rồi ông đặt một thí dụ;
– “Ông đốn củi đi đốn củi” hay “Ông tiều phu đi đốn củi”?
– Vế sau rõ nghĩa hơn, bác Ba.
– Đôi lúc phải sử dụng Hán – Việt để làm câu không bị rối.
Trần Kim Thương chỉnh webcam để người yêu của má thấy rõ thau bột hơn.
Muốn kem chuối ngon hơn thì phải rắc nhiều đậu phộng rang đã đâm kỹ và không được bỏ chuối quá keo; ngoài ra không được lạm dụng đường và nước cốt dừa, nhằm tránh thực khách ăn mau chán.
Bác Ba khen anh khéo tay, và hẹn rằng sau này sẽ mời anh tỉ thí với cậu Ba nhà mình.
– Thí dụ, cái này tôi thí dụ thôi nghen, cách đọc của “Volant” là “Vô-lăng”, nhưng dịch sang tiếng Việt là “Bánh lái”.
Một bên phát âm và một bên là chuyển ngữ.
Bởi vì không nắm được nghĩa của “Phát âm” và “Chuyển ngữ” nên mới có sự ngộ nhận những cái tên địa danh nước ngoài dịch sang Hán – Việt là bắt chước Tàu, cũng như ghi cách đọc các quốc gia rất điếc con ráy.
– “Rich kid”, sao không nói là “Con nhà giàu”? – Chú Thương thêm vô.
Vệ Thu gật đầu để thể hiện sự đồng tình.
Rồi ông bổ sung:
– Như “Tấm bạt” là đọc trại từ chữ Pháp “Bâche” đó thôi.
– Ông nghĩ sao về việc một số người trong giới trẻ mang tư duy sùng bái thần tượng và không để tâm tới hiện tình chánh trị?
– Hổng nghĩ gì hết.
Đó là quan điểm sống của tụi nó.
– Ông không thấy…
– Bà nè.
Dẫu bà có đưa chìa khóa két sắt của bà cho tụi nó đi chăng nữa, tụi nó cũng chỉ biết cười khẩy và chửi bà xạo ke.
Cũng vậy thôi, đứa nào khôn đứa đó sống, đứa nào thích làm “Ba con Khỉ” thì chết ráng chịu; không nên phí lời với những cái lỗ tai cây và cái đầu trốn lánh hiện thực.
Mợ Hai đi phà trà trong hộp mà Vệ Thu gởi cho.
Kể từ ngày uống gói “Cold and Flu time”, bà không còn bị cảm mạo, sáng ngủ dậy thấy trong người khỏe khoắn và tươi tỉnh hơn nhiều.
Còn cái gói “Detox” thì một tuần bà uống ba lần, chứ không uống đều đặn như cái gói có tác dụng phòng cảm mạo.
– Nhà hàng Việt bên Mỹ ít có chỗ ngon, bà biết tại sao không?
– Vì những người mở quán phần đông là người có tiền nhưng không giỏi nấu ăn, mà đầu bếp họ mướn cũng chỉ là tay ngang nên hương vị không đặc sắc và còn bị lờ lợ nữa, cộng thêm với việc họ bán cho đa sắc tộc nên phải giảm bớt đồ nêm và thay thế bằng nguyên liệu khác, thành ra món Việt không còn đúng món Việt.
– Chừng nào ông về?
– Để coi tình hình bên đây sao…!Mối này là mối sòng bài nên chi li dữ lắm.
– Ông nè.
– Ông thấy thằng nào được?
Vệ Thu cau mày trầm tư một đỗi, rồi ngại ngần giơ hai ngón tay.
Mợ Hai tinh ý nên hiểu số Hai ở đây ám chỉ thằng Út chứ không phải thằng trưởng.
– Một chai nước tương chỉ nên có bốn thành phần “Nước, muối, đậu nành và acid benzoic”.
Đằng này bà lại xài chai nước tương gì đâu có cả chất bảo quản, chất điều vị, chất tạo hương, chất này chất nọ chất kia…!ăn vậy riết bịnh bậy chết.
– Mà cái a-xít gì ông nói có độc không?
– Có…!Nhưng giữa một chai có đủ thứ hóa chất và một chai chỉ có một loại hóa chất thì bà chọn cái nào?
– Cái ít nhứt.
Vệ Thu khoe rằng tập đoàn mình sẽ bán các loại máy móc nông nghiệp.
Nghe vậy, mợ Hai mới hỏi ông bán suông hay là phải mua bản quyền sáng chế.
– Có.
Tui mua bản quyền sáng chế của người ta rồi, không người ta kiện tanh banh.
– Ông còn chuyện gì là lạ không? Tui ít được đi đâu nên ham nghe lắm.
– Sau thảm họa đêm Halloween, dường như những lãnh đạo của các tập đoàn bên Đại Hàn đã thay đổi một số chính sách liên quan tới việc tổ chức sự kiện.
Thằng cháu tôi đi máy bay hãng “Korean Air” đã nhận thấy rất nhiều sự thay đổi của hãng này: Đầu tiên, thay vì cho các hành khách ở khoang Phổ Thông xếp hàng lẫn lộn, tức là ai kiểm tra vé máy bay và sổ thông hành xong rồi thì được kéo hành lý lên trển, không phân biệt họ ở “Zone” nào; thì nay họ bắt các hành khách ấy phải sắp hàng theo từng vùng, khi nào vùng Một lên hết thì vùng Hai mới được bước vô sắp hàng để lên máy bay, xong vùng Hai thì vùng Ba mới tới lượt.
Thứ hai: Sau khi chuyến bay hạ cánh, họ cử những nam chiêu đãi viên đứng chặn ở cửa thông với các vùng; chừng nào hành khách ở vùng trên ra hết thì mới tới lượt vùng thứ hai và áp chót; hành khách cũng không còn cảnh chen lấn nhau như trước nữa, ai ngồi ở băng gần cửa thì xách hành lý ra trước, người ngồi xa thì chịu khó đợi tới lượt mình.
Mợ Hai chống cằm tư lự:
– Tui ít đi nước ngoài nên không biết độ rày thủ tục lấy vé ra sao.
– Nhân viên in vé máy bay bên mình yêu cầu hành khách đến Mỹ phải xuất trình thẻ xanh, sổ thông hành Hoa Kỳ hoặc các giấy tờ chứng nhận mình tới đây một cách hợp pháp.
Xong xuôi hết rồi, vẫn chưa yên đâu, qua tới hải quan Đại Hàn, họ lại hỏi mình tương tự vậy; sau khi xác thực mình nói thật, họ sẽ dán con tem ở bìa sau của cuốn sổ, ai có con tem này mới được lên máy bay đến Mỹ, còn không thì trở về cố hương luôn.
Thành ra nhiều khứa nói, “Không thích thì cút sang Mỹ sống.” Dễ đi được là người ta đi tám đời vương rồi, không cần mấy khứa đó lên tiếng biểu đâu.
Mợ Hai buông xuống một tiếng thở dài.
– Vì Việt Nam sang Đại Hàn du lịch rồi bỏ trốn nhiều quá nên những ai cầm sổ thông hành Nước mình qua đây du lịch sẽ bị cảnh sát hỏi và kiểm tra an ninh rất kỹ.
Thậm chí, để phục vụ cho việc hỏi cung những ai mà họ nghi ngờ có ý đồ bỏ trốn, họ cho người Việt Nam vô làm trong khu vực an ninh luôn; hồi trước đâu có vậy, bắt đầu từ cái ngày “trăm trứng” xuôi dòng Mekong lạc sang Jeju mới xảy ra cơ sự này.
Thằng cháu tui đưa cuốn sổ thông hành có đóng con tem đến Mỹ, thái độ của cảnh sát khác liền, họ chỉ kiểm tra qua loa và không đòi hỏi phải cởi áo khoác, tháo giày, bỏ thắt lưng cùng các thiết bị điện tử lặt vặt khác rồi để lên khay đựng nhằm kiểm tra qua máy quét như những hành khách Việt Nam qua nước họ du lịch.
Nó tức gần chết.
Nó là người Việt Nam mà phải mượn danh Hoa Kỳ để được người ta coi trọng.
Mấy cái đứa “Tự hào quá Việt Nam ơi” chắc ít đi qua ngoại quốc nên đâu có thấy cái cảnh người dân xứ mình bị xứ khác đề phòng bỏ trốn ra sao.
– Tui tính nghỉ bán một tháng để sang nhà ông ở chơi…!
– Bà thì dễ ụi, có mỗi cậu Hai là hơi khó.
– Nhà cửa, quán xá, xe cộ, tiền trong ngân hàng,…!bấy nhiêu đó không đủ bảo chứng nó sẽ không trốn ở lại Mỹ hả ông?
– Sở Di Trú Hoa Kỳ dè chừng lắm.
Nếu bà muốn qua đây chơi tới vậy, tui sẽ nhờ luật sư riêng tìm cách lo liệu giấy tờ cho cậu Hai.
Rồi Vệ Thu vui miệng kể:
– Cái thằng khứa chuyên môn nói câu “Ôi, cái đám đó bày đặt lên tiếng là để được đi Mỹ” hiện thời đang xếp bút nghiên mà ra nhà băng đòi lại tiền mua trái phiếu.
– Làm như dễ còn mạng để đi Mỹ lắm vậy.
Nồi mứt dâu mà mợ Hai đang sên trên bếp đã đủ lửa, mợ bèn đi lại tắt bếp rồi lấy cái vá gỗ khuấy thử độ dẻo.
Trong lúc đợi bà quay lại, ông ghệ già mở “Chrome Book” lên làm việc tiếp; những mẫu máy móc Nông Nghiệp này hãy còn quá mới mẻ với ông, đâm ra ông vẫn chưa nắm được cách cải tiến hình dáng sao cho vừa mắt khách hàng mà không tốn quá nhiều chi phí sản xuất.
– Baba…
Vệ Cung vừa lên tiếng thưa cha vừa mở tủ bếp lấy bột mì.
– Món mỳ kéo của xứ Tân Cương.
Vệ Thu gật gù:
– Ngon đó.
Vệ Cung lại kéo một mẻ mỳ mới.
Anh ra sức thể hiện tài nghệ của mình với mợ Hai, mặc cho ông già la làng vì sợ thằng con “Tam ban triều điển”.
– Mày kéo cái quần mày lên kìa, Ba.
Lo múa một hồi cởi truồng luôn.
Trưởng nam của Vệ Thu vừa rót nước từ cái máy gắn ở cửa tủ lạnh vừa móc xỉa thằng em thứ.
Do không biết tiếng Anh nên mợ Hai không hiểu ông ghệ và cậu Hai đang nói cái gì; có lẽ là liên quan tới công việc nên họ phải dụng đến Anh ngữ để nói cho rõ ràng, cũng như đôi bên dễ hiểu nhau hơn.
– Mày mà bỏ một đống ớt vô tô mỳ của tao, tao bắt mày sửa code nguyên năm luôn.
– Hồi đó má mày đâu có đẻ mày ra dưới chưn cầu Hàm Luông đâu, mà sao lớn mày nói cái giống gì cũng phải có chữ “Luôn” vậy?
Vệ Kích nhún vai:
– Hổng biết nữa.
Chắc có lẽ là do nói thuận miệng hơn.
Mợ Hai đổ bột kem chuối vào khuôn có hình cây thông.
Ngày nào cũng bán hết nên bà rất ham làm; tiền kiếm được từ món này bà để dành trả lương cho nhân viên.
– Món bánh bột của người Hoa cũng vô nhận là bánh đúc.
Nhìn hình thức thì bánh bột, bánh mặn và bánh đúc có vẻ giống nhưng công thức chế biến hổng có giống nhau đâu.
Vệ Thu che miệng cười khổ.
– Cái nào cũng quơ quào kêu là bánh đúc tui thấy kỳ dữ lắm.
– Ừm, đây là món bánh bột của người bên ông già tui.
Mợ Hai chợt hỏi:
– Bộ cậu Út ghét ăn phở lắm hả?
– Ừ, nó chỉ khoái hủ tíu với cơm tấm.
Riêng phở thì nó ăn được phở gà.
– Vậy mai tôi nấu phở gà cho nó nhe?
– Thôi, bà đổi sang hủ tíu gà đi.
Mợ Hai bèn khoe tài nghệ nấu hủ tíu của mình cho ông ghệ thèm chơi.
Kể chán chê rồi, bà mới hỏi:
– Nhưng mà bên bển ông ăn phở ở đâu?
– “Phở Holic” và “Phở Lú”.
Ăn cái vị thuần Việt hơn, rau giá cũng xôm hơn mấy chỗ khác.
– Mà sao nó lại không ăn phở được vậy ông?
– Nó kỵ mùi quế.
Quế trong “Quế khâu”, chứ không phải “Rau quế” nghen? Hồi xưa nhỏ bạn đồng hương tặng nó cây kẹo mùi quế, nó ăn nó ói mật xanh mật đỏ, ai nấy tưởng nó bị dị ứng thực phẩm nên kêu xe cứu thương chở đi cấp cứu, dè đâu vô trỏng bác sĩ nói nó bị kỵ mùi thái quá nên cơ thể mới phản ứng dữ dội như vầy.
– Bộ nó hửi nó hổng biết sao?
– Hông, cây kẹo này chỉ tỏa mùi khi nước miếng của bà tiết lên mình nó thôi.
Thành ra nó liếm tới lần thứ ba, cái mùi mới bốc lên nồng nặc và khiến nó ôm bụng ói mửa.
Mợ Hai ghi vào sổ tay cá nhân để ghi nhớ sự dị ứng của cậu Út Thương.
– Tội nghiệp con bạn tui, nó run gần chết vì tưởng thằng Út sắp về dưới, chừng nghe nó khỏe mạnh lại nó mừng đến nỗi xỉu tại chỗ luôn.
Từ đó về sau không ai đem bánh trái, món ăn hay sáp thơm có vị quế tới nhà nữa.
Sau một thời gian tập ăn lần lần, nó chỉ bị khó chịu chứ không còn phản ứng thái quá với vị quế nữa.
Nhưng cũng hổng vì vậy mà nó chịu ăn vị quế, lâu thật lâu nó mới ghé răng tới tô phở hay bánh Churros có mùi đó.
Mợ Hai ngượng ngùng mà nói:
– Cho tui xin lỗi nghen, bữa trước có nướng mẻ bánh ốc quế mang mùi đó, tui đã ép nó ăn một miếng…
– Không biết thì không có lỗi.
Mà bà cũng phải bỏ cái tật nài người ta ăn uống đi.
– Rồi, rồi, tui biết lỗi của mình rồi mà.
Muốn nói thêm nhiều lắm nhưng vì đã tới giờ họp với các nhân viên sống tại ngoại quốc nên Vệ Thu đành kết thúc cuộc gọi.
Ông hứa rằng sẽ gởi quà Noel cho má con mợ Hai; sớm nhứt là đầu tuần tới, trễ lắm là nửa tháng sau.
– Má đi ngủ nghen Hai.
Đừng có quét dọn, lau chùi gì hết.
Khuya rồi.
Sáng hoặc trưa mơi má con mình làm cũng được.
– Dạ.
Nhưng chú Thương không sao lên giường nghỉ ngơi được.
Hình ảnh người mình yêu nhìn thằng Út đầy dịu dàng đã làm cho anh bực tức muôn phần.
Nhiều bạn bè quen của má xin làm-mai anh với một cô gái xứng đôi vừa lứa với anh mà có bao giờ anh ưng chịu đâu.
Vậy mà chẳng khi nào Lan cảm động trước tấm chân tình đó cả.
Đã mười một giờ đêm, ngoài đường tịnh không bóng người hay xe cộ.
Gió thổi lá khô rơi xào xạc trên mặt lộ buồn tênh vì nhớ hơi ngày.
Bữa nay hai cha con bán hủ tíu gõ sao không đi ngang qua đây, để bà con buồn buồn bởi thiếu mùi nước lèo thoang thoảng và bánh – thịt thơm thơm.
Đễ dỗ mình vào giấc ngủ, chú Thương để Duy Khánh ru mình bằng bài hát “Thỏa niềm thương nhớ (Thỏa lòng thương nhớ)” của nhạc sĩ Văn Giảng, trong bài này tác giả ký tên là “Thông Đạt”.
– Chưa ngủ hả Thương?
– Trời ơi, thấy dưới bếp sáng đèn là biết còn thức mà còn hỏi?
Mợ Hai tức mình đi xăm xăm lại chỗ thằng Hai mà xỉ vô trán nó một cái đau hú hồn:
– Tao lo cho mày nên mới hỏi dzậy.
Con với cái ăn nói mất dạy.
– Rồi, rồi, đừng có giận con mà.
– Mày phải sửa cái miệng của mày lại, thì mới mong con kia thương mày.
– Dạ, phải nói chuyện như dạy đời giống thằng kia thì mới được.
Đôi mắt mợ Hai đỏ hoe:
– Con năm nay đã ngoài tứ tuần, ăn nói tùy tiện, giỡn hớt như vầy thì sau này làm sao răn dạy con cái nên người được?
– Con không muốn sửa gì hết! Thương con được thì cưới.
Từ hồi nhỏ tới lớn cái gì cũng phải giống thằng Thảo, thằng Thảo…!Vậy đẻ con ra làm cái giống gì?
Mợ Hai chưa kịp nói câu nào, bỗng nghe nhạc chuông Viber trên Laptop vang lên.
Nghĩ rằng ông ghệ cần xác minh địa chỉ nhà để gởi đồ nên bà bèn biểu con trai mau mở máy.
– Trời, Thảo hả con?
Trì Thương chắp tay mà rằng:
– Thưa má, con đây.
Chú Thương xoay lưng bỏ đi một hơi lên lầu.
– Anh Hai.
Sắp bước hết cầu thang, nghe vậy, chú Thương quành lại mà lớn tiếng nạt:
– Mày im đi.
Tao không muốn nghe mày nói.
– Anh mới là người phải im đi, và lắng tai mà nghe tôi nói.
– Con nói đi Thảo.
– Anh có nhớ hồi hai đứa mình còn nhỏ thường leo lên cây gáo để hái trái ăn không?
– Thì sao?
– Anh bị bịnh hoài nên phải đợi tôi leo lên cây trước rồi mới nương theo tay tôi mà trèo lên cây được.
– Ý mày nói tao phải nhờ mày mới quen được Hoàng Lan phải không?
– Phải.
Sợ làm đùng đùng khiến Út Thương mất ngủ nên chú Thương trở xuống nhà bếp.
Đã biết nó đâu có tình ý gì với nàng mà sao anh vẫn cảm thấy rất khó chịu và ghét nó.
Mợ Hai kéo ghế cho thằng Hai ngồi.
Rồi đi kiểm tra coi mẻ kem chuối đặc tới đâu rồi.
– Tôi đâu có giành với anh mà anh bực.
Không quan trọng ai thấy trước, mà là ai muốn lấy nó.
– Mẻ mới đặc chưa mà mày lấy kem chuối ra ăn hoài vậy? Rồi mai lấy giống gì bán?
– Giống của con nè…
Vừa nhéo lỗ tai thằng con trưởng, mợ Hai vừa nạt:
– Ông già mày hồi xưa ăn nói chững chạc như thằng Út bây giờ.
Mày liệu hồn mà sửa miệng lại cho đàng hoàng, mơi mốt có con có cái mới mong dạy cho tụi nó nên người được.
Chú Thương giận lẫy nên bỏ lên sân thượng.
Tại anh hết được chưa? Tại anh bịnh thập tử nhất sinh nên nó phải đi tu.
Tại anh bộp chộp nên mới yêu lầm người.
Tại anh học ngu nên má anh phải nai lưng ra buôn bán cùng anh dù tuổi đã ngoài hàng sáu.
– Thảo, con có buồn nó không? – Mợ Hai vừa gạt nước mắt vừa hỏi.
– Dạ không.
Má đi ngủ sớm đi kẻo mệt người sanh bịnh.
Chuyện giữa con, ảnh và Lan, sẽ có lúc tụi con ba mặt một lời.
Xin má đừng khổ tâm vì tụi con.
oOo
Mấy đứa trẻ trong lớp Giáo lý đang chơi trò “Cá sấu lên bờ”, trong đó có hai anh em “Phạm Công – Cúc Hoa” lượm được hôm bữa.
Nắng Thu hoe vàng.
Gió heo may lay động mặt nước nơi những cái mương và ao.
Hương trái cây vô mùa chín muồi nhuộm thơm cuộc đất rộng thênh thang.
– Sau đó, chế nước cốt dừa sống vô cái chảo hơi sâu lòng, rồi đun trên lửa nhỏ riu riu.
Chừng thấy c*t dừa nổi lềnh bềnh, khi ấy ta sẽ được một tô dầu dừa nguyên chất đúng điệu.
Henrico Thạnh cho mọi người coi thành phẩm của mình.
Tượng dầu dừa vàng lợt, trong vắt và tỏa hương thơm dìu dịu rất dễ chịu.
Hèn chi mà ít ai nấu dầu dừa, bởi lẽ làm cực mà hổng để được lâu.
– Để tôi chiên cá cho, anh Thạnh.
– Dạ, tùy cô vậy.
Kiều Xuân liền cho một nhúm bột bắp vô chảo dầu đương sôi, rồi mới lấy đũa gắp từng con cá thòi lòi mà thả vào trong trỏng.
Sức nóng của cái bếp xi-măng làm gương mặt có đôi má bầu ấy rịn đầy mồ hôi.
– “Trời ơi mày là Cha xứ chứ đâu phải Kim Trọng mà mày dòm nó như dòm con Thúy Kiều…”
– Hay dữ! Rớt nhịp hết trơn!
Augustino Dương khỏ đầu thằng con tên Thạnh mà rằng:
– Kệ tao, mày.
Tao đâu phải Sáu Lầu.
Chiên xong mớ cá thì nồi canh cua – rau đay cũng vừa chín; sẵn trên bếp đang trống hai lò, Henrico Thạnh bèn làm thêm hai món nữa: Một đồ xào và một món kho.
Hỏi ý ăn của mọi người thì ai nấy đều biểu xào đậu rồng với hột vịt và làm tép rim dừa.
– A…!Ở nhà tôi còn mấy bịch xương heo luộc rồi.
Để tôi đem qua làm món sườn xào chua cay.
Anh Thạnh! Đừng có xào đậu rồng nghen?
– Dạ.
Stephen Đoàn xin mạn phép được chở Kiều Xuân về.
Tác dụng phụ của thuốc hướng thần là làm cho bệnh nhân bị ể người, hay buồn ngủ và khó chú tâm khi lái xe; thành ra, dù muốn dù không, Thầy anh vẫn phải đồng ý cho anh chở nàng về.
Đã vào mùa mưa nên bầu trời mang màu khăn tang ảm đạm.
Họa hoằn lắm, mới có đôi tiếng hửng nắng hoặc không gian quang đãng sáng rỡ.
Ngửi hơi nước thoảng trong không khí một đỗi, Kiều Xuân cười rộ lên thông báo:
– Chà, lát nữa ăn cơm mà có mưa lớn thì còn gì khoái bằng.
Rồi chợt cô vỗ trán một cái, khiến tay lái của Stephen Đoàn lảo đảo vì tính thắng gấp đặng coi nàng có bị “lên cơn” không.
– Cái bài hát mà bữa hổm anh ca cho em nghe đó, “Xứ thâm trầm” do nhạc sĩ Từ Công Phụng phổ từ thơ thi sĩ Đông Duy – bạn cùng trường với ổng đó.
Stephen Đoàn phì cười:
– Có vậy thôi mà Xuân cũng tự làm đau mình.
Đôi má Kiều Xuân ửng hồng.
Cô cười khúc khích như đứa trẻ được lì-xì.
Đoạn nói:
– Anh đem rượu dừa lên làm rượu Lễ được không?
– Sao Xuân nghĩ vậy?
– Chớ em nghĩ mấy Cha ở trên bản cũng dâng rượu cần được mà.
Stephen Đoàn phá lên cười sặc sụa.
Bản thân anh cũng không biết các Linh mục quản xứ ở đó dâng loại rượu nào, có lẽ tối nay anh sẽ gọi điện thoại hỏi các bạn đồng tu thử coi sao.
Kiều Xuân mở bản nhạc “Historia de un Amour” của nhạc sĩ Carlos Eleta Almarán do song ca French Latino trình bày lên nghe, nhạc sĩ Anh Bằng đặt lời Việt thành ca khúc “Chuyện Tình Yêu”.
– Ráng khỏe mạnh, rồi…!thành gia lập thất với ai đó nghen?
– Ở xóm em có bà chị bị ông Việt kiều để cho cái bầu rồi bỏ, bả phá thai, giờ đứng tuổi sợ ế nên đi cưới đặng cưới đùa một ông vừa nghèo kiết xác vừa xấu tàn canh gió lộng lại gặp cảnh má chồng khó trần thân…
– Bế tắc phải không?
– Cưới chồng chứ đâu phải kiếm con chó, con mèo về bầu bạn mà ẩu tả được anh.
– Xuân giống mẹ tôi ở chỗ bà thích nghe nhạc Pháp, Ý và Tây Ban Nha.
Hai bên đường bông mười giờ nở rộ.
Sắc tím biên biếc ấy trông xa như dải Stolar mà Stephen Đoàn hay mang khi cử hành Thánh Lễ hoặc thực hiện Bí Tích; nghĩ đến đây, anh nở nụ cười cay đắng, đến lúc gặp được người thương mình thì tấm áo chùng thâm đã quấn lấy thân anh, đúng là “Tìm nhau trong thống khổ…”
– Sao chú Sáu Quới có vợ hay vậy anh?
– Thầy Phó Tế được quyền có vợ mà.
Nhưng chỉ một đời vợ thôi, ngay cả khi bà ấy qua đời cũng không được phép tái giá.
– Vậy tại sao anh không làm Thầy Phó Tế?
Hỏi câu này Stephen Đoàn không biết đường đâu mà trả lời.
Anh gượng gạo hỏi lảng sang chuyện khác:
– Xuân muốn nghe tôi hát bài chi không?
Kiều Xuân cúi mặt vân vê vạt áo bà ba:
– Anh nói chuyện giống Bắc Kỳ quá.
Stephen Đoàn lại được phen cười ngặt nghẽo.
Đoạn dịu dàng hỏi:
– Xuân muốn nghe tui ca bài gì hôn?
Kiều Xuân cười khúc khích:
– Giờ thì giống ông Thạnh hệt khuôn.
Stephen Đoàn khe khẽ trình bày nhạc phẩm “Chuyện tình” do nhạc sĩ Phạm Duy dịch sang tiếng Việt theo bài hát “Love story (Where do I begin?)” của đôi tác giả Francis Lai – Carl Sigman.
Kiều Xuân nho nhỏ hát theo người mà cô yêu.
Mưa bắt đầu đổ hột.
Mưa bụi bay bay cho mắt ai sầu, khóc giùm ai chôn vội mối tình vừa mới chớm nở, và than thở thay ai luyến tiếc một nụ thương mới hé đã chóng lụi tàn.
Mưa nhuộm xám dải Stola mười giờ.
Mưa làm bánh xe loạng choạng vì những cái ổ gà ngập ngụa trong sình lầy và nước đọng.
Nhưng mưa không làm cho đôi nam – nữ xích lại gần nhau…
– Anh Mỹ.
– Chi Xuân?
– Tự nhiên em thèm nghe Duy Quang ca bài “Thà như giọt mưa” của nhạc sĩ Phạm Duy và thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên.
Stephen Đoàn chỉ biết cười trừ chứ không đáp ứng sở nguyện của nàng.
Ngang qua một ngôi nhà có giàn bầu hồ lô sum sê, Kiều Xuân khều Stephen Đoàn mà biểu ngừng lại để cô xin vài trái về hấp rồi chấm với chao môn.
– Chị Năm ơi…!Có ở nhà hôn? Hú…
Mặc kệ người trong mộng ôm bụng cười sặc sụa, Kiều Xuân vẫn tiếp tục bắc loa mà “hú”.
– Bả ở tuốt nhà sau á anh…!Chắc đang làm cơm hay cho thằng nhỏ bú.
Trời càng ngày càng hành mưa dữ.
Sợ nàng lên cơn sốt rồi bệnh điên thêm nặng, nên chàng tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế bèn mở lời khuyên rằng thôi đừng đứng đợi nữa.
Song nàng ngùng ngoằn không chịu.
– Ới…!Người ta nghe rồi mà con quỷ này la hoài…
Một người phụ nữ áng chừng bốn mươi, da dẻ trắng ngần như bông bưởi, đầu đội nón lá, mình bận đồ bộ nền xanh lơ in bông hường, bước ra chào hỏi hai người với một nụ cười tươi trên môi:
– Mèn đét ơi…!Con quỷ, có ghệ mà giấu tao nhen?
– Bậy, ghệ đâu, ảnh là tu sĩ đó.
Bà bạn lớn tuổi của Kiều Xuân trề môi và liếc háy một cái mà bỡn:
– Xí…!Tao biết hết nha.
Đừng tưởng tới đám cưới mà bỏ tao ở nhà được hen?
– Trời ươi, ảnh là tu sĩ thiệt mà.
– Vậy sao nãy giờ nó hổng cự lại tao?
Stephen Đoàn chỉ biết đứng cười giả lả cho qua chuyện.
Vì anh sợ sự phủ nhận của mình sẽ khiến nàng lên cơn điên thôi mà.
Dường như cũng hiểu nỗi lòng của chàng trai xấu hoắc, người phụ nữ ấy thôi chòng ghẹo và lấy kéo cắt bầu hồ lô.
Hái đâu chừng chục trái, cái rổ nhựa đã đầy vun rồi, chị mới nói:
– Có thiếu chao môn hôn, tao cho?
– Chị bán em mới lấy.
Cho là tui hổng lấy đâu.
Mà bán phải đúng giá nha? Bớt hoài lấy đâu ra lời mà sống.
– Bán mắc được hông?
Kiều Xuân cười rộ lên thật tươi.
Xe chạy đâu được vài chục mét, trời chợt tạnh mưa, nhưng thinh không hãy còn đen kịt màu mây mù và vang vang tiếng sấm.
Kiều Xuân sợ rớt rổ bầu nên mải lo ôm khư khư trong lòng mà không chịu vịn xe, thành ra Stephen Đoàn không dám lái quá nhanh.
“Đường vào Tình Yêu có trăm lối khổ, có vạn nẻo sầu…”
Dầu Stephen Đoàn là người dưng, nhưng trong thâm tâm đôi vợ chồng miệt vườn thì anh đã trở thành con rể của họ, bởi lẽ Kiều Xuân đã quyết không lấy chồng; thành thử ra, tiếng xe của anh đã trở nên quen thuộc với hai người, không cần chạy ra dòm họ vẫn biết người đó là anh.
– Mới tới hả hai đứa? – Thím Năm đon đả chạy ra hỏi.
Stephen Đoàn cúi đầu mà cất tiếng thưa vợ chồng chú Năm.
Riêng Kiều Xuân bước liền xuống xe để xuống nhà sau lấy bịch sườn non và cất bớt mấy trái bầu.
– Nhỏ con thím làm phiền con quá.
Stephen Đoàn nở nụ cười hiền:
– Có phiền chi đâu thím.
Sẵn đây, Stephen Đoàn hỏi thăm chú Năm về huê lợi của vụ lúa Hè – Thu, chú tặc lưỡi than:
– “Được mùa thì mất giá”, “Được giá thì mất mùa”; riết làm nông mà như làm mọi cho đám thương lái.
– Giáo xứ con tính tổ chức chương trình “Hồng Ân Thiên Chúa” nhân ngày Thánh Lễ Tạ Ơn, những đồng bào nào nghèo sẽ được một một phần quà, gồm có: Mười ký gạo, hai thùng mỳ gói, các loại gia vị và đồ nêm – Mỗi thứ một cái, giò và chả – Mỗi thứ một cây và nước tẩy gia dụng – Mỗi thứ một chai.
Biết cậu Mỹ muốn mua gạo ở chỗ mình, nhưng chú Năm phớt tỉnh ăng-lê mà cười biểu:
– Vậy con để cho chú góp rau cải và gạo nghen?
Stephen Đoàn cười thật tươi:
– Dạ, được vậy thì mừng quá!
– Gạo chú còn đầy kho, bán ra rẻ mạt, thôi làm từ thiện luôn cho rồi.
Đôi bàn tay của chú Năm đã bị chai sần và không còn rõ đường chỉ tay sau bao năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”.
Đôi tay này đã góp không biết bao gạo, thóc, nếp, rau cải và trái cây cho đời, nhưng phần nhận lại chẳng xứng đáng với công sức bỏ ra bao nhiêu.
– Tía.
– Gì bây?
Anh Hai của Kiều Xuân hớt hải chạy ra đưa cho ông tía coi một bài báo mạng.
– Trời, biểu tình chống tổng thống Khánh!
Anh Hai ngao ngán:
– Ông nội này bị đuổi xuống không biết bao nhiêu lần rồi.
– Lần này là vì vụ gì con?
– Nghe đâu ổng lạm quyền, can thiệp vô Bộ Nội An và Bộ Nội Vụ, nhằm mục đích…!cứu ai đó.
Tía coi biểu ngữ nè.
Chú Năm cau mày:
– Nó mồ côi, dì nó tu hành đàng hoàng, hai bên nội – ngoại từ mặt gần hết, có ai để nó rắp tâm cứu đâu?
– Biết đâu…!con ghệ của ổng thì sao?
– Thôi mày ơi, mày nói bậy quá mày ơi…!Hổng phải có tin đồn ổng bị bê-đê hả?
– Trời ơi, thiên hạ đồn riết con cũng hổng biết ổng “phái” nam hay “phái nữ” nữa.
Anh Ba từ trong nhà nói vọng ra:
– Có lẽ là vụ của Anton Nhân hay Lê Hoài Sang.
Chú Năm kêu lên:
– Ờ há!
Vừa hay Kiều Xuân trở ra nên cuộc đàm luận chấm dứt.
Mấy trái bầu đã được cô rửa và gọt sạch, cắt khúc đàng hoàng, rồi bọc trong bịch nylon đã gói kỹ càng; giờ chỉ cần bỏ vô xửng hấp rồi chấm chao ăn thôi.
Trời vẫn ui ui như sắp kéo dông.
Những nhà nào còn xài bếp củi đang hối hả gom miếng gáo và củi cây vô kho.
Vài đứa trẻ đang nhảy rạch tắm đùng đùng, mặc kệ sét giăng đầy và gió dữ nổi lên.
Một ông lão bán bánh bao đứng co ro dưới mái hiên của một ngôi nhà đóng cửa im lìm; thấy tội, nên hai người bèn tắp vào mua ủng hộ chục cái – ngọt có, mặn có.
Đường về nhà Phước Thạnh vốn dĩ rất gần, nay vì cơn mưa thoắt ẩn thoắt hiện mà hóa ra xa xôi khôn cùng.
– Anh Mỹ.
– Sao?
– Anh coi hai bên đường người ta trồng bông điệp vàng đẹp hôn? Sau này cái am của em cũng trồng giống bông này cho sáng nhà sáng cửa…
– Xuân uống thuốc chưa?
– Chưa.
– Lát về nhớ uống thuốc liền nghen?
– Dạ.
Bỗng Kiều Xuân hỏi:
– Ba má anh sao dzậy?
– Mẹ tôi mất vì một cơn bạo bệnh, còn ba tôi đã đi bước nữa từ lâu lắm rồi.
– Vậy là ổng hổng có số hưởng rồi.
– Tại sao?
– Anh vừa ưa nhìn lại hảo tâm, có con như vầy mà hổng chịu ở gần là người không có số hưởng rồi.
Bất giác, Stephen Đoàn nhớ tới câu chuyện mà Trì Thương kể cho anh và người tài-xế nghe, rồi lại hồi tưởng tới lời bình của vị Tăng sĩ ấy: “Khi anh yêu một ai đó, anh chỉ nhìn thấy tâm hồn của người đó, và chẳng hề bị vẻ bề ngoài làm suy chuyển niềm yêu.”
– Anh Mỹ ơi.
– Ơi? – Stephen Đoàn đáp trong lúc cố ngăn lệ rơi.
– Giáo dân của anh cần anh.
– Ừ.
Còn Xuân?
Kiều Xuân hát nho nhỏ:
– “Em vẫn cần anh bên đời sóng vỗ mênh mang…”
– Bài này tên gì vậy?
– “Em vẫn cần anh” của nhạc sĩ Ngọc Trọng.
Stephen Đoàn khe khẽ thì thầm:
– Xuân nếu buồn, cứ hát cho vơi nỗi lòng.
Vậy là Kiều Xuân bèn ca bài “Thương đời hoa” của nhạc sĩ Lê Dinh mà cô đã từng nghe qua giọng hát của Hoàng Oanh:
“Buồn viết nên bài ca
Vì nhớ thương đời hoa
Mặn mà thay lúc đầu
Dịu dàng khoe sắc màu
Nhìn giòng đời vui xiết bao…”
Sẵn trớn xe chạy ngang qua một nhánh mận da người sai trái, Kiều Xuân ngưng hát mà rướn người lên bẻ một chùm mận màu trắng sữa.
Rồi nho nhỏ ca tiếp:
“…!Ngày ấy nay còn đâu
Vì sắc hoa tàn mau
Ngại ngùng hoa biếng cười
Vì đời hoa úa rồi
Mà thời gian lạnh lùng trôi…”
– Điệu Tango ư?
– Dạ.
– Tango lúc nào cũng sang trọng.
– Anh có biết tại sao nhạc sĩ Lê Dinh lại viết ra bài này hôn?
Stephen Đoàn lắc đầu.
– Vì ông thương cảm cho số phận của một thiếu nữ tên Lan học ở trường Gia Long đó anh.
Cô này đã bị vợ của một ông Thiếu Tá tạt a-xit do ghen tuông.
Câu chuyện trên xảy ra vào năm 1966.
– Xin em đừng biếng cười nhé?
– Anh lại nói giống Bắc Kỳ.
Không dưng mà hai người đồng thanh cười ngặt nghẽo.
Tiếng cười của họ tan vào màn mưa lâm thâm lành lạnh và phảng phất hơi đất ngai ngái.
– Mà công nhận bà nào tên Lan cũng khổ vì tình.
Em mà có con gái, em hổng đặt tên Lan đâu.
Còn cách nhà của Henrico Thạnh khoảng đâu vài mươi mét, cả hai đã thấy Cha Augustino Dương đứng khoanh tay với vẻ mặt chù ụ như bị ai ăn hết của.
– Tưởng đi luôn rồi chớ?
Stephen Đoàn cúi mặt mà gãi đầu cười trừ.
Chái bếp nhà Henrico Thạnh thơm phức mùi gạo Nàng Hương đã nấu chín.
Bếp lò xi-măng đỏ rực mảnh than miểng gáo và củi dừa.
Mâm cơm bày biện gần đủ món, chỉ còn thiếu tô canh và dĩa bầu hấp kèm chén chao môn beo béo, mằn mặn.
– Sao người ta ăn rau mà bị ỉ* chảy được bây?
Henrico Thạnh cười rộ lên:
– Con hông biết.
Nhưng chỉ biết ăn rau muống bò dưới mương mà không bỏ đọt là bị Tào Tháo rượt sút quần.
Với lại…
– Với lại sao?
– “Đường thương đau đày ải nhân gian.
Ai chưa qua chưa phải là người…”, nhạc sĩ Trúc Phương đã nói rồi mà.
– Mày “Thương đau” mấy lần rồi?
– Nhiều quá sao nhớ hết Thầy?
Ignacio Cường bật cười:
– Xuống miền Tây, làm ơn làm phước đừng có bạ đâu cũng ăn rau sống, có nhiều loại dễ gây đi cầu thẳng ruột với người bụng yếu lắm.
Henrico Thạnh phụ họa:
– Dí lại nấu nấm phải nấu cho thiệt chín.
Ăn nấm “ương ương” dễ bị trúng thực lắm.
Có đứa nhỏ gần nhà con ăn trúng cháo gà bỏ nấm rơm sao bị ngộ độc ói – ỉ*, từ đó về sau hễ nghe mùi nấm là nó nhợn lên nhợn xuống.
Hai đứa trẻ bị cha ruột ruồng rẫy lọng cọng làm theo nghi thức bên Công Giáo của nhóm tu sĩ.
Để tiện cho việc kêu tụi nó, Henrico Thạnh đặt đứa lớn là Hai Lúa, còn đứa nhỏ là Út Mén.
Thời may xấp nhỏ dễ nuôi và không đòi bậy nên chàng Linh mục xứ dừa sống chung rất khỏe re.
Sau giờ cơm, Hai Lúa và Út Mén phụ Kiều Xuân dọn bàn và rửa chén.
Còn cánh mày râu thì ra sau hè ngồi uống trà và coi chừng bầy gà.
Cảm thấy buồn tai, Henrico Thạnh bèn mở dĩa than lên nghe.
Ca khúc đầu tiên mà anh chọn mang tên “Bài ngợi ca Quê Hương” của nhạc sĩ Thanh Sơn do song ca Bùi Thiện – Thanh Tuyền trình bày.
Augustino Dương bình phẩm:
– Ông Thanh Sơn là người đưa vế “Người Việt Nam hãy hòa hợp nhau” vào ca khúc nhứt.
Ignacio Cường nhếch miệng cười:
– Có những chuyện là hái sao trên trời, Cha ơi.
Augustino Dương nhún vai:
– Đâu phải ai cũng được như Tổng thống Abraham Lincoln.
Henrico Thạnh chen vô:
– Người kế tiếp là nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ.
Tự nhiên con thấy bài “Hoa vẫn nở trên đường Quê Hương” của ổng rất hạp để đối lại ca khúc trên.
– Tao ưng Duy Khánh ca bản đó hơn là Thanh Tuyền.
Ignacio Cường nói:
– Cái gốc của hai ổng y chang nhau nên nét nhạc cũng hao hao nhau.
Nghe tiếng dép của Kiều Xuân, Stephen Đoàn lên tiếng hỏi liền:
– Uống thuốc chưa Xuân?
Kiều Xuân đáp, “Rồi.” Nhưng Stephen Đoàn vẫn bán tín bán nghi, anh yêu cầu nàng nhìn thẳng vào mắt mình.
Và quả đúng như suy nghĩ của anh, nàng ngỏn ngoẻn cười duyên với tư thế day đầu sang hướng khác.
– Sao Xuân không uống?
– Uống hoài mà có hết đâu.
– Vừa nói, Kiều Xuân vừa bẻ các khớp tay răng rắc.
Buộc lòng chàng Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế phải trở vô bếp lấy thuốc cho Kiều Xuân uống.
Thấy vậy, nàng cũng nối gót theo người thương.
Chừng trở ra, họ thấy Stephen Đoàn đem tới một mâm chè thưng nóng hổi.
Thì ra ban nãy có bà bán chè đi ngang qua nên anh mua giùm mấy bịch; riêng hai đứa nhỏ, đứa lớn thì nó đòi ăn sương sa – hột lựu, còn đứa nhỏ ưng món đậu xanh – bánh lọt.
