Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt

Chương 182: 182: Hồi Ba Mươi Bảy Mùa Xuân Và Con Chim Én A



Tắm gội xong xuôi, Martin Cảnh lên bộ ngựa ăn cơm chay giả mặn và bàn chuyện cùng mọi người.

Đi vô mới hay ai nấy đều ăn uống xong rồi, trên vạt đã bày sẵn mâm cơm nóng hôi hổi và đầy vun cùng một ca nước dừa xiêm Bến Tre.
Martin Cảnh vừa vò đầu cho khô tóc vừa nhìn Stephen Đoàn mà hỏi:
– Cha có biết người trong hình là ai không?
– Hình nào?
Martin Cảnh mở bóp để lấy ra một bức ảnh.
Stephen Đoàn trả lời rất nhỏ:
– Kiều Xuân.
Martin Cảnh cho chàng tu sĩ xấu trai xem bức ảnh thứ hai:
– Đây là người yêu cũ của Kiều Xuân.

Matthias Hoàn đưa mắt ngó rồi buột miệng bình phẩm:
– Đẹp trai quá chừng.

Công nhận tương phản với con thiệt đó Mỹ.
Martin Cảnh gật gù:
– Anh ta là cảnh sát chìm, đã mất liên lạc sau khi đột nhập vào hang ổ của một đường dây buôn lậu nội tạng.
– Con nghĩ sao về cô B hả Cảnh?
– Có một số trường hợp người nữ bị hư thai ở giai đoạn đầu, đứa bé đó bị chuyển thành hóa thạch và có hình dạng gần giống khối u, thành thử ra người nữ vẫn có kinh nguyệt và không hề hay biết rằng mình đã mang thai.

Triệu chứng mà người nữ đó sẽ gặp nếu như không mổ bắt cái xác ra là bị chướng bụng, đau bụng dưới râm râm – cũng có lúc đau như chết đi sống lại, thường dễ bị lầm lẫn là đau ruột thừa, lúc nào cũng cảm thấy bụng bị trì xuống, ngoài ra còn dễ bị sanh chứng rối loạn ăn uống và hành nóng – lạnh tối ngày; những triệu chứng trên rất tương đồng với các căn bịnh tâm lý như rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn tâm lý, rối loạn lưỡng cực, rối loạn cảm xúc, rối loạn thần kinh – tim,…!do đó nên đi chụp hình tổng quát để có kết quả chẩn đoán chính xác nhứt.
Có người sẽ bị vô sinh, cũng có người vẫn có thai như bình thường.

Đây cũng không phải là trường hợp hiếm gặp gì trong khoa Thai – Sản.
Sau bữa cơm chay thanh đạm, Martin Cảnh nói lời cáo từ.

Anh không quên cảm ơn ông Thầy vì đã cho mình tắm nhờ và nhóm cư sĩ Hòa Hảo vì đã thết đãi mình một bữa ăn vừa ngon vừa no bụng.
Chiếc xe “Nouvo” màu xanh dương của Martin Cảnh đưa anh qua sân quần vợt bên Quận Chín.

Anh tính làm vài ván đánh đôi với nhóm bạn để thư giãn gân cốt, nhân tiện dò la tin tức của đại gia đình Lê Hoài Sang.

Ignacio Cường đang móc đất đắp mương dẫn thủy với vài thanh niên trong xứ.

Mới làm Cha có mấy năm mà anh ta đã chóng đen như cột nhà cháy, còn cơ bắp thì nảy nở như người tập thể hình chuyên nghiệp.

Xong việc, Ignacio Cường xách xe chạy tới ký nhi viện để trao quà Giáng Sinh cho các em đang nương thân ở đó; anh cũng có chút quà mọn dành tặng các Sơ, phần này do một Giáo dân là chủ tiệm vàng đài thọ, mỗi phần là một chai dầu thơm hiệu “Versace” mùi nhẹ.
Chia tay với đại gia đình ký nhi viện, Ignacio Cường ghé quán cơm gần đó để ăn trưa.

Tiệm này do anh tình cờ phát hiện, trong một lần bị bể bánh xe mà tìm thấy.

Anh thích nhất là món cơm tép rang và canh chua, ngoài ra anh cũng ưng món chả cá chiên và sườn heo xào chua cay của tiệm này; song với đồng lương eo hẹp của một người Mục tử, anh chỉ có thể gọi một phần cơm kèm đồ mặn và một chén canh mà thôi.
Bữa nay Ignacio Cường chọn sườn heo xào chua cay và một chén canh bầu; về đồ uống, anh gọi trà đá cho đỡ tốn tiền.

Đang ăn dang dở dĩa cơm, Ignacio Cường thấy hai ông – cháu chạy xe ba-gác đứng dưới gốc cây xoan mà ngó vô tủ kiếng trưng bày đủ món hoài.

Động lòng thương, anh ngoắc hai ông – cháu lại, rồi mới cất giọng mời họ ăn cơm.
Hai ông – cháu cũng không khách sáo, bèn gọi hai phần cơm tấm thập cẩm và hai ly nước mía.
Vừa mở bóp lấy tiền trả cho chủ quán, Ignacio Cường vừa nói:
– Ăn cơm xong, theo tôi tới Giáo xứ St.

Pio để xin việc.

– Được hả? – Người cháu trai hỏi.
– Được.

Sẵn đang cần người làm nên vô là có việc liền.
Trở về Giáo xứ vào lúc hai giờ chiều mình ên, vì hai ông – cháu kia hẹn sáng mốt mới tới được, chàng tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế vội đi coi hang đá.

Nghe nói thợ làm là một tu sĩ cùng Dòng, đâm ra anh mới mua trà sữa về đãi họ làm quà.
Antonio Vũ đang ngồi nặn đất sét để tạo tượng cho hang đá trưng bày trong nhà thờ.

Anh đã nặn xong bức tượng Chúa Hài Đồng nằm trong máng cỏ và Đức Mẹ Maria ngắm hài nhi của Bà trong tư thế quỳ gối bên máng cỏ, bây giờ đang nặn tiếp bức tượng Thánh Joseph theo tư thế chắp tay và hơi khom xuống mà nhìn Mẹ Maria và Chúa Jesus, có lẽ ngày mai anh mới làm xong bức tượng ba nhà tiên tri, Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel và các Thiên Thần khác.

– Ăn gì chưa Vũ?
– Dạ rồi, anh Cường.

– Vậy uống trà sữa cho tỉnh nghen?
Đôi má của Antonio Vũ đỏ bừng.
Ignacio Cường bật cười biểu:
– Có chi đâu mà mắc cỡ hả Vũ?
– Thì…!Đàn ông, đàn ang mà thích đồ ngọt, coi nó ngộ lắm.
Bỗng Ignacio Cường thay đổi chủ đề:
– Ngôi sao Bethlehem này anh mua hay tự làm vậy?
– À, là của thằng Anh, sẵn trang trí Hội Thánh nên nó làm cho mình luôn một cái.
– Anh? Mục sư Ngô Kỳ Anh phải không?
– Dạ phải.
– Cậu này cũng khéo tay quá đi chứ.

Chỉ cần một miếng giấy nhũ vàng mà cũng có thể cắt thành một ngôi sao đẹp.

Trước lúc từ giã Antonio Vũ, Ignacio Cường gởi lại vài lời phước lành.

Sáng mai anh sẽ lên Phụng Hoàng Sơn với Stephen Đoàn.

Biết Trì Thương không muốn thấy mặt Hoàng Lan lẫn anh ruột, nên hai người sẽ âm thầm ra đi mà không nói với ai một tiếng.

oOo
– Lại nữa rồi…
Trì Thương thôi che mắt trái.

Anh buông xuống một tiếng thở dài thườn thượt rồi bỏ đi một hơi vô hẻm núi.

Mối hận của Thiện Sanh với Hỷ Tín còn chưa xong, nay lại tiếp diễn mấy cuộc tranh luận ầm ĩ, ý là đã lập thất tuốt ở trên đỉnh mà vẫn không được yên.
Con đường nơi hẻm núi chỉ rộng độ hai thước.

Người yếu tim khó lòng mà dám đi vì cứ sợ núi lở – đá rớt trúng đầu; mà đa số khách thập phương đều quý sinh mạng của bản thân nên chẳng dám lai vãng đến đây, nhờ vậy mà các loại thú không bị biến thành cao ngâm rượu.
Chỉ còn cách mấy bước chân mà Trì Thương đã nghe thấy chim kêu – vượn hú trong đó.

Nơi đây có cây trái, có nước ngầm, có cỏ xanh và thảo dược nên các loài thú mặc sức sanh sôi và sống tốt.

Những thầy thuốc Đông Y đều đồng thuận giữ bí mật về chốn Bồng Lai Tiên Cảnh này để bảo vệ chúng.
Một con vượn lông trắng chọi trái xoài về phía Trì Thương.

Biết nó có thành ý tặng mình nên anh chắp tay và nói lời cảm ơn nó.

Con vượn này già nhứt trong đàn, hiện đã bị con trẻ hơn soán ngôi vương, nhưng vì nó tinh khôn và biết thân biết phận nên không bị con cướp chức tiêu diệt.

Nhìn tụi nó, anh lại nhớ đến “Thủy Liêm động” của Tề Thiên Đại Thánh.

Con vượn trắng đã chuyền sang một cành xoài khác, nó đưa tay lựa trái chín muồi mà tìm trái ưng ý, sau đó ngồi cạp xoài ăn; anh nghĩ nếu là con người bị nước xoài nhễu vào thân thể ắt sẽ rít không chịu nổi, ấy vậy mà chúng là loài lắm lông lại chẳng bị khó chịu như con người, công nhận Tạo Hóa thật là ngộ.
– Đại Trưởng lão.
Thanh Liên đang ngồi thiền dưới tán cây tùng đại thụ, nghe vậy liền mở mắt ra nhìn sư đồ mà cười thật hiền và hỏi:
– Hai người Công Giáo đó lại tới nữa hả?
– Ừm.
– Họ sẽ không khuấy nhiễu giờ Thọ Thực của tụi mình đâu.

Ước độ hai giờ chiều họ sẽ lên tới đây.
– Đành là vậy…
– Sợ tôi sẽ gây sự với họ sao? Chẳng lẽ Thảo đã quên năm xưa Đấng Thế Tôn tranh biện với Bà-La-Môn ra sao hả? Họ hỏi quan điểm của mình thì mình nêu lên cho họ nghe.

Chừng nào mình câu mâu – cóc móc hay xuyên tạc Sự Thật để giành phần lợi bên Đạo mình, khi ấy mình mới là người sai và quấy.
– Tánh nết của Thầy hoàn toàn trái ngược với vẻ bề ngoài của Thầy.
– Phải.
Vì đã đến giờ Thọ Thực nên hai thầy trò cùng nhau ăn trái cây lót lòng.

Sau giờ ăn, họ hẹn nhau đi vệ sinh rồi hẵng cùng nhau hành thiền.

Nhà vệ sinh ấy là chỗ mà họ tự bỏ tiền ra mướn người xây, cách đây khá xa, bận đi – bận về mất gần tiếng rưỡi – không chỉ vì đường xa mà còn bởi hiểm nguy trùng trùng.
Chừng xong việc, hai người đã thấy hai chàng Linh mục Công Giáo đang xấn sổ bước tới.

Trên lưng người nào người nấy gùi cái ba-lô bự chảng.

– Alleluia.

– Ignacio Cường lên tiếng trước.
– Sadhu.