Chưa Tết mà mùi gió đã mang hương Xuân.
Cái mùi gió thân yêu ấy chỉ những ai là rặt dân Nam Kỳ mới biết mà thấu hiểu, để rồi khi xa Quê Hương vô tình ngửi thấy mà lòng quặn nhớ quặn thương.
Kiều Xuân bồi hồi nhìn cây mai trổ bông sớm.
Chén chè thưng bị sánh ra ngoài tự nãy giờ mà cô hổng hay biết.
– Hai Lúa, Út Mén.
– Dạ Tía?
– Tía có mua cho mỗi đứa một con diều, ra ngoài đồng mà chơi với mấy đứa con nít trong xóm đi.
Tía để trong buồng của bây đó.
Hai đứa nhỏ cảm ơn Henrico Thạnh rối rít, rồi chạy tốc vô buồng để lấy diều đi chơi.
– Thạnh, mày có biết cách mua mật ong không? Hôm trước tao có mua một chai mà chưa dám tặng Mẹ Bề Trên vì sợ đồ dỏm.
– Muốn biết mật ong thật hay giả hả? Dễ ợt hà.
Nhỏ mật ong lên cái chén rồi bỏ miếng hẹ vô; nếu hẹ bị héo là đồ thiệt, còn tươi rói là đồ dỏm.
Nghe Chế Linh và Hương Lan song ca bài “Căn nhà màu tím” của nhạc sĩ Hoài Linh được đâu vài câu, Augustino Dương ngó thằng con tên Mỹ và cô giáo Xuân với sắc mặt sầu thảm khôn cùng.
– Hồi đó Thầy có thương ai hay ai thương Thầy hông Thầy?
– Tình cảm của tao hồi đó ư? Ban sơ như bông điên điển mùa nước nổi vậy.
– Thì hai người này cũng vậy thôi.
– Chuyện ở Giáo xứ sao rồi Cường?
– “Tình vẫn chưa yên”.
Cứ cách mấy bữa là lại có kẻ khả nghi vô xứ thăm dò, bằng cách giả bộ mua đồ hay ăn hàng.
Henrico Thạnh vỗ đùi cái đét mà rằng:
– Kiếm cái giống gì ở trỏng mà cứ kiếm hoài vậy?
Stephen Đoàn cười khổ:
– Một người phạm tội “Cố sát” bị đôn lên thành án “Giết người”.
Đáng lẽ bị tử hình oan mạng rồi, may phước sao vượt ngục thành công.
Vừa bỏ miếng khoai môn vô chén của ông Thầy, Henrico Thạnh vừa bình phẩm:
– Ai chớ anh là tui tin có liên quan đó Cường.
Ignacio Cường nhếch miệng cười:
– Sao nghĩ vậy?
– Ăn ở, chung đụng với anh bấy lâu nay nên tui biết.
– Vậy anh nghĩ tôi làm đúng hay sai?
– Hãy để Chúa phán xét anh, tui không muốn can dự vô phần việc của Ngài.
Tức cảnh sanh tình, Henrico Thạnh mở bài “Đã lỡ duyên rồi” do song ca Thanh Phong – Hoàng Oanh trình bày; đây là một sáng tác của ông với bút hiệu Nguyễn Đào Nguyễn.
Khuôn mặt của Thầy anh thấy thương hết sức.
Kiều Xuân xin phép về nhà để đi dự tiệc chia tay cô bạn sắp theo chồng sang Mỹ.
Hèn chi mà bữa nay nàng không muốn uống thuốc.
Nàng tủi phận mình nên chẳng còn thiết tha chi đến chuyện trị liệu nữa.
– Em tự dìa được, xin không phiền đến anh Mỹ.
– Ai rước Xuân vậy?
– Anh Hai em.
Không sao đâu mà.
Nói thêm đôi câu nữa, Stephen Đoàn mới đóng cổng rào rồi cùng bầy cảnh khuyển bước xuống sau hè.
Bầy chó thật dễ thương và hiểu chuyện xiết mấy.
Augustino Dương đã đứng đợi thằng con tên Mỹ dưới gốc cây xoài trĩu quả.
Bữa nay Stephen Đoàn mới nhận thấy Thầy anh già hơn trước một chút, đôi chân của ông cũng không còn vững vàng nữa, lại thêm cái lưng hành hạ nên sức khỏe của ông càng thêm tệ hại.
– Con có thương Xuân không?
– Có.
Đôi mắt của Thầy anh buồn đau vô hạn.
Ông nói với giọng điệu run rẩy như sắp bị đột quỵ tới nơi:
– Chỉ vì chẳng có ai thương con trên trần thế này bằng nó phải không?
– …!Phải.
Stephen Đoàn mân mê chuỗi Mân Côi trong lòng bàn tay một đỗi, mới lên tiếng mà rằng:
– Nhưng con sẽ chôn chặt đoạn tình này dưới mồ sâu muôn thước.
Cửa tim thằng con tên Mỹ của Augustino Dương đã mở.
Làm sao có thể khóa chặt nó lại trước những rung động mà mối tình đầu đời mang lại đây.
Thời gian ư? Biết chờ đến bao giờ…
Henrico Thạnh đang xịt nước tắm cho mấy con chó già trong bầy.
Chưa bao giờ hai ông Cha thành đô thấy người bạn đồng tu buồn quá năm phút, lúc nào nụ cười cũng thường trực trên môi anh ta.
– Ê, Mỹ, nghe bài gì hôn? Để tui thử cái máy hát mới mua.
– “Đếm bước cô đơn” do Chế Linh ca, trong bài này ông sáng tác cùng nhạc sĩ Bằng Giang với bút hiệu “Tú Nhi”.
– May cho anh là tui mua dĩa “Chế Linh”.
Thấy thái độ của Augustino Dương, Ignacio Cường liền hiểu ban nãy Thầy anh và Stephen Đoàn đã nói gì với nhau.
Trong mắt anh, Stephen Đoàn là một Cha xứ hết mực của Giáo dân và cũng sẽ là một người chồng mẫu mực của Kiều Xuân; giữa Chúa Thánh Thần và “Eva”, anh không biết bạn anh sẽ đứng về bên nào.
Stephen Đoàn vừa lần chuỗi Mân Côi bằng tay trái vừa đánh máy bằng tay phải.
– Anh soạn bài giảng cho Thánh Lễ Chúa Nhựt này hả?
Stephen Đoàn gật đầu.
– Tao ngồi đọc lại bài giảng của hai đứa bây mà “lòng đau như cắt, nước mắt đầm đìa”…
Augustino Dương lên tiếng trách:
– Chúa ơi, viết văn kiểu gì mà phạm lỗi “một câu hai nghĩa”.
Tao ngồi tao sửa gần chết luôn.
Hai ông Cha đồng quản xứ chỉ biết nhìn nhau cười xẽn lẽn.
– Cường ơi, sao hồi con “khẩu chiến” thì văn chương lưu loát dữ lắm mà tới chừng chắp bút thì lòng vòng như gà mắc dây thun…!Mỹ ơi, sao hồi con nói chuyện với Giáo dân thì dễ thương dữ lắm mà viết bài cộc lốc, cạn tình cạn nghĩa vậy hả con.
Ignacio Cường hướt mà hỏi:
– Vậy theo Thầy thì ai viết được?
– Để cho thằng Thạnh viết, nó đứng giảng không được chứ văn chương đâu ra đó và rất rõ ràng.
Stephen Đoàn bật cười:
– Hèn chi Thạnh chỉ làm Cha Phó.
– Cha Sở là người đồng hương với nó.
Tánh cũng “dễ thương” như thằng Cường vậy.
Thằng đó sắp tới rồi đó.
Henrico Thạnh nghe xong mặt mày bí xị.
Ở chơi với cha Cường vài bữa thì được, chứ gắn kết lâu dài thì…!Chắc “Long tranh Hổ đấu” mất.
May phước cha Mỹ chả hiền chả nhịn được, nên tình huynh đệ mới êm đẹp tới giờ.
– Thầy.
– Chi mậy?
– Thầy có biết cái bài “À ơi…!Lý mồ côi” của nhạc sĩ Trần Hải Sâm do Hương Lan ca không?
– Hông.
– Vậy nghe thử đi Thầy.
– Tao đang rầu, mày đừng có khiến cho tao bị đứt ruột.
Trời đã chạng vạng tối nên ông Tía bất đắc dĩ phải đốt đèn đi kiếm hai đứa con.
Vì là đường vườn nên không có lấy một bóng đèn điện công cộng, toàn là bà con lối xóm hùn tiền hoặc tự lắp đặt cho sáng, thành ra đi rã cặp giò mới thấy được chút ánh đèn leo lét.
– Hai đứa đang coi hoạt hình hả?
– Dạ.
– Út Mén liếng thoắng nói.
– Dạ, tụi con đang coi đài “Disney Plus” đó Tía.
Henrico Thạnh không có con nên đâu có ghi danh gói cước truyền hình “Disney” hay “Đí* bự” gì; thành ra đêm nào xấp nhỏ cũng phải qua đây coi ké.
Anh cũng biết điều mà gởi biếu hột vịt lộn, hột vịt muối, rau cải, trái cây hay mấy vỉ trứng làm quà lại.
Vừa nhận bịch mít ước chừng năm ký, bà thím vừa cười tươi mà biểu:
– Để tụi nhỏ coi xíu đi Thạnh.
Chừng nào coi xong thím gọi con qua rước.
– Dạ, vậy gia đình con xin làm phiền gia đình thím thêm một lát nữa.
– Có gì đâu mà mày ăn nói khách sáo quá Thạnh.
– Ông chú chủ nhà vỗ vai Henrico Thạnh một cái đau điếng.
Đường về mịt mù sương giăng.
Cơn mưa phùn ban nãy đã khiến nẻo về của Henrico Thạnh thêm phần hoang lạnh và tăm tối.
Những ngọn đèn ma trơi do lũ đom đóm tạo thành thoắt ẩn thoắt hiện sau những lùm cây, bụi cỏ.
Chiếc đèn măng-xông anh cầm trên tay đã yếu dần đi vì không đủ điện.
Bỗng, từ sau một cây bần già, vang lên tiếng ngáp dài đầy mệt mỏi của ai đó.
Henrico Thạnh rút con dao bấm từ túi quần ra, rồi đi xăm xăm về phía phát ra thanh âm ấy.
Một người đàn ông cao chừng mét tám, dáng người hơi gầy, gương mặt dễ nhìn, đôi mắt đen lay láy thật hiền, đang đứng tựa lưng vào gốc cây bần mà nhìn xuống cái mương nước tràn bờ.
– Anh là ai? Nửa đêm nửa hôm vô xóm này dòm ngó chi đó?
– Ở đây có Giáo xứ nào không? Tôi đi kiếm từ sáng tới giờ hổng thấy đâu hết.
– Giáo xứ vẫn chưa thành lập.
– Trời đất ơi, vậy sao kêu tôi xuống đây làm Cha Sở?
– Anh là…
– Tôi là John Baptist – Trương Tấn Khải.
Hân hạnh được làm quen với anh.
– Henrico – Nguyễn Phước Thạnh.
Dòng họ Trương Tấn Bửu hả?
– Không.
Còn anh, dòng họ Nguyễn Phước hả?
– Không.
Phó thường dân thôi.
JB Khải té ngửa:
– Lạy Chúa tôi! Cha Phó đây phải không?
– Nó đó.
Còn anh, Cha Sở hả?
– Ờ.
– Giáo xứ hai thành viên.
Giáo xứ độc nhứt vô nhị.
JB Khải không biết nên khóc hay nên cười với cái tin kỳ khôi này.
– Xe đâu?
– Bị cán đinh nên để lại hãng rồi.
– Làm gì ở đây?
– Đi bộ mỏi giò quá nên “dừng chân đứng lại trời non nước” chút.
– Thôi, ráng lết về nhà tui thêm chút nữa nghen cha.
Cơm nước có sẵn hết rồi, anh chỉ việc tắm gội cho sạch sẽ rồi ra quất thôi.
Vì mới quen biết nhau cái sột nên trên đường về Giáo xứ hai chàng Cha xứ chẳng nói với nhau tiếng nào.
Ông Cha Sở thì sẵn tánh không ưa những ai nói nhiều và giỡn nhây như Thầy Augustino Dương; còn ông Cha Phó thì thậm ghét cái nết khó chịu và nóng nảy như anh bạn đồng Dòng Y-Nhã Cường, nên khi nghe Cha Âu-Cơ-Tinh giới thiệu Cha Sở như vậy anh bỗng dưng sanh ra ác cảm với cha nội này.
Còn cách Giáo xứ chừng hai trăm mét, hai người ngừng bước để JB Khải đi nhờ nhà vệ sinh của một nhà dân trong xóm.
Gọi là nhà vệ sinh cho sang, chứ kỳ thực tên cúng cơm của nó là “cầu tiêu cá”; sẵn nhà có dư một rẻo đất xấu, không trồng trọt hay đổ nền xây cất chi được, gia chủ bèn đào ao “nuôi” cá dồ luôn.
– Ủa Xuân?
Kiều Xuân đẹp đến nỗi Henrico Thạnh sợ rằng mình nhìn lầm.
Bình thường đã quá quen mắt với vẻ ngoài dở điên dở dại của nàng, nên nay ngó thấy nàng chưng diện hực hỡ, phục sức sang trọng và trang điểm kỹ càng, chàng cảm thấy ngỡ ngàng cực điểm.
– Anh đem cái này dìa cho anh Mỹ giùm Xuân.
Anh Mỹ khoái ăn giò heo muối chiên giòn lắm.
– Xuân.
Kiều Xuân cúi đầu mà lắng tai nghe.
– Sao Xuân thương Stephen Đoàn vậy?
Kiều Xuân mếu máo trả lời:
– Ảnh dễ thương như vầy, sao mà Xuân hổng thương ảnh được…!Thôi, Xuân về, kẻo anh Hai Xuân nóng ruột.
Ảnh đứng chờ dưới gốc cây mù u đằng đẵng đó.
Cho Xuân cảm ơn anh trước nghen…
Thật lòng mà nói thì Henrico Thạnh không tìm thấy được điểm nào dễ thương trên gương mặt của Stephen Đoàn.
Yêu là gì? Thiệt tình anh không hiểu nổi.
– Cô đó là ai vậy Thạnh?
Chút xíu nữa là “Trái tim trinh nguyên” của Henrico Thạnh nhảy khỏi lồng ngực.
– Cô Kiều Xuân…
Tới đây thì Henrico Thạnh nín bặt.
Người quen biết với cô ấy là Stephen Đoàn chứ đâu phải anh, giờ mà nhận mình là bạn bè của cổ thì trơ trẽn quá, nên anh đành để mặc cho cha nội kia muốn nghĩ sao thì nghĩ.
– Coi chừng bị vu oan như tôi và Giáo dân Theresa Thảo đó.
Sân trước lắp đèn sáng choang nên dù JB Khải mới đến đây lần đầu vẫn có thể đi phăng phăng mà không sợ bị lạc đường hay trợt té.
Bốn bề cỏ mọc rậm rạp, dế gáy và ễnh ương kêu vang rền khắp vùng.
Muỗi mòng và đom đóm nhiều như ri, làm chàng Cha Sở tương lai có cảm tưởng đang lạc vô rừng U Minh.
– Ôi Chúa ơi, cái Giáo xứ gì mà hổng có cái gì hết dzậy.
– Có biết kỷ Băng Hà không?
– Biết.
– Ừ, cái Giáo xứ mới tới kỷ Băng Hà hà.
Chừng nào có tiền mới tới thời Tiền Sử.
Trước lúc xuống nhà sau ăn cơm, JB Khải lại bàn thờ Chúa mà chắp tay thưa Ngài một tiếng.
Anh thầm khen anh bạn đồng quản xứ trong bụng, vì tuy chưa có nhà thờ mà anh ta vẫn xây dựng chỗ thờ phượng thật trang nghiêm và đẹp đẽ.
– Thầy Dương…
– “Biên cương lá rơi Tấn Khải con ơi.
Đường dài mịt mù Thầy tưởng con không đến nơi…”
– Ổng phá banh cái tuồng của người ta luôn, Trời ơi!
JB Khải chỉ biết cười khổ.
Rồi xin phép đi tắm gội một cái, sau mới ra hầu chuyện Thầy Dương và các bạn đồng Dòng.
– Ủa? Có giò heo muối chiên giòn nữa.
Henrico Thạnh liếm môi:
– Cô Xuân…
– Rồi, rồi, biết rồi, mua cho thằng kia chớ gì.
Stephen Đoàn sượng sùng mời Thầy và bạn bè ăn chung.
Hôm bữa anh nói anh thèm ăn món này nhưng không đủ tiền mua nên đành khất lại tháng sau.
Không muốn làm thằng con tên Mỹ bị khó xử, Augustino Dương nói lảng sang chuyện khác:
– Hâm cơm canh lẹ lẹ cho thằng kia ăn đi.
Nhìn cái mặt xanh lè xanh lét là biết chiều giờ nó chưa có cái gì vô bụng rồi.
Bữa cơm tối có món canh khoai mỡ nấu với thịt bằm và tôm khô, khô cá lang phồng chiên, rạm rang sả – ớt và rau sống đủ loại.
JB Khải ăn hết trơn bốn chén cơm và một tô canh mà vẫn chưa dừng đũa.
– Sáng giờ cha đi thỉnh kinh hả?
– Ừ, gần tới Thiên Trúc thì xe bị cán đinh nên phải bỏ “sụi mã” lại hãng rồi lội bộ gần năm, sáu cây số.
– Sao hổng đi taxi?
– Đi tới đây thì không biết đường nên mới phải lội bộ gần năm, sáu cây số.
– Lát tui xin cô Xuân cho ông cử thuốc uống.
Có cái điện thoại để thể hiện mình là người Thế kỷ Hai mươi Mốt thôi hả?
– Hết pin.
Hết tiền.
Hết chuyện.
– Tao bấm một quẻ là mày với nó thể nào cũng có đánh lộn.
Henrico Thạnh cự:
– Vậy sao ghép con với cha nội này chi?
– Đúng đó.
Con cũng đâu có ưa thằng khứa này.
– “Các Thánh Tông Đồ của Chúa Jesus”, tụi bây quên rồi hả?
Henrico Thạnh và JB Khải ngó nhau bằng ánh mắt đăm chiêu.
– Hai đứa bây hãy còn quá non trẻ để cáng đáng một Giáo xứ sơ khai.
Tao cũng không hiểu tại sao Đức Cha Thái lại ghép đôi tụi bây.
JB Khải hỏi lảng:
– Thầy đây họ Hà chắc có bà con với Hà Tiên Cô.
– Không, Hà Gia Kính.
Mấy đứa học trò bật cười khúc khích.
– Chứ sao nữa.
Hồi trẻ tao cũng đẹp trai một chín một mười với cậu đó mà.
JB Khải chọn căn buồng nằm sau phòng khách.
Từ lúc đặt chân vô đây, anh có cảm tưởng mình lạc vào Thập niên Năm mươi, không hiểu sao cái chi trong ngôi nhà này cũng đều gợi cho anh cảm giác cổ xưa và trầm mặc.
– Cái tủ quần áo này anh mua chỗ nào mà cũ dữ vậy?
– Của ông sơ tui để lại á.
– Mốt mày thấy ổng hiện ra nói “Aloha” đó Khải.
Mấy đứa học trò của ông chỉ biết nhìn nhau cười trừ.
…
Mới sớm tinh mơ mà nhóm Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế đã có mặt ở nhà trên để cùng nhau thực hiện giờ Kinh Sáng.
Hai đứa nhỏ hãy còn say giấc nồng trong chăn êm nệm ấm; Henrico Thạnh không bắt chúng theo Đạo, chừng nào ơn gọi của Chúa ban xuống chúng sẽ quay về với Ngài thôi mà, cưỡng cầu chỉ tổ sanh khổ ải về sau.
Xong giờ Kinh, mọi người kéo nhau xuống nhà sau sửa soạn và kiểm tra đồ đạc cho buổi đi thiện nguyện chiều nay.
Vừa chụm thêm lá dừa cho cái bếp lò, Augustino Dương vừa xoa cái ót đau điếng mà than thở:
– Ngủ dậy cái bị niễng luôn.
– Rồi, ngồi xuống, để con vận “nội công” cho.
– Thôi, thôi, thôi, lần trước xém chút nữa mày bẻ đầu tao rồi con.
Ignacio Cường ngỏ lời:
– Để tôi làm.
Trước đây tôi từng học võ nên biết cách nắn xương – chỉnh khớp – trị bong gân.
– Hèn chi mà ảnh hổng có hiền.
Chỉ sau vài lần “xuống tay”, cái cổ của Augustino Dương đã được trả về đơn vị cũ.
Ignacio Cường xức thêm dầu Con Ó vào vùng cổ bị đau của Thầy anh và nói:
– Bị tê chân nào thì giơ tay ngược lên.
Thí dụ mình bị tê chân trái thì giơ tay phải qua khỏi đầu, đếm tới ba mươi là…
– Liệt luôn.
– Công nhận cái mỏ mày lanh ghê đó Thạnh.
JB Khải chợt hỏi:
– Thầy ơi, tại sao ai nấy đều biết nội dung cuộc xưng tội giữa Đức Cha Trung và Đức Cha Thái vậy? Con nhớ là Linh mục không được phép tiết lộ mà.
– Đức Cha Thái kể chớ Cha Vinh-Sơn Trung có nói đâu.
Ignacio Cường hướt mà hỏi:
– Có phải là vì Đức Cha Thái sắp xuất bản cuốn hồi ký không?
– Không.
Vì Đức Tổng Giám Mục thấy câu chuyện này có thể cảnh tỉnh trẻ vị thành niên sa ngã nên ông mới truyền bá.
Henrico Thạnh bình phẩm:
– Tính ra Thầy hổng có thân với Đức Tổng Giám Mục một xíu nào.
– Có thân chứ mậy.
Mà là “Thân ai nấy lo”.
Mấy đứa học trò của Augustino Dương bật cười khanh khách.
Trong lúc chờ anh Tư Vinh mượn được xe nhiều chỗ, nhóm tu sĩ ra sau hè ngồi nói chuyện và uống cà-phê đá.
Sau hè đã được đắp đất và chia khoảnh thành vườn tược gần hết.
Mùa nào thức nấy chứ Henrico Thạnh không trồng những cây giống đã lai tạo và sanh nhiều huê màu một cách phi tự nhiên; đâm ra những người có tiền trong vùng khoái mua hàng nông sản ở chỗ anh lắm, tuy giá cao một xíu mà được cái sạch sẽ và tươi ngon.
Vừa nhìn thằng con tên Thạnh kiểm tiền, Augustino Dương vừa suy nghĩ miên man về ý định thành lập ký nhi viện của nó.
Lượm bạc cắc mỗi ngày thì lấy đâu ra tiền nuôi hàng đống đứa trẻ, chưa kể đến là nạn đòi con bất tử và sự lôi thôi về mặt giấy tờ pháp lý nữa.
Ngày xưa ông bà ta nói trên đời có bốncái ngu, thời nay có thêm một cái ngu thứ Năm nữa: Đó là nhận trẻ về nuôi.
Đưa mắt nhìn Hai Lúa và Út Mén một đỗi, nỗi ưu tư của ông càng thêm nặng trĩu.
– Nghĩ gì dạ Thầy?
Augustino Dương nói lảng:
– Tao thấy tâm trạng bà Thái Hằng giống hệt khuôn bài hát “Giết người trong mộng” của chồng bà, tức nhạc sĩ Phạm Duy và thi sĩ Hàn Mặc Tử.
– Thầy nhắc con mới nhớ nhe, người dịch truyện “Ninja loạn thị” ngày xưa còn đem mấy bản nhạc Tiền Chiến, nhạc Vàng và Tân nhạc hải ngoại vô nữa.
Nhiều nhứt là bài “Mưa trên biển vắng”, “Diễm xưa” và “Trầu cau”.
– Nội dung trong đó sao mậy?
– Nội dung trong đó hướng dẫn chế tạo bom, làm thuốc súng, kíp nổ,…!cách ném phi tiêu, cách ngắm súng bắn sao cho chính xác, cách sử dụng binh khí, cách đột nhập, cách vượt ngục, cách làm nội gián, cách vạch mặt gián điệp,…!Thiệt không thể ngờ tác giả lại là nữ.
– Trời ơi, rồi sao phù hợp với con nít?
– Đâu, toàn viết lớt lớt thôi, chớ ai đời đi chỉ tường tận ba cái vụ này.
Vì là truyện của con nít nên màn tra tấn toàn là thọt cù lét với tập thể dục thôi.
JB Khải xen vô:
– Người góp phần sáng lập ngành Pháp Y – Pháp Chứng là phụ nữ mà.
Augustino Dương đùa:
– Hèn chi mà mấy bà vợ thời nay bắt quả tang chồng mình trúng phốc.
Ignacio Cường nhìn Henrico Thạnh mà hỏi:
– Anh định dẫn tụi tôi đi đâu làm thiện nguyện đây?
– Xuống Bình Đại chơi.
Biển ở đó vẫn còn bình yên và chưa bị bê-tông hóa.
Anh Tư Vinh hớn hở nhắn tin thông báo rằng mình đã kiếm được cái xe theo yêu cầu của Cha Dương rồi.
Chiếc xe “Toyota – Highlander” tuy chở đủ tám người nhưng vì Augustino Dương không muốn đứa nào ngồi chung băng với hai cô gái nên anh Tư Vinh phải mượn cái xe “Ford – Transit Minibus” của thằng bạn đồng nghiệp; còn cái xe của anh thì giao cho nó, đặng nó có phương tiện chở khách kiếm cơm.
Thấy xe còn dư chỗ nhiều quá, Henrico Thạnh bèn cho hai đứa nhỏ đi theo luôn, thay vì gởi tụi nó ở nhà chú – thím Năm; xấp nhỏ mừng đến nỗi ngoác miệng cười toe toét suốt.
Augustino Dương ngồi ở băng trước với anh Tư Vinh, Kiều Xuân và Quế Trân ngồi ở băng nhì, băng tiếp của hai đứa nhỏ cù bất cù bơ, băng kế của Ignacio Cường và JB Khải, còn băng chót thuộc về Stephen Đoàn và Henrico Thạnh.
Trên xe đang phát bài “Vào rừng” do Hùng Cường ca, đây là một sáng tác của nhóm Lê – Minh – Bằng, trong bài này ba ông ký tên là Anh Bằng – Cao Nguyên.
Henrico Thạnh vỗ vai anh Tư hàng xóm mà ghẹo:
– Xuống biển mà bật bài “Dzô rừng”, cha?
– Má của ông Cường quê ở đâu?
– Hải Phòng.
À, à…
– Có liên quan rồi đó.
Quế Trân cất giọng mời:
– Ăn bánh phồng sữa hôn bà con?
Henrico Thạnh gãi đầu cười trừ:
– Ờ hén, mọi người xuống đây không biết bao nhiêu lần mà tui quên đãi món này.
– Chứ hổng phải mày keo hả thằng kiết?
– Keo mà đãi ông sơn hào hải vị không.
Bãi biển Bình Đại chẳng có lấy một khu du lịch đồ sộ hay cao ốc nguy nga như Nha Trang, Phan Thiết, Kiên Giang, Vũng Tàu,…!Bù lại nơi đây hơn hẳn những chỗ kia ở điểm hãy còn rất hoang sơ và chưa bị bê-tông hóa; thêm nữa cây rừng không bị đốn hạ bừa bãi rồi thay thế bằng “cây nuôi” nên cảnh thiên nhiên không bị gượng ép và giả tạo.
– Lát ghé Thạnh Phú thăm vườn xoài tứ quý chơi.
– Cô Tư Lành vừa đội cái nón rộng vành vừa nhắn.
Henrico Thạnh cười biểu:
– Đồng Tháp thầu xoài, Bình Phước thầu điều, còn Bến Tre thầu dừa.
Muốn mua giống gì của thứ trái cây ấy đều có hết.
Ignacio Cường nhìn vô kiếng chiếu hậu mà nhếch miệng cười hỏi:
– Đi chơi mà sao Thầy bí xị vậy?
– Tôi sợ mấy cậu bị đồn thổi bậy bạ…
– Trời, mình có cái miệng mà, họ nói sai thì mình cải chánh.
Cô Tư Lành và cô Út Liễu hẹn nhau ra biển tắm.
Để tránh chuyện nhóm tu sĩ vì bị hiểu lầm mà chịu cảnh ô danh xú tiết, hai nàng nhờ xe lôi chở lên đầu bãi; hai đứa nhỏ xin ở lại với ông Tía.
– Lành.
– Hửm?
– Lành có khi nào thương anh Thạnh không vậy?
– Trời quơi, cái thằng quỷ sứ đó tui rành nó sáu câu vọng cổ, ưng sao nổi mà ưng?
– Biết hồi nào dợ?
– Từ cái hồi hai đứa còn cởi truồng tắm mưa á.
Thấy hết trơn hết trọi, ngán muốn lòi bản họng rồi.
Chiếc xe lôi máy cán ổ gà nên hai nàng được một phen hú hồn hú vía.
Riêng bác tài-xế vẫn bình tĩnh như thường, chắc có lẽ ông đã quá quen thuộc với con lộ ghẻ lở này.
– Hồi nhỏ xưng “Mày – Tao” được, giờ lớn sợ tía – má rầy nên phải kêu cái khác.
– Kêu dzậy còn nghe kỳ hơn.
Đâu phải vợ chồng đâu mà kêu vậy.
– Bởi, khuất mắt người lớn là đổi giọng xưng kiểu cũ liền.
Rồi cô Tư Lành che miệng cười khúc khích:
– Xưa kia nó còn dám kêu tui “Đ*” này “Đ*” nọ.
Kể từ ngày nó lên nhà Dòng tu học, nó hết còn kêu tui như vậy nữa; mà giỡn hớt cũng ý tứ luôn.
– Nhưng mà, gia cảnh ảnh sao Lành?
– Tía má nó lên Sài Gòn bán món bún, nhờ trúng lô đất với bán bún đắt nên cuộc đời lên hương luôn.
Anh Hai nó ra nghề thợ bạc bèn xin hai bác mớ vốn mở tiệm kim hoàn.
Còn chị Ba nó tiếp tục bán quán ăn.
Cái tiệm kim hoàn nằm bên trái, cái quán bún nằm bên phải, sau lưng là cái nhà lầu ba từng có sân thượng, hầm ngầm và vườn tược hẳn hoi.
Thành ra tía má nó đâu có chịu cho nó đi tu, nó năn nỉ muốn gãy lưỡi, hai bác mới nguôi ngoai mà ưng thuận.
Biết nó theo Công Giáo nên hai bác trang hoàng khánh thờ Chúa trong phòng riêng của nó…
– Vậy “Đạo gốc” của nhà ảnh là Phật sao?
– Ờ.
– Sao Lành không để tóc dài?
– Tui bán nước mía với nước đá mà bà.
Để tóc dài lỡ xui rủi nó cuốn vô máy sao.
– Vậy mà tui cứ tưởng…
Khoảng một giờ trưa, nguyên nhóm vô xóm nhà trọ để phát quà cho bà con lao động nghèo.
Mỗi phần gồm có chục ký gạo, hai thùng mỳ gói, hai chai dầu ăn, một bộ gia vị nêm nếm và chấm thức ăn, một bịch hoành thánh nặng hai ký, một hộp chả giò rế do thím Năm và Kiều Xuân tự quấn, năm hộp cá mòi sốt cà, năm hộp pa-tê gan heo, ba vỉ trứng – mỗi vỉ là một loại trứng: hột gà, hột vịt và trứng cút, ba hũ chao môn cỡ lớn, hai ký dưa leo, hai ký mướp hương và hai ký cải trời.
Không còn dư một cắc để cho tiền nên nguyên nhóm quyết định chỉ cho suông thực phẩm như vầy thôi.
Riêng nhà nào có trẻ nhỏ, thai phụ, người già, đau yếu hay bị tàn tật sẽ được tặng thêm một lon sữa đặc và hai lốc sữa bổ sung dinh dưỡng.
Trong nhà được bấy nhiêu người thì sẽ được nhận bấy nhiêu phần.
Với những ai không ăn được chao môn hoặc nhà có trẻ nhỏ không thích ăn chao môn thì sẽ được đổi sang một thùng miến hoặc cháo ăn liền kèm theo một hộp xúc xích nhỏ có mười cây.
Có một gia đình xin nhóm tu sĩ đăng bài cầu cứu giúp mình.
Chuyện là như thế này: Con trai ông đi làm thợ hồ trên thành phố, xui rủi sao bị sập giàn giáo nên chấn thương vùng đầu, hiện đang nằm mê man ở trển mà không biết sống chết ra sao, mà ngày nào tiền cũng ra như nước, chịu hết thấu nên gia đình ông đành cúi mặt nhờ giúp đỡ.
Augustino Dương ướm hỏi:
– Có ai xuống đây lấy tin chưa chú?
Tự nhiên ông đó nổi trận lôi đình:
– Đ* má, tưởng đâu xuống đây giúp mình, dè đâu tụi nó lấy hình ảnh thương tật của con trai tui làm công cụ kiếm tiền.
Bá tánh gởi vô bao nhiêu, tụi nó lủm hết ráo; còn tui thì mang tiếng lấy tiền chữa trị cho con trai để đi chơi bời đánh đ*.
– Vậy sao chú lại tin tưởng tôi với mấy đứa học trò?
– Tui nghĩ Cha không thể vì mấy trăm ngàn mà bán Chúa đâu.
Augustino Dương chắp tay mà nói lời cảm ơn ổng.
– Tui mới phải là người cảm ơn các Cha với mấy Sơ đây.
Ít có ai cho quà thiện nguyện nhiều như vầy.
Nhưng, nhà tui hổng có biết uống sữa, quý vị lấy dìa mà đem tặng lại cho người thích uống đi.
– Dạ được.
Rời khỏi xóm nghèo một đoạn, Henrico Thạnh mới chòng ghẹo con bạn thân:
– Mày mà là Ma-Sơ chắc tận thế tới nơi.
– Nhờ đi chung với mày mà tao mới thành nữ tu đó.
Sau một ngày du ngoạn mệt nhoài, trước khi về nhà, nguyên nhóm ghé quán “Tuyết Ngân” bên Mỹ Tho ăn uống; sẵn ghé chợ đêm sắm đồ luôn.
Thể theo ý của Cha Dương, nguyên nhóm ngồi ở cái bàn tuốt trong góc, gần cái quầy nước giải khát, cho rộng rãi và ra – vô dễ dàng.
Đặt món xong, Henrico Thạnh niềm nở giới thiệu:
– Chủ quán hảo tâm lắm.
Tối nào cũng đãi bà con bán vé số một chầu no nê.
– “Mình ăn thì hết, người ăn thì còn.” Đó là quan điểm sống truyền từ bao đời nay của xứ Nam Kỳ mà.
– Augustino Dương vừa lấy chanh chà đũa vừa nói.
Ignacio Cường hỏi:
– Anh thấy ăn ở đây sao Thạnh?
– Ngon hay dở khó nói lắm.
Hạp khẩu vị mình đưa vô “quán ruột”, còn không hạp thì kiếm chỗ khác.
Chớ chê hay khen người ta theo ý mình coi kỳ lắm đa.
JB Khải ngó thái độ dịu dàng của cô Xuân dành cho Stephen Đoàn thì tự nhiên cảm thấy hết sức khó chịu.
Cô Theresa Thảo chẳng có tình ý gì với anh mà hai người còn bị hàm oan được; huống hồ chi là…
Biết hai đứa nhỏ thích ăn hoành thánh nên ông Tía mua thêm cho mỗi đứa một chén.
Anh Tư Vinh cũng mua cho ba má, ba má vợ và vợ con anh – mỗi người một phần; ngẫm đến chuyện xảy ra hôm nay mà anh bật cười tủm tỉm, tự nhiên không anh thành Linh mục luôn.
Trước lúc lên xe, ông Tía hỏi hai anh em:
– Ăn bún bò hôn? Tía mua cho mỗi đứa một phần.
Thằng anh hướt mà đáp liền:
– Dạ, Tía.
Augustino Dương vừa nối gót con trai vào quán bún bò vừa trách nhẹ:
– Sao hổng cho hai đứa nó đi học, mậy?
– Giấy tờ không có thì phải chịu cảnh “vô học” thôi.
– Bộ lúc tụi nó bỏ trốn không mang theo được một miếng giấy nào sao?
– Con nít mà Thầy.
– Mày coi chừng bị vu khống tội “Bắt cóc” đó con.
– Con báo chánh quyền rồi.
Còn muốn vu khống, tùy ý họ.
Anh Tư Vinh vẫn chọn đi phà thay vì chạy qua cầu.
Một phần do anh muốn nằm ngủ một xíu, phần nữa là do đang kẹt cầu; thành ra đi phà an toàn hơn.
Trong lúc chờ phà tới Cầu Bắc, nhóm tu sĩ, hai cô gái ngoại Đạo và hai đứa nhỏ kéo nhau ra mỏ phà đứng hứng gió và ngắm cảnh.
Sóng nước đục ngầu phù sa lướt theo đuôi phà sát nhíp.
Những vạt lục bình trôi giạt trông xa như những bảng màu xanh biếc bị họa sĩ nào đó vẽ chán chê rồi vứt bỏ xuống đây.
Mùi nước sông khăng khẳng, không mấy dễ chịu xộc vào khứu giác từng người; ấy vậy mà trẻ nhỏ sống ven hai bờ Tiền Giang vẫn hồn nhiên nhảy ùm xuống tắm và nô giỡn với nhau.
Bên kia bờ, thuộc địa phận Mỹ Tho, những nhà bè san sát nhau như cá mòi sắp trong hộp, những ánh đèn điện leo lét phát ra từ “khu dân cư” ấy hệt các “Vết lăn trầm” mà màu thời gian để lại; những ngôi nhà đơn sơ ấy đối lập một cách hoàn toàn với dãy nhà gần kề đang xây cất dở dang, chỉ cách một con đường mà mức sống giữa hai “khu dân cư” chênh lệch một cách nực cười và đầy mai mỉa.
Nhìn qua địa phận Kiến Hòa cũng không khá hơn là bao, vì ven bờ sông thuộc khu dân cư nhà vườn nên chỉ có một vài bóng đèn công cộng chiếu sáng, còn lại là tù mù trong đêm hết; mới tới đây lần đầu sẽ chỉ thấy những bóng dừa cao đến trời xanh và cây lá miệt vườn xanh màu bình yên và nhàn tản.
Henrico Thạnh chỉ tay về phía cầu Rạch Miễu:
– Cái rẻo đất nằm dưới chưn cầu là do công sức bồi đắp của một người dân bên Cồn.
Sau 75, rẻo đất đó bị cướp, còn người đàn ông thì bị tù đày do không chịu giao đất cho chánh quyền mới.
JB Khải bình phẩm:
– Đáng ra cầu này nên làm bốn lằn đường và hai lằn phụ dành cho xe dừng lúc khẩn cấp.
– Phải.
Henrico Thạnh chợt ngó Thầy anh mà cười chúm chím:
– Thầy, kể chuyện tình của Thầy đi Thầy.
Augustino Dương ngượng ngùng gãi tai, rồi cũng đành thuận theo lời ngỏ của đứa con trai tên Thạnh:
– Năm đó rộ lên phong trào nhạc phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên, tao cũng hưởng ứng theo, ngày nào tao cũng nghêu ngao hát, “Em hiền như Ma-Sơ…, để ghẹo mấy con nhỏ học ở trường bên.
Ghẹo riết, tụi nó đổ quạu, nên đi méc với Mẹ Bề Trên.
Mẹ Bề Trên nghe chuyện liền bay qua trường tao mà hỏi tội Cha Bề Trên.
Tội nghiệp ổng, đang uống cà-phê mà bị sặc tới nỗi cái mặt y chang Phan Thanh Giản uống thuốc độc tử tiết vậy, làm bả tưởng đâu ổng cắn rứt lương tâm mà tự vẫn chớ! Sau cơn địa chấn, ổng biểu Cha Giám thị đi kiếm tao liền.
Cha Francis Hùng bực quá mới trách, “Trời đất ơi, tôi đâu phải Nha Quân Dịch mà suốt ngày đi bắt lính cho ông.” Cha Benedict Diệu xuống giọng năn nỉ Cha Phan-Sinh giúp giùm.
Rốt cuộc ổng cũng bị dụ mà xách theo cây “Đồ Long Đao” đi bắt tao về.
Mồ tổ cha nó!
Ignacio Cường bật cười:
– Sao Thầy?
– Mấy đứa bạn của tao á, trời ơi nó chỉ điểm hết! Thành ra chưa đầy mấy tiếng là ổng xách đầu tao về cái một.
Tao “uất hận” quá mà, tao mới lấy hơi làm Thành Được, “Khoan…!Trước khi giải con về trường luận tội, làm ơn làm phước cho con phân giải đôi…!lời…” Tao ca xong, chưa kịp hớp miếng nước cho thông cổ, đã nghe ổng oang oang trách cứ.
Đáng ra tao hổng có bị đi qua trường tụi nó lau cổng rào, chỉ bị trực nhật một quý thôi, mà tại nghe tao ca thấy ớn quá nên Cha Phan-Sinh tăng hình phạt.
Chiếc phà đang lướt gần tới Cồn Phụng.
Những kiến trúc năm xưa đã mai một hương sắc đi nhiều; cảnh cũ tịch liêu trong đêm Thu hôn ám càng khiến lòng lữ khách thêm nặng trĩu.
Henrico Thạnh thúc giục:
– Thầy, kể tiếp đi chứ Thầy.
Augustino Dương hồi thần.
Ông gượng cười mà thuật tiếp:
– À…!Trong khoảng thời gian đó, Thầy có quen với một nữ sinh Bắc Kỳ bên bển.
Con nhỏ đó có cái miệng hô hình nên mỗi lần gặp mặt là Thầy lại hát, “Này cô em Bắc Kỳ nho nhỏ, này cô em có cái miệng hô hô…” Nó tức dữ lắm mà không làm gì được Thầy, chỉ đành câm nín chờ cơ hội báo thù.
Rồi cơ hội đó cũng đến, hôm đó tao quen miệng nên tiếp tục nghêu ngao hát bài “Em hiền như Ma-Sơ.
Sẵn có bà Ma-Sơ làm chứng, nó nói tao ghẹo nó.
Vậy là tao bị giải lên văn phòng chờ nghe xét xử.
Mấy đứa học trò của Augustino Dương đã hiểu rõ căn cớ nào đã khiến ông không được điều đi quản xứ.
– Lên trên đó tao cự, “Ai thèm hát bài này cho con khô cá hố kia chớ.” Mẹ Bề Trên giận dữ-lắm.
Bà mới qua trường tao đòi nói chuyện với Thầy chủ nhiệm lớp tao.
Tao bị phạt tiếp.
Sau đó, nó về hỏi mấy con nhỏ trong lớp, “Khô cá hố là gì thế chúng bây?” Công nhận nghen, mấy con nhỏ Nam Kỳ đó phải làm trong Bộ Ngoại Giao hay Hàng Không Dân Dụng mới xứng tài, tụi nó “dịch thuật” vô cùng rõ nét và dễ hiểu, tới mức con kia nghe xong tức quá khóc òa rồi a-lê-hấp chạy ra kiếm tao để chửi.
Trời mau tối thấy ghê.
Chưa chín giờ mà cảnh vật đã chìm trong đêm đen ma mị.
Những bóng dừa trông như thể những người khổng lồ mang nước da hắc ín đang quơ quơ những cánh tay mà xua đuổi họ.
Đom đóm lập lòe bên những bụi cây bần rậm rạp và trổ bông trắng ngần.
– Tới bữa đó, gần mãn hạn rồi, bỗng nhiên nó chọi vô lưng tao cái gì đó.
Mới đầu tao tưởng nó “hành thích” tao không; đến chừng lụm lên giở ra coi mới thấy nắm xôi xéo.
Cái mỏ hô hình mà còn dẫu dẫu lên nhìn muốn vả dễ sợ.
– Rồi Thầy có ăn hôn Thầy?
– Tao thấy hổng có thiu thì tao quất luôn.
Đang đói nên tao ăn hết trơn hết trọi.
Hình như nó vui lắm khi biết tao ăn ngon miệng.
Cũng may phước đêm đó tao hổng có “Thức trọn đêm nay để nhớ thương em…”
Bẵng đi một thời gian, nó thương tao, và tao cũng thương nó.
Nhưng không có cái hôn, không có nắm tay, cũng chẳng có một bức thơ tình…!Tụi tao chỉ có vòm me xanh ngắt, lội bộ quanh bùng binh Cây Liễu hay các khu chợ sầm uất của chốn đô thành, những buổi sáng Chúa Nhựt đi Lễ cùng nhau, hay đôi lần ra phụ mẹ nó bán xôi.
Do sắp tới Cầu Bắc nên anh Tư Vinh gọi điện báo cho họ mau trở về xe.
Trên đường về, trong lúc chen chúc giữa tứ bề người và xe, ông Cha Dòng tuổi hạc ấy kể tiếp:
– Sau năm 75, nó biến mất, tao chới với trong vòng xoáy “Thời thế – Thế thời”.
Rồi trong một lần theo phái đoàn sang Mỹ hành hương các di tích liên quan tới lịch sử thành hình Cơ-Đốc Giáo, tao đã gặp lại con khô cá hố năm nào – nay đã là một “lão bà bà” gần đất xa trời ốm nhom ốm nhách như con mèo hen.
Ba má và em nó chết trên biển Đông, anh Cả nó chết trong tù cải tạo; buồn đời nên nó đã trở thành Ma-Sơ trên miền đất hứa Hoa Kỳ.
– Vậy là bài hát của Thầy ứng nghiệm rồi.
– Henrico Thạnh bình phẩm.
Augustino Dương gật đầu trong hai hàng lệ nhòa nóng rẫy:
– Nó biểu, “Tôi chả còn là con khô cá hố năm xưa nhá.” Cũng cái chữ “nhá” muốn vả vô mỏ một cái cho bõ ghét năm nào, vậy mà năm ấy Thầy đã khóc khi nghe lại chữ đó.
Rồi nó trách, “Phải chi năm đấy ông chịu đi vượt biên thì tôi đâu có làm Ma-Sơ.” Thầy đã hát tặng nó bài “Con đường tình ta đi” của nhạc sĩ Phạm Duy mà Duy Quang và Sĩ Phú đã trình bày rất hay…!Đến lúc tao ca lên câu hát, “Hỡi người tình học trò, hỡi người tình năm xưa, bóng người từng in dấu trên đường mờ…” Tao với nó khóc ngon ơ.
Ignacio Cường thắc mắc:
– Dung mạo Sơ ra sao hả Thầy?
– Nó được một Giáo dân là nha sĩ giúp chỉnh nha nên khuôn miệng nó bớt hô rồi.
Mặt mày dễ coi hơn ngày xưa nhiều lắm.
Rồi nó đồ xôi cho tao ăn.
Nó nói nắm xôi hồi đấy ông ăn là của tôi nấu đấy nhé.
Tao mới biết lý do gì mà nắm xôi năm đó dở như hạch; tao còn tính hỏi nó chỗ nào bán để mốt tao né nữa.
Kiều Xuân hỏi nhỏ:
– Giờ ăn thấy sao hả Thầy?
– Ngon lắm.
Stephen Đoàn vừa khui chai nước suối vừa nhìn ra mỏ phà.
Chùa của Ông Hai Đạo Dừa chỉ còn thấy lờ mở những vệt màu, những ngọn đèn tân thời trông xa như một sợi dây chuyền vàng rực được đặt trên vùng xương cổ của người khổng lồ.
– Nó nói năm xưa thương tao vì thấy tao rất đẹp trai và có duyên…!Còn tao, tao thương nó vì thấy nó ngồ ngộ mắc cười..
– Xuân.
– Dạ? – Kiều Xuân đáp trong khi nhận lấy chai nước từ tay người thương.
Stephen Đoàn đưa bọc thuốc cho nàng:
– Uống thuốc đi.
…
Sau khi khóa trái cửa nẻo kỹ lưỡng, Henrico Thạnh mới cùng hai anh em nhỏ tuổi lên xe ngồi.
Không có giấy tờ rõ ràng nên hai đứa nhỏ không thể nhập học, do đó anh phải lên Sài Gòn làm đơn nhận giám hộ cho tụi nó.
– Tía…!- Hai Lúa nói trong hai hàng nước mắt.
– Tía đừng giao tụi con cho người ta nghen.
Tụi con muốn ở với Tía hà.
oOo
– Lạp xưởng Cai Lậy…
– …!ăn không ngon thì thành “Cay cú”.
– Tao bưng tới miệng mà còn giở giọng chê bôi hả?
– Mày đừng nói với tụi nó là tao sẽ lên núi Ông Trịnh trốn nha?
Số Hai ngó Số Một mà cười khổ:
– Không biết thằng Tín trốn ở đâu mà ngon quá.
Phải chi biết chỗ tao với mày lên ở chung với nó cho vui.
– Vui cái con c** tao chứ vui.
Biết đâu nó giả bộ giác ngộ để đưa tụi mình vô tròng thì sao?
Nghe ngoài sân có tiếng ì đùng, hai con số hốt hoảng chạy xuống nhà sau núp.
Chừng nghe tiếng chửi con ở eo éo của “chị” chủ nhà, hai thằng khứa mới thở phào nhẹ nhõm và bình tâm bật gas lên nấu món ăn cơm.
Ăn ở sao mà thấy ai cũng là “oan gia trái chủ” vậy Trời?
oOo
Ignacio Cường kiểm tra thùng phước sương trước khi vào nhà thờ coi sóc việc trang hoàng Cung Thánh cho Mùa Vọng.
Anh bạn đồng tu của anh đã tới trường Dòng dự giờ; còn Thầy Sáu thì đang dạy Giáo lý cho lớp Tân Tòng tổ chức ở tu xá.
Vừa theo dõi nhóm Thừa Tác Viên, chàng Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế vừa soạn bài giảng và văn án cho hôn lễ được cử hành vào sáng ngày mốt.
Xong chuyện ở đây, anh sẽ tới bịnh viện thăm hỏi Giáo dân bị đụng xe và làm Bí Tích Chữa Lành cho người ấy.
Nếu bận về còn sớm, anh sẽ ghé qua tu viện của các Sơ để phục vụ văn nghệ cho các trẻ em cơ nhỡ đang được nuôi dưỡng tại đó.
Tối muộn, anh lại phải kiểm tra tập phiếu lãnh quà hòng tránh chuyện người thì không có – kẻ lại được dư.
– Cha ơi.
– Ơi?
– Cha dòm thử coi Cung Thánh bày trí đúng cách chưa?
Ignacio Cường rời khỏi hàng ghế mà bước lên Cung Thánh ngắm nghía.
Rồi nghiêm giọng mà biểu sửa lại vài chỗ để không phạm Thánh.
Sắc diện y hệt Bao Công lúc ban lịnh trảm của anh đã khiến nhóm Thừa Tác Viên không dám hó hé hay cự nự, dầu chỉ là một tiếng thôi.
– Bánh mì tới rồi, Cha ơi!
– Nghe rồi!
Ignacio Cường mời mọi người ăn bánh mì thịt và uống cà-phê đá rồi hãy bắt tay làm tiếp.
Nhóm Thừa Tác Viên gật đầu thưa ông Cha Sở một tiếng rồi líu ríu kéo nhau ra sân sau ăn điểm tâm.
Chưa kịp trở về chỗ ngồi, Ignacio Cường đã thấy Louis Quế đứng bên cạnh thùng phước sương.
Mải lo đánh máy nên anh không hay rằng giờ Giáo Lý đã kết thúc từ một tiếng trước.
– “Bỏ vợt” tháng này sao rồi Thầy Sáu?
– Tiền giỏ vẫn chưa thâu đủ, thưa Cha.
– Ai đứng ra thu tiền?
– Cha Mỹ.
– Lý do nào không đóng?
– Một chánh đáng, còn bốn thì không.
– Kể cho tôi nghe về bốn trường hợp sau.
Sáu Quới tính không trả lời, nhưng nhìn ánh mắt của Cha Sở một đỗi chú thấy sợ quá nên khai hết luôn.
Nghe xong, Ignacio Cường chỉ biết thở dài thườn thượt:
– Ít người Lương biết bên Đạo mình cũng có những khoản tiền cần đóng, chứ không phải là vô không.
– Chắc có lẽ là do chúng ta tổ chức trong nội bộ nên không mấy người ngoại Đạo biết.
– “Lộ liễu” hay “Kín đáo” mà thu tiền quá trớn thì đều đáng bị lên án hết.
Ngừng một lát, Ignacio Cường mới nói tiếp:
– Tôi sợ Giáo dân sẽ bao che cho tôi nếu như tôi làm sai.
Thà cứ như bên Phật Giáo, ai sai – ai bậy cứ hê lên hết, đừng kiếm chước xóa tội hay vu khống người phát giác “muốn chia rẽ Giáo Hội” hay là “tay sai của Satan”.
– Tôi biết Cha đang nhắc tới chỗ nào rồi…
– Phải, “Giáo sĩ trị”.
Vòng hoa treo trên cây Thánh Giá dựng nơi Cung Thánh bất ngờ bị gió kéo tuột xuống.
Hai người quản xứ ngó về hướng ấy bằng cái nhìn trân trân.
Ignacio Cường nói với giọng rầu rầu:
– Cái mụt nhọt trên lưng mình mà không lo chữa trị, ắt có ngày sẽ chuyển sang ung thư.
– Thật ra nhiều người thích nặn mụn cho kẻ khác nhưng chẳng đoái hoài gì tới thân thể mình.
– Đi kiếm Cha Mỹ về giùm tôi.
Tôi còn phải cộng sổ sách và ghé nhà các Giáo dân không đóng tiền hỏi thăm nữa.
Phần việc tôi giao cho Thầy là dễ chịu nhứt rồi đó.
– Dạ, thưa Cha.
Chừng nhóm Thừa Tác Viên trở lên nhà trên thì Ignacio Cường đã rời đi mất.
– Chẳng hay ngọn gió nào đã thổi Cha Sở tới đây?
– Nợ.
Gia đình Giáo dân sống bằng nghề bán rau cải ngoài chợ sửng sốt hỏi:
– Ủa? Con kêu thằng Út đi đóng rồi mà.
– Nó đi ủng hộ tiệm Internet bên Quận Nhì rồi.
Người chồng ráng dằn xuống cơn tức giận mà xin Cha Sở cho gia đình thiếu thêm một tuần nữa.
Ignacio Cường gật đầu đồng ý ngay tắp lự.
Dù muốn dù không, Ignacio Cường cũng phải đi thông báo cho Giáo dân hay về những trương mục cần đóng góp sắp tới.
Sau hơn hai tiếng dang nắng mệt mỏi, Ignacio Cường bỏ ra nhà mát ở khu Đông ngồi hứng gió cho khuây khỏa tinh thần.
Những lời nói nặng – nhẹ, gần – xa của bầy Chiên trong xứ đã khiến anh buồn rười rượi.
Anh đâu có bỏ túi cắc nào đâu mà nỡ lòng nào bà con lại thốt ra như vậy.
Trời chớm lập Đông.
Những cơn gió Thu cuối mùa làm dao động mặt hồ sen; giống sen này do Đức Cường đem từ Đồng Tháp lên trồng, gồm ba loại: Màu hồng, màu trắng và màu tím, quanh năm tỏa hương thơm phức.
Nhắc tới sen mới nhớ, cây xoài Cát Hòa Lộc đang phủ bóng trên nóc nhà mát là của Alphonso – Lữ Gia Hạp; không biết “Giờ này anh ở đâu?”.
Nắng buồn nhạt màu rọi ánh xuống Giáo xứ đang hồi xôn xao, rộn rịp.
Không biết làm gì hơn, Đức Cường lần chuỗi Mân Côi mà rì rầm đọc Kinh Sáng Danh.
Tiếng kinh cầu của anh lọt thỏm giữa tứ bề xô bồ nhịp sống.
– Cố Toàn.
Cố Phêrô Toàn vừa vẫy tay – cười vừa tiến lại chỗ mà cậu Cha Sở đang ngồi.
Tính ra quán làm ly bạc xỉu cho ấm người mà nghe tiếng bấc tiếng chì nên dạt ra đây ngồi cho lắng dịu tâm hồn.
Ai mà ngờ đâu, mông chưa kịp an tọa, tay của cố đã quơ trúng cái tép đựng giấy tờ làm bằng chất liệu mủ trong.
Đọc đâu được vài dòng, cố xụ mặt xuống mà hỏi:
– Cái gì đây?
Ignacio Cường cúi mặt mà nhếch cười trả lời:
– Danh sách những công trình cần xây cất để cải thiện phẩm chất Giáo xứ.
Cố Phêrô Toàn thảng thốt hỏi:
– Nhiều vậy ai đóng cho nổi?
Ignacio Cường ngửng mặt lên mà đáp:
– Nhiều vậy sao biểu con đứng ra thu tiền.
Đã biết trước việc này là bất khả thi rồi mà…
Cố Phêrô Toàn vỗ vai ông Cha Sở đáng tuổi cháu mình:
– Sáng giờ nhức lỗ tai dữ lắm phải hôn cháu trai của cố?
– Muốn lên bờ xuống ruộng với Giáo dân luôn.
– Thôi, “Ăn cơm Chúa, múa tối ngày” là lẽ thường tình mà con.
– Cố có hay mấy vụ Linh mục mới đòi xây lại những công trình của Linh mục cũ không?
– Có.
– Giờ một số Giáo dân trong đây đang nghĩ con như vậy đó.
Cố Phêrô Toàn ngó sững thằng cháu tên Cường.
– Con thấy ở Bến Tre có một nhà thờ xây cất rất hay: Phần nhà thờ cũ họ để nguyên, phần nhà thờ mới xây sát vách nhà thờ cũ; vừa có chỗ làm Lễ khang trang cho Giáo dân vừa giữ được di tích lịch sử, lại thuận tiện qua lại trông coi nữa chứ.
– Nhà thờ này hồi đó xây cất cũng trần thân lắm.
Giáo dân thì không có tiền, chiến tranh liên miên, các Cha bị điều tới điều lui như bông vụ; cho tới khi Đức Cha Vinh-Sơn Trung về làm Cha Phó thì nhà thờ này mới được hoàn thành, mà hoàn thành là nhờ vào tiền túi của Đức Cha.
Ignacio Cường nhìn gương mặt “ông trùm” một đỗi, chợt nhớ chỉ còn non chín bữa nữa là tới ngày mần đám giỗ của ông nội anh, tự nhiên anh cảm thấy tiếc nuối vì quãng thời thơ ấu không chịu về thăm ông thường xuyên.
– Thành ra ai nấy đều ráng sức giữ lại nhà thờ, chỉ cho tu bổ, không cho đập đi – xây mới.
– Cậu Bảy ở đâu hả cố?
– Ở xóm Đạo gần Thánh Thất Cao Đài Tây Ninh.
Lần nào về đây cũng biếu cố, Hội Đồng Mục Vụ, Linh mục và Thầy Sáu quản xứ mấy ký muối tôm Tây Ninh và cây trái ngoài ngoải.
Dòng họ cậu Bảy sống bằng nghề làm muối và làm vườn mà.
Bỗng từ đằng xa, Stephen Đoàn bước xuống từ chiếc xe xích-lô của một nam Giáo dân trẻ tuổi.
Cái cặp da mà anh đang xách mua ở chợ đêm dưới Mỹ Tho, còn cái cặp cũ anh để dành cất giữ tư liệu.
– Cố mời hai con đi ăn cà-ri Nị nghen?
Stephen Đoàn hớn hở báo tin cho Ignacio Cường hay rằng Giáo dân đã đồng ý chi tiền xây dựng Giáo dân.
– Làm cách nào mà anh thuyết phục được Giáo dân vậy?
– Thì mình nhỏ nhẹ giải thích cho bà con hiểu thôi.
Họ nghe thấy đúng thì sẽ làm theo thôi.
Rồi Stephen Đoàn dịu giọng nói:
– Trước mắt, xây vườn trẻ để bà con yên tâm đi làm kiếm sống.
Kế, sửa sang công lộ.
Cuối, lập thêm vài bốt cứu hỏa và chỉnh trang ống dẫn thủy.
– Ăn cà-ri hôn mấy đứa? Cố mời mà sao hổng ừ hử gì vậy?
Hai ông Cha ngó nhau mà lắc đầu cười mỉm chi.
Quán cà-ri Nị nằm gần một ngôi đền Ấn Độ Giáo cổ xưa, cả quán lẫn đền đều không lúc nào ngớt khách.
Nhưng dù đông khách, chủ quán vẫn giữ nguyên bàn nhựa – ghế xúp; thành ra hơi khó ngồi và mỏi gối đối với những người cao kều.
Chủ quán gốc Chà Và, da ngăm, tuy thân hình phốp pháp và hơi lùn song không gây cảm giác nặng nề, ục ịch; lúc nào vô quán cũng thấy ông đang lăng xăng làm việc, hết tính tiền, ghi toa rồi lại dọn bàn cho khách, cũng vì ông quá siêng năng nên không có nhân viên nào dám ẩu tả hay biếng nhác.
Trong quán treo ảnh vợ chồng Chúa Vishnu và Nữ Thần Lakshmi đằng sau quầy thu ngân; bức ảnh được lồng trong khung kiếng có gắn đèn hào quang và đèn màu rất đẹp.
– Hai con ăn gì? Cà-ri dê nghen? Ăn bò, gà, vịt, heo hoài cũng ngán.
Hai chàng Mục tử nhoẻn miệng cười, thay cho một lời xác nhận với cố Phêrô Toàn.
Đoạn, ông kỹ sư xây dựng cất giọng mời hai người Cha trẻ ăn chà-là.
– Ở đây không có kền kền hay diều hâu nên Cường con hãy nói cho cố biết người đó là ai?
– Làm gì không có hả cố? Liếc mắt một cái là thấy liền hà…
Cố Phêrô Toàn giật thót.
– Mà, rõ ràng chuyện đó đâu có liên quan tới con, nên kể ra cũng chẳng sao hết.
Ông này nói mình chỉ đâm có ba nhát vô nạn nhân: Hai nhát trúng tay và một nhát xuyên vai, nên không đáng bị lãnh án tử hình…
– Khoan, con đồng ý với mức án mà tòa đã tuyên hay là không?
– Con không đồng ý.
– Cố cũng không đồng ý.
Chung thân là quá đáng lắm rồi.
Stephen Đoàn cau mày hỏi:
– Có phải “Có lửa mới có khói” không anh Cường?
– Đúng.
Cố Phêrô Toàn thở hắt ra một hơi:
– Vậy là người này chết chắc rồi…
Ignacio Cường gật đầu.
– Nhưng mà con có biết người này đang ở đâu không?
“Xoảng.”
Vị khách bàn bên vuột tay làm rớt chén nước tương.
Ignacio Cường xụ mặt trả lời:
– Nghe đâu trốn qua Miến Điện hay Nam Dương bằng đường thủy rồi.
Con cũng nghe phong thanh vậy thôi chứ chẳng chắc chắn.
– Chắc là cái người nói cho anh biết lộn tiệm rồi.
Bữa hổm Thầy Sáu Quới còn bị cảnh sát mời làm việc vì tưởng đâu là ông Sáu Quới phi tang xác kia mà.
– Ừ.
Cố Phêrô Toàn cười hiền:
– Với lại tiền của đâu mà đi vượt biên.
Stephen Đoàn cau mày nghĩ ngợi.
– Mà con kiếm ông đó chi vậy?
– Con bỏ quên chuỗi Mân Côi ở chỗ ổng.
– Lấy lại chưa?
Ignacio Cường giơ chuỗi Mân Côi lên cao.
Rồi nửa đùa nửa thật nói:
– Cũng may chưa có ai thắt cổ bằng chuỗi Mân Côi…
Chủ quán đang mở bài hát mang tên “Namo, Namo – Kedarnath” do nữ ca sĩ Ấn Độ Sumedha Karmahe trình bày; một bản nhạc chúc tụng Chúa Shiva trong văn hóa Ấn Độ Giáo, người hát ca khúc này đầu tiên là nam ca sĩ Amit Trivedi.
– Hầu hết những ai yêu nhau đều mong chuyện tình của họ sẽ trường tồn như vợ chồng Chúa Shiva và Nữ Thần Parvati, thành ra họ sẽ đến đền thờ của hai vị ấy mà cầu nguyện hoặc viếng thăm – làm Lễ trước ngày đám cưới.
Đôi tình nhân trong phim này vì bị định kiến xã hội ngăn cách với nhau nên đã khẩn cầu Chúa Shiva tác hợp cho họ, để họ được ở bên nhau muôn đời như Ngài và Nữ Thần Parvati.
Thấy khách ngồi chờ khá nhiều, ông chủ quán bèn mở bộ phim “Nàng” do Thẩm Thúy Hằng và La Thoại Tân đóng chính cho mọi người xem.
Chừng hết phần Một của bộ phim, nhân viên mới dọn bàn cho ba người.
– Ba cơm cà-ri dê, ba ly chanh muối, ba chén muối tiêu – chanh – ớt, ba cái đùi gà chiên, ba dĩa gỏi dưa leo…!Đủ há?
Ba người đồng thanh chắp tay mà nói lời cảm ơn cậu nhân viên.
Ignacio Cường là người khởi xướng đọc bài Kinh trước giờ ăn, ông trùm và Cha Phó thành tâm đọc theo lời anh.
Kết thúc buổi cầu nguyện, ba người làm dấu Thánh và nói “Amen” một lượt, rồi mới mở mắt ra mà cầm đũa hoặc muỗng lên để bắt đầu dùng bữa.
Đã lâu lắm rồi hai ông Cha trẻ mới được ăn một bữa lạ miệng như vầy.
Thường ngày họ chỉ ăn sơ sịa cho đầy cái bao tử chứ không có ăn những món cầu kỳ hay tốn kém.
– Nếu năm đó Giáo dân trong xứ tôn sùng Cha Sở một cách điên khùng, ắt hẳn đã có nhiều con Chiên bị mất mạng vì cuồng tín.
Cũng may bà con sáng suốt và “tin Chúa hơn tin Cha”.
Ignacio Cường gật đầu:
– Người ta tố giác cái sai của Linh mục, nếu kiểm chứng thấy đúng thì phải đứng về phía họ, chứ đừng có mù quáng bênh vực hay hùa vào “đánh hội đồng” người ta để bao che cho kẻ giả hình đó.
– Cố thấy nhiều rồi con.
Stephen Đoàn lên tiếng:
– Tụi con là Cha trong nhà thờ, nhưng ở đây, tụi con là cháu nuôi của cố.
Xin đừng vì vai trò Ngôn sứ của tụi con mà bao che lỗi lầm hay cả nể cái sai đáng trách.
– Suốt ngày cứ đem câu “Giáo hội bị chia rẽ” để làm cái cớ dập tắt sự tố giác…
– Cường.
– Dạ?
– Con thì bị cô lập vì cái tánh thẳng thắn và ương bướng, Mỹ thì bị xa lánh vì vẻ bề ngoài tà ác.
Hai đứa bây đúng là một đôi Linh mục quản xứ độc nhất vô nhị.
Ignacio Cường cười xòa, đoạn hối cố Phêrô Toàn mau cầm muỗng lên ăn cơm.
Sau giờ cơm, hai ông Cha chia tay cố Phêrô Toàn mà đến bịnh viện thăm người Giáo dân bị đụng xe.
Sợ người đó đói bụng nên hai chàng bèn hùn nhau mua một phần mỳ vịt tiềm ở quán “Hương Ký Mỳ Gia” làm quà tặng.
Người Giáo dân ấy hết sức mừng rỡ với sự xuất hiện của hai ông Cha.
Vì bị kẹt tuổi nên anh phải ở lại đây một mình, còn người thân đã sang Mỹ hết ráo, thành ra lúc gặp chuyện chẳng có lấy ai đỡ đần hay phụ giúp; dự kiến tháng Tư năm sau anh sẽ lên đại sứ quán Hoa Kỳ phỏng vấn để qua bển đoàn tụ với đại gia đình.
Rời khỏi bịnh viện, hai ông Cha lên taxi mà trong lòng hãy còn phân vân về điểm đến tiếp theo.
– Anh muốn mua khẩu cầm mới?
– Phải.
Vậy là bữa nay Ignacio Cường quyết định không ghé thăm ký nhi viện do các Sơ cùng Dòng Chúa Cứu Thế quản trách.
Hiệu nhạc cụ tọa lạc tại ngã tư Hàng Xanh, diện tích áng chừng năm chục mét vuông đổ lại, với lối kiến trúc theo kiểu Tây Âu thời kỳ Hậu Hiện đại.
Trong cửa hàng có bốn nhân viên, bao gồm hai nam và hai nữ, độ tuổi của bộ tứ đều dưới ba mươi.
Stephen Đoàn cầm cây harmonica vàng óng lên ngắm nghía.
Đời anh chưa từng được sở hữu một lượng vàng nên anh chẳng biết cây này là hàng thật hay hàng giả.
Coi chán rồi, anh bước lại kệ trưng bày khẩu cầm có giá khá rẻ mà tìm mua cho mình một cây vừa túi tiền.
– Thưa quý khách, có người đã trả tiền giùm ông rồi.
Cô nhân viên có đôi má lúm đồng tiền trao cho Stephen cây harmonica vàng óng bằng cả hai tay.
– Vàng thật hả cô?
– Không, vàng lá thôi.
Nếu sau này nó bị tróc-xi, quý khách hãy ghé chỗ chúng tôi tân trang, chúng tôi sẽ tính giá thật rẻ cho.
Ignacio Cường đâm ra nghi hoặc.
Nhưng vẫn ráng tỏ ra xuôi xị để yên lòng anh bạn đồng quản xứ.
Và cũng thật tình cờ, vừa mới bước ra ngoài, hai chàng tu sĩ đã thấy một chiếc xe taxi đậu sẵn ở đó.
– An…!Andrew Hồ? – Ignacio Cường thở phào nhẹ nhõm.
– Mời hai Cha lên xe.
Tôi cũng đang tính về thăm Giáo xứ một chuyến.
Ignacio Cường nhướng mày cao một khúc nào.
Lẽ nào người vừa mua khẩu cầm cho Stephen Đoàn là anh ta sao?
– Cha Mỹ biết thổi khẩu cầm hả? Chơi một khúc được không?
Stephen Đoàn bèn thổi bài “Kiếp nào có yêu nhau” do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ thơ của thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh.
– Sao Cha thổi được hay vậy? Bài này khó chơi thấy mồ…
Andrew Hồ nói mà trên môi không nở lấy một nụ cười.
Thông qua kính chiếu hậu, Ignacio Cường nhận thấy ánh mắt của con Chiên lạc có điều chi ám muội.
Để đáp lễ, Andrew Hồ mời hai ông Cha nghe bản “Phố đông người” do Chế Linh ca, trong bài này nhạc sĩ Giao Tiên ký tên là “Diễm Đào”:
“…!Đường phố hôm nay người vẫn đông người
Trên con phố vui tôi bước lẻ loi
Tiếng chuông Giáo đường buông lơi
Lá me xếp đầy trên lối
Thị thành ơi người ấy đâu rồi…”
– Bài mà Cha Mỹ vừa thổi đối lại bài của tôi thật xứng.
Không hẹn mà hai ông Cha đều cảm thấy có cái móc câu treo lơ lửng trong câu nói của Andrew Hồ.
– Hai Cha có muốn đi đâu không?
– Đi về.
– Ignacio Cường gằn từng tiếng một.
Andrew Hồ nhếch miệng cười.
Nhưng anh ta không chiều ý hai ông Cha mà lái xe đến một tiệm may kiêm sạp vải gần chợ Bến Thành.
Tới nơi mới vỡ lẽ đây hiệu buôn của gia đình cô Giáo dân Hoàng Lan.
Vì tuổi tác đã cao nên công việc ở đây khoáng trắng cho cô hết, đâm ra thần kinh của cô luôn căng thẳng dẫn đến sắc mặt thường xuyên cau có và dễ đổ quạu.
Ignacio Cường lên tiếng gọi:
– Cô Hoàng Lan.
Stephen Đoàn ngập ngừng nói:
– Tôi muốn đặt may một chiếc áo dài.
– Cha có số đo không?
– Cô nghĩ sao mà tôi có?
– Có chi đâu mà Cha mắc cỡ.
Nhiều Linh mục vẫn mua áo dài tặng Dì phước đã từng dạy học cho mình mà.
– Chắc…!cao không quá mét sáu, dáng gầy như liễu yếu, nước da xanh tái vì thần kinh thường xuyên bấn loạn.
– Mùa Xuân thì cần có chim én.
Ignacio Cường biết bạn mình muốn trả nghĩa thết đãi món giò heo nên sắc mặt vẫn bình thường.
– Được, nền vàng mỡ gà, đính kim sa theo kiểu họa tiết chim én, bâu áo cách tân cho người mặc bớt “cứng tuổi”.
Bên tôi đơn hàng nhiều quá nên cha ráng đợi thêm nửa tháng nữa nha.
– Dạ.
Thì ra Andrew Hồ tới đây để lấy áo dài về cho bà nội.
Đây là món quà mừng Lễ Thượng Thọ của nội nên đích thân anh phải kiểm tra kỹ lưỡng.
oOo
Tại cơn mưa bất chợt hay do Thiên Chúa cao quý đang muốn thử thách chàng tu sĩ đa sầu đa cảm mà mãi đến tối mịt anh mới có mặt tại xứ dừa.
Đang lui cui trụng xương để đem hầm làm nước lèo, thím Năm nghe thấy tiếng kèn xe quen thuộc vang lên nên bỏ hết công việc mà chạy ra mở cửa rước vô.
– Mỹ hả con?
– Dạ, con đây, thím Năm.
Không làm phiền hai đứa nhỏ nói chuyện, thím Năm trở vào bếp nấu sơ chế nguyên liệu tiếp.
– Quà sinh nhật của Xuân.
Vừa nhìn thấy cái áo dài, Kiều Xuân liền đòi mặc thử cho người thương coi.
Kiều Xuân mặc vào thật đẹp.
Cái áo may kiểu cổ điển nên phần cổ áo ôm gọn lấy phần cổ và không để lộ vùng xương ức.
Eo áo được chít lại và phủ vạt kín đáo.
Còn tà áo phủ qua đầu gối một chút.
– Được hôn anh?
– Đẹp.
– Stephen Đoàn bồi hồi nói.
– Mẹ tôi hồi đám cưới cũng mặc áo dài màu này.
– Anh ăn gì chưa?
Stephen Đoàn lắc đầu.
Tâm trí anh đang mường tượng hình dung người mẹ quá cố trong bộ áo dài mà Kiều Xuân đang vận.
Thím Năm đã dọn cơm xong.
Bữa ăn chỉ có cơm cháy, tép mòng xào bầu, ơ kho quẹt và rau lang luộc; vậy mà Stephen Đoàn cảm thấy ngon miệng như ăn giỗ.
Kiều Xuân bỏ bụm thuốc hướng thần vô miệng rồi mà chưa chịu uống hớp nước nuốt xuống.
Cô ngậm thuốc mà nhìn người mình yêu cười ngỏn ngoẻn.
– Uống thuốc đi Xuân.
Kiều Xuân gật đầu, rồi ngước mặt mà nuốt nước xuống cái ực.
– Há miệng ra.
– A…
Stephen Đoàn giơ ngón cái lên, tỏ ý khen ngợi nàng uống thuốc giỏi.
Ngoài hiên mưa mù, gió thổi qua những lùm cây – tán lá nghe như tiếng người đang kêu hời hay than thở, vầng trăng qua Rằm chới với trong biển mây đen tối thui, dế mèn hát nho nhỏ với bầy lưỡng cư quanh bờ ao – mương độn.
Những chiếc xe gắn máy hắt vệt sáng lên mặt đường ướt đẫm và nhầy nhụa sình lầy.
Rồi đó, Ông Trời hết hứng làm mưa nên trả cho vầng trăng một bầu trời ráo hoảnh.
Biển mây đen thôi nuốt chửng lấy vầng trăng, chúng tản mát ra tứ phía, nhường chỗ cho biển sao minh mông bất tận.
Cảnh đêm bừng sáng dưới sắc vàng dịu êm của vầng trăng.
Hoa lá và cỏ cây đính đầy những giọt mưa trong văn vắt, trông như thể những hạt lưu ly trong suốt.
– “Áo em vàng anh về yêu hoa cúc.
Áo em xanh anh mến lá sân trường…”
– “Tuổi Mười ba” của thi sĩ Nguyên Sa hả anh?
Stephen Đoàn mỉm cười dịu dàng.
Kiều Xuân bỗng nhiên vỗ trán:
– Để em vô nhà lấy cây đờn guitar.
Anh ca cho em nghe nghen?
Đôi mắt của Stephen Đoàn nhòa lệ ngay sau khi nàng bước vào nhà.
“Yêu ai, yêu cả một đời.
Tình những qua khắt khe khiến cho đời ta đau tủi cả lòng” phải không nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh?
Cây đàn mà Kiều Xuân đưa cho Stephen Đoàn là guitar phím lõm, mượn của một anh nhạc công trong vùng.
Cây đàn vẫn còn rất mới, chỉ bị trầy xước một vài đường do vết móng tay cào phải hay va quẹt đâu đó.
Hai người sóng vai nhau ra sau hè.
Trăng đã ngả về Tây, chỉ còn lại một mảnh tròn bé xíu lốm đốm những chấm than đen, tuy vậy ánh sáng vẫn bừng bừng như cũ, không cần đèn măng-xông vẫn có thể mạnh dạn bước đi.
Kiều Xuân mời Stephen Đoàn ngồi lên thân cây dừa mà nhà cô mới đốn hôm bữa.
Vì là cây lâu năm nên trong thân có củ hũ và mộng dừa; hèn chi mà mấy ngày trước nàng có gởi cho anh ký mấy.
– Anh ca bài gì vậy anh Mỹ?
Stephen Đoàn cười buồn:
– Một sáng tác của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, mà tôi đã từng nghe qua với phần trình bày của Thanh Vũ với màn phụ họa của tam ca Tuyết Hằng – Mai Hương – Như Thủy; tình khúc ấy mang tên “Một lần cuối”.
Sau vài lần dạo phím và so dây, Stephen Đoàn vừa đàn vừa hát:
“…!Anh hát cho em nghe, anh hát cho em nghe
Một lần cuối cùng, một lần cuối, một lần cuối rồi thôi…”
Kiều Xuân lấy cành củi mục mà vẽ trên mặt đất những hình thù trừu tượng.
Nàng định tặng người mình thương một món quà, và đó là “Một lần cuối” nàng làm rộn lòng chàng.
Nàng đã quyết nương nhờ cửa Phật, làm Ma-Đăng-Già nối chí thoát khỏi Lục Đạo Luân Hồi như tôn giả Ananda.
Cho nàng xin hại chàng “Một lần cuối”.
Một lần cuối cùng rồi thôi…
“…!Anh khóc trên vai em, anh khóc trên vai em
Một lần cuối, một lần cuối, một lần cuối cùng để còn thấy lòng run lần cuối
Một lần cuối cùng thôi, em ơi…”
Kiều Xuân hôn lên môi Stephen Đoàn.
Chàng tu sĩ trung niên không từ chối cái hôn này.
Hai người lặng thinh cảm nhận nhịp đập con tim và làn gió heo may đang mơn nhẹ trên da thịt mình.
– Sao Mai…
Kiều Xuân ngẩn ngơ nhìn theo hướng ngón trỏ của người cô yêu.
Trên không trung chi chít sao, duy chỉ có một ngôi sao ở phương Đông sáng rực một cách bất thường.
Cô thấy vì sao ấy đang đậu lại trong tầm mắt người thương.
– Chúa gọi tôi về với Ngài…
Đôi mắt của Kiều Xuân nhòa lệ.
Cô gượng gạo tiễn biệt mối tình mộng:
– Vậy thôi anh về đi.
Nói đoạn, Kiều Xuân vùng đứng dậy, rồi vụt chạy vô vườn ổi mất dạng.
Stephen Đoàn đeo cái túi đựng cây đàn guitar lên lưng, rồi thẫn thờ dắt chiếc xe men theo hướng mọc của vì sao Mai kia.
Đi được nửa đường, anh sực nhớ cây đàn này đâu phải của mình nên hớt hải quành lại mà nhờ thím Năm gởi trả cho người nhạc công kia.
Trở về Giáo xứ lúc hừng đông, Stephen Đoàn cố tình lánh mặt anh bạn đồng tu, nhưng chạy trời vẫn không khỏi nắng, vừa bước vào cửa sau của tu xá anh đã thấy ngay Ignacio Cường – Anh ta đang ngồi trên bộ li-quăng mà đóng gói và dán nhãn các phần quà.
– Về rồi thì vô đây phụ tôi sắp quà đi.
– Dạ…
Stephen Đoàn ngồi dựa lưng vô cột nhà cho đỡ mỏi.
Lái xe xuyên đêm đã khiến cơ thể anh thấm mệt và thèm ngủ vô cùng.
– Cái áo anh mua ở đâu mà đẹp quá vậy Cường?
Ignacio Cường kéo ngực áo ra mà tươi cười kể:
– Đây là sản phẩm bị lỗi, người ta không giao cho khách được nên tặng cho tôi.
Ai ngờ vừa y luôn.
Tự nhiên đôi má Stephen Đoàn đỏ bừng.
Anh cảm thấy hổ thẹn trước người bạn đồng tu luôn tận hiến đời mình cho Chúa Trời và bầy Chiên này.
Anh nào hay nào biết, qua thái độ và cử chỉ của mình, Ignacio Cường đã đoán ra được anh đã ghé nơi đâu, nhưng chàng Cha Sở không đả động chi sất.
– Sao toàn văn phòng phẩm không vậy Cường?
Ignacio Cường nhún vai ngán ngẩm:
– Mạnh Thường Quân bữa hổm trốn đâu mất tiêu rồi.
Gói được đâu ba chục phần quà cho học sinh nghèo, Stephen Đoàn xin kiếu để về phòng tắm rửa rồi đi nghỉ mắt một chút.
Ignacio Cường cũng ngừng tay đặng ghé nhà Thầy Sáu ăn ké bữa sáng.
Căn phòng của Stephen Đoàn đang hưởng ngàn tia nắng, ấy vậy mà anh vẫn cảm thấy lạnh lẽo và u ám khôn cùng.
Dư âm nụ hôn đêm qua đã khiến môi anh tê dại và mất hẳn vị giác.
Tượng Chúa Jesus bị đóng đinh trên cây Thập Tự treo phía trên tủ búp-phê như đang ngẩng đầu lên mà nhìn thẳng vào mắt anh ướm hỏi, “Con có còn muốn đi theo Ta nữa hay không?” Những bức tranh ghi lại đời sống chủng sinh và mục vụ của anh tưởng chừng đang đồng thanh chất vấn anh về mối tình sai trái ấy.
Òa khóc, anh chỉ còn biết quỳ xuống trước tượng Chúa Jesus mà òa khóc tức tưởi, chuỗi Mân Côi in hằn lên lòng bàn tay anh theo từng đợt lần chuỗi sám hối.
Tiếng rao của một bà bán bánh trái miền Tây đã làm Stephen Đoàn sực nhớ tới buổi Rửa Tội chiều nay.
Rồi anh lại bật khóc nức nở; bởi lẽ tội con còn chưa rửa xong thì sao con dám thay mặt Ngài đi ban Bí Tích cho ai?
Anh lần từng bước mệt nhọc đến tủ quần áo đặng soạn đồ đi tắm.
Quần áo anh mua ở chợ đêm dưới Mỹ Tho hôm bữa đã điểm tô chút sắc màu tươi trẻ cho cái tủ cây cũ mèm ấy.
Tần ngần cầm coi cái áo thun in hình con cừu đen một đỗi, anh mới quyết định mặc nó; cái áo này vẽ con cừu với tư thế tay trái chống nạnh, tay phải gác lên cây xẻng dựng đứng và chân trái vắt tréo qua chân phải, phía sau vẽ quang cảnh nông trại vào ngày nắng đẹp.
Vì máy bị hư nên Stephen Đoàn phải chịu cảnh tắm nước lạnh.
Da thịt anh nổi từng cơn da gà, mùi hương Trái Cấm cứ thế tan tác theo tia nước từ gương sen phun xuống.
Đôi mắt của Xuân rất giống với mẹ anh, luôn nhìn anh đầy yêu thương và nuông chiều như vậy; chưa một lần hai người ấy nặng lời với anh, dẫu chỉ là một tiếng…!Trong khi nhắm mắt để gội đầu, anh hồi tưởng về ngày thi lên chức Linh mục của mình, lời nào anh đã hứa với Chúa và lời nào anh đã răn mình, bây giờ anh đều nhớ hết, nhưng lúc đứng trước Ái Tình, anh không còn nhớ chi hết, chẳng còn thuộc lời Kinh – câu Kệ – điều Răn chi hết.
Tiếng hát thư sinh của Duy Quang trong bài “Chỉ chừng đó thôi” của nhạc sĩ Phạm Duy và thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên như nói giùm tiếng lòng chàng tu sĩ lạc lối:
“…!Ta yêu em mù lòa
như Adam ngù ngờ yêu Eva khù khờ
Cuộc tình trinh tiết đó
Nhưng thiên tai còn chờ
Đôi uyên ương vật vờ
Chia nhau xong tội đồ
Đày đọa lâu mới tha…”
Tại sao mẹ anh lại chọn một người đàn ông tồi tệ như cha anh vậy kìa? Có phải như nàng, bà đã nhìn ra được nét đẹp và cái tốt ẩn giấu đằng sau bao sự tệ lậu của ông ấy không?
Trong lúc chàng Cha Phó đang rối bời giữa hai bến bờ Đời – Đạo, chàng Cha Sở cũng nặng trĩu ưu tư.