– Thanh Liên đáp.

Rồi anh biểu.

– Đi vệ sinh đi, rồi rửa mặt và tay, sau đó theo tụi tôi tới hẻm núi ngoạn cảnh.
Do không quen đi đường núi nên hai người khách thành đô đã khiến thời gian dôi thêm một tiếng.

Thay vì đi thẳng một mạch, cứ hễ tới một khóm cây sum sê là nguyên đoàn sẽ nán lại mươi – mười lăm phút để cho hai chàng Linh mục nghỉ lấy hơi và uống miếng nước.
– Nãy giờ chụp được bao nhiêu pose hình rồi? – Thanh Liên cười hỏi.
Ignacio Cường bật cười mà đáp:
– Cũng kha khá.
– Ráng ̣đợi tới đó rồi hãy ăn trưa.

Cảnh đẹp mà lại mát, ngồi ăn đã lắm.
– Ừ.
Trì Thương nói thêm:
– Mấy con vượn ở đó cũng hiền.

Miễn đừng chọc ghẹo chúng, chúng sẽ không phá mình.
Stephen Đoàn ngạc nhiên ra mặt:
– Giờ mà ở đây còn con vượn hả?
– Ừ, một bầy luôn, khoảng đâu trăm con.

– Trì Thương trả lời.
Còn cách hẻm núi chừng mấy mươi mét, điện thoại của Ignacio Cường bỗng phát nhạc chuông.

Không nằm ngoài dự đoán của anh, đầu dây bên kia là ông Thầy Sáu ngũ tuần.

Anh trả lời đại khái những câu hỏi của ổng, rồi bỏ lại câu chốt, “Sáng mai tụi tôi về” trước khi kết thúc cuộc gọi.
Thanh Liên chợt hỏi:
– Chắc phải lâu lắm hai anh mới trở lên đây phải không?
Hai chàng tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế thảy đều gật đầu.
Rồi thôi, Thanh Liên không hỏi nữa.

Cả đoàn nhanh chóng tiến vào hẻm núi mù sương.
– Ủa, Phá Vân?
Phá Vân đang ngồi tọa thiền trên một tảng đã được mài nhẵn nằm dưới cội cây tùng bùm xùm.

Chưa được nửa tiếng thì đã bị Ignacio Cường gọi tỉnh.

Anh từ tốn đứng dậy rồi chắp tay chào Thầy, nhị sư huynh và hai tu sĩ Công Giáo.
Biết rằng hai người khách thành đô đã đói meo nên Trì Thương kêu họ mau ngồi xuống ăn trưa.
Ngửi thấy mùi thơm, bầy vượn đứng trên các cây xoài mà đưa mắt dòm xuống kêu lên mấy tiếng chí chóe.

Bữa trưa hôm nay của mỗi chàng tu sĩ là một hộp xôi thập cẩm, có mua thêm đùi gà rô-ti và phá-lấu.

Họ chỉ đem theo đủ cà-phê cho mình uống, vì đã được nghe Thanh Liên nói rằng Đức Phật khuyến khích Tăng – Ni nên uống nước lọc và không có nhiều hương liệu hay màu sắc; thành ra họ mua nước suối để đem theo hờ, phòng khi có người nào bên nhóm Tăng sĩ Theravada khát thì có cái uống liền.

Hai chàng Linh mục đang ăn được non phân nửa, con vượn đầu bạc bỗng chọi hai trái xoài thơm phức xuống tấm bạt.
Trì Thương phì cười:
– Nó xin chai nước ấy mà.

Nó già rồi.

Đi đứng lụm cụm.

Nên kiếm nguồn nước khó lắm.

Sơ sẩy là té xuống chết như chơi.
Stephen Đoàn liền trao chai nước đã mở sẵn nắp cho con vượn già.

Đoạn quay về chỗ ngồi của mình, sẵn tay lượm hai trái xoài mà bỏ một trái vào giữa phần đùi của Ignacio Cường.
Con vượn già mừng rơn, liền ngửa cổ uống một hơi ừng ực, dáng chừng thỏa mãn lắm.
Ignacio Cường không dám ăn xoài mà con vượn già tặng, đành giả vờ bỏ vô ba-lô cho nó vui lòng.

Ngó sang Stephen Đoàn, chàng ta cũng làm y hệt anh.

Lát về tịnh thất, hai đứa sẽ “thủ tiêu”.
Xong bữa trưa, Ignacio Cường hỏi:
– Tôi muốn biết nghi thức thờ cúng các vị Thần của Ấn Độ Giáo.
Thanh Liên đáp:
– “Best Telugu Devotional video songs of 2017” do song ca Nagajura – Anushka Shetty.
– Anh gõ giùm tôi được không? Tôi không biết viết tên của hai ca sĩ đó như thế nào.
– Được thôi.
Coi đâu được một đoạn, Stephen Đoàn ồ lên:
– Thì ra tục múa bóng trong đám ma của mình là bắt nguồn từ Ấn Độ Giáo.
– Dạ phải, chịu khó coi hết sẽ thấy rõ những điệu múa bóng trong đám ma bên mình rất giống với cách múa lửa tế Thần của Ấn Độ Giáo.

Vậy suy ra rất có thể bên mình đã học theo xứ Ấn.

Ignacio Cường hỏi:
– Là nam diễn viên mà hồi trước anh nói đóng vai Chúa Vishnu rất đạt đó hả?
– Phải, là Saurabh Raj Jain.
Stephen Đoàn cười hỏi:
– Nhưng sao Chúa Shiva lại vừa già vừa mập vậy?
– Vì đạo diễn muốn tôn lên sắc vóc của Chúa Shiva, cũng như bớt tiền mướn diễn viên, nên mới đưa một người không hạp vai vô đóng Chúa Shiva.

Hồi Saurabh còn trẻ, bạn diễn Shiva của anh ta hết sức đẹp trai và không hề kém cạnh anh ta một phân nào; bộ phim mà hai người đóng thuộc thể loại phim truyền hình, có số tập lên tới cả ngàn.

Nhưng cũng bởi còn trẻ nên gương mặt của Saurabh búng ra sữa, trông không đạt bằng lúc anh ta đóng tập phim lẻ này.
Ignacio Cường gật gù:
– Phải, giờ đây mặt anh ta thoảng ra, coi có nét chững chạc và nghiêm nghị hơn.

Còn hồi xưa khuôn mặt bầu bĩnh và giống “baby cute” quá.

Stephen Đoàn bình phẩm:
– Nhưng dẫu ở thời điểm nào anh ta cũng đều hết sức đẹp trai.

Thanh Liên bổ sung:
– Vợ của Saurabh là con gái của một triệu phú Ấn Độ, còn bản thân anh ta là người mẫu kiêm diễn viên trứ danh bên bển.
Phá Vân xen vào:
– Có một điều lạ là phim ảnh xứ Ấn thường được gắn tới ba thứ tiếng: Hindi – Tamil – Tegulu.
Thanh Liên tiếp:
– Bên bển khuyến khích người dân học nhiều thứ tiếng, chứ không có ép buộc phải “học chết” một ngôn ngữ nào.

Nhứt là không ai bị bắt phải nói tiếng địa phương theo khẩu âm của vùng nào.
Ignacio Cường ngỏ ý coi thêm một ca khúc nữa.
Vậy là Thanh Liên bèn giới thiệu ca khúc “Om Namo Venkatesaya video songs – Pareeksha full song” cũng của do đôi song-ca kia trình bày.
Xem hết đoạn phim, Ignacio Cường trầm trồ:
– Công nhận nam ca sĩ này tận tụy vì nghiệp diễn thật.
Stephen Đoàn thắc mắc:
– Tại sao người này lại phải hành xác mình như vậy?
Thanh Liên trả lời:
– Theo thiển ý của tôi, chắc có lẽ người này muốn nhìn thấy chân thân của Chúa Vishnu nên đã đánh cược mạng sống của mình.
Ignacio Cường hỏi:
– “Om Namo…” gì đó có ý nghĩa gì vậy?
– Là một câu chú thanh tẩy tội lỗi và nguyện được ban phước lành.

– Thanh Liên trả lời.
Phá Vân cười biểu:
– Họ đã bỏ chi tiết Đức Phật là một trong những biến thân của Chúa Vishnu, ắt là để tránh gây ra tranh cãi không đáng có.
Stephen Đoàn đột nhiên cười ngất ngơ ngất ngưỡng, rồi run giọng mà nói:
– Công nhận cái người có đầu sư tử này giống anh hệt khuôn lúc giận đó Cường?
– Đó là ai vậy Liên?
– Biến thân Narasimha của Chúa Vishnu.

Những biến thân xuất hiện trên đoạn phim là nói về những lần giáng thế cứu độ chúng sanh của Ngài Narayan.

Ignacio Cường hỏi:
– Nãy giờ tôi nghe lặp đi lặp lại cái chữ “Go…”, “Go…” gì đó.
– À, “Govinda”, nghĩa là “Đấng bảo hộ” hay nói dông dài hơn là “Đấng giữ gìn và cứu thế”.
Ignacio Cường hỏi:
– Người phụ nữ ban nãy và Chúa Vishnu có liên hệ gì vậy?
– Bà lão đã cầu xin Chúa Vishnu cho mình một đứa con, và cảm động trước lòng thuần thành thờ phượng mình, Ngài Narayan đã trở thành con của bà ấy luôn.

Và từ đó, Chiến thần Krishna đã tung hoành bốn cõi và trừ bạo cho thế gian.

Nhưng vì một lời nguyền mà Chiến thần Krishna đã bị mũi tên độc giết chết, theo như một vài truyện cổ Ấn Giáo thì Ngài đã về Trời cùng với người vợ đầu và người vợ trần thế.
Stephen Đoàn đặt câu hỏi:
– Đây là cây gì vậy anh? Tôi thấy ở đoạn nào cũng có đặt một nhúm cây này.
– Tương truyền rằng có một cô gái yêu Chúa Vishnu đến nỗi nguyện ở cùng Ngài muôn đời muôn kiếp, vậy là Ngài đã biến cổ thành cỏ Tulsi mà mọc quanh đền đài và những nơi có dấu ấn của Ngài; có dị bản lại nói vì ghen tuông với cô này mà Nữ Thần Lakshmi đã biến cổ thành cỏ, và Ngài đã động lòng thương nên đã gởi biến thân hòn đá Salagrama ở lại bầu bạn với người tình.

Nếu như hai anh có dịp sang Đất Thánh của Ngài Narayan, sẽ thấy đền thờ Ngài tới đâu là loài cỏ này sanh trưởng tới đó.
Ignacio Cường nhíu mày nói:
– Vậy rốt cuộc đó là cây gì?
– Kinh giới.
Stephen Đoàn vừa hỏi vừa dọn rác:
– Có cách nào để phân biệt tu sĩ Shiva và Vishnu không anh?
– Tu sĩ của Ngài Mahadev thường có ba sọc ngang màu trắng trên trán, còn tu sĩ của Ngài Narayan thường có một sọc đứng màu đỏ trên trán.
Trì Thương nói thêm:
– Kể từ ngày Phật Giáo xuất hiện, chữ “Sa-môn (Samana)” đã trở thành chữ riêng của tụi tôi; cái này không phải là tụi tôi giành mà do phía Ấn Độ Giáo đặt ra.

Những tu sĩ thông tuệ và tài cao đức dày bên Ấn Giáo được gọi là “Hiền giả”; sau này bên tụi tôi có chữ “Cao tăng” bắt nguồn từ Đại Thừa Trung Hoa.