– Nè, bộ vợ tôi nấu bún măng vịt không vừa miệng Cha hả? Sao gắp thấy rầu vậy cha?
– Đâu, ngon lắm chứ, tại tôi lo cái chuyện chiều nay nên nuốt không trôi thôi.
Louis Quế bày vẻ mặt chưng hửng:
– Sao?
– Thì…!chắc chiều nay Thầy ra phụ tôi thay Cha Phó.
– Ủa? Ổng bị bịnh hả?
– Ờ…!ờ…!đại loại vậy.
– Mèn đét ơi.
Sao hổng đưa ổng qua đây để má tôi cạo gió cho.
– Cảm xoàng thôi mà.
Uống vài viên thuốc là “hồi sinh” thôi.
Má của Thầy Sáu nạt:
– Bậy bây.
Tướng nó ốm nhom ốm nhách dzầy bịnh dễ xuống sức lắm.
Lát đưa nó qua đây cho tao cạo gió.
Không thì để tao qua đó coi nó ra sao.
Ignacio Cường lắc đầu và khoát tay mà cản:
– Chắc ổng ngủ mất đất rồi ngoại.
Nếu được, trước khi tới nhà thờ làm Lễ Rửa Tội, xin Thầy đem cơm nước qua cho ảnh.
Louis Quế gật đầu đồng ý ngay tắp lự.
Bịnh tương tư nào có thuốc chi chạy chữa khỏi.
Ignacio Cường không biết nên vui hay nên buồn với “Trái tim còn trinh” của mình, chẳng bao giờ anh nghe nó gióng lên hồi chuông hoan lạc của Ái Tình thế tục, có lẽ tim anh đã bị liệt mất rồi.
Mong rằng không ai tới lên dây cót giùm anh.
Hãy để nó ngủ ngoan trong vòng tay Thiên Chúa.
oOo
Mỗi tỉnh lỵ của xứ Nam Kỳ đều có một hay nhiều loại cây ăn trái trứ danh; Bình Phước cũng không ngoại lệ, nơi đây nổi tiếng với trái điều.
Cứ hễ có dịp ghé đây là cô Tư Oanh lại mua vài ký hột điều lụa và trái điều tươi; thành ra sẵn tiện đường nên Augustino Dương sẽ mua giùm hai thứ đó cho gia đình con gái của người anh đồng Đạo.
Từ trên chòi canh, người đàn ông tứ tuần ấy nhảy xuống; tư thế tiếp đất nhẹ nhàng như loài linh miêu.
Chân mới vừa chạm đất, anh ta đã chụp lấy cây mã tấu giắt ở mặt sau cột nhà.
Ignacio Cường liền rút dao bấm ra thủ thế.
– Chẳng hay các hạ là cọp ở vùng nào?
– Tôi tên là Huỳnh Đức Cường, quê nội ở Đồng Tháp, còn quê ngoại ở Long An, phụng vụ Chúa ở Sài Gòn.
Trần Hoàng Huy nhăn mặt hỏi:
– Có phải ông kia nhờ anh đến đây hỏi thăm tôi không?
– Không.
Tôi tới đây là để hỏi thăm anh về tung tích của Alphonso – Lữ Gia Hạp, anh này là bạn đồng tu với tôi.
– Nói đoạn, anh chỉ tay về phía Henrico – Nguyễn Phước-Thạnh.
Trần Hoàng Huy ra hiệu cho đám đàn em lui xuống, rồi bước tới bắt tay với từng người tu sĩ.
Cái siết tay rất chặt của gã đã khiến ông Cha Dòng già nua đau quá trời quá đất.
– Rồi, ai nói chuyện với tôi? Ba, hai hay một?
Ignacio Cường nhận phần nói chuyện.
– Ông với anh đây muốn đi đâu thì tùy.
Trái cây chín nhiều lắm, muốn ăn cứ hái, khỏi hỏi khỏi xin khỏi kỳ kèo trả tiền.
Augustino Dương hứng chí nhờ thằng con tên Thạnh giúp mình leo lên chòi canh.
Đã lâu ông không được leo thang, vì chứng gai cột sống quái ác và xương cốt lụm cụm.
Ông leo lên trước ba bước, thằng con ông mới nối gót theo sau.
Hai thầy – trò hì hục leo đến hơn nửa tiếng mới lên tới chòi do cái lưng của ông Linh mục già cứ trở chứng bất thần hoài.
– Thạnh ơi Thạnh…!Lẹ, lẹ lên con…!Lên đây coi ruộng bắp tím rịm dzới vườn điều kìa…!Chúa ơi, mày chậm quá hà…
– Trời ơi, tui chậm là vì ai? Vì Thầy chớ vì ai nữa…
Đứng trên chòi canh có thể nhìn thấy toàn bộ sở đất này: Hơn hai phần ba cuộc đất dành để trồng điều, phần còn lại thì trồng bắp tím, khoai mì, sa-kê, ca-cao, chà-là, ổi ruột đỏ và lá nhíp; riêng công xưởng sản xuất sản phẩm nằm ở sở đất bên kia đường, đâu mặt với sở đất này, đại gia đình của chủ đất cũng sống ở đó luôn.
Vì sau lưng công xưởng giáp ranh với sông cái nên chủ đất phải đổ nền cao đến ba mét hơn, nhằm đối phó với mùa nước nổi và sự lên – xuống thất thường của con nước do thời tiết thay đổi hoặc lượng mưa cao quá sức; thành thử ra, ngôi nhà ba gian hai chái của họ bị “chìm nghỉm” đi rất nhiều, người ngoài đứng nhìn vô chỉ thấy một màu xanh cây lá và cái mái tole cách nhiệt của khu công xưởng bề thế.
– Bữa hổm Thầy cho con coi hai cái clip, rõ ràng hai ông Linh mục khác nhau mà Thầy lại nói là một.
– Tao già rồi mày ơi…!Mắt mũi kèm nhèm lắm.
Lộn người này sang người kia là chuyện hằng ngày.
Duy chỉ có tiền thiệt – tiền giả là tao mới phân biệt được liền.
Henrico Thạnh trề môi, liếc háy một cái thật dài.
Augustino Dương phá lên cười.
Đoạn vỗ vai học trò cưng mà bùi ngùi kể:
– Nhiều lúc đứng giảng trên bục, nhìn xuống dưới lớp, tự̣ nhiên Thầy lại thấy lại khung cảnh lớp học thời hoa niên của mình.
Bỗng vô duyên khóc ngon ơ.
Hốt nhiên, người Linh mục già vòng tay ra sau lưng rồi nhăn mặt nhíu mày mà té quỵ xuống.
Hễ hết thuốc là ông lại bị đau, đau như bị ai chém ngang hông vậy.
Mà uống thuốc Tây vô bỗng sanh bí tiểu, lưỡi khô, nổi hạch, ăn uống chẳng còn biết mùi vị gì.
Thôi thì ông đành quay về với Đông Y; dẫu cũng trị không hết y chang bên này, nhưng được cái không có tác dụng phụ rầy rà khó ưa.
Vừa dán Salonpas lên chỗ đau trên lưng Thầy, Henrico Thạnh vừa cau mày hỏi:
– Sao họ không cho Thầy mổ?
– Rủi ro cao quá nên người ta không dám cho mổ.
– Sợ bị động dây sanh liệt hả Thầy?
– Ờ…!Chớ mổ được Thầy mổ lâu rồi con.
– Bịnh chi mà quái ác quá.
Nói chuyện với Trần Hoàng Huy được đâu nửa tiếng, Ignacio Cường nói lời cáo từ để đến xóm trọ phát quà cho học sinh nghèo.
– Có xe đi về chưa?
Augustino Dương đáp, “Chưa.”
Vậy là Trần Hoàng Huy bèn biểu một tên đàn em lấy xe hơi hiệu “Lincoln” đưa ba người về.
– Ủa, ai mà quen mặt vậy cà? – Ignacio Cường lấy tay đặt ngang chân mày để cho đôi mắt bớt bị chói nắng.
Là anh Hai của Tăng sĩ Trì Thương; bữa nay nhìn anh ta y hệt “Người về từ lòng đất” của nhạc sĩ Quốc Dũng, chắc có lẽ lại hờn ghen với em trai.
Nhác thấy Ignacio Cường, anh ta đổi sắc mặt, trên môi gắng gượng treo lên một nụ cười mừng khách.
– Thưa Cha, con là Trần Kim Thương, anh Hai của Trần Mộc Thảo – tức Tăng sĩ Trì Thương.
Augustino Dương hấp háy mắt:
– Hỏi khí không phải…
– Dạ?
– Hồi xưa ba má hai cậu có mê Kim Tra – Mộc Tra hay không mà đặt tên con ngộ vậy?
– Cha nói con mới để ý nghen…!- Chú Thương sửng sốt đến nỗi kêu lên.
Vì đang có chuyện gấp nên chú Thương không thể nán lại trò chuyện cùng họ.
Chú vội vã tạm biệt rồi hớt ha hớt hải chạy vô gặp thằng bạn tên Huy.
Anh chàng lái xe chở nhóm tu sĩ về đang mở nắp ca-pô để kiểm tra động cơ của chiếc xe.
Chiếc xe đậu dưới gốc một cây điều đại thụ nên nắng nóng không ảnh hưởng nhiều đến chàng ta; vì là điều xưa nên nó không cho trái quanh năm, thành ra vào những mùa vắng trái nhìn lên tán cây chỉ thấy toàn là những chiếc lá có hình thù như cây quạt Ba Tiêu mà thôi.
– Mấy người đợi tui xíu nghen.
Tui đổ nước giải nhiệt cho xe cái.
Henrico Thạnh vòng tay trước ngực:
– Bộ xe này đi nhiều lắm hả anh?
– Ờ, hay đi đường núi với đường vòng nên phải châm nước mát thường xuyên.
Ignacio Cường nhíu mày:
– Xe sang quá bảo dưỡng cực thấy ghê.
Nghĩ đến chuyện ban nãy, Augustino Dương quay sang trách Ignacio Cường:
– Mày làm riết không giống Cha xứ mà giống Bố già hơn đó Cường.
Ignacio Cường cười khẩy:
– Thì cùng một gốc Ý Đại Lợi mà.
– Để mai mốt tao sắm cho mày bộ đồ với cái nón để mày làm Hứa Văn Cường luôn.
– Xin lỗi các Cha, tôi đi chung xe được không? – Chú Thương lên tiếng hỏi trong lúc cột lại dây giày.
Trần Hoàng Huy cũng lên tiếng đòi đi theo.
Ba người tu sĩ đều ưng thuận, dù rằng trong lòng lo ngay ngáy vì e hai người này đang gặp chuyện bất tường nên mới đổi ý mà đi theo họ.
Chiếc xe này có tới bảy chỗ ngồi nên mọi người ngồi rất thoải mái.
Hỏi thăm tài-xế mới hay đây là quà tặng của một đại tỷ bên Hoa Kỳ, thành ra chiếc xe chỉ được thấy trên thị trường Mỹ và Châu Âu mới có mặt tại Việt Nam.
Rời khỏi con đường vườn yên tĩnh và trong lành, chiếc xe nhập vô làn đường Quốc Lộ bụi bay mù trời và ồn ào tiếng kèn hiệu.
Tuy chiếc xe cách âm rất tốt nhưng mọi người vẫn nghe thấy tiếng kèn xe vang lên inh ỏi; ai đang lái xe ở ngoài mà bị yếu tim chắc đi bán muối luôn quá.
– Kèn xe gì mà lắp không có tình người.
– Augustino Dương trề môi nhận xét.
– Ôi, chuyện thường như cơm bữa, ông già ơi.
Tui không bị lủng màng nhĩ cũng là phước đức ông bà để dành lại đó.
Chú Thương mời mọi người ăn bánh khoai mì nướng cho đỡ buồn miệng.
Anh cũng có đem theo trà mận chua ngọt giải ngấy, ai muốn uống cứ việc lấy một chai.
Cầm miếng bánh khoai mì nướng ngắm nghía một đỗi, Augustino Dương bùi ngùi kể lại đoạn hồi ức của cái thời trẻ dại:
– Ngày nào Cha Bề Trên cũng mua ủng hộ gánh khoai mì nấu của ngoại Mận.
Mấy Thầy bị ăn riết đâm ngán, nên hễ nghe chuông kêu leng keng là lập tức kiếm chước dụ Cha đi chỗ khác.
Cha Bề Trên của ai không biết, chớ Cha là Cha “bề dưới” của Cha Giám thị.
Mới bị Cha Giám thị nạt có một cái là dẹp luôn vụ mua khoai mì.
Chuyện là như vầy: “Trời ơi ngày nào cũng mua khoai mì, cái mặt tui đã dài ăn riết nhìn y chang củ cải trắng.” Sau câu nói đó, mấy Thầy thoát khỏi ách “nô lệ khoai mì”.
Dù vậy, tuy không mua khoai mì, Cha Bề Trên vẫn gởi ít tiền cho ngoại Mận để ngoại được về nhà sớm hơn.
Ignacio Cường ngó Thầy anh mà cười hỏi:
– Ai cũng nói con giống tánh Cha Phan-Sinh Hùng…
Augustino Dương gật đầu ngay tắp lự, đoạn kể:
– Có lần Thầy đi thục bi-da ở cái điểm bên Ngã Năm Chuồng Chó, không biết quân ác ôn nào về hộc lại với Cha Giám Thị, Cha bèn vác thước bảng qua xách đầu Thầy về.
Ai mà ngờ đâu…
Lớp trẻ hối thúc ông mau kể tiếp.
Nhưng ông từ tốn ăn khoai mì, uống thêm ngụm nước nữa, mới chịu kể nốt:
– Ông chủ quán tưởng Cha là đàn em của Đại Cathay tới thâu tiền bảo kê nên run bần bật.
Thầy được phen ôm bụng cười bò.
– Sắp bị phạt mà Thầy còn cười nổi? – Ignacio Cường phì cười hỏi.
– Kệ.
Lúc đó nghĩ, “Trước khi chết, phải cười ngạo nghễ cái đã.” Ổng thấy vậy, ông quất cho một roi vô đí* làm Thầy nhảy nhong.
Chiếc xe đã chuyển hướng lên xa lộ mới làm.
Trong nắng chiều hoàng hôn mơ mòng, dĩ vãng năm nào cứ ùa về trong tâm khảm người Cha Dòng đã cập bến lục tuần, khiến đôi mắt ông cứ hoe đỏ hoài.
– Sau này Thầy mới hay, người yêu của Cha đã mất, thành ra Cha mới buồn tình đi tu luôn, chứ trước đó Cha chỉ tính làm Phó Tế thôi.
Thỉnh thoảng, Thầy lại thấy Cha ngồi nghe bài “Tha La hoang mộ” của nhạc sĩ Anh Tuyền, “Hận Tha La” của Sơn Thảo – tức nhạc sĩ Dzũng Chinh, “Tha La xóm Đạo” của nhạc sĩ Dzũng Chinh và thi sĩ Vũ Anh Khanh,…!Do đó ai nấy mới hay người vợ chưa cưới của Cha là Giáo dân ở Tha La.
“Nhưng không chết người trai khói lửa, mà chết người gái nhỏ phương xa…”
Nợ Nước đã trả, thù Nhà chưa xong…!Cha Phan-Sinh đã rời khỏi chiến trận với cái tay trái lặc-lìa lặc-lọi; suốt ngày Cha vùi đầu vô kinh kệ và những lời cầu nguyện, hầu quên đi nỗi đau trần thế của mình.
Sau này được bổ nhiệm làm Giám thị của trường Dòng Chúa Cứu Thế, Cha mới nguôi ngoai được phần nào, chắc có lẽ là nhờ mấy đứa học trò quậy như quỷ sứ và tình bạn như keo sơn với những quý Cha đồng tu khác.
– “Bao mùa Giáng Sinh chỉ một mối tình….” Bài hát “Lời con xin Chúa” là của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông phải không Cha? – Ignacio Cường nhớ tới bài hát mà mình đã nghe ở văn phòng Luật của Mục sư Lưu Thanh Tân.
– Không con, bài đó của nhạc sĩ Lê Xuân Nghị; bút hiệu mà ông thường xài là “Lê Kim Khánh”, “Tuấn Hải”, “Song Kim” và “Phụng Anh”.
Henrico Thạnh nói:
– Đại tá Đông có bài ca Giáng Sinh “Mùa sao sáng” hay lắm.
Augustino Dương gật đầu, rồi kể tiếp:
– Hễ Cha Vinh-Sơn cười cười là mọi người tự giác biết Cha sẽ không làm chuyện đó; còn Cha Phan-Sinh nạt một tiếng là y như rằng sau đó Cha sẽ đi làm liền.
Bên đàng gái chấp thuận cho Cha Phan-Sinh chôn chung một mộ với bà ấy.
Vốn dĩ đã từ lâu, bên đàng gái đã coi Cha như con rể, dù rằng không có làm đám cưới hay lễ nghi bổn Đạo.
Sẵn đang khổ vì tình, nghe vậy, sắc diện của chú Thương càng thêm tệ đi.
– Ông già tôi mà thương mẹ con tôi được một phần mười Cha Phan-Sinh thì tôi đỡ cực biết mấy.
Ignacio Cường nhíu mày:
– Hồ Đại Lợi?
Trần Hoàng Huy gãi tay sột soạt:
– Ổng hồi đó là tay giang hồ khét tiếng ở đất mũi.
Sau này vì bà má ốm đau tối ngày nên rửa tay gác kiếm, lo trum trủm từng miếng ăn cho đến giọt nước.
Thành ra ổng mới nhận ra được đâu là cải tà quy chánh thứ thiệt và đâu là giả mù sa mưa.
Nghe đến đây, Augustino Dương kể một kỷ niệm của Cha Phan-Sinh và Cha Vinh-Sơn:
– Nhớ có lần cái áo dòng của Đức Cha Hùng bị rách, Đức Cha Trung mới ngỏ ý giúp.
Đức Cha Trung từ chối quởn xo, “Thôi, cảm ơn, cái áo của tôi đã rách, vô tay anh chắc nó nát luôn.
Để tôi kiếm người khác vá áo giùm mình.”
Henrico Thạnh cười khúc khích mà hỏi;
– Vậy cái vụ “Đan áo mùa Xuân” thuộc về tay ai hả Thầy?
Bản nhạc chuông “Thời anh hùng Thượng Hải” do Nguyễn Thắng biểu diễn vang lên, chú Thương nói lời xin lỗi trước khi bắt máy tiếp chuyện với thằng bạn thiết.
Samuel Định báo tin cho chú Thương hay rằng mới vừa phát hiện một cái xác chết mất hết nội tạng và võng mạc, vị trí tìm thấy tử thi gần lò mổ heo hôm bữa.
oOo
Kể từ lúc nhìn thấy bức ảnh chụp lại thi thể của thằng bạn cùng phe, Hỷ Tín đã rơi vào trạng thái sốt cao kèm theo mê sảng.
Ba má của cậu khóc hết nước mắt, ngày cũng như đêm van vái cao xanh xin cứu mạng nó, ngay cả Ông Thành Hoàng cũng bị lôi vô làm điểm tựa tinh thần cho đôi vợ chồng Sa-Đéc.
Khoảng độ nửa tháng sau, Hỷ Tín mới thoát khỏi cơn hôn trầm.
Điều đầu tiên mà cậu làm là phát đi thông báo khẩn cho toàn thể đồng nghiệp của mình; nhưng chỉ có một số ít là nghe lời cậu mà tìm đường lui và chỗ tránh bão, phần đông là dụ khị cậu khai ra nơi ở hiện tại và khuyên rằng nên về tạ tội với chủ thuê.
– Thôi con, không cứu được người ta thì thôi, buồn chi cho cực thân mình? Nè, ăn giùm mẹ miếng cháo nghen…!Đi con…!Ăn đi con…
Hỷ Tín nuốt trọng cháo trong hai hàng nước mắt chảy xuôi.
Ăn đâu được lưng chén cháo, Hỷ Tín nằng nặc đòi lên núi vấn an nhóm Tăng sĩ Theravada.
Nhưng không ai cho phép cậu đến đó vì sức khỏe tâm thần lẫn thể xác hãy còn quá yếu ớt.
Cậu đành nghe theo lời khuyên của mọi người.
Hoàng hôn chưa kịp tắt nắng, Hỷ Tín đã bị pháp y Trần Cảnh Chiêu và hai điều tra viên của Tổ Trọng Án Diệp Trầm làm phiền.
Sau khi chắc chắn Hỷ Tín bị câm, Martin Cảnh mới đặt câu hỏi với cậu ta.
Hỷ Tín ra thủ ngữ trước:
“Dẫu họ không coi tôi là bạn, mà chỉ là bè lũ cùng phe, tôi vẫn nhận họ là bạn của mình.”
Martin Cảnh hỏi:
– Cậu là người đã gởi ảnh chụp thời trẻ của Lê Hoài Sang?
“Phải.
Tôi là người rất giỏi về lãnh vực Công nghệ – Thông tin mà.”
Mạnh Cường xen vô hỏi:
– Và cũng là người đã tố cáo Đoàn Tòng?
Hỷ Tín lắc đầu nguầy nguậy.
– Vậy hãy cho tôi coi tuồng chữ của cậu.
Tuy đã thấy hai lối viết rành rành không giống nhau, nhưng ba người thuộc Tổ Trọng Án không nêu kết luận.
Cả nhóm cất giọng cáo lỗi vì đã quấy rầy Hỷ Tín, rồi mau chóng rời khỏi phòng bệnh của cậu ta.
– Bây giờ mình đi đâu đây, Cảnh? – Mạnh Cường vừa hỏi vừa bấm chìa khóa xe để mở khóa chiếc xe hơi.
– Cô Tô.
Thể theo sự chỉ dẫn của Phá Vân, nguyên đám đã lên được đỉnh Phụng Hoàng Sơn trong thời gian ngắn nhất có thể.
Vì đang trong kỳ An Cư Kiết Hạ nên Tăng đoàn ở chung một chỗ, tức ngôi tịnh thất không tên trồng rất nhiều giống cây đã được lưu danh trong lịch sử Phật Giáo.
– Lại bị làm phiền…
Nói đoạn, Trì Thương xuống nhà sau pha trà và sắp bánh đãi khách.
Ngoại trừ Châu Lợi, những người khác đều kiếm chỗ tạm lánh; nhứt là Phá Vân, vì chú nắm được tin tức của rất nhiều cô gái, cũng như những nhân vật trong giới giải trí.
Ngoài trời lại lất phất mưa, khiến cho khoảng sân trước không lót gạch thêm phần lầy lội và dơ hầy.
Những gót giày da có đế đến từ thành đô không sao bước đi thẳng thớm được.
Bầy chó hoang bươn bả nối theo chân họ sát díp.
Chừng đến cửa lớn, con chó đầu đàn chạy lên ngáng đường họ, rồi cất tiếng sủa lớn báo hiệu.
Tào Việt Bân bật cười:
– Con này khôn không kém con Phidel của anh và con Phelan của Ngạn.
Mạnh Cường cũng góp lời:
– Nó không phải cảnh khuyển mà khôn dữ.
– Sadhu.
Vẫn dáng vẻ như mới chớm bốn mươi và ánh mắt sáng quắc cương nghị, Châu Lợi đã làm ba chàng đến từ Tổ Trọng Án hết sức kinh ngạc.
Nhưng rồi họ thầm mừng thay cho vị Tăng sĩ thất tuần, bởi lẽ chuyện “trẻ mãi không già” mà bị lộ ra ngoài thì ắt hẳn nửa đời sau của ông sẽ phải sống trong Viện Nghiên cứu.
Pháp y Cảnh giành nói trước:
– Xin lỗi ông Lợi.
– Tôi cũng không phải là người đó.
Dù rằng tuồng chữ của tôi và người đó na ná nhau.
Tào Việt Bân sấn tới hỏi:
– Tại sao ông lại biết…
Châu Lợi phì cười, chứ không lên tiếng giải thích.
Bởi, “Có những Pháp không thể nói cho thế gian nghe, vì họ nào hiểu được lẽ huyền vi, trái lại còn sanh tâm phỉ báng Tam Bảo.”
Martin Cảnh không muốn dây dưa lâu nên xin ông thầy tu viết giùm mình một tuồng chữ.
Trong lúc chờ Châu Lợi viết xong, ba người lên nhà trên ăn bánh dẻo nhân đậu xanh nắn hình con heo và thưởng trà tim sen xuất xứ Đồng Tháp.
Người tiếp họ dĩ nhiên là Trì Thương.
– Ở bên Đại Hàn cũng có bánh Trung Thu nữa, nhưng công thức gần giống bánh này, chứ không phải là loại kia.
Tên chung của nó là “Songpyeon”; với mỗi loại “Songpyeon”, nó sẽ có thêm một tên đi kèm nữa, thí dụ: “Kamcha-Songpyeon”, tạm dịch là “Bánh Trung Thu khoai tây”.
Trì Thương cười:
– Bên xứ của thí chủ thích nhưn chay hơn là nhưn mặn? Tôi thấy hầu như loại bánh Songpyeon nào cũng là đồ ngọt hết.
– Thưa phải…!Thành ra tôi ăn bánh dẻo này cảm thấy rất thân quen và ngon miệng.
– Má tôi đem lên đây nhiều lắm.
Nếu các vị thích, mang về hết luôn cũng được.
Tào Việt Bân gật đầu:
– Vậy thì tôi cũng không khách sáo.
Vừa nhón một miếng mứt khóm Cầu Đúc, Mạnh Cường vừa hỏi Trì Thương rằng có phải mấy món bánh trái này là của người thân của chú làm bán không.
– Không.
Đây là sản phẩm của lò bánh – mứt “Út Tiếp” dưới Hậu Giang.
Gia đình tôi chỉ nhận phần bán lại thôi.
Mạnh Cường nhân đó dấn tới hỏi thêm:
– Vậy nhà của Thầy có làm bánh – mứt gì khác không?
– Có.
Bánh Tây, bánh Tàu và vài món bánh Ta.
Không có sên mứt bán, chỉ có sên mứt để dành pha đồ uống và làm món ngọt trong tiệm.
Trái ngược hẳn với nụ cười tươi rói dễ thương của anh Hai, nụ cười của Trì Thương luôn giữ ở cái mỉm miệng khuôn mẫu.
Bỗng từ sân sau vọng lên tiếng động cơ xe hơi và tràng sủa um sùm của bầy chó hoang.
Biết có người sắp sửa bước vô nên pháp y Cảnh lẹ làng chạy ra đón.
Ngó theo bóng lưng anh bạn đồng nghiệp, Mạnh Cường cười khổ:
– Hình như thằng chả quên bản thân là pháp y, nên giành luôn công việc điều tra với hai đứa mình.
– Kệ đi.
– Tào Việt Bân vừa nhai bánh dẻo vừa cười nói.
Hóa ra Hỷ Tín nằng nặc đòi lên đây nên bác sĩ và ba mẹ phải chiều ý, vậy là họ phải nhờ tài-xế taxi chở đi, nhưng vì cậu tài-xế mới ra nghề nên mọi người phải cậy Phá Vân lái xe giùm.
Bởi sức khỏe của cậu ta hãy còn rất yếu nên Phú Lâm lại phải đi chung để dìu cậu ta lên trên này.
Nhác thấy “tấm thân Thúy Kiều” của Hỷ Tín, Mạnh Cường ân cần hỏi:
– Bịnh vậy lên đây chi?
Tào Việt Thân than dài:
– Trời quơi, cẩu quơ quơ như vậy ai mà học thủ ngữ mới hiểu cẩu muốn nói cái gì.
– Đây.
Thủy Diệu bưng ra cái Laptop cũ mèm.
Pháp y Cảnh cười mà như mếu:
– Rồi, gõ đi, Google đọc.
“Tôi nhớ có lần nhóm chúng tôi “đánh lộn” con sếp khác.
Thằng nào thằng nấy, ta nói, te tua như bị chó cắn.
Cái cô đó đăng địa chỉ nhà của con gái một ông bên Bộ Tài Chánh, chứ không phải nhà của cổ, tụi tôi hí hửng chọn ngày “bố ráp”.
Thế rồi…”
Hỷ Tín ngại ngùng gõ tiếp:
“Vì cha tham nhũng nên bà này không dám công khai ngôi nhà trên là của mình, thành ra không ai trong bọn biết rằng địa chỉ này là của gia đình bạn thân với chủ thuê…”
Mạnh Cường nhếch miệng hỏi:
– Rồi bị bắt bao nhiêu đứa?
“Nguyên bầy.
Vì tưởng đâu giang hồ tới thanh toán con rể ổng, con rể ổng nghe nói thiếu nợ cá độ đá banh gấp mười lần tôi.”
Tào Việt Bân khoanh tay mà hỏi:
– Rồi chủ thuê có cứu anh không?
“Cứu con c** chứ cứu.
Ổng còn chửi cho một chập vì tội ẩu tả làm ổng với ông kia xích mích nữa.”
Mạnh Cường đập bàn trách:
– Vậy mà vẫn đâm đầu đi theo tới giờ?
Hỷ Tín cúi gằm mặt:
“Tại thiếu nợ quá mà.”
Tào Việt Bân cười hỏi:
– Có một cô gái mà phải kéo nguyên bầy đi hù dọa, giờ anh thấy có đáng không?
Hỷ Tín cúi mặt không đáp.
Trần Cảnh Chiêu lại hỏi:
– Cổ sao rồi?
“Cổ đã cưới chồng Mỹ, có quốc tịch Hoa Kỳ, giờ là một doanh nhân hết sức thành đạt và sang trọng.”
– Còn anh, bây giờ anh còn lại gì?
“Còn cái đầu máu.”
Ai nấy thảy đều bật cười.
Mạnh Cường bỡn:
– Cũng may còn cái đầu máu.
Hỷ Tín phì cười gật đầu xác nhận.
Mạnh Cường vỗ vai người Sa-di trẻ tuổi:
– Cấp trên của tôi quyết định không lập án mà truy tố tội danh của anh.
Anh được hưởng án treo.
Những người “quay đầu là bờ” như anh cũng sẽ được hưởng mức án trên.
Còn những ai vẫn muốn sống theo kiểu “Trợ Trụ vi ngược”…
“Hỏi khí không phải.”
– Sao?
“Tổng thống Khánh có phải là một chủ thuê khác?”
Mạnh Cường nghiêm mặt trả lời:
– Chúng tôi chưa có bằng chứng hay đơn tố giác nên không thể tự tiện nói tổng thống Khánh là một chủ thuê như sếp anh.
“Riêng tôi, tôi không thấy ông này có dấu hiệu là một chủ thuê.
Cái miệng ổng đủ cứng để “một chấp mười” mà.”
Rồi Hỷ Tín tuyên bố:
“Bắt đầu từ ngày mai, tôi sẽ mở lớp dạy Công nghệ – Thông tin miễn phí, khỏi cần phải ghi danh chi sất.
Và, ai cần sửa đồ điện, tôi sẽ lãnh làm hết.”
Ba nhân viên của Tổ Trọng Án không có gì để làm quà mừng cho sự thức tỉnh của Hỷ Tín, nên chỉ đành tặng cho người Sa-di ấy một cái siết tay thật chặt.
Đợi cho bộ ba ấy đi khỏi, Hỷ Tín mới lấy ống tay áo chậm nước mắt, rồi vuột miệng nói mà không ra tiếng ba chữ, “Nhẹ nhõm quá.”
Trì Thương dịu dàng hỏi:
– Có muốn đi đâu không? Hoàng Kỳ sẽ đưa cậu đi?
Hỷ Tín chỉ về phía trước, ngụ ý vào rừng.
Do biết nhiều cảnh đẹp trên dãy Phụng Hoàng nên thay vì đưa Hỷ Tín đi những chỗ cũ, Hoàng Kỳ lại dẫn cậu tới những nơi mới mẻ.
“Vùng trước mặt” đầu tiên có hướng nhìn ra biển Hà Tiên, vì vị trí hiểm trở và cheo leo nên ít ai dám lui tới.
Ở đây quanh năm mây mù giăng nẻo, mưa bụi thường xuyên xuất hiện, thành ra bầu không khí rất ẩm ướt và lành lạnh.
– Ở đây có nhiều cây thuốc quý lắm, nhứt là đẳng sâm và hoàng liên.
Các cư sĩ Đạo Giáo thường hay lên đây kiếm thuốc; cũng có một người không may bị thiệt mạng do sẩy chân té xuống núi, chắc là do mây dày đặc quá.
Không muốn làm phiền Hỷ Tín trong lúc ăn uống, Hoàng Kỳ bèn xin phép lại gần mỏm đá cách đây vài trăm mét mà ngồi thiền.
Cậu gật đầu ưng chịu.
Đợi sư huynh đi khỏi, Hỷ Tín mới mở Ipop lên nghe nhạc.
Bài hát mà cậu muốn nghe mang tên “Mẹ hứa cho con một thoáng cười hiền” do Hà Thanh ca, một sáng tác của Tăng sĩ Trường Khánh.
“…!Trần gian hôm nay, hận thù chắn lối
Cay đắng dâng cao hơn cả độ nào
Mẹ ơi, con buồn lắm, lệ rơi như biển Đông
Mẹ ơi, con buồn lắm, sầu cao hơn Trường Sơn
Ngày xưa con khờ dại chạy theo bóng Vô Minh
Ngày nay con đã thấy thế tình là mong manh…”
Má cậu đã cất công lên Sài Gòn mua đùi ngỗng quay, xôi gấc ăn kèm với trứng gà non và lòng gà luộc và súp thập cẩm; má hiền như Mẹ Quan Âm, dung túng và nuôi nấng thằng con báo đời này bằng một lòng “Từ – Bi – Hỷ – Xả” vô lượng hằng bao năm qua, ấy vậy mà ngày nay nó lại trả hiếu bằng cách tặng cho má nó một khoản nợ hãi hùng và tấm thân tàn phế.
“…!Giờ con quy y, Mẹ Hiền Quán Thế
Mẹ xót thương con, Nghiệp Chướng sâu dày
Mẹ xót thương con, Nghiệp Chướng sâu dày…”
Ăn uống xong, Hỷ Tín men theo gờ đá mà lần tới một gành nước mát.
Chiếc xe lăn điện của cậu khó nhọc lăn bánh trên mặt đất nhớt nhợt những sình lầy và rêu đá.
Thỉnh thoảng, tay cậu sờ trúng một con vật thuộc họ Bò Sát; một cơn ớn lạnh cứ thế chạy dọc sau sống lưng cậu, số là cậu hơi ghét loài này.
Dòng nước trong vắt gột sạch lớp dầu mỡ và bụi bám trên gương mặt Hỷ Tín.
Cậu vốc vài ngụm nước mà uống lấy uống để.
Những giọt nước không lẫn một xíu tạp vật nào, vị lại ngọt hơn cả nước khoáng đóng chai của những thương hiệu mà cậu đã từng uống qua, hương lại tươi mát một cách lạ kỳ.
– Xong rồi hả Tín?
Hỷ Tín vừa cầm khăn lau mặt và tay, vừa gật đầu xác nhận.
Hoàng Kỳ nâng cả Hỷ Tín và chiếc xe lăn điện lên, rồi nhẹ nhàng đặt xuống bờ đất bằng phẳng.
– Cậu biết không Hỷ Tín, hồi xưa tôi chọn nghề quyền Anh là vì học ngu đó.
Tôi học hoài, học mãi, mà chữ nó hổng chịu vô đầu, toàn đi ra không hà.
Thành thử tôi phải dụng đến cơ bắp và chiều cao trời phú để mưu sinh.
Quen thói đánh người riết hăng máu, cho nên hôm ấy tôi đã xuống tay rất nặng với một đối thủ, và khiến người đó bị xi-cà-que suốt đời…
Sư huynh đang hoài niệm cuộc đời như ngọn cỏ gió đùa của mình mà sư đệ lại bụm miệng cười nắc nẻ vì nhóm chữ “xi-cà-que”.
Sống ở đây có mấy năm nên vốn liếng tiếng Việt của huynh ấy y hệt con nít lên ba, nghĩ sao thì nói vậy, chứ không dò kỹ xem coi chữ đó có phù hợp với ngữ cảnh không.
Không biết sư đệ đang cười cái gì nên Hoàng Kỳ dòm cậu ta bằng ánh mắt đăm chiêu.
Tưởng đệ ấy không hứng thú nên chàng ta bèn đổi chủ đề:
– Cậu có muốn đi coi tổ ong mật không?
Hỷ Tín lắc đầu.
– Sợ bị cắn hả? – Nói đến đây, Hoàng Kỳ bật cười khúc khích.
– À, “Chích” chứ không phải “Cắn”.
Vậy là Hoàng Kỳ bèn chọn điểm đến kế tiếp là rừng thốt nốt vô chủ, chứ không phải khu rừng mưa nhiệt đới kia.
Rừng thốt nốt quanh năm có trái nên vô đây luôn ngửi thấy một mùi hương ngòn ngọt, nồng nồng.
Bông thốt nốt rất ngộ, mỗi bông quây thành một buồng nhỏ (nên nó mới còn có tên khác là “Mo bông”), từng cánh của mỗi mo bông và nham nhám như râu mực, toàn thân phủ một màu xanh pha sắc xam xám, có thể dùng làm bài thuốc Đông Y.
– Hồi xưa, Đấng Thế Tôn đã bị một ngôi làng xua đuổi và thù ghét cực điểm.
Thay vì làm mình làm mẩy, nguyền rủa, dụ dỗ hay đe nẹt, Ngài lại chọn phương cách rời đi với nụ cười hòa ái trên môi trong một sự im lặng đong đầy lòng từ bi.
Trở về nơi an trú, Ngài cậy tôn giả Mục Kiền Liên đến nói chuyện với dân chúng trong ngôi làng ấy, vì Ngài quán sát thấy nhân duyên tiền kiếp giữa đôi bên hết sức tốt đẹp nên mới giao vụ này cho Moggallana.
Hỷ Tín ra dấu không hiểu.
– Có nhiều chuyện không thể cưỡng cầu.
Tình thương không thể cảm hóa được kẻ ác và kẻ sống vì tiền một cách bất chấp.
Sự chân thành và Cái chết cũng vậy.
Nói xong, Hoàng Kỳ tiếp tục đẩy xe lăn cho sư đệ.
Lần này chú đưa cậu ta tới ngôi nhà của một cư sĩ Hòa Hảo rất tinh thông Y Dược.
Gọi là “nhà” nhưng kỳ thực nơi đây chỉ là một căn chòi dựng theo kiểu nhà sàn.
Vách tường đóng bằng những tấm phên cây dừa, mái nhà lợp bằng cỏ tranh theo khung tre, còn sàn thì lót bằng thứ gỗ mít đã qua công đoạn ngâm dầu nên không sợ bị mối mọt ăn.
Đồ đạc trong nhà giống hệt thập niên Năm mươi, ăn trộm vào lấy bán cổ vật chắc cũng được khẳm tiền.
– Ray hả con? Đem bịnh nhân nào tới đó?
– Dạ, cẩu uống thuốc Tây rồi ông.
Sáu Diên ngó cậu Sa-Di mà cười khổ:
– Nhìn cái bản mặt thểu não này là dư sức biết tâm thần đang bấn loạn.
– Dạ phải, vì một Nghiệp xấu trong quá khứ mà giờ đây Hỷ Tín và đồng bọn phải sống trong cảnh bất an đêm ngày.
– Tức là sao bây?
– Đấu tố người ta, giờ tới phiên mình bị chủ thuê kiếm chước thanh trừng.
– Đâu phải thằng nào nắm quyền cũng được như Châu Võ Vương, phần đông toàn là hạng Lưu Bang với Tào Tháo…!Thôi, cái gì đã qua thì cho nó qua luôn, lên đây ăn sầu riêng với tao nè.
– Hết mùa rồi mà ông?
– Tao mua chỗ khác.
Chỉ có Hỷ Tín được dự phần ăn sầu riêng, còn Hoàng Kỳ thì uống trà “sâm”.
Về phần cư sĩ Hòa Hảo, ông lại ngăn tủ mà soạn cho cậu Sa-Di một bài thuốc giúp an thần và thanh lọc cơ thể.
– Tới giờ mà vẫn còn nhiều người theo Đạo Phật không phân định được “Cư sĩ” và “Tăng sĩ” khác nhau như thế nào.
Hoàng Kỳ chỉ biết cười trừ chứ không thể diễn giải bằng tiếng Việt được.
– Tao nghĩ bây nên về khuyên Thầy Liên tổ chức thuyết pháp.
– Đại Trưởng lão không chịu đâu.
Chúng sanh càng nghe Pháp càng mê lầm, càng suy vi trong sự vọng tưởng.
Không phải Phật Tổ đã nói sao, “Pháp của Ta không thể dùng lời nói để thuyết được…” Chỉ có tự ngộ như Tôn giả Mục Kiền Liên hay Xá Lợi Phất…
– Bây ơi.
Ưu-Bà-Di, Ưu-Bà-Tắc nào thể so được với hàng Tôn giả “đạo cao đức trọng” mà bây nghĩ họ nên tự ngộ.
Hoàng Kỳ trầm ngâm nghĩ ngợi một đỗi, mới thở dài mà nói:
– Con thua ông rồi.
– Sadhu.
– Thầy Trần.
Lên đây uống trà “sâm” nè.
– Cảm ơn cư sĩ.
– Ông kia, đứng lại đó!
Vẫn thấy Đoạn Trần bình thản bước lên từng bậc thang, người thanh niên cao lớn ấy nổi xung mà chọi một cục đá nhỏ lên một cây cột kèo nâng sàn.
– Thí chủ đâu muốn nhận tôi là “Cha” thì hà tất gì phải đến đây gây muộn phiền cho đôi bên?
– Tôi có chuyện cần hỏi nên mới lên đây gặp ông…
Tuy đã nghe thấu những lời trên nhưng bước chân của Đoạn Trần chẳng chậm đi một nhịp nào.
Mặc cho đứa con trai đang đứng rủa xả với đôi mắt long lên như chó dại, ông bình thản bước vô nhà của cư sĩ Chánh Tâm.
– Sáu ngón? Thằng nhỏ là con trai của Thầy sao?
– Thưa phải.
Cậu đó là giọt máu của tôi.
– Trời đất quỷ thần thiên địa ơi, con kiểu gì mà chửi cha nhuyễn như hát Hồ Quảng dzậy?
– Tôi đáng bị chửi như vậy mà.
Không muốn nghe thêm một tiếng mắng nhiếc nặng nề nào nữa, Chánh Tâm bèn thò đầu ra ngoài cửa sổ mà cất giọng mời con trai của Trưởng lão Đoạn Trần lên nhà chơi.
Nhác thấy con trai sắp sửa có mặt, Đoạn Trần dặn Hỷ Tín nhớ đừng có nhìn con trai ông lom lom, nó mà nổi xung lên thì có nước đi cấp cứu.
– Cho ngồi ở đâu đây?
Chánh Tâm chỉ vô cái ghế đan bằng sợi lục bình kê mé tay mặt cái cửa sổ lớn.
– Cảm ơn.
– Thí chủ thích ăn sầu riêng mà phải không?
Hoàng Huy ngạc nhiên hỏi:
– Sao biết?
– Hồi má thí chủ mang bầu hay đòi ăn sầu riêng, nên tôi mới có ý nghĩ như trên.
– Má tôi hồi còn sống thường hay ngồi nghêu ngao hát bài “Ảo ảnh” của Y Vân, sau này có Ngọc Lan ca giùm nên khung cảnh còn thê lương hơn nữa.
Chánh Tâm đưa mắt nhìn Đoạn Trần.
Ông nhớ Đại Trưởng lão đã nói vợ ông vì băng huyết mà chết, sao con trai Thầy lại nói như vậy.
– Để con trai được nhận nuôi, vợ tôi phải giả chết theo yêu cầu của bên phía người giám hộ.
Lâu thật lâu hai má con mới được tương phùng.
Trần Hoàng Huy nhân đó tra hỏi:
– Tôi muốn biết tại sao năm đó ông lại bỏ má con tôi mà đi biệt tích.
– Tôi bị bỏ tù sáu tháng vì vô chùa ăn cắp lư hương đem bán.
Chừng mãn hạn thì mới hay má cậu đã phá thai.
Trần Hoàng Huy bẻ ngón tay răng rắc.
Đôi tay có mười hai ngón đã khiến tuổi ấu thơ của gã luôn ngập trong sự châm chọc ác ý của mấy đứa trẻ đồng trang lứa:
– Tại sao ông phải đi ăn trộm?
– Không có tiền nuôi má thí chủ.
Tôi bị dính líu với một băng đảng buôn thuốc phiện nên không có ai dám mướn vô làm.
Rồi Đoạn Trần thuật lại chuyện tình của mình và người vợ duy nhất trong quãng đời phàm tục:
– Bà ấy là gái giang hồ, tôi là trai tứ chiếng, do một lần đi chơi đ* mà quen biết nhau, thấy hạp tánh nên gá nghĩa vợ chồng luôn, chẳng có cưới xin hay đám điếc chi sất.
Ở đâu được bảy tháng, bà ấy có mang, tôi bèn tính kế hoàn lương để cho cậu thoát khỏi kiếp đời giống như chúng tôi.
Tôi thường hay gọi bà ấy là “Mày”, xưng “Tao”; còn bà ấy lúc nào kêu tôi bằng “Cưng” và xưng “Em”; tôi lúc nào cũng mắng chửi và quát nạt bà ấy, còn bà ấy luôn nhẫn nhịu chịu đựng và dỗ ngọt tôi…
– Vậy ông có thương má tôi không?
– Thương.
Nên mới đi chôm chỉa khắp nơi để có tiền nuôi bà ấy và cậu.
Má cậu khi ấy rất thèm ăn sầu riêng, mà sầu riêng thì đâu có rẻ, mấy ký một trái thường cũng bằng một ngày cơm của người nghèo rồi…!Tôi nhìn thấy bà ấy thèm quá thì chịu không đặng nên…
Đôi mắt Đoạn Trần nhòa lệ.
Đoạn, lấy tay gạt nước mắt mà tiếp:
– Tôi ở tù chừng sáu tháng thì được Thầy Song Ngữ và Thầy Việt Hàn bảo lãnh ra.
Trở về chốn cũ thì hỡi ôi hay tin má cậu đã bỏ thai mà vong mạng.
Tôi đã tính nhảy cầu tự vẫn ngay trong hôm đó, nhưng Thầy Như Phong đã kịp thời cản lại và khuyên tôi nên chờ thêm tin tức…
– Vậy sao ông đi tu?
– Tôi đợi một năm mấy mà không có lấy một tin tức gì về hai người nên chán đời đi tu luôn.
Sau này tôi mới biết thì ra mấy Thầy bị cướp chùa nên mới lên An Giang lập tịnh thất ẩn tu.
Cái người tống tôi vô tù là một “đồng chí sư”, hiện thời đang sống rất sung túc nhờ tiền đàn na tín thí của Phật Tử.
Có tiếng bước chân của ai đó vọng lên căn chòi.
Thì ra người đến Châu Lợi và cư sĩ Thạch Sang.
– Sao Thầy không nói cho cẩu biết rằng mình chính là người đã cứu mạng cẩu?
Đôi mắt của gã trai tên Huy mở bừng.
Anh ta đứng bật dậy làm cái ghế bị hất xuống đất một cái rầm.
Rồi trong hai hàng nước mắt nóng rẫy, anh ta run lẩy bẩy mà hỏi:
– Vậy là năm đó…!người hiến gan cứu tôi là ổng sao?
– Phải.
Đoạn Trần tuột tấm áo cà-sa xuống, để lộ một vết thẹo lồi màu nâu bầm chạy dọc từ ngực xuống gần rốn.
Chừng như thấy con trai đã nhìn rõ, ông mới đắp y vào.
– Cha.
Đoạn Trần chắp tay mà nói:
– Sadhu…!Sadhu…!Sadhu…
Trần Hoàng Huy gục đầu trên vai cha mà khóc nức nở.
– Tôi với má của thí chủ định đặt cho cậu cái tên “Huy Hoàng”, nhưng vì không muốn đụng hàng và muốn nghe xuôi tai hơn nên sửa thành “Hoàng Huy”.
Ban đầu tôi tính chọn tên “Quang”, lúc đó tôi với má cậu đang nằm trên giường, bà ấy mới nhõng nhẽo cự rằng, “Em ghét mấy thằng tên Quang lắm cưng, nó đi khách toàn quỵt không hà.” Chiều ý bà ấy, tôi đổi sang tên “Huy Hoàng”, rồi thành “Hoàng Huy” như bây giờ.
Đợi cho cơn xúc động của Trần Hoàng Huy lắng xuống, Châu Lợi mới lịnh cho Hoàng Kỳ đưa Hỷ Tín về tịnh thất; về phần mình, ông quay sang hỏi con trai của Thầy Vân về chuyện của cô Kiều Xuân…
…
Trời vẫn còn tờ mờ sương, vậy mà Thủy Diệu đã thấy Hỷ Tín ngồi xếp bằng mà day mặt về hướng Đông.
Muôn vạn cỏ cây lay động theo cơn gió cuối Thu hiền hòa, làm vỡ tan những giọt sương lóng lánh của buổi đêm huyền diệu, hương hoa lá nhân đó mà lan tỏa mùi thơm mộc mạc của mình đi mọi nơi.
Những áng mây dày đặc bao trùm lấy đỉnh núi; còn những rẻo mây mỏng hơn cuộn quanh thân và chân núi như vô vàn dải lụa mỏng tang vương màu khói xám.
Các loài chim rừng đã thi nhau hót véo von, ngay cả gà lôi cũng gân giọng gáy váng lên.
Vài con bò đi lạc hãy còn mê giấc dưới gốc tra đại thụ.
Đôi con chó hoang đang nô giỡn bên khóm thược dược.
– Tín đang nghe bài gì vậy?
“Đó là ca khúc “Từng bước chân thảnh thơi” của nhạc sĩ Tịnh Thủy do Hà Thanh ca.”
– Không còn phải đi rình mò hại người, không còn phải sống theo ý chủ, không còn đi lùng diệt cái Thiện và lẽ Phải nữa,…!Tín đã thực sự được an lạc trong tâm tưởng của mình.
Trì Thương bất giác đưa gương cho Hỷ Tín soi mặt.
Từ lúc cha sanh mẹ đẻ tới giờ, Tín mới thấy gương mặt mình đẹp đến vậy.
Ánh mắt của cậu sáng ngời niềm vui, đôi môi cười rộ lên không toan tính hay mỉa mai thầm, và chân mày của cậu cong theo cung bậc của lòng an nhiên, tự tại.
“Nhị sư huynh có từng yêu ai chưa?”
– Chưa từng.
“Tại sao?”
– Tôi không biết.
Vốn dĩ ngay từ khi tôi còn nhỏ, tôi không tò mò về chuyện yêu đương – nhục tình như những người trai đồng trang lứa.
Giai đoạn dậy thì cũng không làm thay đổi hay ảnh hưởng tới tâm trí tôi.
“Có lẽ huynh là Asexual.”
– Không, tôi cũng không phải là người có xu hướng Vô Tính.
“Vậy thì khổ cho ai yêu huynh rồi.”
– Phải.
Sẵn đây, Trì Thương kể cho sư đệ nghe tích truyện Pháp Cú số Sáu mươi Mốt.
Thấy tâm của Hỷ Tín đã thực sự đón nhận Pháp, Trì Thương hoan hỷ kể thêm một tích truyện Pháp Cú về Tôn giả Chỉ Man – Ương-Quật-Ma-La.
Lời của người Tăng sĩ ấy thốt tới đâu, Hỷ Tín lệ nhòa tới đó.
– Đây là một trong những trường hợp hết sức hiếm hoi mà Đấng Thế Tôn đề cập cụ thể tới “bến đỗ” của tâm thức sau khi lìa trần.
Phần đông, Ngài rất ít khi nói chi tiết.
Chợt, vầng dương nhô lên khỏi rặng mây ráng hồng đang nghỉ chân trên đỉnh núi.
Ban đầu còn rõ hình thể khối cầu đỏ ối, sau chỉ còn thấy một quầng tròn tỏa hào quang sáng đến lóa mắt; dòng thác ánh sáng cứ thế tuôn đổ ào ạt xuống nhân gian.
Những con vạc về muộn buông lơi vài tiếng ru hời trước lúc rúc mình trong tổ ấm.
Tiếng quét lá rụng nơi sân trước đã làm Hỷ Tín dời mắt khỏi phương Đông.
Cậu cùng sư huynh Trì Thương trở lại tịnh thất để sửa soạn hành trang cho buổi khất thực.
Theo gót chân của các bậc trưởng thượng, Hỷ Tín đi qua những con đường mới lạ và tràn ngập sắc hoa thơm cỏ lạ dưới chân núi Phụng Hoàng.
Nhờ bị câm, đôi tai cậu đã mở lòng đón nhận mọi tâm sự của chúng sanh; trái tim cậu đã biết đau, biết khóc, biết cười, biết thương cảm cho người khác, chứ không còn coi họ là con mồi để mình đem đi đấu tố đặng lập công với chủ nữa.
– Tín.
Hỷ Tín chắp tay chờ nghe Đại Trưởng lão Thanh Liên nói tiếp.
– Ngàn vàng cũng không mua được một phút thanh thản trong tâm hồn đâu.
Bữa nay không có ai cúng dường cơm cho họ, nên Thanh Liên mời chư huynh – đệ và Sa-di đi ăn ủng hộ một quán bánh canh bột xắt ế khách trong vùng núi Ông Tượng.
Ngó thấy họ bước vào, bà chủ không mừng xíu nào hết vì đang ế mà còn bị lỗ vốn nữa.
Thanh Liên vừa nói vừa mở tay nải:
– Tôi trả tiền.
Bà chủ liền đổi sắc mặt:
– Vậy hả Thầy?
– Dạ.
Đã lâu lắm rồi Tăng đoàn mới được thọ thực trong sự tĩnh lặng tuyệt đối.
Nhờ không nói chuyện phiếm mà đôi tai họ rảnh rang nghe nhạc thiên nhiên và âm thanh xô bồ của cuộc sống nơi cõi Ta-Bà, cũng như chiêm ngưỡng cảnh sắc mỹ lệ của dãy núi Ông Tượng trước mặt.
Kết thúc bữa ăn, mọi người cùng nhau đọc Kinh cảm tạ.
Xong xuôi hết thảy, Thanh Liên mới trả tiền ăn uống.
Rời khỏi quán nhỏ đâu được trăm mét, Trì Thương vuột miệng nói:
– Tôi lo cho Stephen Đoàn quá.
Thanh Liên mỉm cười đầy ẩn ý.
Châu Lợi cau mày biểu:
– Nghiệp Duyên đã đến, có muốn tránh cũng không thể.
Hoàng Kỳ tò mò hỏi:
– Vậy anh đó có dứt ra được không hai huynh?
Trì Thương che mắt trái mà tư lự một đỗi, sau mới trả lời:
– Tôi không biết.
Hoàng Kỳ ấm ức trách:
– Huynh hổng bao giờ nói cho đệ biết những gì huynh thấy.
– Bởi vì nó chẳng có ích gì cho việc tu tập hết.
Thanh Liên đề nghị sư đồ đi kinh hành, không được mở miệng tranh luận nữa, hễ ai thuận duyên thì ra tay giúp người đó.
Vậy là Tăng đoàn bắt đầu bước đi trong sự quán sát hơi thở và nhiếp tâm.
Rất khó khăn để Hoàng Kỳ, Thủy Diệu, Phá Vân, Phú Lâm và Hỷ Tín thực hành hai điều trên; tuy thế ai nấy thảy đều ráng hàng phục sự loạn tưởng đang khởi sinh trong trí mình.
Ngang qua một xóm Hòa Hảo, một cụ bà bước ra mời Tăng đoàn ghé nhà uống nước sâm giải khát.
Thanh Liên làm ấn thủ chúc phúc cụ bà trước khi lịnh cho sư đồ theo mình vô nhà bà cụ nghỉ chân.
Ngôi nhà này cất kiểu nhà sàn, có hai lầu và sân thượng; dưới gầm nhà là “xưởng” sửa chữa ghe, đò và xuồng, cũng là nơi cất trữ nông sản.
Hai bên cầu thang đi lên trên nhà đều để một hàng chậu bông; nào cúc, đồng tiền, bướm bà, dừa cạn, sao nháy,…!tranh nhau khoe sắc hương trời ban với đời.
Vì có người già và trẻ nhỏ nên cầu thang này làm khít luôn, chứ không để kiểu hở bậc như nhiều nhà trong xóm.
Hiên nhà treo mấy chò lan rừng rực rỡ và một chò thạch thảo tím buồn; do cánh đàn ông trong nhà ưa tiệc tùng ăn nhậu nên hiên nhà để sẵn mấy tấm chiếu và bàn thấp có thể xếp gọn lại, cùng một cái thùng rác, mo hốt rác và hai cây chổi bện từ lá dừa, trên trần gắn một cây quạt tám cánh, còn trên tường thì gắn một cây quạt nho nhỏ.
Châu Lợi bỗng nhoẻn miệng cười mà hỏi:
– Thưa đây có phải là chiếu Cà Mau không thí chủ?
– Sao Thầy biết hay vậy?
– Tôi là dân đất mũi mà.
Vừa trải chiếu, Đoạn Trần vừa cất tiếng hỏi thăm sức khỏe của bà cụ, thì mới hay cụ mắc chứng suy tim, thầy thuốc vắt giò lên cổ chạy hết rồi.
Nghe vậy, ông liền dặn mọi người hãy tránh làm cụ bị xúc động mạnh hoặc giựt mình.
– Ngoại bị bịnh tim nên ưa uống nước nhãn lồng lắm mấy Thầy.
Nấu riết đem bán bỏ mối rủng rỉnh túi luôn.
Uống được đâu vài ngụm, Phú Lâm khen:
– Uống ngon lắm ngoại.
Nhiều chỗ nấu bị hôi mùi mủ cây khăng khẳng, còn ngoại nấu lại thơm thoang thoảng rất dễ chịu.
Bà cụ mừng rơn ra mặt.
Nhưng vui đâu chưa được một lúc, cụ đã ôm ngực thở dốc rồi xin phép lui về phòng nằm nghỉ.
Đợi cụ bà đi khuất, Trì Thương mới đượm buồn nói:
– Ngoại sống không thọ đâu.
Suy tim nặng quá rồi, không thuốc thang nào cứu vãn được nữa.
Ngoài trời mưa bỗng bay bay.
Tuy không nặng hạt nhưng cũng đủ ngáng bước chân qua lại của khách bộ hành và xe cộ chở hàng.
Vài con chó hoang tranh nhau chỗ đụt mưa mà sủa loạn inh ỏi.
– Cho tụi tui đụt mưa nhờ nghen mấy ông thầy.
Thanh Liên cười biểu:
– Nhà này không phải của tụi tôi, nhưng xin các vị hãy tự nhiên đứng dưới nhà đụt mưa.
Vừa bẻ trái bắp luộc đặng chia phần cho cậu lơ-xe, ông tài-xế có cái xe vận tải bị bể bánh vừa đùa:
– Hổng sợ tụi tui táy máy hả?
– Nếu lương tri của các vị chỉ đáng giá bằng mớ đồ muốn lấy thì xin cứ việc gom.
Cậu lơ-xe đổ quạu mà lớn tiếng biểu:
– Dĩ nhiên là nhân cách tụi tui vô giá rồi.
Ai mà thèm ba cái đồ tào lao năm dố đó.
Hứ!!!
Thanh Liên làm ấn thủ xác tín và cười hiền mà rằng:
– Sadhu…!Sadhu…!Sadhu…
Vừa hay thím chủ nhà ra tới nên nhóm Tăng sĩ không bị quấy rầy nữa.
Họ tĩnh tâm ngồi quán sát hơi thở và lắng nghe tiếng mưa rơi.
Thím chủ nhà nghe ông tài-xế hỏi mượn đồ vá vỏ và ống bơm bánh xe, bà liền sốt sắng lịnh cho thằng con trưởng xuống dưới nhà lấy cho họ, không quên trấn an rằng nhà bà thiếu cha gì mấy cái đồ quỷ yêu này nên từ từ trả cũng được.
Ông tài-xế lột chiếc nhẫn cưới mà đưa ra làm tin với bà, song bị bà khoát tay từ chối lia lịa, bà còn nói trớ rằng ông chồng tui hay ghen nên ông mà đưa nhẫn thì tui cầm chắc bị thủng màng nhĩ.
Từ dưới nhà vọng lên bài hát “Thanh bình cho anh cho em” của đôi nhạc sĩ Minh Kỳ – Hùng Cường qua phần trình bày của tiếng hát suối xanh Thanh Tuyền; ngoại trừ Đoạn Trần và Châu Lợi, chẳng ai trong Tăng đoàn đã từng nghe qua hay biết đến ca khúc này.
Con gái bà thím chạy ra than thở với má rằng cái Laptop bị hư nữa rồi.
Nàng muốn xin má mua cái máy khác nhưng sợ má lại rầy như lần trước nên òn ĩ, nhõng nhẽo chớ hổng dám vô đề.
Hỷ Tín bèn ra dấu mình có thể sửa được.
Vừa dòm anh Sa-di trẻ măng lấy đồ nghề trong tay nải ra, Út Hường vừa bặm môi lo lắng.
Chừng hơn vài tiếng sau, Hỷ Tín đã sửa xong cái máy cho Út Hường, còn cài giùm nàng những nhu liệu cần thiết cho công việc kế toán và diệt virus.
Ông hàng xóm thấy vậy liền mời Hỷ Tín qua sửa giùm TV và quét virus trong máy tính giùm gia đình mình.
Song sợ mình cướp mất khách của thợ điện nào đó trong vùng nên Hỷ Tín chỉ nhận phần “làm sạch” máy tính, còn cái kia cậu ra dấu biểu mình không rành.
Trong lúc Hỷ Tín hì hụi làm việc, Trì Thương đố cậu một câu:
– Biết tại sao gọi mẹ của Thầy Thanh Liên là “Cận-Sư nữ” thay vì “Cận sự nữ” không?
Hỷ Tín lắc đầu nhè nhẹ với một nụ cười thật hiền trên môi.
– Là vì hai mẹ con thường hủ hỉ với nhau nên tụi tôi ưa đùa rằng “Cận-Sư nữ”.
Hoàng Kỳ, Thủy Diệu, Phá Vân và Phú Lâm nhận thấy sắc diện của cậu Sa-di thật khác lúc trước, những nét ma lanh tai quái đã biến mất, thay vào đó là vẻ ẩn nhẫn, khổ hạnh và dịu hiền đáng quý.
“Tướng tùy Tâm sanh, Tướng tùy Tâm diệt”, thật đúng trong trường hợp của người trai đáng tuổi em của họ.
oOo
– Chú là người thân của tôi?
– Phải.
Người đàn ông có cái cằm chẻ ấy ấn tay vào cái cằm vuông có ngấn của Chí Công.
– Tôi là ai?
– Để tôi dẫn cậu về thăm mộ ông nội cái đã.
Lòng tò mò cộng với nỗi ấm ức đã khiến Chí Công chấp nhận liều mạng mà đi chung xe với một người lạ mặt.
Trước lúc lên chiếc xe Jeep kiểu dáng nhà binh, y xin phép ghé quán cà-phê gần đó để đi nhờ nhà vệ sinh một lát; trái ngược với dự kiến của y, Cằm Chẻ vui vẻ chịu liền, còn mời y uống nước với gã nữa chứ.
– Rồi, một bịch sơ-ri nấu khóm của tôi, một bịch đậu xanh, rau má pha với nước dừa tươi…
– Sao biến sắc dị?
– Có đi xa không mà dám uống thứ quỷ này?
– Bón.
Một tuần rồi.
Không xi-nhê gì đâu.
– Mua Bisacodyl về uống một lần hai viên trị bón đi cha nội.
Cằm Chẻ vỗ vỗ vai Chí Công mà cười sặc sụa:
– Giỡn xíu mà mày làm thấy ghê quá.
May phước hổng phải cháu ruột, chớ hông tao chết vì nhục rồi.
Chí Công toan nhảy xuống xe, nhưng đã bị Cằm Chẻ níu áo giữ lại.
– Thì chú – cháu khác dòng, cận huyết thống, chứ đâu phải sát rạt ruột rà.
Ngôi mộ ấy nằm ở nghĩa trang của một Giáo xứ miền Đồng Nai, nhưng trên mộ không có Thánh Giá, Tượng Thiên Thần hay biểu tượng Kitô, hết thảy trơ trọi một hũ cốt nằm bên dưới tấm bia rêu phong hoen ố.
Cằm Chẻ vừa châm điếu xì-gà vừa bình thản kể:
– Trong lần đi làm ăn xa ngoài Bắc, ông nội đã để lại ngoài đó “Cô hàng nước” chưa cưới và cái bầu.
Chừng muốn trở ra tìm kiếm để gia đình sum vầy thì…!mới phát hiện ra nhân thân nhà gái bất đồng quan điểm lẫn tư tưởng chánh trị với bên mình.
Tuy vậy, gạt bỏ lời khuyên của người anh quan lại triều Nguyễn, nội vẫn liều mạng ra Đàng Ngoài một chuyến.
Kết quả thu về là cái tay bị liệt do trận đòn nhừ tử từ nhà gái và cái tin cổ đã cưới chồng – người này là tướng tá ở đó…
– Còn đứa nhỏ thì sao?
– Được một ông họa sĩ nhận nuôi.
Ổng quê gốc Sơn Tây hay Hà Tĩnh chi đó.
Ba đứa bạn thân của Chí Công nóng ruột nên đã tung cửa bước xuống xe mà chạy tốc lại để nghe trộm.
Chỗ núp của cả đám là ở sau bức tượng Thiên Thần đặt trên bệ đá cao, đủ bề ngang lẫn chiều dài để che chắn ba đứa.
– Cậu là con trai ruột của Trịnh Hoài Sang.
Khán Bình nghe như sét đánh ngang tai.
Mặc kệ sự níu kéo của hai thằng bạn, hắn lao đến chỗ người đàn ông khả nghi và thằng Công.
– Mày…!Mày là con của mụ đàn bà đó…!Mày…
Chí Công hết hồn hết vía trấn an thằng bạn Thần Kinh:
– Ổng nói vậy mà mày cũng tin được hả? Có xét nghiệm đách què gì đâu…
– Xét nghiệm rồi.
Không tin thì đi thêm một lần nữa.
– Đi liền! Tao nói mày phải đi liền.
Không thì không có bạn bè con c** gì hết.
Đỗ Hiểu Thiên nhận phần chở thằng cháu khác dòng.
Khán Bình cóc thèm cản mà im hơi lặng tiếng quày quả kéo hai thằng kia ra xe.
Cũng may gần đây có một phòng giám định ADN nên nguyên đám không cần phải tốn xăng lên Sài Gòn.
– Vậy ra dòng họ bên ông là cựu thù bên dòng họ ông kia.
– Ừ.
– Rồi sao làm hòa?
– Tao không thích sống với mẹ đẻ và cha dượng nên vô Sài Gòn tự thân lập nghiệp.
Thành ra tao đách để tâm đến ân oán đời trước.
Mày là cháu tao thì tao lo.
Chỉ có thế thôi.
– Đé* tin.
Cằm Chẻ khỏ đầu thằng cháu khác dòng cái cốc.
Rồi lạnh giọng giải thích:
– Tao bị dị tật ống dẫn tinh, khó làm cho người ta đậu thai, nên muốn nhận một đứa con nuôi.
Nhỏ quá thì không biết cách nuôi, dậy thì lại ngang bướng quá quản không nổi, chi bằng kiếm thằng lớn xác như mày khỏe hơn.
…
– Thím Huê.
– Có chi không Hoàng?
– Thím là một trong những thành viên chửi mướn trên mạng phải không?
Thím Huê té ngồi xuống ghế:
– Đã từng.
– Tại sao thím lại bỏ cái nghề đó mà ra đây mở quán bán?
– Trong một lần tấn công, thím đã “đánh lộn” thằng em họ, khiến nó bị bỏ tù oan mấy năm.
Sau khi mãn hạn, nó sanh chứng điên loạn, suốt ngày cứ gào thét, “Tôi bị oan mà…!Làm ơn đừng có đánh tôi nữa…” Không biết làm cách nào để chuộc lại tội lỗi đã gây ra, thím quyết định nhận phần nuôi nó, từ đó tới giờ cũng đã hơn mười hai năm.
Đức Hoàng vét hết cháo trong tô, rồi gọi thêm một cặp bánh quẩy nữa.
Vừa xắt bánh quẩy bằng cây kéo Nhựt, thím Huê vừa bặm môi hỏi:
– Sao Hoàng biết hay vậy?
– Tình cờ thôi.
Thím Huê mếu máo biểu:
– Xin Hoàng đừng có ghét thím nghen.
Thím biết lỗi rồi mà.
Đức Hoàng đanh giọng trách cứ:
– Nhờ ơn phước của cái đám đồng minh với thím mà anh Hai bạn Hoàng phải chết tức tưởi trong tù.
Vừa hay có khách tới mua sủi cảo và bánh hẹ nên thím Huê mới bớt cảm giác khó xử.
Người khách kia vừa đi khỏi, Đức Hoàng xấn lại mà nắm lấy cánh tay của thím Huê:
– Tôi đến đây là để đưa thím đi trốn.
– Chẳng lẽ…!”Hai mươi năm”?
– Phải.
Thím Huê chưa kịp phản ứng chi sất, đã thấy ba người bạn của Đức Hoàng a tùng hồ nhào vô dọn quầy của chị mà thảy lên cốp của chiếc xe Mitsubishi.
Ai đi ngang cứ tưởng ba khứa này thuộc đội Quản Lý Trật Tự Đô Thị vì tác phong quá ư chuyên nghiệp.
Làm xong, Chí Công vuột miệng than:
– Trời ơi, không biết ngày mai tao có phải bị chỉ điểm bởi một bà bán vé số dạo nào đó không?
Do di chứng của những đợt bị tra tấn ép cung trong tù nên em họ thím Huê kháng cự nhóm “Nhạn – Vàng – Bình – Công” hết sức kịch liệt; dẫu thím Huê có nói ngọt nói dịu cỡ nào người đàn ông này cũng quyết bỏ ngoài tai, không những vậy còn chửi rủa thím Huê rất nặng lời.
– Đ* má, rượu mời không muốn, tao cho mày hưởng thuốc mê.
Bây đâu, trùm khăn nó!
Lời của Đức Hoàng vừa dứt, ba đứa bạn liền hè nhau giữ chặt người đàn ông đó; còn thím Huê lãnh phần chích thuốc mê vô đùi thằng em.
– Ngủ rồi.
– Tống Ngạn vừa nói vừa xức thuốc sát trùng lên vết răng cắn nơi bắp tay.
– Nó hổng có bị bịnh truyền nhiễm đâu.
Cậu Nhạn đừng lo nghen.
Tống Ngạn cười gằn:
– Tôi thấy thím có cốt cách của Võ Tắc Thiên lắm đó.
Thím Huê đanh giọng đáp trả:
– Tao mà hiền, tao còn sống tới giờ này hả mày?
– Ủa? Thằng Luật nó xỉu nữa hả A Huê?
Thím Huê tươi cười và nhỏ nhẹ thưa:
– Dạ, nó uống thuốc trị bịnh nhiều quá nên sanh chứng thiếu máu, xỉu hoài hà.
Ông lão hàng xóm gật gù:
– Hèn chi hồi nãy tao nghe om sòm bên này, thì ra là do nó đói quá nên mới đổ quạu mà đâm ra làm trời làm đất.
Nói nó, mốt có đói quá thì qua nhà tao kiếm gì ăn đi, bày đặt đợi bây về chi rồi…
Lê Đức Hoàng cười sượng trân:
– Ông ơi, biết đâu cậu xỉu là bởi bịnh khác, để tụi con đưa đi nhà thương lẹ lẹ nha?
– Ờ…!Ờ…!Tao quên khuấy mất.
Nguyễn Chí Công ráng hết sức trưng ra vẻ mặt hòa ái:
– Dạ, cảm phiền ông vô gom đồ phụ tụi con.
Chuyến này nằm nhà thương chắc cũng lâu lắm mới về.
Nghe vậy, ông lão bay vô phụ một tay.
Tay làm, chân đi, còn miệng thì vẫn liếng thoắng hỏi:
– Sao mấy đứa tới đúng lúc quá vậy?
Người trả lời vẫn là Đức Hoàng:
– Nhỏ em con lên trên này học, lợi dụng thím Huê thương mà giở giọng ăn chịu rồi xù luôn.
Con thấy áy náy nên tìm địa chỉ nhà mà ghé qua đây trả nợ.
Ai dè đâu…
– Trời, bởi ta nói làm ơn cho cái đám sanh viên bạc bẽo lắm…
Mặc cho ông lão nói tràng giang đại hải, năm người cứ cắm đầu cắm cổ vô thu dọn đồ đạc và xóa dấu vết đã từng lưu trú nơi đây của hai chị em thím Huê.
Chừng khiêng A Luật lên xe, ông lão đòi đi theo để coi chừng phụ, nhưng đã bị thím Huê khước từ với lý do, “Lóng rày trộm cắp lộng hành dữ lắm.
Đồ cúng cô hồn nó còn giựt.
Huống hồ chi là cái nhà khang trang của ông, nó cạy cửa mấy hồi.” Sợ mất của nên ông lão hết đòi đi theo.
Trước lúc giã biệt, ông lão cho thím Huê vài trăm để có tiền “bồi dưỡng” nhân viên trong trỏng đặng cho A Luật nằm viện “trong tình thương bao la”.
Xe chạy đâu được mười lăm phút, Đức Hoàng tức mình la:
– Đã người ta đang gấp mà còn bày đặt diễn tuồng “Trong giây phút chia tay, nghe lòng sao bồi hồi…”
– Mấy đứa phải cho thím biết chỗ trốn chớ?
Khán Bình nạt:
– Ngu sao cho? Lỡ bà báo với đồng bọn của bà là nay mai nội tạng của tụi tôi bay đi khắp thế giới.
Thím Huê xẵng giọng:
– Tao đã nói là tao đã cắt đứt liên lạc với cái đám đó rồi mà.
– “Một lần bất tín là vạn lần bất tin” bà ơi.
– Nói đoạn, Khán Bình mở điện thư để soát thơ.
Thím Huê day sang dỗ ngọt cậu trai giống người tình năm cũ của mình:
– Hoàng, Hoàng thương thím không?
– Thương.
Mà tôi thương cái mạng tôi hơn.
Tôi mà có chuyện gì thì gia đình tôi đi móc bọc hết.
Còn thím có bề gì thì bất quá cha nội kia vô Dưỡng trí viện Biên Hòa định cư thôi, cơm nước ở trỏng người ta lo cũng đủ đầy.
Chí Công phì cười:
– Bà nội này dụ lầm người rồi.
Chỉ có tiền bạc mới rù quến được nó thôi, lời ngon – tiếng ngọt sức mấy làm nó lung lay.
– Tao không có muốn có đóng phim “Lật mặt” với tụi bây nghen.
– Không phải “Lật mặt” mà là “Trở mặt”.
– Đức Hoàng cất giọng đính chính.
Chiếc xe đã vượt qua cầu Mỹ Thuận.
Nhằm đánh lạc hướng thím Huê và những kẻ bám đuôi, tuyến đường chạy rất ngẫu hứng và bất thình lình, thành ra bà thím Triều Châu không biết đích đến là ở nơi mô.
Đức Hoàng bỗng vỗ đùi mà nói:
– Công nhận ông nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tiên tri hay thiệt.
Chí Công hỏi trong cái ngáp dài đứt đoạn:
– Tiên tri vụ gì?
– Ổng viết bài “Chìm dưới cơn mưa”, giờ khắp Nước Việt Nam hễ mưa là y hệt cái bài của ổng.
Mưa xuống, nhiều khúc đường ngập đến hơn bánh xe.
Xe lớn, xe nhỏ mặc sức tát nước vô nhau.
Những tấm áo mưa nylon loại xài một lần chẳng giúp ích được bao, mặc cũng như không, ướt và lạnh vẫn cứ vây lấy những con người đang nôn nao đường về.
Khán Bình bấm số gọi cho Từ Hớn Mai:
– Anh Ba Hói…!Đường nào nỏ bị ngập rứa?
Dựa theo sự chỉ dẫn không mấy đáng tin của cha nội hói đầu, Khán Bình quyết định chạy đại vô con hẻm bề ngang bằng kích thước cái hòm.
Thời may cho hắn là đường này trống trơn và rất ít xe cộ qua lại, thành ra hắn chỉ mất chưa đầy nửa tiếng là đã thoát ra được cái mê cung này.
Vì trời đã về khuya mà lại có mưa nên thím Huê không biết xấp nhỏ đưa gia đình mình đi đâu.
Thím chỉ thấy lờ mờ những núi non trùng điệp, hai bên đường ruộng đồng chìm trong biển nước, lâu thật lâu mới thấy một cái chòi chăn vịt nằm chơi vơi giữa ruộng đồng.
Thím không biết mình đang ở Tây Ninh hay An Giang, hoặc xui rủi là bị đưa ra miền ngoài.
Vượt qua dãy núi Ông Két hùng vĩ, chiếc xe chật vật chạy trên con lộ vừa nhỏ xíu vừa gồ ghề do đường này đang trong giai đoạn tu sửa và trải nhựa.
Đi được đâu mấy cây số nữa, chiếc xe dừng lại để châm thêm xăng; phước phần Ông Bà – Tổ Tiên để lại nên cây xăng này còn có nhiên liệu, nếu không thì nguyên đám chắc lội bộ lên Cô Tô xuyên đêm mất.
Cư sĩ Chánh Tâm đã đứng đợi nguyên đoàn từ hồi mười một giờ đêm, trên lưng ông gù đầy cây cỏ thuốc Nam và giống lan rừng.
Sau khi nghe rõ bịnh án của A Luật, Chánh Tâm chỉ biết thở dài thườn thượt.
– Cô lên gác ở.
Còn cậu này…
– Dạ sao?
– Ở chung phòng với tui hay ghé tịnh thất của các Thầy ở?
Vừa hay A Luật đã tỉnh dậy.
Anh lồm cồm bò dậy mà van lơn:
– Ở đâu mà không bị cảnh khuyển bắt.
– Về ở với các Thầy đi.
– Chánh Tâm khuyên.
A Luật vừa cắn đầu ngón tay cái vừa nói:
– Tôi muốn đi tu.
Tôi chán ngán cõi đời dối trá này lắm rồi.
– Anh bị vu cáo án gì?
Thanh Liên đã đứng ở bậc trên cùng của cầu thang tự bao giờ.
Gương mặt đẹp như tranh vẽ ấy đã khiến A Luật sững sờ đến nỗi không thốt nên lời.
Người Tăng sĩ đó lặp lại câu hỏi trên.
Lúc này anh mới hoàn hồn mà lí nhí đáp:
– Hiếp dâm.
Rồi A Luật bất ngờ la lên:
– Đ* má, con đ* đó là con cái nhà ai tôi còn không biết, ở đó mà biết đường tới nhà làm bậy!
– Đói chưa?
A Luật và thím Huê thưa có.
– Cơm tấm Long Xuyên và cà-phê sữa đá.
Mau ăn đi kẻo hư bao tử.
Lát có người tới xin lỗi anh đó A Luật.
Thành ra A Luật ăn uống trong tâm trạng bất an khôn cùng.
Cử thuốc điều trị căng thằng thần kinh cũng không thể giúp đầu óc anh bớt căng thẳng.
Thanh Liên nói sáng mai mới làm Lễ Quy Y Tam Bảo.
Vì cha mẹ A Luật đã từ mặt anh ta do hiểu lầm con mình là một thằng đốn mạt, do đó khỏi cần phải về xin phép họ một tiếng.
Chừng khoảng mười hai giờ đêm, Hỷ Tín đến gặp mặt nạn nhân của đồng nghiệp mình.
Biết rằng người này sẽ không nhận lấy bất cứ thứ gì từ mình, nên cậu không đem theo món chi.
Nghe xong hết đầu đuôi câu chuyện thông qua sự phiên dịch của Thanh Liên, A Luật cười gằn một tiếng trước khi chắp tay thưa:
– Trước lúc xuống tóc đi tu, xin phép Thầy và chư huynh cho tôi phá giới một lúc.
Vừa dứt lời, A Luật liền dộng vô mặt Hỷ Tín một cái như trời giáng.
– Đau lắm phải không? Nó chỉ là một trong những chiêu thức ép cung của đám Cảnh Khuyển giáng lên đầu tao thôi.
Hỷ Tín chắp tay mà mấp máy môi xin lỗi.
Máu mũi vẫn không ngừng tuôn xuống.
Nhưng không hiểu sao cái đau nơi thể xác chỉ lóe lên một chút, còn cái đau nơi tâm khảm lại nhân lên gấp vạn lần.
– Tao nói cho mày biết, tao tính bỏ thuốc chuột cho con chị họ từ lâu lắm rồi, nhưng tao nhớ ra cái nguyên nhân khiến nó làm như vậy là để lấy tiền chữa bịnh cho thằng em tao, tao mới bỏ qua cho nó.
– Gãy sống mũi rồi…!Trời ơi! – Chánh Tâm la lên.
– Mày gãy sống mũi mày còn được đi bịnh viện, còn tao…!Đ* má…!còn tao…
– Thôi, thôi, thôi…!- Thím Huê nước mắt ngắn dài mà van lơn cản em.
Phá Vân và Chánh Tâm tức tốc đưa Hỷ Tín đi nhà thương.
– Thù xưa chưa trả xong, nhưng cũng đã hả giận được đôi phần.
Biết A Luật đang muốn nói chuyện riêng với mình nên Thanh Liên nắm tay y ta mà kéo vô rừng.
Đường rừng về khuya chim cú kêu nhiều không sao kể xiết.
Người hiền còn cảm thấy nổi da gà, huống hồ chi là người có tâm bất chánh hay bất an như A Luật đây; vừa đi A Luật vừa run lẩy bẩy.
– Mình không có làm gì ác thì không nên sợ ngoại cảnh nhiễu nhương.
A Luật tức tưởi than van:
– Thưa Đại Trưởng lão, tôi muốn biết tôi bị mắc Nghiệp gì mà phải chịu sự tra tấn khủng khiếp suốt ba năm ròng?
– Thí chủ bị Cộng Nghiệp với chị họ.
Nếu chị họ không giao du với đám người đó thì họ đâu có biết thí chủ mang dáng dấp tương đồng với hung thủ mà đem ra làm con dê tế thần.
– Nhưng nếu chị họ không giao du với đám người đó thì tôi có thể bị bắt oan không?
– Không chắc.
Bởi theo thiển ý của tôi, vì mối liên hệ huyết thống giữa đôi bên nên khi chị họ của thí chủ đứng ra tố cáo thì người ta sẽ dễ tin hơn; do đó tôi mới nghĩ vì chị họ của thí chủ mà thí chủ mới ra nông nỗi này.
– Vậy thằng chó đó bị đánh là đúng hay sai?
– Ngày xưa tôn giả Ương-Quật-Bà-La vì một Nghiệp Ác mà còn bị chặn đường đánh bờm đầu, huống hồ chi là Sa-di Hỷ Tín.
Không nhận được câu trả lời rõ ràng, A Luật thất vọng lắm.
Nét mặt và cử chỉ của chú đã bộc lộ ra hết điều đó.
Song, Thanh Liên không bày tỏ thái độ gì, vẫn ung dung và xa cách sen xanh mọc giữa đầm, muốn vươn tay ra hái phải bơi thuyền thúng ra, nhưng có bao giờ anh neo sẵn cái thuyền thúng và mái chèo đó đâu?
– Để tôi dẫn thí chủ tới một nơi này.
Rồi thí chủ sẽ hiểu “Vạn Pháp ở thế gian vô thường” ra sao.
Dọc đường đi, hai người bắt gặp Đức Hoàng đang lui cui đào khoai mì.
Khuya lơ khuya lắc như vầy, lại ở lưng chừng núi, lạnh lẽo xiết bao, mà cậu ta chỉ đội cái nón rơm và khoác áo tơi mỏng manh.
Do cắm cúi làm việc nên cậu ta không hay sau lưng có người.
Rời khỏi đó được một quãng khá xa, Thanh Liên nói với A Luật:
– Đức Hoàng có tới năm đứa em nên lúc nào cũng phải làm việc.
Nghe tin trên núi khoai mì vừa bự chà bá vừa bán có giá nên nửa đêm nửa hôm phải vác cuốc lên đây đào.
Đoạn, Thanh Liên mời A Luật nghe bài “Tịnh mặc nét ai cười” của nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo do Kim Tước trình bày:
“…!Chuông đại hồng xóa oán thù xưa
Hương không thoát tự chuông
Tâm nghiêng từ tâm
Xuân vẫn như Xuân…”
Đợi cho A Luật lắng nghe hết bản nhạc, Thanh Liên mới dịu dàng kể lại “chuyện xưa tích cũ” giữa sư đệ Châu Lợi và gia đình Sa-di Hỷ Tín, rồi bắt đầu kể lại nghiệt Duyên giữa mẹ mình là Cận-Sự nữ Ly Ái và Thầy mình là Tỳ-Kheo Đới Lan.
Nghe tới đâu, tâm trí A Luật lắng dịu đến đó.
– Nếu không buông được thì hãy giữ, nếu giữ không được thì hãy cứ để mặc nó trôi đi.
Con người cứ loay hoay Buông – Giữ, hết kiếp này qua kiếp khác, mãi mãi trầm luân trong cái chốn Nhị Nguyên này…
– Vậy theo Thầy tôi nên Buông hay nên Giữ?
– Không tha thứ được thì thôi.
Mắc gì phải gồng mình ép buộc bản thân tha thứ.