Hiền giả Narada Muni là một người truyền tin giữa các Cõi và là một người tôn thờ Chúa Visnhu thuần thành, mỗi bận xuất hiện sẽ nói “Narayana, Narayana…” trước tiên với nhịp phách trên tay mình, mở đầu của băng nhạc có cảnh các cô vũ nữ gõ nhịp phách và nói như vậy đó; má tôi nói chưa có ai đóng vai vị này mà hạp nhãn của bà.
Ignacio Cường hỏi:
– Hiền giả này là ai?
– Là con trai của Chúa Brahma.

Cũng giống như bao nhân vật Thần Thánh Ấn Giáo khác, Hiền giả này có thể biến thành nữ khi cần.
Nhân đó, Ignacio Cường hỏi:
– Anh nghĩ sao về việc một số vị Thần Ấn Giáo có khuôn mặt giống nữ hả Liên?
– Với những ai đã sẵn thành kiến với giới LBGT thì chuyện một số nhân vật trong Ấn Độ Giáo có diện mạo phi phái tánh là không thể chấp nhận được, có người còn bình phẩm, “Thần gì mà mặt mày giống bê-đê.”
Vì Chúa Vishnu tượng trưng cho hình tượng của cả Cha lẫn Mẹ nên dung mạo của Ngài Narayan mới được mường tượng theo kiểu phi phái tánh.

Tức là Che chở và Ban phước như Mẹ và Cứu giúp và Phù hộ như Cha.
Và vì người ta thấy ánh sáng của Mặt Trăng yếu ớt hơn Mặt Trời rất nhiều nên suy tưởng ra rằng dung mạo và điệu bộ của Thần Chandra có nhiều nét thiên về phái nữ, tượng trưng cho Âm Nhu; còn Thần Surya là tượng trưng cho Cương Dương.

Ignacio Cường lại hỏi về các hình tượng của ba vị Chúa trong Ấn Độ Giáo.

Và người trả lời vẫn là Thanh Liên:
– Chúa Shiva có hình tượng “nguyên bản”.

Nguyên bản tức là sao? Nguyên bản tức là vầy: Vui thì cười, buồn thì khóc, muốn thì làm,…!sống đúng với con người thật của mình chứ không phải ráng giả tạo để lấy lòng thiên hạ.

Thành ra hình tượng của Ngài Mahadev có phần cuồng dã và không bị gò bó vào một cái khuôn khổ chuẩn mực hay nền nếp nào; từ đó mà phát sanh ra những biến thân Thiện – Ác khác nhau, cứu độ chúng sanh có, mà hủy diệt thế giới cũng có.
Chúa Vishnu lại có hình tượng từ bi.

Dù đối phương có hãm hại hay thù ghét Ngài Narayan cỡ nào đi chăng nữa, Ngài vẫn nhìn họ bằng ánh mắt bao dung và không chứa chấp ác ý.

Theo một số tài liệu nghiên cứu Ấn Độ Giáo, thì Ngài coi chúng sanh như sau: “Ta không thương ai, cũng chẳng ghét ai.

Ai theo Ta thì Ta phù hộ và ban phước, còn không thì thôi.” Do đó, rất là khiên cưỡng khi suy luận rằng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một trong những biến thân của Ngài Narayan; bởi lẽ Đức Phật không có phù hộ, cũng chẳng ban phước cho ai, anh trồng cây gì ở thời điểm quá khứ vị lai hay hiện tiền thì tương lai trong đời này và kiếp sau của anh sẽ hưởng lấy trái đó, không ai có thể giúp anh nghịch Thiên chuyển Mệnh được.

Chúa Brahma thì có hình tượng trầm tư và điềm tĩnh.

Dù là một vị Chúa trong Tam Hộ Thần nhưng lại không có nhiều dữ kiện hay truyện cổ về Ngài như hai người bạn; do đó khó lòng mà tôi hiểu được hình tượng này mang ý nghĩa gì…
– Theo tôi thấy, hình tượng này mang ý nghĩa chỉ có sự tĩnh lặng mới đem lại Trí Huệ và Sự Thật.

Vì khi lòng lắng xuống, không còn bị âm thanh thế gian quấy nhiễu, ấy là lúc chúng ta tìm thấy đường về.

– Trì Thương trả lời thay Thanh Liên.
Thanh Liên đang uống nước mà Stephen Đoàn đưa cho anh, nghe sư đồ nói vậy thì ngừng lại và nhoẻn miệng cười.

Ignacio Cường muốn Thanh Liên trình bày một vấn đề khó nói và phức tạp hơn.
– Có lần tôi đọc một bài viết của một người Giáo dân, thí chủ ấy viết rằng, “Tại sao bên Phật lại bảo Tăng sĩ đóng cửa tu tập mới đúng? Theo thiển ý của tôi, và dựa trên Giáo lý đức tin của mình, thì như vậy chẳng khác nào tự giam hãm mình vào một góc và bỏ phế mọi thứ trên đời.”
Tôi xin được trả lời rằng, “Chúng tôi coi cõi đời này là cõi tạm.

Một lần luân hồi là một lần rơi vào bể khổ miên miên.

Thành ra chúng tôi dốc lòng tu tập để thoát khỏi vòng Mạn-Đồ-La này.

Vì Giáo lý đức tin hai bên quá khác nhau, nên cách diễn giải về kiếp người của hai bên cũng có nhiều sai biệt và đối lập…”
– Nhưng chuyện của xã hội các anh sẽ không nhúng tay vào sao?
Thanh Liên lắc đầu.
– Tại sao?
– Thời Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, Tăng sĩ được coi là hàng xuất gia và xuất thế, không còn muốn hay bị dính líu và vướng mắc vào bất cứ cái gì nữa.

Trải qua gần hai ngàn sáu trăm năm, các nhà chánh trị gia và triết học là người góp phần xô Tăng sĩ vô chuyện Đời, với lý lẽ đã là công dân của một quốc gia thì phải có nghĩa vụ kiến thiết và bảo vệ quốc gia ấy; trong khi tri thức của một Tăng sĩ chỉ đủ cho người đó tu tập giải thoát và rèn giũa bản thân – cũng như chỉ đường dẫn lối cho chúng sanh về nẻo Thiện, rồi tới chừng Tăng sĩ nào đó ủng hộ sai người thì họ lại trở mặt mà lên tiếng chỉ trích người ta tu không lo tu mà suốt ngày lo chuyện Đời.

Chính bản thân những người bắt Tăng sĩ phải lên tiếng trước những bất công của xã hội phải tự vấn lại bản thân rằng liệu sau này mình có trở mặt mà lên tiếng chỉ trích người ta như vậy không.

Cho nên, ai nói tụi tôi vô tâm cũng được, không làm tròn trách nhiệm của một công dân cũng được, hay bất cứ lời nào cũng được, chúng tôi vẫn sẽ nhiếp tâm theo con đường tu tập giải thoát và không muốn liên quan tới cái xã hội này.
– Anh có bằng chứng điều ấy là do Đức Phật dặn không?
– “Kinh Đại-Bát Niết-Bàn – Mahaparinibbana Sutta “, Đấng Thế Tôn đã nói rất rõ lý do nào mà Tăng – Ni không được can dự vào chuyện thế tục.
Rồi Thanh Liên bổ sung:
– Cái nào mà tôi không chắc chắn, tôi sẽ gọi đó là “Truyện cổ Phật Giáo”, chớ không dám lậm ngôn mà nhận đại là kinh điển.

Như những dị bản về cách Niết Bàn của các Tôn giả chẳng hạn.
Ignacio Cường hỏi:
– Anh nghĩ sao về quan điểm theo Đạo này mới giàu – theo Đạo kia mới nghèo?
– Yếu tố trở thành người giàu có không có một xíu nào liên quan đến tôn giáo mà họ theo.

Phần đông người giàu có hoặc tạo ra phát minh xuất thân từ phương Tây vì ở đó thể chế chánh trị, khoa giáo và an sinh xã hội tốt đẹp và khai phóng hơn mà thôi.

Nếu như đổi lại Bill Gates và Elon Musk là người Á Đông sống ở Nước này thì anh nghĩ họ được bao nhiêu phần trăm cơ hội để trở thành tỷ phú nổi tiếng trên thế giới?
Đó cũng là một trong những biểu hiện của sự cuồng tín.

– Anh nghĩ sao về chuyện thần thông?
– Đức Phật không muốn tín đồ bị cuồng tín nên rất hiếm khi thị hiện thần thông.

Theo Ngài, hãy cảm hóa chúng sanh bằng tâm đức, đừng nên cảm hóa họ bằng việc ban phước.

Một trận gió lớn thổi qua làm lá xoài rơi lả tả.

Những trái xoài chín ruỗng rớt xuống lộp độp như pháo kích, khiến cho đoàn người và bầy vượn phải tìm chỗ lánh thân.
Theo gót chân của ba Tăng sĩ, hai Linh mục đã đến một rẻo đất ngăn cách với rìa núi bằng một gành nước chảy khá xiết; hèn chi mà con vượn già không dám men ra đây uống nước.
Trải bạt xong xuôi, Thanh Liên mới cười biểu:
– Nãy giờ hai anh hỏi tụi tôi nhiều rồi, bây giờ tới lượt tôi nghe.
Hai ông Cha đồng quản xứ gật đầu.
– Anh bị đứt tay, không sâu lắm, vậy anh sẽ đọc Kinh cầu nguyện hay đi sát trùng rồi băng bó vết thương?
Ignacio Cường trả lời:
– Tôi sẽ làm cả hai.
– Tôi biết anh sẽ trả lời như vậy, vì anh là người Công Giáo, anh tin vào sức mạnh của kinh kệ bổn Đạo và sự nhiệm mầu của chuỗi Mân Côi.

Còn tôi, tôi chỉ đi rửa, lau khô, sát trùng và băng bó vết thương.
– Anh không tin Đức Phật sao?
– Chỉ khi nào lâm vào cảnh ngàn cân treo sợi tóc hay thập tử nhất sinh, chúng tôi mới nghĩ đến việc niệm danh hiệu của Thầy mình và đọc kinh kệ.

Cốt yếu là để tâm ma không phát triển mà thôi.

Vì theo quan niệm nhà Phật, trước lúc mất nên tránh để cho tâm thức bị vấy bẩn bởi lòng thù hận và ác ý thế gian, có như vậy kiếp sau sẽ nhẹ nhàng hơn.

Đương nhiên, chẳng mấy ai khởi lên lòng Từ – Bi – Hỷ – Xả trước lúc mất đâu, phần đông không tiếc của – tiếc công thì cũng hết sức lo sợ máu mủ tương tàn vì khối tài sản mà mình để lại, một số lại căm phẫn vì bị chết oan chết uất, số nữa lại ra đi quá bất ngờ nên thần hồn không nhiếp tâm kịp, chưa kể đến là còn bị giết, bị hành hạ dã man rồi mới tắt thở hay ẩn ức quá mà tự kết liễu cuộc đời mình.
– Anh có thấy ai “lạc Giáo” trong Đạo anh không?
– Có một Ni Cô có bằng tiến sĩ Phật Giáo mà lại luận rằng, “Tôn giả Đại Ca-Diếp tham quyền cố vị nên mới vội vàng quay trở về Tăng ̣đoàn sau khi Đấng Thế Tôn nhập diệt.