Bởi lẽ càng ráng tỏ ra tha thứ, hận thù càng sâu đậm thêm thôi.
A Luật lặng trang suy nghĩ.
– Đây là một bản truyện cổ Phật Giáo mà tôi hết sức tâm đắc, chuyện kể rằng:
Thuở xưa, bên xứ Diêm-Phù-Đề, có một đôi vợ chồng rất độc ác, họ chuyên sát hại dã man những người lang thang trên đường phố.
Để thực hiện được điều ấy, họ thường sử dụng chiêu bài mời một bữa cơm hoặc nhận vô làm công.
Bữa đó, có một vị Phật ôm y bát đi khất thực ngang qua nhà họ.
Bổn cũ soạn lại, họ liền đon đả rước vào.
Không hiểu sao, người vợ lại có dự cảm không lành; thành ra trong lúc xuống nhà sau lấy dao và dây thừng với chồng, bà đã khuyên ông đừng nên sát hại cái người mình mới vừa bắt.
Nhưng ông chồng gạt ngang, còn xua bà lên trên nhà đóng cửa và khóa cho kỹ.
Chừng thấy con mồi không còn đường thoát, đôi vợ chồng mới lộ bộ mặt thật ra.
Song, họ không tài nào đến gần Ngài được.
Người chồng bèn nghĩ rằng có thể là do con dao trên tay mình nên người này mới trổ thần thông kháng cự, bây giờ mình hãy quẳng con dao đi để người này không còn sanh tâm nghi ngại, rồi sau đó cùng vợ nhào vô bóp cổ là êm đẹp liền.
Song, dù không còn con dao trên tay, vòng bảo hộ vẫn không biến mất.
Đôi vợ chồng ra sức khuyến dụ Ngài hãy bước ra khỏi vòng bảo hộ, Ngài lắc đầu mà cười biểu, “Các vị có bỏ con dao xuống đâu mà tôi dám bước ra.” Nói tới nói lui một hồi mà Ngài vẫn không chịu bước ra, ông chồng mới đổ quạu mà lục tung các túi quần, túi áo và la làng lên, “Đâu, mày nói vợ chồng tao có con dao.
Vậy con dao ở đâu? Hả? Mày nói đi.
Mày nói mau đi.” Vẫn giữ gương mặt hòa ái và nụ cười Từ Bi vô lượng trên môi, vị Phật ấy chậm rãi trả lời, “Con dao ấy nằm ở trong tim hai thí chủ đó.”
Hóa ra Ác Ý chính là con dao sắc bén và giết người không gớm tay nhứt trên cõi đời nảy.
Có nhiều người nói mình đã cải tà quy chánh, nhưng kỳ thực là do họ đang bị thất thế nên mới chịu sống hiền, chừng họ thịnh thời trở lại sẽ biến về nguyên hiện như xưa thôi.
Họ đâu có buông con dao trong tim xuống đâu.
Bởi vì tụi tôi thấy Hỷ Tín đã thực sự cải hối nên mới thâu làm đệ tử Phật Gia.
Chớ nếu cậu ta vẫn còn con dao ấy, sức mấy tụi tôi dám chứa chứ đừng nói đến là cho đi tu.
A Luật chắp tay mà thưa:
– Thưa Thầy, xin hãy cho tôi pháp tự.
Thanh Liên làm ấn thủ xác tín, rồi nhẹ nhàng trình bày:
– Thiện Sanh.
Vì đệ đã thoát khỏi vướng mắc của Ngũ Uẩn như người đã dứt bỏ sự mắc chân vào đám rong rêu và đá ngầm dưới nước, mà tái sanh trong cửa Phật, nên tôi lấy chữ “Sanh”.
Còn Thiện, từ lúc đệ “sanh ra lần nữa”, kể từ giây phút này xin đệ suốt đời giương cao hai ngọn cờ “Tứ Diệu Đế” và “Bát Chánh Đạo”; hai ngọn cờ ấy là gốc rễ nẻo Thiện của một người Sa-môn Theravada.
Thiện Sanh chắp tay đảnh lễ Đại Trưởng lão trẻ măng mà hân hoan phát biểu:
– Lành thay…!Lành thay…
Trong lúc A Luật đang ráng hết sức buông bỏ, thì ba mẹ của Hỷ Tín lại bị một phen đau khổ vì thằng con Út.
Nằm nghe Hoàng Oanh ca bài “Ngõ vào đời” của nhạc sĩ Thái Ngọc Sơn (trong bài này cụ ký tên là “Tú Nguyệt”) mà Hỷ Tín rơi nước mắt.
Ngày xưa ba cậu hay mở nhạc Anh Việt Thu do “Chim vàng Mỹ Tho” ca để thay thế tiếng ru của hiền thê.
– Còn đau hôn con? – Thím Tám Đề vừa nói vừa vuốt đầu thằng con phá làng phá nước.
Hỷ Tín sụt sùi gật đầu.
– Là tại ba mẹ nghèo hèn nên con mới phải mang họa sát thân.
…
Tưởng chừng sóng gió nhân gian đã lắng xuống, dè đâu chưa đầy một tuần sau, khắp mặt báo đã loan tin truy nã Hỷ Tín về tội cưỡng hiếp và cướp tài sản.
Hỷ Tín ngơ ngác nhìn “nạn nhân” tố giác mình hiếp dâm một đỗi, rồi cười như điên như dại vì quá ghê sợ những lời khai bịa đặt của cô ta.
Cái ngày mà cô ta nói rằng cậu gây án với cổ thì cậu đang ở nhà của cư sĩ Chánh Tâm để học nghề thuốc và sửa Wi-Fi, chỉ có học được phép của Tôn Ngộ Không mới có thể “thân này ví xẻ làm hai” mà thôi.
Do gương mặt của cô ta đã được làm mờ nên cậu chẳng thể nhận dạng ra tính danh.
Châu Lợi vừa lột vỏ quýt vừa cười biểu:
– Người ta không thù không oán, cũng như không quen không biết mà còn bịa chuyện vu oan giá họa và đem đi đấu tố được, huống hồ chi là cậu và họ đã từng làm bạn với nhau.
Thím Tám Đề chậm nước mắt:
– Lúc trước con hại người ta để lấy tiền, giờ bị người ta nhận tiền để hại con…
Trần Cảnh Chiêu khẽ hỏi:
– Hổm rày cẩu ở vòng vòng khu vực Phụng Hoàng Sơn phải hôn? Có về Sa-Đéc lần nào không?
Hỷ Tín lắc đầu lia lịa.
– Tụi nó muốn cậu lộ mặt để diệt khẩu, mà nếu như không đưa cậu ra đối chất với “nạn nhân” đó thì suốt đời cậu phải lãnh án truy nã gắt gao trên toàn quốc.
Chánh Tâm vừa rải đường lên lớp vỏ cam, quýt và chanh trong cái keo thủy tinh vừa trề môi ướm hỏi:
– ADN chúng đã ngụy tạo rồi.
Cậu để làm sao mà bị tụi nó lấy được vậy?
Hỷ Tín lắc đầu nguầy nguậy trong hai hàng nước mắt.
Rồi hốt nhiên, đôi mắt Hỷ Tín long lên sòng sọc.
Cậu cắn đầu ngón tay cái đến bật máu rồi vạch xuống giấy một cái tên.
– Xưng?
– Đúng rồi…!chỉ có thằng Xưng mới giúp tụi nó ngụy tạo ADN của con trai tôi.
Dù muốn dù không, Hỷ Tín vẫn phải kể lại mối thân giao với gã đàn ông tên Xưng.
Số là vầy: Trong số các bạn đồng nghiệp, cậu hạp tánh với Xưng nhứt; tâm sự thầm kín gì cũng thỏ thẻ, thọt thẹt với nó, ngay cả đi chơi gái cũng rủ nó đi chung.
Thành ra bây giờ nó có đủ hết mọi thứ có dính ADN của cậu; từ đó cậu suy ra thằng góp sức vu khống cậu chỉ có nó mà thôi.
Trần Cảnh Chiêu liền liên lạc với Kha Ngạn.
Trong lúc chờ đồng nghiệp hồi âm, anh rửa, sát trùng và băng bó vết thương cho cậu Sa-di đáng tuổi em mình.
Khoảng một tiếng sau, Kha Ngạn mới gọi lại.
Câu đầu tiên mà anh ta nói là:
– Miêu tả khuôn mặt của người tên Xưng liền đi.
Tôi sẽ họa ra giấy.
Dưới sự giúp đỡ của Trì Thương, bức phác họa đã mau chóng hoàn thành.
Thím Tám Đề cau mày nghĩ ngợi:
– Hình như…!hơi quen mặt thì phải?
– Trời đất quỷ thần thiên địa ơi! Chú soát vé ở xa cảng miền Tây chớ đâu! Tui đi xe đò giao thuốc hoài nên quen thân lắm.
Martin Cảnh vò đầu bứt tai.
Nhân chứng giả mạo có thân thế quá thấp trong xã hội, không biết liệu có thể giữ mạng cho tới ngày Hỷ Tín được minh oan hay không.
Vừa nhai một miếng vỏ cam phơi khô, chàng pháp y Bạc Liêu vừa uể oải nói:
– Kẻ có thể ngụy tạo kết quả giám định ADN, trên Đất Nước này có khoảng mười hai người, dùng phép loại trừ…
– Đừng nên tiết lộ ra.
Kẻo cái mạng của thí chủ sẽ không còn đâu.
– Châu Lợi hướt lời.
Trì Thương cau mày ngẫm nghĩ.
Ước chừng nửa tiếng sau, mới nói:
– Họ phao tin giả thì chúng ta cũng tung tin giả luôn.
Cứ đồn rằng Hỷ Tín đang trốn ở Củ Chi, chừng đám đó xuất hiện thì hốt trọn một ổ luôn.
Không hẹn mà hai người bên Tổ Trọng Án đều lên tiếng:
– Được, vậy cứ lập kế như vậy đi.
Martin Cảnh nửa đùa nửa thật:
– Thì ra mấy cậu là “Tinh Tú Lão Quái”.
Nhưng Hỷ Tín không còn tâm trạng đâu mà cười giỡn.
Bạn bè của cậu từng đứa, từng đứa bán đứng cậu để cầu lợi lộc và an toàn cho bản thân.
Kha Ngạn bỗng lên tiếng:
– À, anh đưa “cái ấy” cho Tăng sĩ Thủy Diệu coi chưa?
Martin Cảnh vỗ trán một cái mà reo lên:
– Ờ đúng rồi há! Anh Diệu, anh Diệu, anh coi “cái ấy” giùm tôi nghen?
oOo
Anton Nhân được tại ngoại sau khi đoạn băng chứng minh người giết chết Lê Hoài Sang không phải là cậu được công bố rộng rãi trên mạng.
Dù chưa điều tra ra được ai là chủ sở hữu, nhưng bên phía cơ quan điều tra quyết định sẽ không thi hành án hay tiết lộ danh tính người đó.
– Sa-di Hỷ Tín.
Hỷ Tín chắp tay mà cúi đầu chào người Linh mục đẹp như Thiên Tiên.
– Tôi là Antonio – Cao Nhật Vũ, Linh mục của Dòng Chúa Cứu Thế.
Tôi muốn gặp Tăng sĩ Trì Thương.
Do chưa quen đường nên Hỷ Tín phải đi kiếm sư huynh Hoàng Kỳ để cậy huynh ấy dẫn đi giùm.
Trong lúc chờ đợi, An-Tôn Vũ bèn ghé thư phòng ngồi đọc sách.
Chừng khoảng con gà rừng hứng chí gáy vang ba tiếng, mới thấy Hoàng Kỳ có mặt.
Chàng Tăng sĩ đen thui xách theo một bịch hồng trà sữa có đồ bổi thập cẩm và một ổ bánh mì heo quay hãy còn giòn rụm.
– Ăn đỡ đói nghen Cha.
Antonio Vũ nói lời cảm ơn với âm thanh nhỏ rí.
Vốn thông thạo đường đi nước bước nên Hoàng Kỳ lựa toàn những nơi có nhiều cây xanh bóng mát, thành ra chặng đường tuy xa nhưng không gây mất sức nhiều cho khách lạ phương xa ít vận động, cộng thêm đồ ăn – thức uống tiếp sức nên năng lượng của chàng Linh mục đẹp như “Búp-bê bằng sứ” luôn được thêm vào.
Đến nơi thì thấy Trì Thương vừa mới tắm xong cái sột, đã mặc quần dài rồi, nhưng chưa đắp cà-sa.
– Tôi và anh đều là đàn ông mà, có chi đâu mà ngại.
Antonio Vũ vẫn lấy làm ngượng ngập.
– Thôi, nếu anh cảm thấy khó chịu, xin hãy ra ngoài Vườn Lan đợi tôi.
– Dạ.
Vườn Lan tuyệt sắc đã khiến chàng Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế choáng ngợp.
Anh thích thú bước tới bước lui ngắm nghía những chò hoa muôn hình vạn trạng và nồng nàn hương ngọt.
Bỗng, anh sực nhớ đến người Cha Phó đáng mến mang tên Stephen Đoàn, anh ta yêu quý hoa lan vô ngần và thổi khẩu cầm cũng hay cực kỳ.
Anh định bụng sẽ xin giùm anh ta một chò nho nhỏ về trưng.
Trì Thương bước ra từ phía hàng “lan hấp hối”.
Ánh mắt trong veo không vẩn một xíu tạp niệm ấy đã khiến cho Antonio Vũ thoáng ngại ngần, bởi lẽ chưa bao giờ chàng tu sĩ thấy lại có thể “sở hữu” một đôi mắt có ánh nhìn vô tư như trẻ thơ giống vầy.
– Tôi muốn mời các vị, đặc biệt là Sa…!Sa…
– Sa-di.
– À, Sa-di.
Sa-di Hỷ Tín và Thầy Thủy Diệu.
Vì đã giúp con Chiên của tôi thoát khỏi án tử và sự hàm oan.
– Ăn ở đâu?
Dù rất đỗi ngạc nhiên vì người thầy tu Phật Giáo hiểu mình muốn nói cái gì, nhưng Antonio Vũ không để lộ ra mặt mà vẫn trấn tĩnh nói:
– Chắc là…!ăn bò bảy món ở núi Sam.
– Kiếm quán nào rẻ thôi, đồng lương tu sĩ của anh kham không nổi đâu.
– Không sao đâu, tôi trả tiền cho.
Người vừa nói câu đó là Hác Đăng Khánh.
– Tôi cũng muốn gởi lời cảm ơn đến Sa-di Hỷ Tín vì đã giúp tôi hết lạm quyền.
Cư sĩ Chánh Tâm lắc đầu ngao ngán:
– Đã biết cái thân đang bị người ta biểu tình đòi đảo chánh mà còn đi một mình.
Tổng thống Khánh nhếch miệng cười.
Quán ăn mà Đăng Khánh chọn là của một dân biểu ủng hộ chú hết lòng hết dạ, thiếu điều muốn đem bộ đồ lòng ra cho luôn, thành ra chú mới dám đơn thân độc mã tới đây.
– Gì đây anh Đăng, định tổ chức “Hòa đồng tôn giáo” hả?
– Cảm phiền đừng cho ai lên lầu.
– Dạ.
Quán này cất kiểu nhà sàn, thành ra tầng hai khá cao và đứng ở đây có thể nhìn ra kinh Vĩnh Tế.
Diện tích áng chừng cả ngàn mét vuông, được chia làm hai khu vực: Sân vườn và Nhà ăn.
Chánh Tâm tự nhiên gọi một xị rượu đế và dĩa sụn gà nướng muối ớt.
Liếc sang phía tổng thống, cậu ta kêu rất nhiều món cho mình và mọi người; ở đây mới nghe rõ giọng thiệt của cẩu là miền Tây, nhưng lên trên truyền thông đại chúng lại sửa thành khẩu âm Sài Gòn, thôi nói giọng đồng hương nghe dễ thương hơn là cái giọng kiểu cách kia.
– Nè, ăn nhiều dzô nghen quý vị.
Tôi trả tiền mà, đừng có lo rửa chén.
Hoàng Kỳ phì cười khi thấy chàng tu sĩ đẹp trai vẫn còn bụng để chứa đồ ăn.
Coi bộ ròm ròm dzậy mà ăn khỏe ghê ta.
Chú chợt nhớ đến những bữa ăn sau các giải đấu quyền Anh của mình, lòng bồi-hồi tưởng đến những quán quen đã bỏ lại bên xứ sở cờ hoa, mà tự nhiên cảm thấy đượm buồn vì thế sự thật vô thường.
Cũng không khác gì Hoàng Kỳ, Phú Lâm và Phá Vân nhớ lại đoạn quá khứ đã qua của họ.
Phú Lâm nhớ về vợ con, còn Phá Vân nhớ về những bóng hồng năm cũ.
Danh – Lợi – Sắc – Cảm tựa như bọt bèo, tan biến hay hiển lưu đều bất định, níu giữ cách mấy cũng có ngày vuột khỏi tầm tay và về với cát bụi.
Sau bữa cơm, tổng thống Khánh lên xe về thành đô.
Về phần nhóm nhân viên thuộc Tổ Trọng Án, bộ tứ đang đi du ngoạn ở vùng Liên Hoa Sơn.
Kha Ngạn mời ba người bạn đồng nghiệp ghé mua nước giải khát ở một quầy hàng ế khách.
Chưa đến gần quầy hàng mà mọi người đã nghe thấy tình khúc “Hãy yêu như chưa yêu lần nào” của nhạc sĩ Lê Hựu Hà qua giọng ca ngọt ngào của Ngọc Lan.
Kha Ngạn hỏi trong lúc mở bóp lấy tiền:
– Uống chi đây?
Martin Cảnh chọn nước thốt nốt lạnh, Mạnh Cường thì uống lục trà cam, còn Việt Bân lại lấy trà sữa trân châu đường đen.
Mua nước xong xuôi, nguyên đám kéo nhau ra ngồi dưới gốc cây tra đại thụ.
Vì đang trưa trời trưa trật nên không có ai khác léo hánh tới đây, thành ra họ có thể bàn luận thoải mái mà không sợ kẻ gian rình mò, tuy vậy người nào người nấy đều tự giác giảm “âm lượng” xuống để tránh tai vách mạch rừng.
Trở lại vụ án của Lê Hoài Sang, diễn biến vụ việc có thể tóm tắt như sau: Người giết Lê Hoài Sang là một nhóm sát thủ ngoại quốc, chủ của chúng điều hành một đường dây cá ngựa xuyên quốc gia và cho vay nặng lãi.
Vì tên chính khách họ Lê nợ hơn mười mấy triệu Mỹ kim nên tay cầm đầu đã cử đàn em sang sát hại đặng dằn mặt gia đình hòng thu về món tiền nợ.
Để kế hoạch được diễn ra suôn sẻ, chúng giới thiệu rằng mình là nhóm cổ đông của một công ty bất động sản bên Vương quốc Anh muốn qua đây bàn chuyện làm ăn; sẵn đang thiếu nợ đầy đầu nên ông ta đã đồng ý với lời ngỏ của chúng, là thảo luận trong phòng làm việc mà không có sự góp mặt của bất kỳ ai.
Tại đây, chúng đã khống chế ông ta bằng một sợi dây thừng rồi xuống tay cắt cổ ông; đáng tiếc thay, chúng không hề biết ông ta vẫn còn một cái máy ghi hình, thành ra toàn bộ quá trình đã bị thu lại hết.
Do lo sợ sẽ bị tình nghi là hung thủ, vợ con của ông ta hè nhau tạo hiện trường giả nhằm đổ hết tội cho Phạm Thành Nhân.
Còn về việc nữ diễn viên đưa ly nước cam cho Anton Nhân, ấy là một chuyện hết sức bất đắc dĩ; sự vụ trên là như thế này: Biết mình đã bị con trai trưởng của ông ta nhắm tới, cô nàng bèn “đẩy cây” sang Anton Nhân rồi tìm cớ lẻn về trước hòng tránh mất lòng với gia tộc chính khách triệu phú.
Anton Nhân tưởng đâu người đẹp mời mình uống nước cam cho thông giọng nên hí hửng húp hết, vì căn cớ trên nên mới có cái cảnh bị người ta đem ra làm hình nhân thế mạng.
– Thủy Diệu là sư phụ của cái nhóm “Tinh Tú Lão Quái” ấy mà.
– Mạnh Cường vừa nói vừa xé bao giấy bọc cái ống hút.
Tào Việt Bân ngán ngẩm phát biểu:
– Sống như ông Lê có gì vui sướng, ngay cả vợ con cũng nghi ngờ, đến nỗi lắp cả đống máy ghi hình trong nhà mà không để cho họ biết.
Martin Cảnh cười hỏi:
– Mấy anh nghĩ ai là người đã “mua vé máy bay”?
Kha Ngạn làm dấu chéo bằng hai ngón trỏ.
Martin Cảnh gật gật đầu, đoạn nhếch miệng nói:
– Chưa có xong đâu.
“Chuông khánh còn chẳng ăn ai…”
oOo
– Tao mà biết mày là con của nó, tao bắt mày trả nợ lòi l* rồi.
Vợ đầu của Lê Hoài Sang gầm lên đầy tức tối như thế.
Đỗ Hiểu Thiên vịn vai thằng cháu khác dòng hòng trấn an nó:
– Cốt đ* thì vẫn hoàn cốt đ*.
Nguyễn Chí Công ráng dằn cơn hận xuống mà gượng cười với bà ta.
– Còn mày, mày là quân chó đẻ nào?
Đỗ Hiểu Thiên huơ bàn tay phải lên.
Chưa kịp giáng xuống mặt “chị dâu” một cái thì đã bị hai thằng con của “chỉ” chụp lại.
Chú vừa sửa cổ áo vừa nói:
– Tôi là em cùng cha khác mẹ với chồng bà.
Không ưa nhau nên khỏi cần biết tên.
Thời may bà ta còn nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ nên lập mộ chồng cũ rất khang trang và bề thế; lại còn cắt đặt người coi sóc và mướn nhân công lau chùi, nhổ cỏ và dọn bông cúng mỗi tuần.
Nhà mồ cất dựa đường cái: Bên mặt hướng ra sông, bên trái day vô vườn cây ăn trái.
Bốn bề không có tường ngăn – vách chắn, chỉ có lan-can và hàng cột – chèo; được nâng lên cao chừng mét rưỡi để đề phòng con nước thay đổi thất thường.
Dưới chân nhà mồ trồng hai bụi trang đỏ, mỗi bụi được cắt tỉa thành hình “Lưỡng long tranh châu” vô cùng tinh xảo và đẹp mắt.
Lối lên nhà mồ nằm mé tả, là một bậc tam cấp lót đá nhám đổ hột ngừa trơn có màu xám như sắc áo lam.
Sàn nhà lát gạch tàu theo ý muốn trong di chúc của người nằm nơi đây.
Ngôi mộ được ốp đá non nước màu đen ánh kim, ảnh chụp trên tấm bia là chân dung lúc về già của Lê Hoài Sang, dưới tấm bia là một bệ nhỏ dành để đặt đồ cúng, lư hương và ống trúc đựng nhang trầm cùng hộp quẹt.
Vừa đốt nhang, Chí Công vừa cười nhạt mà thưa với ông già:
– Bữa nay tôi đến đây thắp cho ông ba nén nhang.
Có thể không còn lần sau nữa đâu.
Bên cạnh y, người chú xa lạ đang sắp lại bó bông cúng.
Ba nén nhang do chú đốt đã nằm chỉnh tề trong cái lư hương bằng đồng nho nhỏ.
– Xong chưa? Lâu quá rồi đó nghe.
– Tôi vô đây chưa được một khắc mà đã muốn đuổi tôi đi rồi à?
– Mày chỉ là thứ con hoang đàng, có tư cách gì đòi hỏi hả?
– Còn mày là thứ con của dòng giống lăng loàn, mày lấy tư cách chó gì chia rẽ máu mủ ruột rà hả?
– Đ* má, mày dám xúc phạm mẹ tao hả? Có tin tao bỏ tù mày rục xương không?
– Ngon làm đi con.
Làm cho cái mặt của má con tụi bây thúi hơn nước cống luôn đi.
Đỗ Hiểu Thiên vỗ tay không ngớt:
– Thiệt đúng là “Hạnh phúc của một tang gia”.
Vì con riêng của mụ già gọi bảo vệ đến nên hai chú cháu khác dòng phải ra về.
Trên đường đi, Chí Công tâm sự:
– Con nói thiệt với chú, con mà hiền hiền là tụi nó giết con từ trong trứng nước rồi.
Đỗ Hiểu Thiên vỗ vai thằng cháu:
– Làm báo suốt ngày bị kiểm duyệt, xét nét; chi bằng theo chú về xưởng vẽ tranh, đóng khung và ấn loát cho rồi.
– Bộ chú tưởng vẽ tranh là được yên hả?
– Đỡ hơn chút xíu thôi con.
Mình chửi lên đầu cha – con gái mẹ nó bằng dòng tranh trừu tượng, nó cũng đâu có biết được.
Chí Công phì cười với sự xéo sắc của ông chú.
– Đói hôn?
Chí Công lắc đầu nhè nhẹ.
Đoạn hỏi:
– Rồi ổng nằm vùng rồi ổng chết luôn trong này nên chú mới nói rành rạnh tiếng Nam Kỳ hả?
– Ờ.
Chú mồ côi từ năm lên chín mà.
Mẹ tái giá với một ông Chà Và nên tôi được sang Tân Gia Ba định cư.
Một toán bảo vệ xông tới hối thúc hai chú cháu mau cút ra khỏi nhà.
Đỗ Hiểu Thiên lè lưỡi mà giơ tay xin hàng, rồi quay qua nháy mắt với thằng cháu và biểu nó đi lẹ lên.
Chừng trở lên xe, Đỗ Hiểu Thiên vừa xoa cái bụng đói meo vừa nói:
– Mà tự nhiên mày nhắc tới trứng nước làm tao thèm ăn trứng gà non quá.
Để chú dẫn bây đi ăn cơm gà – xá xíu với lòng gà bên Quận Bảy.
Thanh Tuyền đang trình diễn ca khúc “Tình hồng – Tình ca” của nhạc sĩ Nguyên Thảo.
Chủ quán cơm là mối ruột của quán cà-phê “Sóng Nhạc” nên đã được ông chủ nhượng lại hai chiếc máy hát và mấy cái dĩa than bị trùng.
Đặt đồ ăn – thức uống xong, Chí Công chống cằm mà cười hỏi chú Ba:
– Chú sống ở đâu?
– Ở trong xưởng luôn.
– Nguy hiểm thấy mồ.
Lỡ cháy là chết chắc.
– Trời ơi, tao đâu có dư tiền mà cất riêng mậy.
– Thì ăn nhín nhín một chút mà toàn mạng.
– Để riết chắc tao úng luôn.
Khỏi có tiền mần đám – nuôi con chi sất.
– Ủa, sao ông anh kết nghĩa với con nói là chú “ái”?
Đỗ Hiểu Thiên phá lên cười, đoạn run giọng hỏi:
– Giờ chẳng lẽ thằng nào mặc áo hồng – áo tím cũng là đồng tính luyến ái hả con?
– Tụi tao tới rồi.
Ba đứa bạn thiết của Chí Công tới hơi trễ một chút vì niềng răng của thằng Hoàng cần sửa lại và hàm răng cần phải làm sạch để không bị hư.
Tống Ngạn lại lên tiếng:
– Chú đây cần chỗ ở hả?
– Không cần lắm đâu.
Rẻ thì ra riêng ở cho an toàn.
“Chỉ có thế thôi.”
– Nhà tôi còn dư một phòng, có cầu tiêu – nhà tắm riêng luôn, chỉ ngặt một cái vì là cư xá cao tầng nên nước hơi yếu và lâu lâu bị cúp nước bất thình lình.
– Thôi cho chú ở dưới đất cho vẹn toàn xương cốt đi con.
Đã ngoài năm mươi rồi xách từng thùng nước lên xài chua dữ lắm.
Đức Hoàng khuyên:
– Hay là tối nay chú tới nhà tụi tôi ở thử đi.
Vừa ý thì dọn vô ở chung luôn.
– Mấy đứa bây thiệt là…
Vì ở xưởng có khách đến nhận đồ nên không thể cùng cháu trai và mấy đứa bạn của nó đến trường Dòng Chúa Cứu Thế được.
Trước lúc chia tay, ông mời xấp nhỏ ăn kem ốc quế Celano.
Đã tựu trường nên ngôi trường rộn rịp bóng dáng các học sinh và tu sĩ.
Để phân biệt ai là chủng sinh và học sinh, phù hiệu của họ được thiết kế khác nhau đôi chút; tuy vậy khách ghé thăm vẫn dễ bị lầm lẫn giữa hai nhóm học trò này.
Nguyên đám kéo nhau lên văn phòng.
Nhằm tiết kiệm chi phí xây cất và có nhiều diện tích làm sân chơi – vườn hoa hơn, Cha Bề Trên, Cha Giám Đốc và Cha Giám thị đều làm việc tại nơi đây; chỉ phân cách với nhau bằng những vách ngăn thâm thấp.
– Sau Cha Hùng là Cha Luân phải không?
– Mày nhớ đúng rồi đó.
Lâu quá không về đây không biết ai thay thế Cha Luân nữa.
Người tiếp chuyện với bộ tứ là một ông Cha Giám thị chỉ mới ba mươi mấy tuổi, thái độ khá dè dặt và không mấy cởi mở, có lẽ là vì “Con Cừu Đen” Anton – Phạm Thành Nhân.
Thành ra nguyên đám không dám hỏi han gì nhiều, chỉ xin được gặp riêng Cha Matthias – Tô Vĩnh Hoàn mà thôi.
– À, Thầy Matthias Hoàn sao? Đáng ra Thầy có tiết dự giờ lớp Tám sáng nay, nhưng vì bị lên máu bất tử nên đã về tu xá nghỉ ngơi rồi.
Nếu các vị có việc gấp cần gặp Thầy liền, để tôi thỉnh ý kiến Thầy cái đã…
Vừa dứt lời, người Linh mục trẻ bấm số máy bàn mà gọi điện cho ông Cha già cả.
– Thầy Hoàn đồng ý rồi…!
– Các vị đi thẳng chừng trăm mét rồi rẽ trái.
Thầy Hoàn sẽ ngồi đợi sẵn ở trong vườn hoa đó đó.
Đức Hoàng bỡn:
– Vườn hoa Lạc Hồng phải không?
Cha Giám thị bật cười:
– Như vậy thì anh phải bắt xe mới xuống được.
Bữa nay Matthias Hoàn xuống sắc thấy rõ.
Chứng tiểu đêm là một trong những nguyên nhân khiến sức khỏe lúc xế bóng của cụ thêm phần sa sút.
Cũng may độ rày được thằng con trai cho mấy bài thuốc nên bệnh tình mới thuyên giảm đôi phần.
– Có chuyện chi không mấy đứa?
Ernest Nguyễn chắp tay mà thưa:
– Con muốn ghi danh Xưng Tội.
Matthias Hoàn nước mắt lưng tròng mà ôm chầm lấy con Chiên lạc.
– Thầy cảm ơn con nhiều lắm nghen Công.
Khán Bình mời người Cha Dòng đáng tuổi ông nội mình đi ăn món Huế.
Vị Linh mục già vui vẻ đồng ý, rồi ngỏ lời nhờ chở mình tới phòng khám đa khoa của một Giáo dân trên đường Ngô Tùng Châu sau bữa ăn.
Minh Hiếu đang ca bài “Miền Trung thương nhớ” của nhạc sĩ Huế Đô Châu Kỳ.
Quán này nấu theo cách nêm nếm của xứ Thần Kinh nên khách chỉ lai rai chứ không đắt.
– Đâu, dân Cố Đô “tư vấn” cho ông coi.
– Hổng có ăn bún bò nữa nha? Tao ngán muốn lòi hai con mắt ra rồi.
– Đức Hoàng khoát khoát tay.
Vậy là Khán Bình chọn món bún hến, nem lụi, tré và hến xúc bánh tráng.
Chí Công phàn nàn:
– Tao đâu phải con chim, con cò mà ăn hến không vậy?
Matthias Hoàn chọn món cháo hến đặng ăn cho ấm bụng.
Để chiều ý khách, cũng như kiếm thêm được đồng nào hay đồng nấy, quán này bánh thêm bánh mì và bánh quẩy để khách chấm ăn với cháo; cụ lấy bánh quẩy và dặn nhớ xắt nhỏ giùm mình.
Sau bữa ăn, bộ tứ để Matthias Hoàn ở lại phòng khám như lời cụ yêu cầu.
Đức Hoàng hỏi Chí Công:
– Mày tính đi Lễ xứ nào?
– Giáo xứ St.
Pio của ông Cường.
Tống Ngạn làu bàu vài tiếng trước khi dận ga.
Không biết đi mua xăng ở nơi mô, xe muốn cạn bình rồi.
Thời may còn một cây xăng mở bán nên nguyên đám thoát kiếp “Nước non ngàn dặm ra đi”.
Trời đã vào độ xế trưa, thành ra Giáo xứ im lìm như mê ngủ, lâu thật lâu mới bị khuấy động bởi tiếng xe cộ và trẻ em trốn nhà đi rong.
Chiếc xe của bộ tứ ngừng bên vỉa hè của một quán cà-phê do đôi vợ chồng già làm chủ.
Chú thím dễ tính nên nguyên đám muốn đậu bao lâu cũng được, khỏi cần phải mua nước uống, nhưng thằng nào thằng nấy đều bỏ tiền ra mua một ly.
Dựa trên sự chỉ dẫn của đôi vợ chồng dễ thương, bộ tứ men lối đường mòn mà vào một khu xóm trồng rất nhiều cây trứng cá.
Nhà cửa hai bên tuy nhỏ nhưng cũng có được một xíu đất dành làm sân.
Để có tiền sống, nhiều nhà trong xóm mở tiệm bán hoặc cho mướn làm văn phòng; thành ra mặc dầu xóm này luôn yên tĩnh nhưng không tạo cảm giác lạnh tanh hay buồn thảm.
Dừng chân bên một bờ mương mới vét, có chiều sâu tới ngang đùi người lớn, bộ tứ rủ nhau đứng hóng gió và uống nước giải khát.
Cách họ hai bờ đất, có bóng dáng ai đó đang đào đất đặng đắp vồng.
Xa hơn chút nữa, vài đứa bé gái đang chơi nhảy dây cứu bồ.
Tít ở đằng kia, là ra tới mé sông, là dãy nhà bè dựng bằng các vật loại ngăn cháy, tránh chập điện và không bị thấm nước; gần đây có hai cây cột thu lôi nên bà con Giáo dân sống ở trển không sợ bị sét đánh mỗi khi mưa to gió lớn.
Tạt về phía bên trái, là giáp ranh nhà của người ta, bà lão đang sắp miểng gáo trên tấm bạt trải bên hông nhà, lâu lâu bà ngó lên dòm chừng bọn họ.
Bên kia đường là quầy kem ế khách, có tiếng cười nói, chòng ghẹo nhau của đôi vợ chồng nào đó.
Vừa múc sương sáo lên ăn, Chí Công vừa thở than:
– Lạy Chúa, cho con xin gặp Cha Mỹ, đừng để con phải tiếp chuyện với Cha Cường.
– Tiếp chuyện với tôi thì sao?
Ignacio Cường vác cái xẻng trên vai, quần xăn tới háng, mình cởi trần, mồ hôi mồ kê ướt đẫm khắp người như mới xối nước tắm cái sột.
Thì ra cái người đàn ông đắp vồng mà họ thấy nãy giờ là ông Cha Sở!
Đức Hoàng huých thằng bạn Biên Hòa:
– Ổng là Cha mà tao tưởng “Báo Tử Đầu” Lâm Xung.
– Tôi đang đắp vồng trồng khoai, có chuyện gì gấp không?
Chí Công cười tươi nói:
– Tôi muốn xin nhập xứ.
Ignacio Cường vừa giặm lại hàng khoai dá* vừa thông báo:
– Để tôi cho anh coi những khoản phải đóng góp của Giáo xứ.
Chịu thì vô, không chịu thì dẹp.
– Nhiều hôn Cha?
– Ít với người giàu, nặng với người nghèo, bớt hai tô hủ tíu với bậc trung lưu.
– Vậy tôi kham nổi.
Vẫn không ngửng mặt lên, Ignacio Cường nói:
– Kiếm Cố Phêrô Toàn đi.
Cố sẽ chỉ cho anh cách thức xác nhận nhập xứ.
Còn không thì kiếm nhà Thầy Phó Tế Louis – Huỳnh Quới.
– “Cố”, Cha về hưu hả?
Ignacio Cường vẫn vừa làm vừa nói:
– Ở đây không gọi “Ông trùm”, ở đây quen gọi “Cố” rồi.
Chừng nào cố Phêrô Toàn nghỉ hưu thì mới gọi lại “Ông trùm”.
Rồi chàng Cha Cọp nói thêm:
– Cố là kỹ sư công chánh.
Nhờ sự chỉ đường rất dễ hiểu của chàng Linh mục có đôi má lúm đồng tiền duyên dáng, nguyên nhóm đã kiếm được nhà của Thầy Sáu; một ngôi nhà nho nhỏ với bóng mát cây xanh và luôn rộn ràng tiếng cười nói.
– Thầy Sáu.
– Chí Công cất tiếng gọi.
Đức Hoàng vuột miệng hỏi:
– Ôi ai giống Thúy Kiều dzậy?
– Mày nín giùm tao một cái.
Cha Phó – Đoàn Ngọc Mỹ đó.
– Ổng ốm thấy sợ luôn.
Tống Ngạn lắc đầu mà rằng:
– Tao công nhận hai ông Cha mà y như hai Ông Thiện – Ông Ác thờ ở đình Thành Hoàng Bổn Cảnh.
Vì Cha Phó và Thầy Sáu phải đi dạy Giáo Lý nên chuyện giấy tờ nhập xứ đẩy sang cho cố Phêrô Toàn.
Phước phần Ông Bà – Tổ Tiên để lại nên cố Phêrô Toàn đang quởn.
Vừa nghe Chí Công nói muốn nhập xứ, cụ liền niềm nở mời xấp nhỏ ra ban-công nhà dưới ngồi nói chuyện chơi.
– Nè, mấy đứa, ăn thử khô gà nhỏ cháu của cố làm đi.
Nếu thấy ngon thì mơi mốt mua ủng hộ nó giùm, cố cảm ơn trước nghen.
– Cho con mua luôn hai ký.
Chú con ưa nhậu nên cần trữ mồi nhắm.
– Con cũng mua luôn bốn ký, gởi cho gia đình dưới An Giang ăn.
Phêrô Toàn mừng húm.
Hai lòng bàn tay của cụ xoa vào nhau liên tục, chừng như quýnh quáng lắm.
Và cụ nói:
– Ba bữa nữa lấy được hôn mấy đứa? Chớ nhiều quá không có liền được.
Chí Công cười hiền:
– Nửa tháng nữa cũng được.
Món ăn chơi chứ đâu phải thuốc đặc trị mà thúc bách người bán quá.
Đức Hoàng bông lơn:
– Riết Việt Nam trở thành xứ “Master Chef”, người nào người nấy đua nhau bán đồ ăn – thức uống để kiếm thêm tiền cơm gạo.
oOo
– Sao em ngó anh họ anh lom lom rứa?
Anton Nhân chỉ cười cười mà không đáp.
Võ Kiến Hữu chẳng để tâm đến thái độ kỳ lạ của Anton Nhân.
Bởi lẽ anh đang phân vân chọn loại trà sữa và món ăn.
Năm Tường hỏi:
– Những kẻ nhận tiền của vợ con cha Sang để bôi nhọ cậu có xin lỗi cậu không?
– Họ đã gỡ bài rồi.
Nhưng không một tiếng xin lỗi.
Vừa trả lời xong câu trên, thì chủ quán cũng vừa bưng mâm cơm – canh lên.
Nhờ có sự xuất hiện của tù nhân bị oan mà bữa nay tiệm của ông đông khách kinh khủng, thành ra ông tặng thêm đồ ăn – thức uống rất nhiều, cũng như chỉ lấy phân nửa tiền.
Anton Nhân bỗng nhiên rớt nước mắt.
Cậu vừa lấy tay quẹt lệ vừa tâm tình với nhóm Mục sư Tin Lành:
– Đã lâu không được ăn cơm gà – xá xíu nóng hổi, giờ ngó dĩa cơm mà mừng muốn khóc.
Tư Hiếu thương hại mà nói:
– Kết giao với bạn xấu là vậy đó.
Hễ có chuyện bất trắc là nó “đá” qua mình.
Ăn đâu được vài muỗng cơm thật ngon và nóng phỏng lưỡi, Anton Nhân thổ lộ nỗi lòng:
– Tự nhiên ở tù ra em hết thích nghe mấy bài hát thời nay.
Hồi xưa, em chê mấy bài hát trước năm 75 là sến, là nuỗng, là rỉ rả khóc lóc…!bây giờ mới hiểu thì ra các vị đó sống lâu và trải đời hơn mình nên mới viết được những tác phẩm có nội dung gây buồn nhân thế nhường vậy.
Ông chủ quán hỉ hả vỗ vai cậu trai nổi tiếng bất đắc dĩ mà hỏi:
– Vậy thích nghe bài gì tôi vặn cho nghe?
– Bài hát thời nay nhe ông, “Đời là như thế” của nhạc sĩ Nguyễn Hoài Anh do Thế Sơn ca.
oOo
Cô gái điên ấy đang chắp tay quỳ trên bệ.
Mắt nhìn đăm đăm vào bức tượng Đức Chúa Jesus đang chịu khổ hình trên cây Thập Tự.
Gương mặt đẫm lệ sầu.
Và môi kia đang lầm rầm khấn nguyện một bài Kinh cầu bổn Đạo.
“Con quỳ lạy Chúa trên Trời
sao cho con lấy được người con yêu…”
Giọng hát của song ca Ngọc Lan – Vũ Khanh trong bài “Con quỳ lạy Chúa” của nhạc sĩ Phạm Duy đã khiến Thúy Liễu bưng mặt khóc tức tưởi.
“…!Mối tình đầu trót bọt bèo
Vì người ta đã chạy theo bạc tiền
Âm thầm chạy theo mối tình điên
Cầm bằng Chúa định nhân duyên bẽ bàng
Chúa ơi…!Chúa ơi…”
– Chị không thích bài hát này sao? Tôi thấy chị thành tâm quá nên muốn ghẹo xíu thôi mà.
Đây là lần đầu tiên Thúy Liễu đứng gần một người nam đến vậy, từ sau cái tuần lễ kinh hoàng năm đó.
Người này chắc chỉ mới chớm ba mươi, có cái răng khểnh ở góc trái hàm trên rất duyên, mặt mũi thanh tú, giọng nói nghe từa tựa tiếng của ca sĩ kiêm nhạc sĩ Duy Quang, nom hiền ơi là hiền.
Chưa kịp đuổi người ta đi, cậu trai ấy đã tự giác sang hàng ghế bên cạnh mà lựa một cái bệ để quỳ và cầu nguyện.
Mảnh trăng khuyết đã bị vầng mây đen che khuất.
Chút ánh sáng hiếm hoi cũng bị lấy mất.
Cảnh khuya vắng lặng càng làm cho tâm trí Thúy Liễu thêm rối bời, cô thôi cầu nguyện và gấp rút đứng dậy toan chạy khỏi nơi đây.
Nhưng cảnh tượng ngày đó ùa về khiến bước chân cô chùn lại, cô sợ mình sẽ bị cậu trai xa lạ vồ lấy như đã từng bị với…!
Về phần cậu trai, cậu ta vẫn đang cúi mặt mà lần chuỗi Mân Côi khấn nguyện.
Thúy Liễu sực nhớ đến chuỗi Mân Côi đã bỏ quên ở nhà, rồi tự dưng lại liên tưởng tới người cha tàn tật đã vì mình mà chịu khổ ải hằng bao năm qua, gương mặt còn vương chút sắc hương năm nào lại hoen mi.
– Nửa đêm nửa hôm vô đây làm chi vậy hai người?
Ignacio Cường vừa hỏi vừa bật đèn sáng lên.
Tấm áo chùng thâm thiêng liêng ấy đã làm cho Thúy Liễu an lòng.
Cô có nghe danh nhưng chưa từng thấy hai ông Cha đồng quản xứ mới nên không biết vị này là ai.
– Cô Hai Liễu, cậu Ernest Công?
Nghe tiếng nói sang sảng của Cha Chánh xứ Cường, Louis Quế tự giác chạy vô trước khi bị réo tên.
Chiếc áo Lễ màu nguyên trinh của chú còn chưa kịp mặc đúng cách nên dáng điệu của chú trông vô cùng xốc xếch và bầy hầy.
– Ăn mặc kiểu gì kỳ vậy Thầy Sáu?
– Hả? À, nghe Cha la lớn quá, tôi sợ nên a thần phù đi vô luôn.
– Tôi nói chứ không có la.
– Ignacio Cường nghiêm mặt cải chính.
– Rồi, dẹp chuyện đó qua một bên, chìa khóa giữ kiểu gì mà Giáo dân ra – vô dễ dàng như đi chợ vậy?
Louis Quế giơ hai tay lên phân bua:
– Phải hỏi cố và Cha Phó nữa chớ.
Họ đều giữ một cái như tôi mà.
Thúy Liễu ầng ậc nước mắt.
Cô quỳ sụp xuống sàn nhà mà bưng mặt khóc tức tưởi.
Da dẻ cô càng lúc càng tái nhợt, cơ hồ tưởng như cô sắp quỵ xỉu tới nơi.
– Đã tới đây rồi thì cùng bà con Giáo dân nghe tôi giảng hén?
Ignacio Cường làm động tác mời cô Giáo dân điên ra ghế ngồi.
Trước lúc ra ngồi trên băng chót bên mé tay mặt, Thúy Liễu lui vô nhà vệ sinh rửa mặt và chùi mũi.
Dáng đi gục đầu đầy vẻ sợ sệt của cô đã khiến ai nấy đều mủi lòng thương xót.
– Thưa Cha.
Bé trai giúp Lễ đã đến nên Ignacio Cường dẹp mối quan tâm đến cô Hai Liễu qua một bên để chú tâm hướng dẫn nó cử hành nghi thức đúng cách và ôn lại các bước đã học.
Thời may nó rất sáng dạ nên chàng Cha xứ chỉ tốn nửa tiếng đồng hồ “gạo bài” lại.
Về phần cha, bác và anh nó, ba người ấy đang phụ Louis Quế sắp xếp Bàn Thánh và trang hoàng Cung Thánh.
– Cha Phó đâu rồi Cha Sở? – Bác của bé trai hỏi.
– Qua bị trúng gió nên con để cho ổng ngủ nướng một chút.
Cha của bé trai xen vô:
– Sao độ rày Cha Phó xuống sắc dữ vậy Cha Sở?
Giờ chẳng lẽ trước mặt con Chiên Ignacio Cường lại nói Cha Phó đang sầu khổ vì chữ Tình.
Không thể dối trá, cũng chẳng thể thú thật, anh đành ngậm cười giả lả cho xong.
Nhắc tiền, nhắc bạc không thấy đâu, mới nghĩ đến người nào là người đó có mặt liền.
Từ phía cửa hông trái – lối dẫn ra hành lang, Stephen Đoàn chậm rãi bước vô.
Ignacio Cường tinh ý phát hiện vết đứt nhỏ nơi mép trái trên gương mặt Stephen Đoàn, có lẽ anh bạn đồng tu bị đứt miệng do bất cẩn lúc cạo râu.
Anh của bé trai tươi cười hỏi thăm Cha Phó:
– Sao vô trễ vậy Cha?
Stephen Đoàn cười đáp:
– Cố nhờ tôi nhắn với bà con rằng bữa nay nhà cố đãi Ban Thiếu Nhi một bữa ăn sáng thật linh đình.
– “Con nít sống lâu năm” được ăn hôn Cha? – Bác của bé trai giỡn.
Stephen Đoàn bông đùa lại:
– Miễn là cái mặt thiếu nhi thì được dự phần hà.
Còn tâm hồn trẻ thì nhịn.
Ignacio Cường, Louis Quế và cha – anh đứa bé hết sức ngỡ ngàng trước cách đối thoại của chàng Cha Phó.
Nhưng chỉ có một người hiểu được sự thay đổi dị kỳ đó, và người đó đang đau buồn vô hạn…
– À…!- Louis Quế vỗ trán rồi hướng mặt về phía cửa hông dẫn xuống nhà sau.
– Cô Hai Liễu đâu rồi ta?
Ignacio Cường nhíu mày nói:
– Để tôi nhờ ông Tám lại coi.
Cổ mắc bịnh sợ đàn ông mà tụi mình xáp lại hỏi thể nào cổ cũng lên cơn.
– Sơn, xuống nhà dưới dòm thử đi mày.
– Cha của bé trai lên tiếng.
– Con hổng đi đâu.
Chị đó khùng thấy mồ.
Chưa kịp chửi thằng con một chập, chú Tư Trọng đã nghe tiếng của Ernest Nguyễn:
– Để tôi đi cho.
Thằng nhỏ sợ, cũng không muốn, mắc giống gì phải cưỡng ép nó làm việc mà ngay cả chú cũng không thích?
Chú Tư Trọng xẻn lẻn ngó cậu trai lạ mặt trân trân.
Khu nhà vệ sinh ngăn cách với nhà thờ bằng cái sân có mái che làm từ chất liệu kính mica và khung thép.
Sân này được lót gạch giả sỏi xen kẽ với gạch trồng cỏ, tạo thành một tổng thể vô cùng đẹp mắt và trang nhã.
Trong sân bày trí rất nhiều chậu kiểng, đặt biệt còn lắp một giàn treo bằng inox để trưng các loại lan, cỏ đuôi chồn và trà my.
Mé phải sân đặt một bộ bàn ghế đá hoa cương khá cũ nhưng vẫn còn bóng loáng vì thường được lau chùi và luôn được ấm hơi người; món quà này do một Giáo dân tặng nhân dịp lễ tưởng niệm ngày sinh của Đức Cha Vinh-Sơn Cao Nhật Trung.
Cô Hai Liễu đang ngồi bó gối co tro trên băng ghế dài nhất.
Ánh mắt ngây dại của chị nhìn đăm đăm vào bồn cây cọ lùn Hawaii.
Toàn thân run lẩy bẩy như vừa bị té xuống hồ nước lạnh.
– Chị ơi.
– Ở trển có cả thảy mấy người đàn ông?
– Tính luôn tôi là sáu, cộng thêm một thanh niên và một thiếu niên mang phái tính nam.
– Vậy tôi không lên đâu.
– Được.
Chừng nào Thánh Lễ cử hành, tôi sẽ mời chị lên dự.
Thúy Liễu ngước mắt lên nhìn Ernest Nguyễn, rồi se sẽ gật đầu.
Cái áo len không đủ khỏa lấp cơn lạnh của buổi rạng đông.
Đã vậy tấm áo dài trắng trong của chị còn bị nhiễm sương đêm và “Lệ đá” nữa.
Thương lắm, tội lắm, nhưng con Chiên lạc ấy không thể cho chị mượn áo gió được, nên đành quày quả trở gót lên nhà thờ trong một nỗi niềm xót xa khôn cùng.
Ngồi nơi đây, Thúy Liễu nghe văng vẳng cuộc tán gẫu của nhóm nam giới; trong đó rõ nhứt là giọng của Cha Chánh xứ, kế là gia đình chú Tư Trọng và Thầy Sáu, sau rốt là Cha Phó và Ernest Nguyễn.
Sáng nay trẻ em trong xứ sẽ ăn bánh canh gà xé và đồ lòng gà; cháu gái của cố trúng thầu đậm nên muốn chia sẻ một chút sự may mắn với bà con, cũng trạc tuổi mình mà người ta đã nên nhà nên cửa, ngẫm lại mình ngoài tấm thân nhơ nhuốc ra thì chẳng có gì hết, nghĩ đến đây Thúy Liễu lại bưng mặt khóc sướt mướt…
– Chị.
– Chuyện gì nữa?
Ernest Nguyễn trao cho Thúy Liễu một cái kẹp tóc đính một bông hoa vải tinh xảo.
Đợi cô Hai Liễu cầm rồi, y mới nhỏ nhẹ khuyên:
– Vén tóc mái lên đi chị.
Thúy Liễu nói lời cảm ơn trong hai hàng nước mắt.
– Tôi ở lại đây ngắm sao được không?
Thúy Liễu mím miệng nghĩ ngợi, rồi khe khẽ thở dài một tiếng trước khi cất giọng đồng ý.
Bình minh sắp rạng nên trên trời chỉ còn le lói vài ánh sao muộn.
Mảnh trăng chới với ở đỉnh trời.
Màn sương trắng bay lảng vảng quanh bãi đất rậm cỏ.
Côn trùng và lưỡng cư đã bớt ca hát om sòm.
Mọi thứ đã rục rịch lui bước để nhường chỗ cho nhịp sống ban ngày.
– Con gái.
– Ba.
Ông Tám Què vỗ vai Ernest Nguyễn, rồi trịnh trọng mời cậu trai mới nhập xứ cùng gia đình mình lên Cung Thánh dự Lễ.
Thánh Lễ bữa nay bị một phen nhốn nháo vì sự hiện diện của cha con Tám Què và Andrew – Hồ Ẩn Long.
Ba nhân vật này đều ngồi ở băng chót hết; nhưng gia đình kia bên cánh phải, còn anh ta thì mé tả.
Cố Phêrô Toàn rất muốn mời Andrew Hồ ở lại đặng giữ chức chủ tịch Hội Đồng Mục Vụ thay mình, nhưng cụ không dám mở lời chi sất vì sợ nó cảm thấy bị làm phiền mà bỏ xứ đi nữa mất.
Ngồi cùng băng ghế với Andrew Hồ là Cha Thành và thầy Dự; không biết anh ta có hiểu cho nỗi khổ của Cha Thành mà thay đổi cách nhìn về người Linh mục già này hay không.
Trên bục giảng, Ignacio Cường đang say sưa nói về một đoạn trong sách Phúc Âm, không quên đưa chuyện xảy ra trong đời mình làm thí dụ cho Giáo dân dễ hiểu.
Sau lưng anh, Louis Quế và Stephen Đoàn đang dõi mắt nhìn xuống khán đài.
Có con bồ câu trắng muốt đi lạc đậu dưới chân đứa trai giúp Lễ tên Sơn; dù rất muốn ẵm nó lên cưng nựng nhưng nghĩ đến cảnh tượng Cha Cường sẽ biến thành Cha Cọp nên em rụt cổ xin thôi.
Ca đoàn Thánh Tâm vừa nghe giảng vừa kiểm tra lại nhạc cụ và tờ nhạc để buổi trình diễn sắp tới sẽ được suôn sẻ và êm đẹp.
Đến màn phát bánh Thánh, lần lượt bà con trong xứ lên nhận phần.
Andrew Hồ và Ernest Nguyễn đùn đẩy nhau lên lãnh, cả hai vẫn chưa sẵn sàng để nhìn mặt Cha Phó.
Vậy là hai người len lén oẳn tù xì.
Oẳn tới oẳn lui mà chẳng phân định được thắng bại.
Tiếng cười của Louis Quế đã thu hút sự chú ý của Ignacio Cường.
Anh ngoáy đầu lại trừng mắt nhắc nhở ông Sáu, rồi nghiêm mặt nhìn xuống khán đài để tìm ra nguyên nhân.
– Andrew – Hồ Ẩn Long và Ernest – Nguyễn Chí Công, Cha mời hai con lên đây tỷ thí.
Không ai trong số hai chàng chịu làm theo lời khiển của Cha Cọp.
– Bây giờ, hai con muốn Cha xuống thỉnh hai con phải không? Hả?
Andrew Hồ và Ernest Nguyễn lê từng bước khó nhọc lên bục giảng.
Ignacio Cường chìa hai mẩu giấy, đoạn biểu hai con Chiên rút thăm.
– Ai có vạch đỏ ở đuôi giấy, sang bên kia nhận Thánh Thể.
Ernest Nguyễn tiu nghỉu làm theo lệnh của ông Cha Sở hãy còn trẻ măng.
Chứng kiến cảnh trên, những người còn lại được một phen bấm bụng nhịn cười đã đời.
Ngay cả cô Hai Liễu cũng mím mím môi cười nụ.
Thúy Liễu là người nhận bánh Thánh sau cùng.
Đến lượt mình, cô cứ đứng run rẩy và bấu chặt phần mép hông áo dài mãi mà không chịu há miệng để Cha Phó đút bánh.
Cha Sở đứng trên bục giảng nhìn xuống cô bằng ánh mắt thương cảm, bởi anh biết những gì mà cô đã trải qua trong suốt tuần lễ ấy đã khiến cô nảy sinh tâm lý cự tuyệt sự thân cận với đàn ông.
Trong khi phân nửa Giáo dân bắt đầu tỏ vẻ khó chịu và nóng ruột, Stephen Đoàn lại hết sức dịu dàng với Thúy Liễu.
Anh chỉ vào miệng mình rồi chỉ vào miệng cô Giáo dân nhỏ, ý rằng xin cô hãy mở miệng rước Mình Thánh Chúa.
Ánh mắt anh chan chứa niềm thương yêu, không vẩn đục một xíu tà dâm hay ác ý quỷ dữ; và nụ cười trên môi anh sao mà rạng rỡ tựa đóa hoa huệ trên tay Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel.
Cũng giống như Kiều Xuân, cô Giáo dân tàn phai sắc hương đã thấy được nét đẹp ẩn chứa sâu thẳm nơi tâm hồn người Cha Phó có khuôn mặt khó coi.
Cô hân hoan làm theo lời Cha với một lòng thành kính vô bờ.
Vì sự ngần ngừ của Thúy Liễu mà buổi Thánh Lễ kéo dài thêm một tiếng.
Rất nhiều Giáo dân đã quên bẵng đi bao nhiêu lời hay ý đẹp trong bài giảng khi họ nhận ra mình bị trễ công lỡ việc, nên đã sanh lòng bực tức và hờn trách gia đình khốn cùng kia.
Hai cha con ông Tám Què ra về sau cùng.
Trước lúc rời khỏi đây, Thúy Liễu ngoáy đầu lại nhìn Cha Phó – Chàng tu sĩ ấy đang cùng hai người đàn ông thuộc nhóm Thừa Tác Viên dọn dẹp bàn Thánh; không thấy Cha Sở đâu hết, có lẽ chàng ta đang sắp xếp đồ đạc dưới nhà sau.
Ra đến cửa lớn, gia đình cựu sĩ quan lại gặp Ernest Nguyễn.
Vừa nhác thấy mặt hai người, anh ta đã lên tiếng:
– Ông với chị đây muốn đi uống trà sữa hôn?
Ông Tám Què nóng ruột đợi con gái gật đầu ưng chịu.
Đã lâu không được đi chơi xa nên ông ham lắm.
Thúy Liễu liếc cha một cái rồi mới day lại mà gật đầu đồng ý.
Chiếc xe hơi hiệu “Toyota – Fortuner” bảy chỗ máy dầu đậu trước thềm nhà thờ nên hai cha con ông Tám Què khỏi chịu cơn nắng nôi.
Màu nguyên thủy của nó là trắng ngọc trai song đã biến mất dưới lớp cọ 3D của chú Ba, giờ đây nó khoác lớp áo vân gỗ xam xám xù xì như thật, vài nơi điểm một đóa lan rừng sặc sỡ và tươi tắn.
Thúy Liễu ngơ ngác sờ thử thân xe, rồi che miệng cười khanh khách, bởi lẽ cô liên tưởng mình, cha đẻ và cậu trai dễ thương kia là ba con kỳ nhông sắp ẩn thân để nghỉ trưa.
Thấy con gái cười giòn quá, ông Tám Què mừng đến nỗi rớt nước mắt; rồi như sợ con gái đổi ý, ông “lùa” con gái lên băng trước để có thể ngắm cảnh nhiều hơn, nhưng nó lắc đầu nguầy nguậy mà đòi đổi xuống băng sau ngồi, và phải ngồi sau lưng ông mới chịu cơ.
Vừa dìu ông bác lên ngồi ghế phụ, Ernest Nguyễn vừa vui miệng giới thiệu chiếc xe của ông chú khác dòng:
– Xe này có tới bảy chỗ lận.
Nhưng vì đi ít người quá nên băng chót con gấp lại rồi.
– Cậu lấy bằng lái năm nào?
– Mới có mấy tháng hà ông.
– Trời đất ơi! Vậy mà sung ken chở cha con tôi đi.
Đã lâu lắm rồi Thúy Liễu mới ra ngoài nên cô thấy thành đô thay đổi nhiều lắm lắm.
Cây xanh mất dần đi, thay vào đó là những tòa nhà chọc trời thay tên – đổi chủ như cơm bữa.
Đường sá chở thêm vô số quán xá và hàng rong; “một tấc đất là một tấc vàng”, có bao nhiêu diện tích là người ta tận dụng hết ráo, thành ra nhìn Sài Gòn xô bồ và ngột ngạt khôn cùng, nhưng đó mới là nét riêng của “Hòn ngọc Viễn Đông”.
Ernest Nguyễn mở bài “Sài Gòn yêu dấu” do Ngọc Lan trình bày lên nghe; tình khúc này được nhạc sĩ Phương trong ban “Lê Uyên – Phương” phổ từ thơ của thi sĩ Hoàng Ngọc Ẩn theo thể điệu Tango da diết.
Thúy Liễu trầm trồ:
– Bài này tôi chưa từng nghe bao giờ.
Cảm ơn Công nghen.
Thể theo lời giới thiệu của chàng Kitô Hữu đồng xứ thì hàng ăn ấy nằm ở trong một nhánh nhỏ của con hẻm ngàn lối, do đó chiếc xe hơi phải gởi ở thương xá gần đó.
Trước ánh mắt lo âu của cha già, Thúy Liễu nói nhỏ rằng cô có thể chịu được.
Đã lâu không rời khỏi Giáo xứ nên nhìn đâu Thúy Liễu cũng thấy bợ ngợ.
Ánh mắt ngơ ngác và sắc diện thất thần của chị đã gây sự chú ý khắp nơi, mấy người nhiều chuyện ngó theo bóng lưng chị mà xì xầm không ngớt.
Nhác thấy bông điệp trổ vàng rất đẹp, chị ngắt một đóa mà cài sau vành tai trái rồi cười ngỏn ngoẻn làm duyên; chủ nhà đứng sau cổng rào dòm cô bằng thái độ của bác sĩ đề phòng bệnh nhân lên cơn điên.
– Tới chưa bây? Sao mà lâu lắc quá dợ?
– Ở cuối đường lận ông.
Đi gần mấy trăm mét, quẹo qua rẽ lại không biết bao nhiêu lần, đôi chân yếu ớt của hai cha con ông Tám Què bắt đầu mỏi nhừ.
Ông than vãn rằng cái quán ở nơi mô mà xa xuôi rứa.
Đáp lại sự mệt nhọc của họ là một nụ cười an ủi của Ernest Nguyễn.
Quành sang một khúc cua tối thui dù đang là ban ngày ban mặt, vì bị bóng của dãy nhà cao tầng hai bên đổ xuống, Ernest Nguyễn hớn hở thông báo đích đến nằm ở cuối con lộ này.
Vốn bị ám ảnh bởi đoạn ký ức tăm tối nên Thúy Liễu không dám bước vô.
Chị ngồi thụp xuống mà ôm đầu run lẩy bẩy, mồ hôi mồ kê vã ra như tắm, miệng không ngừng lảm nha lảm nhảm.
– Chị Liễu.
Chị coi dây hồng leo đằng đẵng đẹp chưa nè?
Qua những kẽ hở của mười ngón tay xương xẩu xanh xao, Thúy Liễu nhìn theo hướng mà cậu trai mới quen chỉ: Một bụi hồng leo màu phấn mọc kín mặt trước của một ngôi nhà ba tầng phủ sơn xanh lơ, đã kín chỗ như vậy mà chủ nhà còn treo chò lan và trồng hoa cẩm tú cầu ở ban-công.
– Đẹp thiệt!
Ernest Nguyễn cúi mời Thúy Liễu đi theo mình.
Nghĩ đến sự khốn khổ của cha già, Thúy Liễu thu hết dũng khí mà theo chân ông và người Giáo dân đồng xứ vào trong ngõ tối.
Tuy con lộ không mấy dơ dáy nhưng lại bốc mùi thum thủm như xác chuột chết.
Thì ra là do đường cống ngầm bị nghẹt và đã lâu không được ai thông cống hay bươi rác.
Không ai bảo ai, người nào người nấy tự giác bước đi như chạy để thoát khỏi cái nơi hôi thúi kinh khủng này.
– Tới rồi!
Hàng ăn ấy nằm dựa bờ kè mới xây hồi đầu năm ngoái, kế bên rặng bần trổ bông trắng ngần, diện tích áng chừng mười mấy mét vuông, do hai chị em đứng bán.
– Chị với ông đây uống chi? – Ernest Nguyễn hỏi trong lúc lấy tờ thực đơn để sẵn trên quầy hàng.
Thúy Liễu chọn liền món ca-cao dầm đá bỏ đồ bổi thập cẩm.
Còn cha cô thì uống cà-phê đá ít ngọt.
Riêng Ernest Nguyễn thì vẫn hồng trà sủi bọt như cũ.
Cả Ernest Nguyễn và ông Tám Què đều nhường cho Thúy Liễu chọn chỗ.
Chị bèn chỉ tay vô cái bàn nằm sau quầy hàng, dựa vào gốc một cây bần, có thể nhìn ra toàn bộ con rạch đang mùa nước dâng tới mí.
– Chị giống tánh tôi, thích ngồi mấy chỗ có bóng mây.
Thúy Liễu lại bật cười khanh khách:
– Chời ơi, tôi đâu phải Đô-rê-mon đâu mà có thể lên trên mây ngồi.
Ông Tám Què và hai chị em chủ quán mắc cười quá nên cũng thi nhau cười sặc sụa.
Gương mặt Ernest Nguyễn đỏ bừng như màu mồng gà.
Để chữa thẹn, y hỏi lảng:
– Chị ăn thêm bánh flan không?
– Tôi ăn bánh ăn flan chứ hổng có ăn “bánh plane” nha.
Ernest Nguyễn phì cười.
Chị này phát âm tiếng Anh hay quá mà không thể đi làm, uổng gì đâu.
Thúy Liễu vục cái bông điệp cài sau vành tai trái xuống con rạch, rồi ngẩn ngơ đưa mắt dõi trông theo.
Dòng nước đục ngầu phù sa ấy cuốn trôi “Cánh hoa yêu” ra xa một đỗi rồi nhận chìm nó mất hút theo vòng quay của cái xoáy nhỏ.
Đời người con gái cũng vậy, sẩy chân một lần là khó lòng vực dậy.
Ngẫm đến phận mình, cô lại “Ướt mi”.
– Trước đây bác là cận vệ của tổng thống Bàng Đông Quân phải không? Vì bị mảnh vỡ của chiếc trực thăng cắt lìa chân nên đã về hưu non.
– Phải, cũng may nối lại được, có còn hơn không.
Thúy Liễu hồi thần.
Cô có nghe thời trẻ ba mình oai hùng lắm nhưng do bận bịu học hành và công việc nên không có thời gian nghe kỹ.
– Hóa ra cậu kiếm tôi là vì chuyện này?
Ernest Nguyễn se sẽ lắc đầu.
– Cậu là ký giả kiêm phóng viên, cậu bắt tôi tin cậu sao được?
– Bác biết con làm nghề trên từ lúc nào vậy?
Ông Tám Què nhếch miệng cười:
– Tôi có đọc loạt bài về thảm án “Hai Mươi” và “Bát Bửu” của nhóm mấy cậu nên biết thôi.
Sao? Cần giúp gì?
– Bác có nghe thấy cố tổng thống nói chi về thư ân xá của gia đình họ Thường không?
Ông Tám Què cau mày:
– Mấy chục năm rồi làm sao nhớ nổi…!Năm đó án oan nhiều liên miên, tử tù chết một cách bất minh trong khám, rồi giới chức điều tra tự nhiên xin thôi việc, xuất cảnh hoặc bịnh chết như rạ…
– Thôi, tới đây thôi, tai vách mạch rừng, nói nhiều quá không hay.
Hiểu ý, ông Tám Què nói lảng sang chuyện khác:
– Cậu đây mời nước, vậy lát nữa cho phép cha con tôi mời cậu một bữa cơm nghen?
– Dạ không.
Để con trả tiền cơm luôn cho.
Sẵn nhà chú con gần đây, con xin phép mời bác và quý chị đây về nhà dùng bữa với gia đình con.
– Ở đó là xưởng tranh hả Công?
– Dạ.
– Chị thích coi tranh lắm.
Gặp được người biết vẽ thì còn gì bằng.
Ernest Nguyễn thoáng ngạc nhiên trước nhận định đúng đắn của Thúy Liễu.
Đúng là trên đời này thiếu gì người biết vẽ, nhưng xứng danh họa sĩ thì chỉ được vài mống.
Trước lúc rời hàng ăn, Ernest Nguyễn mua cho ông chú, học trò và nhân viên trong xưởng mỗi người một ly nước và một phần bánh tráng trộn thập cẩm cỡ lớn.
Đang ế mà nghe đơn hàng lớn làm hai chị em chủ quán “buồn” hết sức.
– Đi chơi vui không chị Liễu?
Thúy Liễu e thẹn cười.
Rồi ngỏ ý muốn nghe thêm một bản nhạc là lạ.
Ernest Nguyễn bèn chọn bài “Thiên đường đã lỡ” do nhạc sĩ Song Ngọc phổ từ thơ của thi sĩ Hoàng Ngọc Ẩn, với phần trình bày của Mai Hương.
– Hay quá…!”Thiên đường đã mất tên”.
Xưởng tranh ấy cũng nằm gần Sở Thú, diện tích phỏng chừng nửa ngàn mét vuông, có sân trước và sân sau hẳn hoi, hai bên hông nhà xây bồn bông trồng cây thân gỗ, nhà để xe nằm chếch ở mé phải sân trước được che nắng – che mưa bằng tấm tole, còn “liếp” phơi thành phẩm thì nằm hết ở sân sau.
– Mới về hả Công? Có châm thêm dầu cho tao không?
– Đầy bình…!Mà độ rày xăng – dầu tăng giá “rát” quá chú Ba.
– Bởi vậy nên tao làm được nhiêu thì cúng cho bình xăng gần hết.
– Chú hút xì-gà Cuba hả?
– Không, “Cu-bố”.
– Bớt giỡn tục đi ông già…
Nói đoạn, Ernest Nguyễn kề miệng mà nói nhỏ vào tai ông chú nguyên nhân không nên giỡn tục.
– Con nhỏ đó đâu?
– Còn ngồi lì ở trên xe á.
Cổ thấy đông quá nên leo tọt lên xe trốn rồi.
Đỗ Hiểu Thiên bèn ngừng việc mà bước ra xe mời khách vô thăm xưởng.
Ấn tượng đầu tiên mà Thúy Liễu cảm nhận là chú Ba của cậu Công bô trai quá chừng.
Chắc có lẽ thời trẻ là một trang nam tử mỹ mạo tuấn tú.
– Bonjour.
Comment ca va?
– Dạ?
Ernest Nguyễn vỗ lưng chú Ba mà cười khổ:
– Vốn tiếng Pháp của ổng nhiều như vốn tiếng Anh vậy.
“Hello.
How are you?” Hết rồi.
– Tao ở Tân Gia Ba gần nửa đời người mà mày chê tiếng Anh của tao hả?
– Thành ra ông xài toàn “Singlish”.
Đỗ Hiểu Thiên phá lên cười sằng sặc.
Trong lòng Ernest Nguyễn đang chắp tay lạy chú Ba ngàn cái.
Đã biết người ta không bình thường mà còn cười khả ố nữa.
Và quả đúng như vậy, cô Hai Liễu bắt đầu kêu khóc um sùm.
– Cho tôi xin lỗi em nghen.
Tôi “Ăn đằng sóng, nói đằng gió” quen rồi.
Biểu tôi cười hiền tôi làm hổng được.
Thôi, vô coi tôi với mấy thằng đệ vẽ tranh chơi hén?
Cô Hai Liễu mếu máo đáp, “Được.”
Ông Tám Què chống nạng xuống trước, còn cô Hai Liễu thì khúm núm xuống sau.
“Phòng triển lãm” kiêm luôn phòng khách.
Những bức tranh đủ kích thước và chủ đề treo đầy các bức vách; cô Hai Liễu không ưng được bức nào hết, nên tủm tỉm cười làm duyên chứ không mở miệng bình phẩm chi hết.
– Thấy sao em? À, mà em tên chi?
– Em tên Thúy Liễu.
– Tên tôi là Đỗ Hiểu Thiên; lấy từ câu thơ của thi sĩ Trần Tử Ngang thời Đường: Minh nguyệt ẩn cao thụ, trường hà một hiểu thiên.
– Nghĩa là sao?
– Tức là trăng sáng ẩn sau cây lớn, sông dài nằm đợi ngày mới.
Chữ “Hiểu thiên” có nghĩa là “Trời sáng”.
Trúng hay trật thì hên – xui nghen em?
Thúy Liễu che miệng cười khúc khích.
Không biết cha sanh mẹ đẻ của ổng có nghĩ ra câu này thiệt hay không; hay là gặp gái rồi ổng đía đây?
– Mà, em thấy có bức nào vừa ý hôn?
– Cho người ta nói thiệt hôn?
Đỗ Hiểu Thiên vỗ ngực, ý chỉ mình chịu đựng được.
– Hổng có thích bức nào hết.
Một học trò của chú Ba tức quá nên hướt mà hỏi:
– Sao vậy?
– Cái này…!- Cô Hai Liễu chỉ vô bức tranh “Đồng hoa”.
-…!y hệt chai nước chấm mà mạo nhận nước mắm – nước tương.
Ráng làm Van Gogh với “Hoa hướng dương” mà trật vuột thành van-xe.
Những lời nhận xét của Thúy Liễu đã khiến Đỗ Hiểu Thiên lưu tâm rất nhiều.
Chú cũng cảm thấy hệt như nàng, có cái gì đó mà chú và học trò bị thiếu nên mới dẫn đến chuyện mang tiếng tranh mình vẽ mà phảng phất phong cách của người.
Muốn tìm hiểu nguyên nhân do đâu, Đỗ Hiểu Thiên hỏi nhỏ:
– Tôi có thể vẽ một bức tranh về Thuý Liễu để đem bán lấy tiền gây quỹ cho làng HIV/S và làng Thiên Thần được không?
Thúy Liễu cúi đầu mà bặm môi suy nghĩ.
Rồi chị ngậm ngùi xin:
– Làm ơn vẽ khang khác một xíu được không? Tôi không muốn vì mình mà ba tôi bị bôi tro trét trấu.
– Trời, nương ơi, tôi là thằng đóng khung tranh nghiệp dư, đâu phải Van Gogh hay Picasso mà vẽ y hệt được.
…
Y hẹn, đúng bảy giờ sáng thứ Ba, chú – cháu khác dòng có mặt tại sân trước Thánh Đường Giáo xứ St.
Pio.
Cô Hai Liễu mặc áo dài trắng thơm hương nước xả vải.
Tóc vấn gọn gàng.
Cổ quàng khăn lụa phơn phớt hồng.
Gương mặt không trang điểm đậm, chỉ tô chút son nhạt và đánh má hồng.
Chân chị mang guốc gỗ.
Tay đeo vòng mã não.
Và bàn tay trái đeo một chiếc găng bằng vải voan đen nhung.
Nét đẹp thuở nào dường như đã quay trở lại trên dung mạo luống tuổi của chị.
“Đôi khi trộm nhìn em, xem dung nhan đó bây giờ ra sao?”
– Thằng quỷ dịch.
Đôi má cô Hai Liễu ửng hồng.
– Bó bông đạo cụ, sẵn, làm quà tặng luôn.
– Ernest Nguyễn thay mặt chú Ba trao đóa hồng nhung cho Ciara Liễu.
Thúy Liễu nho nhỏ cảm ơn.
Được sự cho phép của cố Phêrô Toàn và Cha Sở, Đỗ Hiểu Thiên chọn phông nền là bối cảnh nhà thờ.
Thể theo ý tưởng của chú, cô Hai Liễu ngồi trên bậc thang dẫn vào Thánh Đường, muốn giữ hay để bó bông một bên thì tùy ý; chú sẽ vẽ xạo thêm vài con bồ câu cho bức vẽ thêm phần sinh động và mơ mòng.
Đến chừng trưa trời trưa trật, Đỗ Hiểu Thiên mới hoàn thành tác phẩm.
Áo quần, đầu tóc, mặt mày và hai bàn tay của chú bê bết vết sơn.
– Bồ câu đâu?
– Tôi không tìm ra cảm hứng để vẽ-chồng chúng lên.
Nhìn người vẽ tranh cho mình phải chịu ngứa ngáy vì nước sơn, cô Hai Liễu chạnh lòng thương mà mời chú ấy ghé tu xá xin Cha cho tắm đỡ.
Đang tính tới đó, chợt chú Ba nghe thấy tiếng bồ câu kêu “Gù…!Gù…” ở phía sau nhà thờ.
Sợ hai đứa nhỏ làm ồn thì chúng sẽ bay đi mất, chú bèn ra hiệu giữ im lặng.
Cả ba rón rén rảo bước đến đó; trong lòng thầm tức cười vì nghĩ đàn bồ câu cũng coi thường mình nên đã trốn ra đây hết, chỉ chờ chú Ba vẽ xong mới kêu lên vài tiếng đắc thắng.
Nơi sân sau, hàng trăm con bồ câu đậu kín mặt đất.
Và chính giữa chúng là Cha Chánh xứ.
Đó là bức tranh rất đẹp mà đã lâu Hiểu Thiên chưa từng được chiêm ngưỡng.
Trong bức tranh ấy, người Linh mục trạc tứ tuần nở nụ cười bừng sáng thế gian bằng đôi má lúm đồng tiền và khuôn miệng trái tim của mình; chàng hết xoay trái rồi lại day sang phải để cho bầy chim ăn thóc và uống nước, dáng vẻ hiền queo vô cùng.
– Trời ơi, đẹp vậy mà hổng chịu cho Giáo dân thấy; tối ngày cứ trưng ra bộ mặt thiên hôn địa ám.
– Ai vậy? Ai? Bước ra đây mau.
Bây giờ sắc diện của ông Cha Sở hệt khuôn Bao Công lúc ban lệnh trảm.
Bầy bồ câu theo đó mà hoảng loạn tung cánh bay lên trời.
– Dạ, Giáo dân của Cha, chớ không phải lính của Caesar.
– Cho tôi xin lỗi vì thái độ ban nãy.
Tôi sợ tụi nó lại bị bắt trộm nữa nên phải đe nẹt trước.
Chú Ba tếu táo nói:
– Chắc là bị bắt để đem đi phóng sanh.
Ignacio Cường nhếch miệng cười.
Chú Ba biết ý nên đổi chủ đề:
– Cơm nước gì chưa Cha?
– Chưa.
Tôi định cho tụi nó ăn xong là đi ăn cơm luôn.
– Vậy tôi mời Cha một bữa cơm nghen?
– Xin mời luôn Cha Phó.
Chú Ba vỗ vỗ túi quần mà cười phán:
– Dư xăng.
Ernest Nguyễn thắc mắc:
– Sao không mời Thầy Sáu?
Ignacio Cường đáp gọn lỏn:
– Thầy Sáu có vợ nuôi rồi.
– Đã làm Cha thì phải chịu kiếp “mồ côi vợ” thôi.
– Chú Ba lại bỡn.
Trước lúc ghé quán cơm của vợ chồng dượng Bảy, chú Ba vô tu xá tắm gội một cái.
– Đang nói chuyện với ai vậy Mỹ?
– Với Mạnh Thường Quân.
Người ta muốn rút lại khoản tiền đã cho Giáo xứ mình vì…!không biết vì lý do gì nữa…
– Lên Youtube nói tài trợ cho dữ, giờ biểu rút lại, rồi tụi mình biết ăn nói sao với Giáo dân đây?
– Thì…!cho gạo không thôi.
Chú Ba cười cười hỏi:
– Nhiêu?
Stephen Đoàn ngập ngừng thông báo:
– Mười ngàn.
– Đọc số tài khoản đi.
Cha Phó ngó Cha Sở như ngầm chờ lệnh của chàng ta; chừng thấy Cha Sở gật đầu, anh mới đọc số tài khoản, do Hội Đồng Mục Vụ lập ra, cho Mạnh Thường Quân từ trên trời rớt xuống.
– Mười lăm ngàn.
Lơi lơi một chút mới dễ sắm đồ.
Sẵn có chiếc xe rộng rãi, hai ông Cha leo lên ngồi luôn, khỏi mất công cuốc bộ lâu lắc.
Sau vài phút ngần ngừ, cô Hai Liễu cũng chịu lên xe ngồi ở băng nhứt với chú Ba.
Băng kế là của hai chàng kia.
Và băng chót là chỗ của Ernest Nguyễn và họa cụ.
– Lát ghé nhà đón ba Liễu nghen?
– Ờ được…!Chỉ đường đi.
Cái nhà của em Google Map nó không có lưu.
Ngôi nhà của hai cha con cựu sĩ quan nằm giữa ruộng mía; gia đình của ông Tám sống nhờ vào thứ cây này từ lúc cô Hai Liễu phát điên, trước đó họ coi thứ này như một nguồn lợi tức “ngoài lề” thôi nên không chăm bẵm kỹ lưỡng, chừng khi sống bám víu vô nó mới tiếc hùi hụi vì bỏ lỡ “giai đoạn vàng” dưỡng đất.
Trong lúc đợi cô Hai Liễu vô nhà mời cha đi ăn trưa, hai chú cháu khác dòng lo cất họa cụ vào cốp-xe để ông Tám gác nạng dễ dàng hơn.
Về phần hai ông Cha, họ nhận phần đỡ ông Tám lên xe.
Từ ngày báo đài đăng tin Ignacio Cường chống đối chánh quyền, quán xá trong xứ tấp nập khách thăm viếng; quá nửa là vì hiếu kỳ hoặc ngưỡng mộ, phần còn lại là cánh viết lách đi săn tin và cảnh sát mặc thường phục đi dò la tin tức của tử tù chết hụt kia.
Ông Tám Què bình phẩm:
– Cha Cường mà hiền là cái Giáo xứ này bị biến thành sân golf rồi.
Chú Ba cười hỏi:
– Chuyện là sao ông?
– Số là vầy: Năm đó có một công-ty bất động sản cấu kết với một viên chức địa phương để thu mua đất với giá rẻ mạt.
Không biết quân nào bày vẽ mà mấy khứa đó lại chọn đất Giáo xứ.
Để chiếm đoạt khu đất, ông quan đó mới xảo ngôn rằng muốn xây dựng một trường học Cơ Đốc cho Giáo dân.
Cha Cường mới lôi ổng ra Đài Đức Mẹ mà rằng, “Vậy thì ra thề trước Đài Đức Mẹ, rằng ông toàn tâm toàn ý muốn thành lập trường học Cơ Đốc cho Giáo xứ của chúng tôi.
Nhược bằng bày mưu lấy đất, ba đời sau nhà ông không ngóc đầu lên nổi.” Ông quan hoảng hồn hoảng vía chạy luôn.
– Nhưng mà…!- Stephen Đoàn cau mày hỏi.
-…!đất ở đây bị bán nhiều lắm phải không ông?
– Ừ, thằng khứa giả mạo Cha Thành đã nhân danh Cha mà “hốt đất” đi bán rất nhiều.
Xứ này tổng diện tích gần mười mấy mẫu, giờ chỉ chừng bảy, tám là cùng.
Phải chi lúc đó có Cha Cường thì đỡ biết mấy.
Chú Ba nói lảng sang chuyện khác:
– Lát về bán cho con mấy khúc mía nghen ông Tám?
– Ừa.
Mía ngọt lắm, cậu lại mấy xe nước mía nhờ người ta ép giùm.
Uống thứ nước mát này không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc.
– Dạ.
Quán nhỏ của vợ chồng dượng Bảy bữa nay đông khách quá nên Cha Sở ngỏ ý sang quán cơm phần mới khai trương của một gia đình “tái” nhập xứ.
Vốn dễ nuôi nên chú Ba ưng thuận liền.
– Ủa Cha Cường, Cha Mỹ? Có chuyện chi mà đến đây vậy nè?
Ignacio Cường giành phần trả lời:
– Chú này mời cơm nên tôi gợi ý tới quán của gia đình.
Không có việc gì nghiêm trọng đâu.
Chú Năm Sậu nghe vậy mới yên tâm mà trở vô quầy hàng chuẩn bị.
Chú Ba cười rộ lên:
– Té ra là “cơm chỉ”?
– Đúng đó cậu Hai.
– Con thứ Ba, chú ơi.
Tủ kiếng được dựng thành hai ngăn: Ở trên bày các dĩa đựng thức ăn mặn, còn bên dưới để các món chay, đồ bổi và nước chấm.
Thùng cơm, nồi canh và bếp nấu kê sát vách tường phải; tuy có máy hút khói và cửa sổ thông gió mà chỗ này vẫn nóng như lò lửa và nồng nặc mùi dầu mỡ.
– Có ăn trứng không?
Chú Ba đáp:
– Có.
– Mấy hột đây?
– Có hai hột thì ăn hai trứng cho khỏi bị chinh.
– Chứ tưởng cậu đòi ba là tôi đem cậu đi triển lãm liền.
Cô Hai Liễu day mặt đi chỗ khác mà mim mím cười.
Gọi món và đồ uống xong xuôi, nguyên nhóm rủ nhau ra ngồi ăn dưới gốc cây trứng cá cho khoảng khoát.
– Chú Năm ươi, cho con xin một chút “musique”.