Đã vậy còn sợ Tôn giả Ananda cướp mất chức sắc của mình nên đã đuổi Ông ra khỏi Tăng đoàn.”
Thứ nhứt: Việc Tôn giả Đại Ca-Diếp quay trở về tịnh xá sau khi Đấng Thế Tôn nhập diệt là làm theo di nguyện của Đức Như Lai.

Chuyện là như thế này: Sau cái chết của Tôn giả Mục Kiền Liên, rồi lại đến sự ra đi của Tôn giả Xá-Lợi-Phất, Ngài bắt đầu nghĩ tới chuyện tìm người quán xuyến Tăng đoàn sau khi mình Niết Bàn.

Tính tới tính lui, những Đại Trưởng lão đều đã già nua và không còn đủ hơi sức để hao tâm tổn trí hay đi đường xa, đại đệ tử Ananda thì hãy còn quá non trẻ để cáng đáng Tăng đoàn, đại đệ tử A-Nậu-Lâu-Đà lại bị mù lòa nên không thể coi sóc Tăng đoàn, những Tăng sĩ khác túc mạn chưa thông – ngộ căn chưa thấu nên cũng không đủ khả năng gánh vác Tăng đoàn; suy đi nghĩ lại thì chỉ có đại đệ tử Ma-Ha Ca-Diếp là xứng đáng lãnh đạo Tăng đoàn.

Nghĩ là làm, Ngài bèn sai người đi tìm Tôn giả Đại Ca-Diếp; có sách lại nói Ngài tự thân đi tìm.

Ban đầu Tôn giả Đại Ca-Diếp thẳng thừng khước từ vì Ông chỉ muốn ẩn tu một mình, nhưng sau một hồi nghe Ngài khuyên giải, Ông gật đầu chấp thuận lời ngỏ của Thầy Ông.
Thứ nhì: Vì được Đấng Thế Tôn gởi gắm Tôn giả Ananda nên Tôn giả Đại Ca-Diếp mới đuổi sư đệ ra khỏi Tăng ̣đoàn, với lý do đệ chưa thành A-La-Hán thì không có tư cách được vô Tăng đoàn; đây là kế sách mà Ông lập ra nhằm mục đích khích tướng Tôn giả Ananda để cho sư đệ mau tinh tấn tu hành.

Và quả nhiên, mọi sự giống như Ông dự liệu, vì quá mong muốn được quay lại Tăng đoàn mà Tôn giả Ananda đã “gột rửa” thân – tâm và mau chóng đắc thành chánh quả A-La-Hán chỉ trong vòng chưa đầy một tuần.

Một lời nói dối đúng đắn đã giúp một người thành tựu trên đường tầm Đạo như vậy đó.
– Một Ni Cô mang danh Tiến sĩ mà bôi bác…!Tôn giả như vậy anh thấy sao?
– Thời nay thiếu gì người mang danh Tiến sĩ Phật Giáo mà hành xử hệt khuôn Đề-Bà-Đạt-Đa.

– Vậy anh nghĩ sao về giới LBGT? À, còn nữa, Đức Phật có đề cập gì tới nhóm người này không?
– Đức Phật không nói rõ tại sao lại có giới LBGT hay họ sẽ ra sao khi chết đi.

Nhưng, người đời sau, nói cụ thể hơn là một số người tự xưng là cư sĩ hay cao tăng tự “vẽ” ra luận thuyết về sự thành hình LBGT, tác hại của nhóm đó và kết cục của họ; kỳ khôi hơn, nhiều tác giả còn mạo nhận bài viết của mình là Tạng Kinh chánh tông, đây là một tội mà Đấng Thế Tôn đã gọi là tội “ngụy thư”.

Giảng về Kinh Phật không phải dựa trên thiên kiến cá nhân, và nhứt là sự yêu – ghét một vật hay một nhóm người nào đó.

Giảng về Kinh Phật giống như thảo trình vậy, chỉ có đúng là đúng và sai là sai, không có “biến thiên” theo cách nhìn đời của mình; tự giác tụi tôi biết mình làm không được điều này nên không dám ra thuyết pháp thường xuyên.
Thí dụ như tôi nói về Quả Báo của tôi hay của một trường hợp cụ thể nào đó, chẳng sao hết, vì tôi không phán đại và mang tính quy chụp tập thể.

Còn kỳ thị giới LBGT, rồi tự biên soạn ra những bài viết lăng mạ và nói ẩu nói tả, mà lại dám mượn danh Chư Phật để củng cố sự thuyết phục của bài viết, có khác nào loại trùng độc diệt Chánh Pháp đâu; không có bài Kinh Theravada nào nói quan hệ đồng tính sẽ bị xuống Địa Ngục hay ở ác mới đầu thai thành giới LBGT, vậy mà người thời nay dám ngang nhiên ngụy tạo kinh điển để thỏa mãn lòng thù hận và định kiến cá nhân.
Từ hồi nãy đến giờ Phá Vân và Stephen Đoàn đã chuồn ra gành nước gần hang động để ngồi coi sơn ca hót véo von và bầy vượn nô đùa.

Cả hai đều cảm thấy khó xử với nhau, dù rằng cuộc trò chuyện kia chỉ mang tính chất “Anh hỏi – Tôi đáp” chớ không phải phân tranh Đạo nào cao – Đạo nào thấp.
Ignacio Cường hỏi:
– Anh có thấy một sự trùng hợp ngẫu nhiên nào khiến anh tin vào tiền kiếp – hậu kiếp không?
– Có một người đàn ông trong xóm tôi vì say xỉn mà lái xe đụng chết hai cô công nhân đang trên đường về nhà trọ; nhờ tiền của và sự quen biết với quan chức chánh quyền địa phương mà thoát án tù.

Sau này ông ta có con trai, hai đứa đều hành xử y hệt con gái và điệu bộ không khác gì hai cô công nhân mà ông ta đã hại chết.

Đó là trường hợp có thật mà tôi đã tận mắt chứng kiến.

Cũng lạ một chỗ là hồi nhỏ hai đứa này rất bướng bỉnh và ưa cãi cha cãi mẹ, bị ổng đánh hoài mà không sợ.
– Vậy anh nghĩ trường hợp này là sao?
– Đây là Duyên Khởi giữa ba bên.

Tự gỡ hay tự thắt là việc của họ.
Hồi đầu ổng còn đánh còn chửi thằng con lớn, sau này ổng hồi tâm mà đối đãi với nó rất tốt, dù gia cảnh càng lúc càng bần hàn nhưng vẫn ráng dốc tiền cho nó đi du học Mỹ.

Đứa lớn cũng thôi hằn học với ổng, đôi bên đã làm hòa với nhau, nó cũng kiếm việc làm thêm để trang trải sinh hoạt phí bên bển.
– Vậy là tốt đẹp hết rồi?
– Phải, “Lấy oán báo oán, oán ấy chất chồng.

Lấy ân báo oán, oán ấy tiêu tan.” Tự họ đã gỡ nút thắt của họ, thấy không, đâu phải do Trời – Phật, mà là do bản tâm của mình mới có thể nghịch Thiên chuyển Mệnh.

Stephen Đoàn mời ông Cha Sở xứ mình ăn xoài do anh hái.
– Ngon.

Hèn chi mà bầy vượn ở đây mượt lông dữ vậy.
Thanh Liên cười biểu:
– Hồi Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, cuộc đời Ngài gắn liền với cây xoài rất nhiều.

Mảnh đất đầu tiên lập thất tu tập cũng là vườn xoài, ông Trưởng lão Cấp Cô Độc đã mua lại từ tay Thái tử Kỳ-Đà.
Ignacio Cường quyết định chơi lớn luôn:
– Tôi muốn hỏi anh một lần nữa về chuyện thần thông.
– Đức Phật không dạy đồ đệ cách lĩnh hội thần thông.

Nên ai có thần thông là do người đó tự chứng ngộ được, không phải do Đức Phật ban phát hay chỉ dẫn.
– Tại sao?
– Nếu người ta theo anh vì phép lạ anh làm ra, thì rất tội nghiệp cho anh…
Tới chừng anh không làm được nữa hay bị truy sát, họ sẽ đấu tố luôn, bởi bản thân họ đâu có kính trọng anh mà chỉ là nể sợ, mong cầu lợi ích hay lo lắng hậu quả nếu không tùng phục theo anh thôi.

Trì Thương bổ sung:
– Sau cái ngày chứng đắc Phật vị dưới cội cây Bồ Đề, Đức Phật đã suy nghĩ rất nhiều về chuyện có nên hoằng pháp cho thế gian không.

Rồi tới lúc Tăng đoàn được thành lập, Ngài lại nghĩ có nên dạy cho họ phép thần thông; nhưng sau khi suy đi nghĩ lại, Ngài quyết định không dạy vì cảm thấy nó chẳng có ích lợi gì cho việc tu tập, trái lại còn khiến chúng sư đồ dễ lầm đường lạc hướng.
Ignacio Cường thở dài:
– Cách nghĩ của anh và bên tôi quả thật quá đỗi khác nhau.
Stephen Đoàn bấy giờ mới lên tiếng hỏi:
– Anh nghĩ có trường hợp nào mà anh cho rằng khoa học không giải thích được không?
Trì Thương nhận phần trả lời:
– Có một nữ thí chủ từ hồi nhỏ tới lớn đều nằm mơ thấy ác mộng, đến chừng một ngày nọ, cổ bèn thử đổi sang ăn chay vài ngày, kết quả cổ ngủ rất ngon và toàn gặp chuyện vui trong mơ.

Vì sợ thiếu sắt nên cổ ăn mặn lại, kết quả cổ liền gặp ác mộng như cũ.
Rồi khoa học giải thích trường hợp của cổ như thế nào? Bịa ra những lý do như cổ theo Đạo Phật nên cảm thấy tội lỗi khi ăn mặn nên mới nằm mơ thấy ác mộng, hay áp đặt hệ thần kinh của cổ có chứa hay thiếu chất gì đó nên mới nằm mơ thấy ác mộng hoài.

Tây Y không giải thích được liền phán người ta bị thần kinh.

Vậy thôi.
– Hồi còn nhỏ cổ có bị bạo hành không anh?
– Cổ đã bị gặp ác mộng trước khi cô bị cô giáo đánh suốt năm học lớp Năm.

Từ hồi cổ bốn tuổi, cổ đã mơ thấy Diêm Vương và Phán Quan.

Những năm sau thời kỳ bao cấp dân đen ở đâu cũng khổ thì lấy đâu ra phim ảnh, sách truyện cho cổ coi mà biết; người thân của cổ cũng không bao giờ kể chuyện rùng rợn cho cổ nghe, thì bằng cách nào mà một đứa con nít lại biết vanh vách như vậy?
Nhác thấy trời sắp chuyển mưa, hai chàng tu sĩ Công Giáo bèn ngỏ lời rằng muốn nghe thêm một câu chuyện nữa.

Trì Thương liền kể:
– Có một giấc mơ mà cổ đã kể cho tôi nghe như thế này, tôi không cần anh tin và đồng ý với nội dung cổ kể, câu chuyện ấy như sau:
“Cổ mơ thấy một người con gái ăn bận kiểu Ấn Độ hết sức xinh đẹp, ngồi trong kiệu mà vén rèm nhìn ra ngoài; không ngờ Hoàng tử để mắt tới cổ, cổ cũng rất ưng lòng với Hoàng tử.