Ông Năm Sậu bèn hỏi:
– Đâu, mời đề xuất.
Stephen Đoàn ngập ngừng lên tiếng:
– “Muôn kiếp ngậm ngùi” của đôi tác giả Hoàng Trọng – Mai Trung Tĩnh do cô Thái Thanh ca.
– Trời đất ơi, nghe bản này nuốt cơm sao trôi Cha?
Ignacio Cường vừa xé giấy bao để lấy đũa vừa nói:
– Chả muốn nghe gì thì cho chả nghe đi.
– Ừm…
Bữa cơm trưa nay có canh khổ qua dồn chả cá, đậu que xào chay, thịt kho tàu, cá diêu hồng chiên tươi và tép rang.
Nước uống thì ai thích gì kêu nấy.
– Ăn hết cơm thì lấy thêm nghen các vị.
Chỗ tôi cơm bao bụng.
Chú Ba giỡn:
– Sao hổng cho lấy đồ ăn thêm mà cho cơm thêm không vậy?
– Móc hai con mắt tao nè mày.
Bán dzậy sao tao sống?
– Sống được mới hay chớ.
– Vậy con thỉnh cố vô thế chỗ con.
Châu Vĩ Tiên đang rảo bước ngang qua quán ế của gia đình ông Năm Sậu, nhác thấy hai ông Cha xứ ngồi ăn cơm nên quành lại mà ghé ngồi chơi.
– Tôi ngồi ăn cơm chung được không?
Stephen Đoàn niềm nở mời:
– Dạ, mời cô an tọa.
Do bị mắc bệnh ưa sạch sẽ thái quá nên nàng thanh tra không ăn chung mâm với mọi người, mà ăn riêng với món cơm gà xối mỡ sốt mắm tỏi và hột gà chiên ốp-la.
Chú Ba bông đùa:
– Tôi nhìn cô mà tưởng “Chị Mười Ba” bên Hồng Kông.
Châu Vĩ Tiên cũng lè lưỡi bẹo lại:
– Còn anh y chang “Sài Tiến”.
– Sài Tiến chơi đểu lắm.
Kiếm tên khác đi cô.
Ăn xong bữa cơm rất ngon mà lại rẻ, Châu Vĩ Tiên xin phép cáo từ.
Trước khi đi, cô không quên nhắc nhở hai ông Cha rằng nếu biết tin tức của phạm nhân ấy thì hãy báo cho cô hay.
Đợi cho nữ thanh tra đó đi khỏi, ông Năm ướm hỏi:
– Giáng Sinh này hai Cha có lên trợ diễn không?
Ignacio Cường đáp liền:
– Giáo dân dám coi thì Cha dám diễn.
Stephen Đoàn lắc đầu nguầy nguậy:
– Diễn mình ên đi nghen, đừng có kéo tôi vô.
Ignacio Cường nổi xung:
– Cha biết thổi khẩu cầm thì phải tự giác hỗ trợ ca đoàn chớ? Hay là muốn tôi đốt nhang thỉnh lên?
Sực nhớ đến cuộc hẹn với khách hàng chiều nay nên chú Ba vội vàng gọi ông chủ quán lại tính tiền.
Rồi qua biểu thằng cháu và hai cha con ông Tám Què ra ngoài xe ngồi đợi mình.
Tiễn biện xong xuôi, hai ông Cha rủ nhau ghé thăm Thầy Sáu Quới.
Trước khi đi, Cha Sở nói với ông Năm Sậu:
– Làm gì cũng phải nhớ không được mạo phạm Cung Thánh và giỡn hớt quá trớn trong “Nhà của Cha”.
– Dạ, Cha dạy phải.
Hầu như ngôi nhà nào trong Giáo xứ đều có gắn Thánh giá trên cổng; hình ảnh này gợi cho Đỗ Hiểu Thiên nhớ tới “xóm Đạo” nằm giữa nhà thờ Lộ Đức và nhà thờ Năng Gù dưới miền đất thiêng An Giang.
Thể theo sự khuyến khích và dạy bảo của Cha Cọp, mỗi con Chiên nhỏ trồng một hoặc nhiều giống cây để tạo mầm xanh cho nơi ở, ngoài ra còn nhằm khơi gợi sự siêng năng lao động, lòng thương yêu và tính kiên nhẫn trong tâm hồn chúng; chính vì lẽ ấy mà sân trước nhà nào cũng có một khoảng xanh mát mắt.
Ngôi nhà của đại gia đình Thầy Sáu nằm nép mình dưới bóng của một cây sanh già.
Hàng rào sơn màu xanh biển dựng bên trên hàng gạch xây thô; cổng rào cũng tiệp một màu như thế.
Kiểu dáng của nó mang hình chữ Đinh xưa cũ; vì nhà đông nên chú phải cơi thêm một gác để có đủ phòng ngủ cho mọi người, nếu như xây lầu thì nhà sẽ thoáng đãng và bớt cảm giác tù túng hơn nhưng bởi tiền bạc không dư dả nên chú không thể cất lên một tấm nữa.
Cũng tại nhà nhỏ xíu mà lại lắm người nên xe cộ phải để hết ngoài sân, chỉ căng tấm bạt che đỡ mà thôi chứ không dụng đến tấm tole hay mái ngói.
– À, tới chơi hả quý vị? – Louis Quế vừa nói vừa sửa thế ngậm bình sữa cho thằng con mới lọt lòng vài tháng.
– Vô nhà uống nước chơi.
Ignacio Cường cười khổ:
– Ông năm chục tuổi rồi đó.
Đừng kiếm thêm đứa nữa.
– Kệ.
Chúa cho nhiêu hưởng nhiêu.
Stephen Đoàn bông đùa:
– Mai mốt chú sẽ ca “Ngày cha bảy mươi, con mới vừa đôi mươi…”
Rồi người Phó Tế luống tuổi quay qua hỏi thăm Stephen Đoàn:
– Khoẻ chưa Cha? Nhậu nổi hôn?
Stephen Đoàn gật đầu với đôi gò má đỏ ửng.
Ignacio Cường lên tiếng hỏi:
– Có thấy Andrew – Hồ Ẩn Long ở đâu không Thầy?.
Tru????ện cop từ trang { TR????????TR???? ????Ệ????.V???? }
– Hông.
Sau Thánh Lễ hôm bữa, cẩu mất hình luôn.
Làm như “Chàng trai đến từ hư vô” vậy.
– Quái đản thật.
Ông Thầy Sáu có bốn mặt con lên tiếng an ủi cậu Cha Sở đáng vai vế em mình.
oOo
Sau mấy ngày thu hết can đảm, rốt cuộc Stephen Đoàn cũng có dũng khí để đến gặp Cha Matthias – Tô Vĩnh Hoàn.
Nhưng thay vì đi vào lúc ban ngày, anh lại chọn canh ba gà gáy; biết anh là Linh mục của trường nên người gác cổng chỉ bắt anh cho coi thẻ chứ không làm khó gì.
Nhận được cuộc điện thoại của thằng con tên Mỹ, Matthias Hoàn hớt hải thay trang phục rồi chạy xuống lầu rước nó.
– Đừng làm ồn, ai nấy đều ngủ hết rồi.
– Dạ.
Kể từ ngày có thang máy và thang cuốn, việc lên – xuống của Linh mục không còn cực khổ và lâu lắc nữa.
Hết thảy đều nhờ vào lòng quý trọng và yêu thương của Kitô Hữu.
Hai cha con vừa bước vào thang máy thì đụng mặt Cha Giám thị.
– Ủa? Thầy Mỹ? Sao không quản xứ mà về trường vậy?
Stephen Đoàn không biết tìm đường đâu đối đáp.
May thay, cha anh đã lên tiếng giải vây giùm:
– Cha thấy mệt trong người quá nên mới biểu nó qua ngủ chung.
Sẵn tiện chỉ dẫn nó cách xây dựng tinh thần hiệp thông trong Mùa Vọng.
– À…!
Trước lúc chia tay hai cha con, người Linh mục trẻ ngoáy đầu nhìn họ một lần nữa rồi nhún vai bỏ đi.
– Con có mua cháo lòng với bánh quẩy…
– Bộ chuyện con sắp nói chấn động tới nỗi sẽ khiến Thầy tụt huyết áp sao?
– Dạ, con còn sợ Thầy bị đứt mạch máu chết luôn.
Thôi coi như trước khi tức chết, Matthias Hoàn được ra đi no bụng.
Nghĩ vậy nên cụ lo mở khóa phòng mà không căn vặn con trai thêm điều gì nữa.
Vì cháo đã nguội lạnh nên Matthias Hoàn mở bếp lên hâm nóng.
Tiếng nước cháo trút xuống cái nồi inox nghe một cái rào như cơn mưa vội vã lướt qua vườn nhỏ.
Về phần bánh quẩy, cụ bỏ vô nồi chiên không dầu mà chiên sơ lại cho giòn.
Dường như Thượng Đế tôn quý tự thấy Ngài đã trao cho thằng con tên Mỹ tài hoa hơi nhiều nên đã lấy đi khả năng nữ công gia chánh của nó để cho người đời bớt ghen tị với nó, thành thử ra mỗi lần nó vào bếp là mỗi lần để lại chiến trường mịt mù khói bụi; nếu như cụ nhớ không lầm thì nó đã xém đốt nhà bảy lần và làm cháy bếp năm lần, từ đó không ai còn dám nhờ nó đụng đến mấy chuyện như thế này nữa.
– Mua cháo ở đâu mà ngon dữ vậy con?
– Dạ.
Bên Quận Tám.
– Hồi trước có thím Huê bán cháo Tiều ngon lắm, nghe đâu vì bịnh tình của em họ nên phải về quê trông coi.
Bán cũng đắt lắm mà nghỉ ngang vầy thấy uổng ghê.
– Hổng phải em ruột mà thương dữ vậy hả Cha?
– Ờ.
Thấy Cha Hoàn đã ăn gần xong, Stephen Đoàn mời ông nghe một ca khúc.
Ấy là bài “(Ill never be) Maria Magdalena” do Sandra trình bày.
Rồi Stephen Đoàn cất giọng giải thích:
– “Anh không phải là Chúa Jesus nên đừng vọng tưởng rằng sự hiện diện của anh sẽ cải hóa linh hồn em thành Thánh Nữ Maria Magdalena”.
Tình yêu cuồng điên của một cô gái dành cho một chàng trai không bao giờ yêu cô.
Sắc mặt Matthias Hoàn tái nhợt đi thấy rõ.
– Thưa Thầy, con muốn xưng tội.
– Điều răn thứ Sáu phải không?
Nói đoạn, Matthias Hoàn đứng dậy dọn bàn.
Cụ để mặc cho con trai cúi mặt khóc rấm rứt.
Chừng cụ trở lại ghế, vẫn thấy con trai đang bưng mặt nức nở.
– Thầy biết cái ngày này thể nào cũng đến.
Nên Thầy mới khuyên con đừng làm Linh mục.
Stephen Đoàn gục đầu lên đùi Cha Matthias Hoàn mà khóc tức tưởi.
– Bài hát hồi nãy con cho Cha nghe hay lắm.
Vừa xoa đầu đứa con trai đa cảm như chồi non trong tuyết, Matthias Hoàn vừa nói như thế.
– “Yêu là tìm thương đau…” phải không con?
Stephen Đoàn vẫn khóc sướt mướt.
– Cha nhớ hồi con vô học nội trú trong này, nhiều đứa cùng lớp đã chê con ở dơ vì mái tóc rễ tre khô ráp như ba năm không gội.
Chất tóc con xấu, cái mặt con cũng xấu, tướng tá cũng xấu luôn, nhưng tâm hồn con rất tốt.
Cha nhớ mỗi bận tụi nó trốn trực nhật, con lại lầm lũi cáng đáng hết một mình.
Kể từ lần bắt gặp con bơ vơ lau bảng đen, Cha đã thề sẽ thương yêu con bằng tất cả sức lực mà Cha có trên đời.
Bây giờ là năm giờ sáng.
Các tu sĩ đồng Dòng chắc đã thức dậy hết rồi.
Do đó Matthias Hoàn hạ thấp âm lượng xuống để tránh chuyện riêng của con trai lan xa như vết dầu loang trên mặt nước.
– Cha hỏi con một câu, làm ơn trả lời cho Cha biết…
Stephen Đoàn vẫn không ngừng nhòa lệ.
– Con muốn coi người đó là tri âm tri kỷ hay một hiền thê tương lai?
– C…!Con…!không…!không…!thể…!trả lời…!được…
– Không sao.
Cũng không gấp.
Chầm chậm tính kỹ đi con.
Con có muốn huyền chức Cha sẽ không ngăn cản đâu.
Nghe tiếng nói lao xao ngoài hành lang, Matthias Hoàn vội vã đưa hộp khăn giấy cho con trai lau mặt, rồi lại kệ sách mà lấy ra một cuốn album đã ố vàng.
– Con coi.
Thằng Cường hồi nhỏ thấy thương chưa kìa? Tròn ủm, hớt đầu đinh, hai gò má phúng phính, cằm có nọng luôn.
– Sao giờ ảnh dữ quá vậy Cha?
– Nó dữ nào giờ rồi con.
Thông qua Cha Hoàn, Stephen Đoàn được biết ông Cha Sở rất giỏi võ và sử dụng thành thạo các loại binh khí; hồi ảnh còn nhỏ năm nào trường tổ chức liên hoan ảnh cũng ghi danh tham dự với tiết mục biểu diễn võ nghệ và phóng phi tiêu, sau này lớn rồi sanh tánh nghiêm chỉnh nên không còn góp mặt nữa.
Thấy con trai đã thôi khóc và cũng đã bớt buồn, Matthias Hoàn khuyên nó nên về Giáo xứ chợp mắt một lát rồi hẵng tính tiếp.
Vâng lời Thầy, Stephen Đoàn xin phép ra về.
Trước khi đi, anh lại bồn rửa chén mà mở vòi nước rửa mặt rồi chùi mũi cho sạch sẽ để sắc mặt dễ coi hơn.
Đôi măt vốn dĩ có mí rưỡi, khóc nhiều quá chỉ còn có một vạch dài và sâu hoắm.
“Cạch.”
Anh bạn đồng quản xứ với Stephen Đoàn đã ngồi đợi anh trước cửa tự bao giờ.
Ánh mắt thất thần của Ignacio Cường làm đau lòng chàng tu sĩ.
Một người cứng rắn như nước giống anh ấy mới có thể làm Linh mục được, còn mềm yếu như đá giống anh thì muôn đời không.
– Nghe được bao nhiêu rồi?
– Lõm bõm.
Nhưng cũng đủ khiến tôi thất vọng về anh.
– Tôi chẳng bao giờ xứng đáng để được ai đó ngưỡng mộ cả.
– Cường đó hả con? Đi uống cà-phê với Thầy và thằng Mỹ không?
– Đi.
Thay vì đi xe taxi, ba người chọn cách tản bộ; chừng nào mỏi chân sẽ ghé quán nào đó mà ngồi uống nghỉ mệt.
Dọc đường đi, Matthias Hoàn cố gắng khơi gợi mối dây liên kết giữa hai ông Cha xứ bằng những câu hỏi liên quan đến đời sống mục vụ và sinh hoạt của Giáo dân.
Nhưng bất thành.
Hai đứa con của cụ trả lời một cách nhát gừng và giả lả cho qua chuyện.
Nắng vàng Quê Hương không đủ hong khô giá băng trong tim tụi nó.
Từ một vườn nhà ai, vang lên nhạc phẩm “Tình yêu” do Ngọc Lan ca, không rõ ai đặt lời Việt từ bài hát “Kuchinashi no Hana” của đôi tác giả Minoru Endo (nhạc) và Kaoru Mizuki (lời) – tài nữ Đặng Lệ Quân đã từng trình bày ca khúc trên theo nhiều thứ tiếng, một trong số đó là tiếng quê hương của cô: Hoa.
“…!Tình yêu cũng giống như đôi cánh chuồn
Tưởng như muôn kiếp không bao giờ buồn…”
Vốn yêu thích hoa lan nên Stephen Đoàn bước vô thưởng ngoạn.
Để rồi thất vọng thay khi thấy những chò lan vô hồn vì bàn tay uốn nắn quá đáng của con người.
Anh chợt nhớ đến Vườn Lan ở thạch động, muôn ngàn sắc lan huy hoàng theo sức sống của riêng chúng, nét đẹp tự nhiên ấy khó có bàn tay nghệ nhân nào có thể làm ra được.
– Dạ, uống gì không Cha?
Hồi nãy tâm hơ tâm hất nên xất bất xang bang vô quán sang, đồng lương Mục tử tháng này coi như đi tong.
Định gọi nước suối thôi, nhưng thằng Cường đã khoát tay cản lại và nói nó lo được.
– Thầy uống gì?
– Cho Thầy một ly soda chanh muối.
– Còn đằng ấy?
– Một ly cà-phê sữa nóng.
– Tôi uống Matcha đá xay.
Làm ơn bỏ đường ít thôi.
Thật là ít nghen.
Cô sinh viên cười e lệ:
– Vậy Cha có để whipped cream không?
– Có thêm tiền không?
– Dạ có.
– Lấy luôn đi.
Cô sinh viên ngắm gương mặt đẹp trai của ông Cha có đôi má lúm đồng tiền một chút nữa mới ôm cuốn thực đơn đi xuống quầy pha chế.
Xong chuyện nước nôi, ba người tu sĩ rủ nhau ra ngồi ở cái bàn kê dưới giàn nho không trái nằm đối diện cửa hông hàng rào của quán cà-phê.
– Vụ với cô Xuân anh tính sao?
– “Cuối cùng là tình bơ vơ…”
– Dứt khoát thì dứt khoát luôn.
Đừng có ngồi đó mà làm Lam Phương hay Ngô Thụy Miên.
– “Đoạn tuyệt” rồi.
– Vậy sao hồi nãy khóc dữ dạ?
– Giờ hổng cho khóc luôn hả?
– Khóc chuyện gì đáng khóc, chớ khóc ba cái chuyện tào lao năm dố đó mà anh coi được sao?
– Hai đứa, hai đứa, đang ở nơi công cộng, nhỏ tiếng xuống giùm Thầy đi mấy con.
Quán cà-phê sân vườn này lưa thưa khách nghỉ chân, nhưng Matthias Hoàn vẫn e ngại “tai vách mạch rừng”.
Chúa ơi, có hai đứa quản xứ mà như “Hán – Sở tranh hùng”, thằng Vũ mà về phụ tá chắc thành “Tam Quốc chí”mất.
Điện thoại của Matthias Hoàn bỗng đổ chuông.
Người gọi đến là Thầy Phó Tế Louis – Huỳnh Quới, phụ tá giáo xứ Saint Padre Pio.
– Có chuyện chi không Sáu?
– Cha ơi, hai ông Cha chỗ con bỏ xứ đi đâu mất đất rồi.
Sáng con qua tu xá kiếm ông Sở để bàn chuyện thiện nguyện không thấy, con mới qua phòng ông Phó coi sao, thì…!”Hỡi ôi cửa đóng then cài.
Đồ đây – cảnh cũ mà người xưa đâu rồi.”
– Trước mặt Cha.
– Ủa? Ở trường xảy ra chuyện gì mà hai ổng về gấp vậy?
– Về thăm Cha thôi mà.
– Ngộ đời à nghen…
– Con không tin Cha sao Sáu?
– Dạ, để con ráng tin Cha…!Hai ổng cứ về Bến Tre miết làm mấy “thông tấn viên” ở đây tuyên truyền hai ổng có bồ bịch hay “nuôi mèo” ở dưới.
Ignacio Cường liếc Stephen Đoàn một cái sắc lẻm.
– Đâu.
Con còn nhớ Linh mục Henrico – Nguyễn Phước-Thạnh không?
– À, à, xuống dưới phụ giúp thành lập Giáo xứ hả Cha?
– Ờ.
– Cha “Ờ” mà sao yếu dữ vậy Cha?
– Mày đang hỏi cung tao đó hả Quới?
– Ờ…!Dạ, đâu có, đâu có đâu…
Ignacio Cường giựt điện thoại khỏi tay Cha Hoàn rồi xẵng giọng nói:
– Tới giờ dạy Giáo Lý Hôn Nhân mà sao chưa đi? Ai tập cho Thầy cái tánh nhiều chuyện vậy hả? Hả?
– Dạ, để con sửa soạn đi liền.
Cha đừng có nạt con.
Con sợ lắm.
Louis Quế chưa kịp phân bua thêm câu nào thì đã bị Ignacio Cường tắt máy cái bụp.
– Cường ơi, Cường ơi, con hiền một chút xíu giùm Cha được không con?
– Không.
Con không nói rõ cho Thầy ấy biết cái sai của mình thì sao này cái Giáo xứ sẽ biến thành cái “Ban Nấu Cháo”.
Đã xém “rã xứ” một lần chưa tởn, còn lặp lại cái sai đó thêm một lần nữa.
Rồi chàng Linh mục miền Tây quắc mắt nhìn anh bạn đồng tu:
– Anh thấy cái sai của anh chưa? Hả?
– Rồi.
Nhưng tôi vẫn chưa biết mình nên ở hay nên đi.
Có lẽ tháng tới tôi sẽ gặp mặt trực tiếp Đức Cha Gabriel – Đinh Thái để ngài phán xử mọi chuyện.
Bên ngoài bỗng huyên náo khôn cùng.
Hỏi ra mới hay có nhiều người trẻ tuổi thấy chiếc xe hơi hạng sang nên nán lại ghi hình và chụp ảnh, bảo vệ thì sợ hư xe của khách nên xảy ra cự cãi với họ.
Một bác lớn tuổi bỏ tờ báo xuống:
– Có cái xe không mà làm um sùm ỏm tỏi.
Nhân viên rối rít xin lỗi bác trai, rồi ân cần hỏi bác có muốn châm thêm trà không.
Sẵn đang bực mình nên Ignacio Cường ngoắc nhân viên lại tính tiền.
Cô nhân viên mến chàng cười chúm chím mà rằng:
– Có người trả tiền nước cho các Cha rồi.
Ignacio Cường ngây người hỏi:
– Ai vậy nữa?
– Dạ, là cái bàn kia kìa.
Đó, anh đẹp trai với anh ú nu đó đó.
– A, người quen.
– Quen hết hả con?
– Dạ không, một quen, một không.
Vì nghi Mục sư Tân có chuyện quan trọng nên mới kiếm mình, thành ra Ignacio Cường mạnh dạn bước lại gần anh ta và người bạn của anh ta.
– Con là Mục sư Lưu Thanh Tân, đến từ Hội Thánh Tin Lành Lutheran.
Rất hân hạnh được gặp mặt Cha và quý Thầy đây.
– Còn con là cư sĩ Cao Đài, cũng là luật sư, tên cha sanh mẹ đẻ là Tạ Khắc Xương.
Chiếc xe “Volkswagen” sang trọng của Matteo Tân được nhóm bảo vệ canh giữ cẩn thận; không phải vì họ muốn tiền boa, mà là do họ sợ bị chủ xe bắt đền nếu cái xe bị trầy xước hoặc hư hỏng.
Trước lúc khởi hành, Chín Tân boa cho mỗi bảo vệ vài chục đồng.
Ai nấy thảy đều cảm ơn anh rối rít.
Thấy ông Cha Dòng già nua quá đỗi, Tạ Khắc Xương bèn mời cụ lên ngồi chỗ của mình.
Riêng anh, anh xuống băng sau ngồi với hai chàng Cha xứ.
Bên trong chiếc xe được ốp gỗ thượng hạng, ghế ngồi bằng da thuộc đắt đỏ, và thảm trải sàn làm từ vải nhung êm ái.
Trần xe gắn đèn chiếu sáng đặt làm riêng ở hãng.
Màn hình giải trí được lắp sau lưng hai ghế trước.
Dàn loa là điểm đáng khen ngợi nhất của dòng xe này; âm thanh nghe sống động đến nỗi tưởng như sự ấy đang diễn ra ngay trước mắt mình, thành ra Chín Tân đã để sẵn rất nhiều đĩa nhạc và băng cối hầu nghe giải buồn mỗi khi mệt mỏi hay phải lái đường dài.
Nhìn thấy quãng đường càng lúc càng xa thành đô, Ignacio Cường hoài nghi hỏi:
– Đi đâu mà xa dữ vậy Mục sư Tân?
– Ghé Thánh Thất Cao Đài cho luật sư Xương viếng Thầy một cái.
Rồi Chín Tân hỏi:
– Các Cha muốn nghe bài gì không?
Matthias Hoàn đáp liền:
– “Người nhập cuộc” của nhạc sĩ Trúc Phương do Chế Linh ca.
Bài này có hai lời lận, và cả thảy đều được anh ca sĩ gốc Chiêm Thành trình bày rất tuyệt vời.
– Vài năm nữa tôi sẽ ca bản “Người tan cuộc”, về quê vui thú điền viên với con cháu.
Chín Tân sửng sốt hỏi:
– Cha có con sao?
– Ừ, là con gái nuôi.
Ignacio Cường cười biểu:
– Bên Công Giáo đâu có cho phép tu sĩ kết hôn như bên Tin Lành.
– Vậy tại sao bên anh lại cho phép Phó Tế có đời sống hôn nhân?
– Hai đứa, dừng cuộc “Thánh Chiến” ngay lập tức!
– Thưa Cha, con muốn tìm hiểu để học hỏi thêm, chứ không hề có ý gây hấn hay làm tổn thương tình hữu hảo giữa Công Giáo và Tin Lành.
– Tôi có đọc cuốn “Hòa âm điền dã” của nhà văn André Gide và do Bùi Giáng dịch.
Cha là Mục sư Tin Lành, sau này con trai lại là tu sĩ Công Giáo, vì người cha đã để con quỷ tham đắm sắc dục làm cho mụ mị thần trí nên đứa con mới bất mãn mà cải Nhánh.
– Tôi cũng có đọc cuốn đó.
Và tôi cũng đã đọc cuốn “Nhà thờ Đức Bà” của nhà văn Victor Hugo.
– Tôi muốn nghe nhạc…!- Stephen Đoàn mệt mỏi giải vây.
– Làm ơn dẹp cuộc tranh luận này được không?
– Anh muốn nghe bài chi?
– Thánh Ca.
“Điệp khúc xin vâng” của Linh mục Văn Chi, người trình bày là Don Hồ.
Ngang qua cao ốc do gia đình Lê Hoài Sang làm chủ, Chín Tân tắp vô cây xăng gần đó để châm thêm dầu cho chiếc xe.
Mọi người cũng nhân đó mà kéo nhau đi vệ sinh.
Matthias Hoàn là người xong việc trước tiên.
Cụ vào cửa hàng tiện lợi, do chủ cây xăng mở ra nhằm tăng thêm lợi tức, để mua chút bánh trái đem lên xe ăn.
Vừa mới bước qua ngưỡng cửa, cụ đã thấy cậu Mục sư Tân đang đứng nhắn tin cho ai đó.
– Dựa theo kinh nghiệm đứng trước tòa bào chữa cho thân chủ hằng bao năm qua, con nhận thấy bữa nay Linh mục Cường đang bất mãn ai đó nên đã lấy con ra làm thớt.
Matthias Hoàn cười khổ:
– Thì tại…!”Tiếng chim hót trong bụi mận gai”.
Thằng bạn đồng tu của nó vướng phải chuyện này nên nó mới giận lẫy.
– “Tình yêu” và “Tình dục” luôn là đề tài cấm kỵ và ngáng bước chân phụng vụ của các tu sĩ mà.
Cũng như có người từng hỏi anh Hai con rằng, mang tiếng phụng vụ Chúa mà có vợ là sao; anh mới đáp, “Xin quý vị hãy đem câu hỏi đó qua mời các Thầy Phó Tế bên Công Giáo trả lời giùm.
Tôi tài hèn đức mọn nên chỉ biết cúi mặt chịu mình ngu dại chứ không biết đường đâu đối đáp.” Thật ra anh Hai con biết, mà vì không muốn mích lòng mấy đứa bạn Đan Sĩ ở Đan Viện Thủ Đức đang ngồi ở dưới.
nên anh chơi tình quờ luôn.
– Ừ.
Giáo lý và tư tưởng đôi bên khác nhau mà, nên mới tách ra…
– Cha ăn bánh snack không? Con hay ăn khoai tây chiên xắt lát đóng bịch lắm.
– Ăn nhiều không tốt nghen con.
Chín Tân phì cười, đoạn vỗ vai người Cha Dòng trộng tuổi:
– Con biết mà, Cha.
Vì là hàng ngoại nhập nên gói snack nào cũng đều mắc tiền hết; thành ra Matthias Hoàn không dám rớ vô món gì, dù trong lòng rất muốn ăn.
– Coi như đây là quà mừng thọ của con dành cho Cha đi.
Mua đại mười bịch đi Cha.
Matthias Hoàn vẫn ngại ngần không dám lựa.
– Con làm luật sư, không giỏi – chẳng tài ba – cũng không có mấy tiếng tăm, nhưng con có thể đọc vị được hành vi và ánh mắt của người khác; do đó con biết Cha rất thích ăn món này.
– Vậy Cha lấy nghen?
– Dạ, con mời Cha.
– Vừa nói, Chín Tân vừa làm cử chỉ mời Matthias Hoàn.
Như trở về thời trẻ dại, Matthias Hoàn hào hứng xách giỏ đi lựa snack.
Chẳng mấy chốc mà cái giỏ đã đầy nhóc những bịch bánh đủ màu, kích cỡ và hương vị.
Chín Tân đứng nhắn tin, lâu lâu đưa mắt ngó sang cụ già với cái mỉm cười dấu ái trên môi.
Độ khoảng mười lăm phút sau, hai người Cha xứ và cư sĩ Cao Đài mới trở ra.
Thấy vậy, Chín Tân đi trả tiền bánh cho vị Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế; tổng cộng ba mươi bịch, giá tiền gần hai trăm đồng.
– Trời đất ơi, định làm áo phao phòng chìm xe hay sao mà mua dữ vậy Cha?
Matthias Hoàn chỉ mím mím cười chứ không đáp lại câu nói đùa của chàng cư sĩ Cao Đài mập ú.
– Nhiều chuyện quá ông nội ơi.
– Chín Tân vừa khỏ đầu thằng bạn thiết vừa nói.
– Ông đó, lo cái thân “em bé xổ sữa” của mình đi.
Ignacio Cường nghiêm mặt nhắc nhở:
– Thầy ăn riết mốt hết máu mà còn dầu không đó.
Matthias Hoàn phẩy phẩy tay mà nói:
– Ôi, Thầy còn bao nhiêu năm tuổi đời đâu mà kiêng khem quá.
Trời đã vào trưa nên Chín Tân mời nhóm tu sĩ đi ăn trưa với mình và anh bạn thiết.
Hàng bún bò Huế ấy nằm trên đường Nguyễn Hữu Cảnh; khách ăn lai rai, nhưng vì bày bán ở trong hẻm nên số bàn còn trống chỉ có ba.
– Mần răng mà bảy rảy rứa hè? Té nơi mô mà dủ reng bắt nằm chộ.
Chừng tới bàn của nguyên nhóm, ông chủ quán nói lại giọng Nam Kỳ:
– Kêu chưa quý vị?
Không hẹn mà nguyên nhóm gật đầu cái rụp.
Tạ Khắc Xương thương tình mua ủng hộ hết thùng chè Huế.
Anh sợ mập thì để cho xấp nhỏ ở tu viện của các Sơ ăn.
Quý Tâm đang chăm chú quét sân, nghe tiếng xe hơi tắp vô lề đường ngay trước chùa Khánh Hỷ, nên ngừng chổi mà chầm chậm bước ra ngó.
– Pháp y Tâm.
– Luật sư Tân.
Mời vào, mời vào.
Vốn bản tính cẩn thận nên Chín Tân dòm trước ngó sau một đỗi rồi mới chịu theo chân cư sĩ họ Quý xuống nhà sau.
Ba người Linh mục cùng cư sĩ Cao Đài hấp tấp nối gót theo.
– Ai chiên xào món chi mà thơm quá vậy thầy? – Tạ Khắc Xương vừa phồng mũi hít hà vừa hỏi.
Quý Tâm bật cười mà trả lời rằng:
– Có một nhóm cư sĩ An Giang mượn gian bếp chùa tôi để nấu cơm chay từ thiện.
Matthias Hoàn hỏi:
– Họ đến từ Đạo nào?
– Phật Giáo Hòa Hảo của Đức Huỳnh Giáo Chủ.
Vì nhà sau khá chật mà lại để đồ đạc mê mê nên nguyên nhóm quyết định ngồi hết lên bộ ngựa.
Những người cư sĩ ấy vừa chia thức ăn vô từng hộp vừa cười giỡn với nhau om sòm; chiếc khẩu trang cũng không thể giấu đi được khuôn miệng đang cười tươi rói của họ.
Ignacio Cường thắc mắc:
– Sao anh lại nấu đồ chay giả mặn vậy?
– Nhiều bịnh nhân thèm ăn mặn mà không chịu nổi mùi tanh hay bị bắt phải kiêng khem thịt cá nên phải ăn đồ chay giả mặn.
Người nói câu trên có gương mặt trái xoan, mày tằm mắt phụng, nhìn không khác những bức tranh vẽ lãng tử kiếm khách là bao.
Dáng người cân đối, không cao cũng không thấp, tuổi đời chắc chừng ba mươi là cùng.
– Tôi là Trần Bảo Sơn, pháp danh Bửu Sơn.
– Tôi là Huỳnh Đức Cường, tên Thánh Ignacio de Loyola.
Bỗng ngoài sân vẳng tới tiếng đập cửa cái rầm.
Matthias Hoàn nhận thấy Chín Tân đút tay vào bên trong áo ngay tức khắc, hồ như đang tính lấy súng ra vậy, nhưng rồi dừng lại khi thấy người gây ra tiếng động là một cư sĩ Hòa Hảo thuộc nhóm của Trần Bảo Sơn.
– Phải công nhận tác người của hai anh giống nhau ghê, đều là “em bé xổ sữa”.
– Ignacio Cường bật cười với vẻ ngoài của người cư sĩ mới trở vô.
Tạ Khắc Xương tay bắt mặt mừng mà hỏi:
– Ấy nhiêu ký?
Đinh Mạnh Hùng cười cười đáp:
– Mình có trăm hai hà.
– Mình cũng trạc trạc ấy đó.
– Chúa ơi, hèn gì lần nào đi đông mà có mặt ông là cái xe đều xém bị bể bánh.
Tạ Khắc Xương ngỏ ý:
– Lát hai đứa mình thi coi ai ăn khỏe hơn nghen?
– Ờ, được đó, được đó.
Trần Bảo Sơn lắc đầu cười trừ, rồi ngó cái đồng hồ treo tường mà rằng:
– Tôi mới sắm thêm một chiếc xe mười sáu chỗ để anh em ngồi thoải mái hơn.
Lát nữa quý vị đi chung cho vui nhe?
Ignacio Cường bỡn:
– Cha này chắc chiếm nguyên băng.
– Còn phải nói.
Ổng chuyên môn ngồi hai ghế trên băng nhứt.
Chín Tân đưa mắt nhìn ra ngoài sân:
– Hiệu gì?
– Mercedes – Benz dòng “Sprinter”.
Trên xe có gắn Wi-Fi và dàn loa mới.
Bữa nay cư sĩ Hòa Hảo – Mạnh Hùng ngồi ở băng chót với cư sĩ Cao Đài – Khắc Xương.
Hai chàng mập đều ngồi theo kiểu “một ghế rưỡi”; tức là ngồi lấn ra cái ghế kế bên một khúc.
Nhân đây cũng xin nói thêm, hai chàng đều được mời lên trước do thân hình phì lũ của mình.
– Lát thấy cái xe nhỏng đầu là biết rồi đó.
Vì băng nhứt có hai ghế phụ nên Matthias Hoàn có thể ngồi chung băng với cậu Mục sư Tin Lành mà không sợ làm gián đoạn cuộc tán gẫu giữa chàng ta và người cư sĩ Hòa Hảo.
Cụ ngồi ở mé cửa sổ, còn chàng kia thì ngồi giữa hai người.
– Xe này chạy xăng hay chạy dầu?
– Xăng.
– Sao không chọn dầu?
– Ban đầu cũng tính chọn dầu cho đỡ ngán, nhưng sợ nhân viên ẩu tả chế xăng rồi hư xe, nên chọn xăng luôn cho chắc cú.
Điểm dừng chân đầu tiên là Quận Thủ Thiêm.
Đã được sự đồng ý của viện trưởng nên nhóm cư sĩ Hòa Hảo mới có thể vô phát cơm và tiền trong nhà thương trên địa bàn này được; mỗi bịnh nhân được lãnh ba trăm rưỡi và hai phần cao xoa bóp giúp giảm đau nhức xương cốt, tê buốt tay chân, hỗ trợ lưu thông máu và trị chứng trật cổ.
Matthias Hoàn thắc mắc:
– Sao mình không phát ở ngoài cho lẹ, với lại tránh tình trạng đồ ăn bị ỉu?
– Sợ mấy cha nhậu lấy nên tụi con phải vô tận phòng cho chắc ăn.
Lấy thì tụi con đâu có tiếc, biết đâu mấy ổng đem về cho gia đình thì sao; ngặt nỗi mấy ổng toàn lựa món nhắm, còn cơm – canh và nước uống thì vục bỏ từa lưa.
Riết tụi con không cho luôn.
Vô đây rồi mới hay số bịnh nhân cần tiền thế chân nhiều như thế nào.
Hỏi tới đâu cũng có người nài xin tiền đóng viện phí; không thì cũng xin tiền khác, mà nhiều nhứt là tiền học phí và tiền xài.
– Con lo không nổi đâu Cha.
Phát hết là tụi con dìa chớ không thể chi thêm được.
Mấy sở ruộng, chục mẫu đất, vụ mùa bội thu cỡ nào đi chăng nữa cũng không thể lo nổi con số một ngàn người.
Ba trăm là đứt dây đờn cái phựt rồi.
Lúc bấy giờ Chín Tân mới biết gia cảnh của cư sĩ Bửu Sơn không giàu bằng một góc bên nhà mình, nhưng những gì anh ta bỏ ra lại nhiều hơn gấp bội.
– Anh ở đâu?
– An Giang.
– Lúa ở đó cũng tốt như Sóc Trăng và Cần Thơ.
– Không bằng đâu anh.
Trước giờ Sóc Trăng và Cần Thơ nổi tiếng gạo ngon, còn An Giang thì trội hơn về mảng thốt nốt, trái trúc và trái keo.
Trở về chùa Khánh Hỷ vào lúc chín giờ tối, ai nấy thảy đều mỏi mệt và buồn ngủ vô cùng; nhất là Cha Hoàn, ông gục gà gục gặc trên xe suốt quãng ̣đường về.
Những tưởng sẽ được ăn tối, dè đâu họ phải hoãn lại vì sự xuất hiện của một người luật sư ngũ tuần.
Chín Tân rút khẩu súng lục ra khỏi túi áo trong, nhưng không chĩa về hướng người đàn ông lạ mặt mà cầm chắc với tư thế cánh tay buông lõng.
– Xin đừng bắn.
Tôi là đồng minh với các vị mà.
Chín Tân hất cằm hỏi:
– Làm sao mà tay trái bị bó bột?
Ignacio Cường gạt ngang:
– Vô nhà rồi nói.
Hai ông Hộ Pháp được lệnh ra ngoài sân ngồi cho rộng chỗ, sẵn tiện canh gác luôn.
Những cư sĩ Hòa Hảo khác thì lui về phòng thiền nghỉ ngơi; vả chăng, họ cũng chẳng muốn can dự vào chuyện riêng của huynh trưởng và cư sĩ Quý Tâm.
Người nào người nấy đều bưng theo hộp cơm và bịch nước giải khát có tẩy.
Cắt đặt xong xuôi, người đàn ông ấy mới tự giới thiệu mình là luật sư bào chữa cho chú Năm, tức phạm nhân Võ Sơn Trường, đã bị truy sát sau khi thân chủ vượt ngục.
Chín Tân nghiêng đầu mà nhíu mày hỏi ông ta:
– Cãi sao mà ông đó bị tử hình?
– Tôi nói thân chủ của tôi chỉ là do nóng giận nhất thời nên mới bộc phát “Cố sát”, chứ không phải lập kế từ trước mà gọi là “Mưu sát”, thành ra mức án mà thân chủ của tôi phải lãnh chỉ ở tội danh “Cố ý gây thương tích” mà thôi…!Ông tòa đã cố tình phớt lờ lời biện hộ của tôi, xuyên suốt phiên tòa ông ta toàn dựa trên lời khai của bị hại và luận điểm của luật sư bên ấy.
Ignacio Cường bặm môi rồi mới lên tiếng hỏi:
– Ăn hối lộ hả?
Phan Huy Tuấn lắc đầu:
– Sau này tôi mới hay thì ra cháu nội ông tòa mắc bệnh tim…
– Vậy ra ổng muốn cướp tim…
– Chiêu, sao con vào chùa được? Thầy khóa cổng rồi mà.
Pháp y Chiêu tươi cười giải thích rằng mình leo rào vô.
Vì có quen biết với nhóm cư sĩ Hòa Hảo nên Đinh Mạnh Hùng không cản lại.
Mới vừa từ nhà xác về nên Martin Cảnh vẫn còn khoác áo blouse và bận quần tây; đã vậy còn chưa tắm rửa gì nữa nên mùi cơ thể khá khó ngửi.
– Tắm rửa đi rồi lên ăn cơm, con.
– Thầy để con thông báo cái đã…
Nói đoạn, Martin Cảnh vừa đi thụt lùi xuống khu nhà tắm vừa nói:
– Hỷ Tín đang bị vu oan giá họa.
Có thể cũng phải chịu chung kết cục như ông Năm kia.
Quý Tâm hết hồn hết vía.
– Xin Thầy đừng lo.
Thạch Sang đã chuẩn bị sẵn hết hồ sơ cho cậu ấy rồi.
Chín Tân nhịp ngón trỏ lên mặt bàn lót kiếng:
– Một khi họ đã muốn khử cậu ấy để bịt đầu mối, trong tay họ đã thủ sẵn bằng chứng ngụy tạo rồi.
Martin Cảnh ngừng bước ở ngạch cửa nhà tắm mà nói vọng lên:
– Tôi sẽ giúp chứng minh ADN của Hỷ Tín không có dính líu gì với “nạn nhân” kia.
Quý Tâm khoát khoát tay:
– Khó lòng lắm.
Vì Hỷ Tín biết rõ bộ sậu trong đường dây cướp nội tạng nên kẻ cầm đầu đã thủ sẵn mọi chiêu thức để tiêu diệt.
– Thưa Thầy.
– Sao con?
– Thầy để cho con giám định thương tích của “nạn nhân” đó được không?
– Con không có phận sự làm việc với người sống.
– Con biết.
Chỗ của con là với người chết.
Trước lúc đi tắm, Martin Cảnh vung nắm đấm quả quyết:
– Nhưng hãy để con vô đó lấy tin tức…