Sau đó hai người có thành vợ thành chồng hay không thì cổ không biết, cổ chỉ biết sau đó cổ đã gặp một người rất giống Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Vị này đã dẫn cổ xuống Địa Ngục để coi hình phạt về tội Tà Dâm; hộ tống hai người là hai vị quỷ sai, rất có thể là Ngưu Đầu – Mã Diện.
Bốn người đi đến đâu, con đường trải một đạo hào quang vàng chói đến đây.

Xung quanh Địa Ngục vẫn âm u và hoang lạnh như cũ.

Và chẳng có ai có thể tiến lại gần họ mà quấy nhiễu hay hãm hại.
Cổ thấy những người phạm tội Tà Dâm lần lượt bị treo trên móc sắt, cái móc sắt đó cắm thẳng vô giữa cột sống.

Một con quỷ bắt đầu lóc từng miếng thịt của phạm nhân mà thả vô vạc dầu sôi hay nước sôi – vì ở xa quá nên cổ không thấy rõ dung dịch trong cái vạc ấy là gì.

Đến chừng chỉ còn bộ xương, con quỷ đó rưới một ca nước đen lên người phạm nhân, tức thì kẻ đó có lại hình thù như cũ.

Và kẻ đó lại phải đứng xếp hàng để chờ việc hành hình tiếp…
Không hiểu sao, khi chứng kiến cảnh tượng trên, mắt của cổ chỉ thấy nhá nhem và tai thì điếc đặc, nên cổ không quá kinh sợ với những điều bị thấy.

Hai quỷ sai dẫn đường nói láp nháp gì đó trong miệng, theo như cổ suy đoán là giải thích tại sao những con người này lại chịu cực hình như vậy, nhưng vì hai vị đó nói tiếng cõi Âm nên cổ không nhìn ra khẩu hình của họ.
Thấy cổ đã coi xong màn cực hình, người giống Đấng Thế Tôn mới nói với cổ rằng, “Về đi.

Về mà cảnh tỉnh thế gian.” Cổ nói cái cảm giác cổ tỉnh dậy trên giường ngủ y hệt như hồn mới về lại thể xác, đầu óc cổ tự nhiên thanh thản lạ kỳ, và bao nhiêu sự mệt mỏi đã tan biến mất.

Cổ nhớ như in từng chi tiết một trong giấc mơ, và dẫu cho số tuổi của cổ ngày càng tăng, cổ vẫn không hề bỏ sót một hình ảnh nào đã gặp trong cơn mơ kỳ lạ ấy.”
Thanh Liên kể câu chuyện thứ hai:
– Cổ luôn băn khoăn Chánh Pháp ở đâu nên đã thỉnh cầu Chư Thiên hay ai đó cho cổ một câu trả lời.

Vậy là một đêm nọ, cổ mơ thấy mình đi cùng mẹ vào một thẩm mỹ viện, mà thẩm mỹ viện đó – trong mộng – là của nhà cổ.

Cổ thấy mình đang gom sách cũ mà đem quăng, thì có một người khách nữ ngỏ ý xin hết số sách ấy.

Cổ đồng ý cái rụp.

Người khách nữ đó lấy đại một cuốn, cổ còn thấy rõ trên bìa ghi “Tạp chí Sắc Màu Đông Phương”, cổ tò mò nên ngồi xuống đọc ké.

Vừa mở trang đầu tiên, cổ thấy một tấm ảnh chụp về đám mây trắng có hình dạng như Chư Phật tọa thiền; nhưng chưa để cổ thấy rõ, thì đám mây ấy đã biến sang hình dạng con cá, rồi lại chuyển thành chim hạc.

Trong lúc cổ đang hoang mang, vô tình cổ nhìn xuống phần giới thiệu tấm ảnh, trên đó viết rằng, “Đức Phật không ở đâu hết.

Tâm ta tưởng thế nào thì Ngài thế đó.

Chánh Pháp không ở đâu hết, không cần phải truy cầu hay tìm kiếm…” Tới đó thì cổ giựt mình thức giấc, bên tai cổ còn vang lên câu “Gặp thời thì ngộ.

Gặp thức thì nhận.”
Hai câu trên có nghĩa gặp đúng thời điểm thì sẽ hiểu ra, đến chừng đó thì Hành Thức sẽ nhận thấy.

Cổ còn nói với tôi lúc thấy tấm ảnh chụp đám mây giống Đức Phật cổ còn tính xin lại cuốn tạp chí vì tiếc của.

Ignacio Cường tò mò hỏi:
– Dung mạo của cô tín hữu đó ra sao?
– Cổ có đôi mắt giống hệt biểu tượng của Đạo Cao Đài.

Cứ hễ bỏ mắt kiếng xuống, ánh mắt của cô lại sắc bén và khiến người ta khó lòng dám nhìn thẳng.

Cổ luôn nhìn thẳng vào mắt người khác; nhiều lúc mắt tôi đối mắt cổ, tôi thấy nếu như cổ không nói mắt cổ rất yếu, ắt hẳn người ta sẽ nghĩ thị lực của cổ rất tốt.

Mà điểm đặc biệt ở đôi mắt của cổ, là đuôi mắt dài và sắc, đã vậy hàng mi trên còn rậm, dài và cong vút; thành ra Thủy Diệu mới nói nếu để cổ hóa trang thành Cleopatra chắc người ta chẳng cần tốn công nhiều.

Stephen Đoàn bình phẩm:
– Hầu như ở tôn giáo nào cũng có những tín đồ kỳ lạ.
– Cổ là người chúa ghét khai mở tuyến tùng hay làm cái này – làm cái kia để có thần tông.

Bởi đã bản tâm không vững, có thần thông càng dễ đọa vào đường Ác hơn.

Như năm xưa Đề-Bà-Đạt-Đa vừa lĩnh hội thần thông liền sanh tâm coi thường Đấng Thế Tôn và muốn lật đổ Tăng đoàn do Ngài thành lập.
Sợ hai người khách thành đô bị mắc mưa, Thanh Liên, Trì Thương và Phá Vân bèn dẫn họ về.

Trước khi lên đường, Stephen Đoàn để lại cho con vượn già một bịch nylon đựng ba chai nước; nó chắp tay mà xá anh mấy cái, rồi cắn lấy hai cái quai mà chạy vô cái ổ của mình.
Đi được nửa đường thì trời đổ mưa lắc rắc, thành ra nguyên đoàn phải ghé nhà cư sĩ Chánh Tâm đụt mưa.
Trong căn nhà sàn, ông Sáu Diên đang nấu thuốc cho bà con theo yêu cầu của họ.

Giúp đỡ ông là Hoàng Kỳ và Thủy Diệu, hai người lo phần chụm củi và thêm miếng gáo khi lửa gần tàn.
– Ủa ông Lợi? – Ignacio Cường bước đến tay bắt mặt mừng với người Tăng sĩ thất tuần.
Châu Lợi cũng niềm nở đáp lại.

Hoàng Kỳ bưng lên mâm nước sâm rong biển ướp đá mà ân cần mời từng người.
Hai chàng Linh mục tấm tắc khen ngon và dễ uống.

Nuốt tới đâu cảm thấy khoan khoái đến đó.
– Nãy giờ sao rồi? – Châu Lợi hỏi trỏng không.
– Có gì đâu.

Người ta muốn nghe thì tôi nói cho người ta nghe thôi.
Thủy Diệu đã trải hai cái ghế bố xong, ấy là dành phần cho Ignacio Cường và Stephen Đoàn.

Dựa theo Tạng Luật, Tăng – Ni không nên nằm – ngồi với tư thế ngả ngớn hay không tề chỉnh, thành ra Tăng đoàn do Thanh Liên quán xuyến không ai được phép nằm ghế bố, ghế xếp hay ghế đu đưa; nằm võng và giường nệm tùy thời mà được du di.
Vừa ngả lưng xuống ghế bố, hai ông Cha trẻ liền nghe thấy tiếng xương khớp kêu răng rắc vì mỏi nhừ.

Gió mưa ngoài trời hiu hiu thổi vào nhà càng khiến cho cơn buồn ngủ tìm về càng mau.

Hương thuốc sắc hăng hắc hòa với mùi củi cháy khen khét, trộn lẫn tiếng miểng gáo nổ tanh tách và củi khô đốt đượm, hết thảy tạo thành một bản hòa tấu miền Tây đẹp đẽ vô ngần.
Viện lẽ phải hành Thiền, Tăng đoàn xin phép rời đi một lát.
Ignacio Cường thắc mắc:
– Cái nhà nhỏ xíu như vầy thì sao đủ chỗ hành Thiền?
Châu Lợi đáp:
– Tụi tôi xuống dưới gầm của nhà sàn mà hành Thiền.

Ông Sáu có treo sẵn mấy bức mành chắn mưa gió nên tụi tôi sẽ không bị ướt đâu.

Vả chăng, tụi tôi sẽ trải chiếu ngồi, nên cũng không lo bị dơ đồ mà giặt mệt.
Rồi không đợi hai tu sĩ Công Giáo nói thêm, Tăng đoàn đã rảo bước xuống dưới nhà.
Stephen Đoàn liền mở bài “Đông Triều” của nhạc sĩ Đỗ Lễ qua phần trình bày của Thái Thanh.

Tiếng hát thánh thót ấy như điệu ru hai người vào cõi mộng.

Nhưng một bên là mộng bình yên, còn bên kia là mộng ái tình “ngàn thu vĩnh biệt”.
“…!Nước mắt Em chảy thành dòng sông nhớ Anh
Thành mùa Đông giá băng, ngọn triều dâng lên ngất ngây
Trong tuyết sương dập vùi cơn say tái tê
Mà nào người đâu có hay
Để tình đi như áng mây, cho tóc em thần thoại trong đêm thở than
Chợt tỉnh cơn mê thoáng qua
Tình đã phai nhòa!”
Nụ hôn đầu đời của chàng tu sĩ xấu trai thoảng mùi sing-gum bạc hà và màu nước mắt của mình và nàng.

Ánh mắt ấy chàng đã từng thấy qua bộ phim “Thiện nữ u hồn” do Trương Quốc Vinh và Vương Tổ Hiền đóng vai chính, mẹ chàng đã khóc suốt khi coi bộ phim đó, và giờ đây tới lượt chàng khóc suốt vì ánh mắt của nàng! “Một mai mang xuống tuyền đài, bóng hình em muôn kiếp không phai…”
– Khóc cái gì mà khóc hoài vậy?
– Anh có yêu ai chưa hả Cường?
– Chưa từng.
– Nên anh nào hiểu cảnh ngộ của tôi.
– Anh đã là Linh mục, và là Cha Phó, xin hãy tự trọng một chút.

Stephen Đoàn làm thinh.

Anh trở người đứng dậy rồi đi một hơi xuống bếp phụ ông Sáu Diên.

Để lại Ignacio Cường ở nhà trên với vẻ mặt bí xị như bị mất sổ gạo.

Do không rành thuốc nên ông Sáu Diên không để Stephen Đoàn dán nhãn cho từng bịch thuốc sắc rồi, mà giao phần quét nhà và rửa chén cho anh.
– Chú Sáu nghĩ sao về Tây Y dạ?
Vừa đề tên người nhận, ông Sáu Diên vừa hất cằm mà rằng:
– Có một cô này than mệt tim, hồi hộp và nóng – sốt hoài, bác sĩ phán cổ bị trầm cảm nhẹ nên bị bịnh “giả”.

Ai dè đâu, uống thuốc tròn một năm mà vẫn không khỏi, cổ tức quá mới đi kiểm tra tổng quát.

Rốt cuộc cổ bị hở van tim, cần phải mổ gấp; còn thần kinh của cổ hoàn toàn bình thường!
Đâu phải Tây Y lúc nào cũng đúng.

Gặp mấy tay bác sĩ tự phụ là coi như bịnh nhân tiêu đời, bởi mấy ổng lúc nào cũng cho kết quả chẩn đoán của mình là đúng.
– Vậy theo chú một ngày phải uống hai lít nước có đúng không?
– Anh lấy đâu ra lời khuyên một ngày phải uống hai lít nước mới tốt cho sức khỏe vậy? Anh có biết uống quá nhiều nước so với nhu cầu cần thiết và sức lực của cơ thể có thể khiến sau này sẽ bị loãng máu, hại thận và phù nề toàn thân không?
– Vậy uống như thế nào mới đúng cách?
– Khát mới uống.

Vậy thôi.

Và còn phải coi lại cơ thể của mình cần bao nhiêu lượng nước nữa.

Tui có quen với gia đình bà này, cùng là ruột thịt với nhau mà con bả chừng năm phút phải nhấp môi một miếng nước, còn bả thì ba tiếng đồng hồ không uống một giọt nước nào vẫn không cảm thấy khát và mệt người – ngộ đời ở chỗ ngoại trừ nước có bỏ đường và trà, bả không thể uống bất kỳ loại nước nào khác, hễ uống mấy loại kia vô là bả nhợn trở ra.
– Rồi sức khỏe của bà đó sao chú?
– Khỏe như trâu.

Ngược lại thằng con bị bịnh rề rề và hay nhiễm trùng đường tiểu.

– Con vẫn chưa hiểu lắm.
– Cách hấp thụ lượng nước của mỗi người tựa như một loài thực vật.

Có người thì như xương rồng, không thể uống nước nhiều được.

Có người thì như bông sen, phải liên tục uống nước thì mới đủ sức làm việc.

Ngoài ra, còn phải xem coi ngày hôm đó mình hoạt động nhiều hay ít mà uống nước; nếu chỉ ngồi lì trên ghế đánh máy hay học hành thì lấy đâu ra nhu cầu uống nước nhiều, ngoại trừ trường hợp đặc biệt như cái cậu ở trên thôi.
– À…
– Còn nữa, những người bị hư thận không thể uống nước được, nếu khát họ chỉ được chấm một chút xíu nước lên môi mà thôi, ngoài ra cứ cách ngày còn phải đi rút nước khỏi cơ thể để kéo dài sự sống vì cơ thể của họ không thể tuần hoàn nước như một người bình thường nữa.

Do đó đừng có bạ ai bị bịnh thận cũng xúi người ta uống nước nhiều mới tốt, coi chừng gián tiếp giết người đó.
Đang nói đến đây thì điện thoại của ông Sáu Diên đổ chuông.

Đầu dây bên kia là một bịnh nhân sống ở dưới chân Anh Vũ Sơn.

Ông báo tối nay sẽ ghé nhà giao thuốc, nhưng chừng nào ông gọi điện thì hẵng ra mở cửa, lóng rày cuối năm cô hồn sống lai vãng trên dương thế nhiều lắm.

Người kia “Dạ, dạ…” liên tiếp, rồi nói lời tạ từ ông trước khi kết thúc cuộc gọi.
Ignacio Cường xin phép mượn dao gọt xoài.

Ông Sáu Diên bèn đưa con dao Thái Lan bén ngót cho anh ta; dù mũi dao rất sắc nhưng ông vẫn cầm đằng mũi và đưa phần cán về phía chàng tu sĩ có đôi má lúm đồng tiền.

Sợ làm đứt tay của ông, anh thận trọng nhận lấy, không quên cảm ơn ông một tiếng.

– Ngồi đàng hoàng xuống ghế rồi hẵng gọt xoài nghen.

Có cậu kia vừa đi vừa ăn vừa gọt xoài vấp té sao mà đâm dao vô bụng mình, cũng may chưa bị xổ ruột chết.

– Dạ.

Nhưng mà dao này sắc quá, mốt ông để trên bàn đi hoặc chỉ chỗ cho con lấy, chứ đừng đưa con như vậy.

Rủi đứt tay thì sao?
Ông Sáu Diên gãi cái đầu bạc phơ mà cười xẽn lẽn:
– Ờ há…!Công nhận tui càng già càng ngu.
Ignacio Cường gọt xoài rất điệu nghệ, vì anh là dân Đồng Tháp mà, quê nội anh vốn trứ danh với những giống xoài nổi tiếng và tuyệt hảo.

– Anh nói ông Thạnh chặt dừa thấy ghê chứ anh gọt xoài cũng thấy ớn đâu kém.

– Ờ thì…!quen tay rồi.

Làm từ từ hổng được.

Gọt xong, Ignacio Cường mời ông Sáu Diên ăn trước, kế mới mời Stephen Đoàn.

Xong xuôi hết rồi, anh mới lấy một miếng mà ăn.
– Ngon thiệt.

Xoài của mấy con vượn phải hôn?
Hai chàng gật đầu.
– Mấy con vượn hổng làm được gì ngoài trồng xoài thôi.

Cũng tội nghiệp tụi nó, suốt đời ru rú trong cái hẻm núi, không thấy được thế giới bên ngoài rộng lớn ra sao.

Ignacio Cường hỏi:
– Gành nước ở đó nhiều nước không chú?
– Nhiều chớ.

Mưa xuống, thấm đất, thành hình mạch nước ngầm.

Nước đó có ông nghiên cứu sanh đem dìa xét nghiệm thì thấy đây là nước sạch, con người có thể uống được; nhưng mà tui hổng dám uống, ai biết tụi nó có ỉ* đá* gì ở đó hôn.
Sực nhớ đến hai trái xoài mà còn vượn già đã tặng, hai người vội vàng mở ba-lô rồi cùng nhau bỏ vô sọt rác.

– Con vượn đầu bạc phải không?
Thấy hai chàng gật đầu xác nhận, ông Sáu Diên vuốt râu mà rằng:
– Tui tính đem nó về đây nuôi.

Nhưng chỉ e người ta rình lúc tui vắng mặt thì sẽ biến nó thành cao hũ cốt hay thịt vượn bảy món.

Nó thông minh lắm, chỉ cần dạy nó sơ qua là nó học được liền.
Ngoài trời mưa mỗi lúc một lớn, tứ bề bao phủ trong màn nước xám xịt và lạnh ngắt.

Cũng may nhà này được xây theo kiểu “tiếng vang” nên mọi người mới nghe được giọng của nhau.

Thảng trong không gian vắng tanh, hình như họ nghe thấy tiếng đại bàng kêu hay ưng gọi.
– Ở đây còn ác điểu hả chú? – Ignacio Cường cau mày hỏi.
– Hổng biết nữa.

Nhưng mỗi lần mưa to gió lớn là lại nghe trên trời vọng xuống thứ âm thanh hồi nãy.

– “Phụng Hoàng Sơn”? Có hay chăng là loài phượng hoàng? – Stephen Đoàn giỡn.
Ông Sáu Diên vuốt râu cười ha hả:
– Dám lắm chớ.

Stephen Đoàn quay về chủ đề cũ:
– Chú thấy có trường hợp nào mà Tây Y không trị khỏi mà Đông Y làm được không?
Sau một hồi ráng nhớ lại, ông Sáu Diên vỗ trán mà thuật rằng:
– Cũng có cô này bị dị ứng “toàn tập”, tức là không thể ăn được trứng, đồ biển, thịt heo, thịt bò, cà chua, đường, bột, kem,…!cứ hễ ăn vô là khoang họng bị nổi đẹn đặt rật và trên mặt nổi rất nhiều mụn như bị muỗi chích.

Chạy chữa đủ nơi mà không khỏi, rốt cuộc cổ uống nước Bán Chỉ Liên – Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo mà lại hết trơn.

Vậy là mỗi lần ăn cô lại uống một ly trà đó.

Nói ra hổng có ai tin đâu.

Rồi có bà này chích thuốc ngừa cúm Tàu, đã trong mình bị bịnh thận mà còn phải đi chích vì nghe nói không chích thì không được vô chợ bán.

Chích xong, về thuốc nó vật bả.

Đi khám bác sĩ Tây Y ở đâu cũng đều bị nói là người nhà chuẩn bị tinh thần đem bả đi chôn.

Người nhà đành đem bả qua một ông thầy lang vườn chuyên bốc thuốc miễn phí cho bà con, ông này sống gần nhà của mấy người đó, ông này thấy bả bịnh nặng quá nên không dám hứa sẽ chữa khỏi, mà dặn rằng thuốc này giúp bả đỡ mệt hơn thôi, chịu thì uống – hổng chịu thì đưa dìa.

Ai dè đâu, uống thuốc ở chỗ ổng có mấy tháng mà bả hồi dương, mạnh cùi cụi, căn bịnh thận trước kia cũng đã thuyên giảm rất nhiều; giờ bả sống phây phây “Như chưa hề có cuộc chia ly”.
Nhưng mà những trường hợp trên đây, nếu tui đưa địa chỉ khám bịnh của mấy ông Đông Y đó, liền sẽ bị vu khống là quảng cáo xạo để kiếm tiền và tuyên truyền sai sự thật.

Thậm chí, có đứa còn độc miệng nói tui nổ để bán thuốc nữa.

Thành ra, tui đách cần anh tin hay làm theo lời khuyên của tui.

Kể chuyện cho nghe vui lỗ tai thôi.
Stephen Đoàn hỏi:
– Vậy theo chú, người bị tâm bịnh nên uống thuốc Nam nào để dễ ngủ?
– Trời ơi, hột sen đó cậu.

Tốt nhứt là ăn hột sen tươi không bỏ tim sen, bảo đảm ăn vô tối ngủ liền.

Còn không uống trà trái nhàu sao với cam thảo; nhưng mà cam thảo phải coi chừng nghen, uống về lâu về dài dễ gây bịnh hậu lắm.
– Còn bị ho hoài không dứt?
– Cam thảo.

Vỏ quýt phơi phô ngào đường.

Trị ho rất hay.

– Còn bị trĩ?
– Rau dấp cá.

Cây lá cách.

Đậu bắp.

Cây me đất.

Rất, rất nhiều bài thuốc giúp ngừa và chữa bịnh trĩ có ở trong nhà cậu và trong chợ gần nhà cậu.

Nghe có tiếng gọi tên mình í ới dưới nhà, ông Sáu Diên lật đật bước ra ban-công mà ngó xuống:
– Ờ, có thuốc rồi, bây có lên lấy thì lấy luôn đi.

Người thanh niên ấy gốc Cao Miên, da dẻ đen nhẻm, tay chân rắn rỏi, trên người mặc độc một cái quần đùi bạc phếch, sau lưng gùi một giỏ thốt nốt đầy vun, nhìn tướng tá coi ba gai lắm.
– Chú Sáu mua xoài ở đâu ngon vậy? Cho con một trái được hôn?
Stephen Đoàn đưa luôn phần xoài cho người thanh niên Cao Miên.

Người trai ấy rối rít cảm ơn Stephen Đoàn rồi day qua tạ từ ông Sáu Diên.

Đoạn hối hả quay gót ra về.
– Nó đi chặt thốt nốt mướn cho người ta.

Lần trước bị té tưởng đâu ngồi một chỗ rồi.

Sau khi mổ cột sống xong, nó nhờ tui kê thuốc giảm đau và dễ ngủ để uống mỗi tối.
Ignacio Cường thắc mắc:
– Sao ảnh hổng đổi nghề hả chú?
– Học hành hổng tới đâu thì làm sao kiếm mấy việc khác được.

Mấy đứa học tới nơi tới chốn xin việc còn trật vuột, huống hồ chi là nó – một thằng thân cô thế cô mồ côi mồ cút nghèo tiền nghèo bạc nghèo luôn cái chữ.

Bỗng ông Sáu Diên chặc lưỡi than:
– Bởi vì ngu dại phụ thuộc vào thuốc kháng sinh – kháng viêm riết nên sau này mới banh bộ đồ lòng và bị bịnh hậu.

Ignacio Cường thắc mắc:
– Sao nhiều người nói uống thuốc Đông Y bị chết vậy?
– Thí dụ như uống nước chanh tươi rất tốt cho sức khỏe, nhưng nếu cậu uống suốt một tuần là coi chừng cái bao tử của cậu nát bét luôn.

Thuốc Đông Y cũng vậy, không chắc đường huyết của mình bao nhiêu thì đừng nên uống mấy bài thuốc hạ mỡ máu, mấy cái bài thuốc đó mà uống quá liều là tụt máu hay gây loãng máu là chết luôn.
Stephen Đoàn nhớ tới căn bệnh ung thư cổ tử cung của mẹ anh nên lên tiếng hỏi:
– Có phải ung thư nên ăn uống đầy đủ để mau lại sức không chú?
– Ai biểu ung thư phải ăn uống đầy đủ mới mau lại sức vậy? Có một số loại bịnh ung thư như tiểu đường và gout, tức là phải ăn uống thanh đạm và kiêng khem dữ dằn mới mong sống lâu được.

Với lại, những người bị ung thư giai đoạn cuối hổng có nuốt vô cái gì đâu, cái miệng tanh rình ăn cái gì nổi mà ăn; rồi nhiều khứa hổng biết bắt đầu chọt mỏ dạy đời bị ung thư phải ráng ăn cái này – cái kia cho khỏe, ý là mình bị bịnh cảm cúm mà còn bỏ ăn mấy ngày, huống hồ chi là người ta bị bịnh hiểm nghèo…
– Vậy theo chú bị bịnh ung thư phải ăn cái gì?
– Không, cái này tui không thể chỉ được.

Với lại tùy thuộc bịnh nhân thôi, người ta ăn cơm trắng với nước tương mà người ta khỏe thì để họ ăn, mắc giống gì phải ép buộc họ ăn sơn hào hải vị hay ăn đa dạng.

Việt Nam mình ngộ lắm, hễ thấy ai ốm là quở người ta này nọ; còn không thì bắt người ta phải thay đổi cách ăn theo ý muốn của mình.

– Cái này còn bị hoài hà chú.

Thấy con ròm quá nên ai cũng đốc con ăn thêm.
Ông Sáu Diên vỗ đùi cái đét:
– Cái bao tử của cậu chỉ chứa được bi nhiêu thôi, ép ngu riết có ngày cậu bị rạn bao tử rồi bị nứt lúc nào không hay.

Chết lãng giang.
Ignacio Cường chợt hỏi:
– Thứ cho con nghen chú, vì câu hỏi này rất dễ gây mích lòng và khẩu chiến.
– Rồi, hỏi đi bây.
– Tại sao chú theo Đạo Phật?
– Tại vì chú cảm thấy rất thoải mái khi theo Đạo Phật.

Chú không cần bị ai thúc ép phải thuộc kinh điển hay bắt buộc phải viếng chùa.

Chú muốn thờ cúng sao cũng được, không ai bắt tội chú lỗi Đạo.

Chú không cần phải tin vào Đức Phật hay sợ hãi Ngài; như Ngài đã dặn trong Kinh Kalama, chú chỉ tin những gì mà nó có lợi cho chúng sanh và thay đổi tâm thức chú theo lẽ Thiện.

Chú cũng hổng cần phải coi Tăng – Ni như ông – bà nhà chú; ai có Đức thì chú quý trọng, ai làm sai thì chú tự do vạch mặt mà không bị nói là phá hại sự đoàn kết của Tăng đoàn.

Hay thậm chí, chú cũng chẳng cần ăn mừng Phật Đản hay tham gia các ngày lễ lạt của Bổn Đạo.
Thời nay, nhiều khứa Ma Tăng đưa Tạng Luật dành riêng cho Tăng – Ni vô dạy Phật tử.

Rồi nhiều người ngoại Đạo hổng biết vô móc xỉa nói Đạo Phật dạy sống hèn và bưng tai bịt mắt lánh đời.

Cái Giới luật của Tăng sĩ khác, của cư sĩ khác, của Sa-di khác, mà của Phật tử cũng khác luôn.

Ngừng một lát để quan sát sắc mặt của hai người trai khác Đạo, ông Sáu Diên mới buồn hiu trình bày:
– Có phải là hai anh đang không biết có nên cúng Ông Táo không phải hôn?
Hai chàng đều gật đầu.
– Với riêng chú thôi nhen, khi chú bày mâm cúng Ông Táo, đốt “cò bay – ngựa chạy” và dán Ông Hổ trước cửa lớn, chú làm với tâm niệm duy trì nét văn hóa của người Việt Nam chớ hổng có mong cầu phước lành chi hết.

Đó là suy nghĩ của chú mà thôi, còn nếu bây cảm thấy lỗi Đạo thì biểu Giáo dân đừng làm.

Ignacio Cường khổ sở thuật lại chuyện mình bị trách phạt vì đã để cho một vài Giáo dân cúng Ông Táo.
– Thôi, bỏ vụ táo tàu – táo xọn qua một bên đi.

Mấy đứa đã nghe về nhỏ Phật tử có đôi mắt giống hệt biểu tượng Đạo Cao Đài chưa?
– Dạ rồi.
– Chú có nói chuyện với nó rất nhiều lần nên biết nhiều câu chuyện về nó lắm.

Mà bây hứng thú nghe không?
Cả hai đều đáp, “Có.”
– Bởi vì nằm mơ thấy ác mộng riết mà nó thuộc hết vị trí lục phủ – ngũ tạng của con người.

Nó kể, hồi năm mới có sáu tuổi nó đã mơ thấy má nó bị chặt đầu rồi bỏ vô cái tủ đá cỡ lớn; chú thách khoa học chứng minh được lý do tại sao nó lại biết cái hình ảnh đó dù chưa một lần được nghe chứ đừng nói chi là coi qua.

Càng lớn, cách thức giết người và phi tang xác mà nó chứng kiến trong giấc mơ càng man rợ; tới mức, như chú đã nói ở trên, nó có thể chỉ đích xác từng bộ phận bên trong cơ thể người mặc dầu chưa hề học Y một ngày nào.
Stephen Đoàn ngắt ngang:
– Thành ra cổ mới ăn chay luôn để khỏi bị thấy nữa?
– Đúng vậy.

Nếu đem nó tới một ông Tây Y nào đó, ổng sẽ nhứt quyết bài bác khía cạnh “Duy tâm” và một mực bắt bịnh nhân phải tin theo thuyết “Duy vật” của ổng.

Trời đã ngớt mưa.

Đằng Tây vầng dương đã ló dạng.

Một mảnh trời xanh lơ như ngọc bích nằm lẻ loi giữa bốn bề mây xám ngắt.

Một chiếc cầu vồng dừng chân trên thửa ruộng nhà ai.

Cò trắng đã lác đác in dấu trên thảm lúa chín hườm.

– Cư sĩ Chánh Tâm!
– Ai nữa vậy chú? – Ignacio Cường nhíu mày hỏi.
– Sa-di Thiện Sanh.

Thiện Sanh chắp tay chào từng người, rồi xin lãnh phần giao thuốc giùm Chánh Tâm.

Nhưng ông Sáu Diên từ chối để anh ta đi một mình vì sợ anh ta đưa lộn chỗ thì giết người như chơi.

Anh ta vui vẻ đồng ý, rồi nhấc một cái ghế mây và ngồi xuống.
– Không ăn phi thời được chưa?
– Dạ, quen rồi.
– Kể cả các loại hình giải trí?
– Dạ, bỏ luôn rồi.
– Còn vế “Thất tình lục dục”?
– Từ lâu con vô cảm luôn rồi chú.

Bệnh điên nó át đi ham muốn lúc nào không hay.
Ông Sáu Diên vuốt râu cười hiền:
– Buông được thì buông.

Không buông được thì giữ.

Đừng đọa mình giữa hai lằn ranh “Buông – Giữ”.
Vừa hay Thanh Liên trở lên nhà để rót nước cho các đồ đệ uống, Thiện Sanh nhân đó mới hỏi:
– Asura – Atula rốt cuộc là dạng nào vậy Thầy?
– Dựa theo Mật Tông Tây Tạng, Atula là “Phi Thiên”.

Một số luận thuyết cho rằng lúc sanh thời họ đã làm được rất nhiều Thiện Nghiệp, nhưng đáng tiếc thay, họ không nhiếp tâm được nên chỉ trở thành “Phi Thiên” chứ không dự được vào hàng “Chư Thiên”.

– Không nhiếp tâm được là sao hả Thầy?
– Thí dụ là lăng nhăng, hay chửi thề, ưa gây gổ, ham Tứ – Đổ – Tường, thích ăn tạp,…!Thành ra khi trở thành “Phi Thiên” họ phải chịu nhiều khổ sở về mặt tâm can…
– Nhưng mà họ vẫn sống sung sướng hả Thầy?
– Ừ, theo luận thuyết của một số người bên Mật Tông Tây Tạng thì là vậy.
– Có đáng tin hôn Thầy?
– Tin chi?
– Hả?
Thanh Liên phì cười, đoạn biểu:
– Về đọc lại Kinh Kalama đi, rồi hẵng quyết định tin hay là không tin.
Nói xong, Thanh Liên bưng mâm nước sôi để nguội mà đi một hơi xuống dưới.

Bữa nay chị Sáu đưa con tới nhà thương mà không có mặt của Thầy Sáu, vì thằng nhỏ bị đau bụng bất thình lình nên chồng chị không về nhà kịp mà đi chung.

Do đi khám chỗ công nên phải mất hai tiếng mấy mới tới lượt thằng cu; lúc này nó đã thiếp đi vì mệt lả và bị hành sốt.

Cũng may không có gì nghiêm trọng, chỉ là đau bụng do đường ruột hãy còn non nớt mà thôi.

Nữ bác sĩ khuyên chị Sáu nên lựa những món ăn thanh đạm và không chứa quá nhiều gia vị để đứa nhỏ bú sữa mẹ xong không bị khó chịu và sinh bệnh.

Đúng là đêm trước chị thèm ăn mỳ cay Đại Hàn quá nên có làm một tô, tưởng đâu thằng cu ngủ luôn, dè đâu vừa mới ăn xong chưa được một tiếng đồng hồ, nó quấy khóc mà nhè nhẹ đòi bú.

Không biết mình kể như vậy có gì sai về mặt Y Khoa hay không mà nữ bác sĩ cứ ngó chị cười tủm tỉm hoài.

Lấy thuốc thang xong, chị Sáu mở ứng dụng mà đặt xe Uber.

Thằng cu được địu trước ngực chị giơ hai bàn tay mập ú ra đòi cầm điện thoại.

Chị nạt thằng con nho-nhỏ, “Còn có xíu pin hà, để mẹ đặt xe nhe con.” Nhưng điện thoại đã không chiều lòng hai mẹ con, nó kêu cái “Út” rồi tắt tối thui; song tối cỡ nào tối cũng không tối bằng gương mặt không phấn chẳng son của chị trong lúc này.
– Đặt chi vậy chị? Quá giang xe tôi đi cho dư tiền mua tã – sữa cho thằng cu.
“Được lời như cởi tấm lòng”, chị Sáu mừng rơn quay lưng lại dòm:
– Ủa, Andrew Hồ hả?
Andrew Hồ nhoẻn miệng cười thật duyên.
Chị Sáu liền theo chân Andrew Hồ ra bãi đậu xe.

Đi giờ này dễ lầm xe lậu, không cẩn thận nó cho nói tiếng Tàu hay tiếng Miên luôn.
– Xe nào vậy cậu Long?
– Đó, chị.

Chiếc lớn nhất bãi đó.
Chiếc xe ấy hiệu “Hummer – H3 Alpha” sáu bánh năm chỗ ngồi, kích thước rất lớn và kiểu dáng thì cực kỳ mạnh mẽ, mà lại cao nữa.

Với một người lùn tịt như mình, chị Sáu chỉ còn có cách nhờ Andrew Hồ ẵm giùm thằng con rồi chật vật bám lên thành xe mà leo từng bước lên.
– Xin lỗi…
– Dạ, hổng có sao đâu Long.

Chị tự biết mình lùn mà.
– Chiếc xe “Dodge” năm chỗ của tôi đã cho thằng bạn mượn rồi.

Chiếc đó chị bước lên – bước xuống sẽ dễ dàng hơn.
– “Dod…” – Chị Sáu mắc cỡ không nói nữa.
– Chị ơi, chiếc đó tên là “Dodge”, chữ “Ge” chứ không phải là chữ “Gy” đâu.
Chị Sáu xấu hổ quá không biết làm sao để chữa thẹn.

Vốn học hành không có tới đâu nên chị luôn cảm thấy tủi thân với những ai học cao hơn mình.
Andrew Hồ lắp xong cái ghế ngồi cho thằng cu, mới an tâm trở về ghế lái.

– Hiệu xe này cũng muốn “tuyệt chủng” rồi chị.
– Sao vậy? Xe vừa tốt lại đẹp, sao sắp sập tiệm được?
– Kiểu dáng không thích hợp trong đời sống thường ngày, lại khó tìm chỗ đậu xe, chưa kể đến là điều khiển cũng hơi phức tạp.

Thành ra dòng xe này chỉ giành được lợi thế ở môi trường quân sự, cứu hộ khẩn cấp và đi du lịch trong địa hình hiểm nguy, do đó đâu có lời lãi bao nhiêu mà cái hãng của nó duy trì nổi.

– A…
– Ngoài ra, nó ngốn nhiên liệu nhiều quá, nuôi nó y như nuôi một đứa con nít xổ sữa vậy, cứ đi xa xa một chút là nó đòi bú.

Chị Sáu tặc lưỡi:
– Tiếc quá há?
Andrew Hồ gật đầu:
– Cũng may còn có thể mua được phụ tùng để sửa chữa.

Không thì chắc tôi sẽ đưa nó vô danh sách bảo tồn luôn.
Thằng nhỏ bất ngờ khóc nháo lên.

Thời may chị thủ sẵn bình sữa nên nó có cái mà bú.
Andrew Hồ liền mở một bài hát do cô Hương Lan ca để dỗ nó ngủ.

Bài hát ấy mang tên “Lời Mẹ ru con” của nhạc sĩ Huỳnh Anh.
– Chị có đói bụng không?
– Dạ có.
– Để tôi ghé “Minh Tâm” mua cho chị một ổ bánh mì heo quay.
Trên đường tới lò “Minh Tâm”, hai mẹ con chị Sáu cười nói om sòm.

Dù chỉ mới nứt mắt vài tháng mà nó đã lý sự khôn cùng, hễ mẹ nó giỡn một tiếng là nó lại ú ớ một tiếng.

Andrew Hồ đành gác ý định hỏi thăm vài tin tức liên quan tới Giáo xứ, và nhất là Ông Thiện – Ông Ác kia.
Vì chiều cao thiếu trước hụt sau của chị Sáu nên Andrew Hồ vô mua một mình.

Đến chừng trở ra, chị dòm cậu em mà sửng sốt hỏi:
– Ủa? Giỗ quải gì mà mua vịt quay nhiều dữ vậy cậu Long?
– Tôi mua cho nhà chị đó chứ.

Nếu gia đình chị sống riêng, tôi chỉ mua một con thôi.

Đằng này nguyên cánh nhà nội ở chung gần hết, nên phải chia mỗi hộ một con cho họ khỏi đâm thọt.

Tôi còn mua cho bà nội một con để mấy người kia khỏi sợ bị mất phần.
Chị Sáu phá lên cười, làm thằng nhỏ giựt mình cũng ngây thơ cười theo.
– Trong nhà thờ thì họ tỏ ra ngoan Đạo lắm, vừa vắng người ngoài là coi vợ chồng tôi như Judas.

– Điện thoại chị hết pin hay gì mà không gọi điện cho chồng chị hay một tiếng?
– Thôi chết…!Hồi nãy đi gấp quá nên không kịp sạc pin…
– Không sao.

Đưa máy cho tôi sạc giùm.
– Dạ.
Rồi ngập ngừng, chị Sáu hỏi:
– Cậu tài hoa nho nhã như vầy mà vẫn lẻ bóng sao?
– Tôi không muốn cưới vợ, kết hôn sinh con khiến tôi thấy phiền, tôi quen đời lang bạt với các chiến hữu như thế này rồi.
Nói đến đây, hai người không còn biết nói gì nữa.

Một bên là gái có chồng, một bên đang nặng gánh ưu tư, cả hai đều có điểm chung là sợ bị dị nghị và điều tiếng.
Trở về Giáo xứ vào lúc bảy giờ tối nên chị Sáu sợ chồng và cánh nhà nội sẽ chì chiết mình hết lời.

Chị đem theo tâm trạng rối bời như vậy cho đến tận lúc tới nhà.
– Ủa em?
Sáu Quới mừng rơn khi thấy vợ con bình an trở về.

Chú hấp tấp bồng con giùm vợ, rồi đưa vai làm chỗ dựa cho vợ có thế bước xuống.

Nụ cười trên môi chú tắt lịm khi biết người cho vợ con mình quá giang xe là Andrew Hồ.
– Cảm phiền Thầy Sáu xách phụ vịt quay với tôi.
– Tôi nhớ là tôi đâu có đặt…
– Tôi biếu, được không?
Do nghe tiếng dép của bà nội nên Sáu Quới gắng gượng làm vui mà xách ba con vịt vô nhà; chín con còn lại thì hết bảy con do Andrew Hồ xách.
Nội nằng nặc mời Andrew Hồ vô nhậu với con cháu mình.

Nhưng Andrew Hồ lấy cớ cuối năm phải ở lại công-ty tăng ca nên phải về liền.

Dù buồn song nội không để lộ ra mặt.

Trước lúc rời khỏi xóm Đạo, Andrew Hồ chạy ngang qua nhà cố Phêrô Toàn để vấn an ông trùm vài câu.
Đến nơi thì thấy cố đang ngồi uống trà với Cha Thành và Simon Tử, nên Andrew Hồ về sở làm luôn.

oOo
Trước cái ngày kinh hoàng đó một bữa, Kiều Xuân đã gởi cho Stephen Đoàn bài hát “Tất cả cho anh” do Ngọc Lan ca, theo như anh biết thì chính cô ca sĩ xinh đẹp ấy đã đặt lời Việt từ tình khúc “Virve pour Toi, Mourir pour Toi” của đôi tác giả Christian Gaubert – Pierre-André Dousset.

Trong đó có đoạn:
“Hỡi chàng, tha thứ giùm vì đã trót yêu anh
Mối tình lôi kéo chàng mất bao ngày xanh
Nếu tình không đến vội, anh sống rất êm đềm
Đời không vướng u buồn, tháng ngày ấm êm…”
– Tao nói là tao không có cắt tay tự tử.

Tại sao tụi mày lại hè nhau vu khống tao hả?
Một bác sĩ huých vai anh bạn đồng nghiệp, ý chừng ra hiệu cho anh ta chích thuốc an thần cho bịnh nhân.
– Không được chích.

– Stephen Đoàn đứng chắn trước mặt Kiều Xuân.

Anh nào hay giờ đây khuôn mặt mình y chang ông già nhà anh, cũng hung ác và sắc lạnh như thế.
– Bịnh nhân…
– Năm xưa là thằng khứa nào nói mẹ tôi chỉ cần thêm một đợt hóa trị là dứt chứng ung thư? Nếu như không nghe lời đám ngành Y các người, mẹ tôi đâu có chết trong đau đớn và khổ sở như thế này.

Đã biết không trị khỏi thì thôi đi, hãy tha cho người ta về quê an dưỡng với gia đình và gặp mặt thân nhân lần cuối, đằng này giữ rịt lại bệnh viện để moi tiền bảo hiểm của người ta.
Đội ngũ nhân viên y tế mím môi nhìn Stephen Đoàn.
– Còn anh nữa…
Người bác sĩ chỉ vô mặt mình mà tỏ vẻ chưng hửng.
– Để cho bệnh nhân nói, đừng có chặn họng người ta bằng liều thuốc an thần của anh, anh đâu phải là phát-xít hay thứ dòng theo chủ nghĩa vô thần độc đảng mà độc tài quá vậy? Nếu vẫn còn ôm khư khư mớ kiến thức học được ở trường, các người vĩnh viễn chỉ là thầy thuốc chứ không bao giờ được công nhận là lương y đâu.

Bộ giống đách gì cũng y hệt những tình huống thực tập ở trường sao hả?
Rốt cuộc, dưới sự ngăn cản và quát tháo của Stephen Đoàn, đội ngũ nhân viên y tế quyết định tạm thời lui xuống.

Vừa rời khỏi phòng, bác sĩ trưởng liền cắt cử y tá cố gắng lui tới trước cửa phòng này càng thường xuyên càng tốt để tránh xảy ra chuyện bất trắc đối với bịnh nhân; những gì mà thằng khứa đó nói đã lay động tâm trí chú, hình như chú đang bắt ép bịnh nhân chớ không phải là đi điều trị cho họ…
– Cảm ơn anh.
Stephen Đoàn hỏi trong lúc ghé mắt dòm qua lỗ mắt mèo gắn trên cửa:
– Xuân nói cho tôi nghe, căn cớ làm sao mà Xuân lại nằm trong vũng máu vậy?
Kiều Xuân rũ mắt thuật lại:
– Em đang ngồi gọt củ cải để má em nấu nước lèo, thì bỗng nhiên em bị xỉu ngang, tới chừng tỉnh dậy thì thấy mình nằm trong đây…!Ai cũng đồn em tự vẫn.
– Xuân uống thuốc thường hôn?
Kiều Xuân chột dạ:
– Em định gọt xong củ cải mới uống thuốc.
“Ngoài song, trăng ghé vào thăm
hai người đưa mắt ngó nhau thật buồn.”
– Trăng đẹp quá anh.

Trăng gần Rằm.

Trăng méo xẹo như mặt của em.

Nhưng nó sáng rỡ hơn cuộc đời của em nhiều.
– Xuống lầu ngắm trăng không?
Kiều Xuân e lệ gật đầu.

Trong đêm trăng sâu thẳm, đôi bóng của họ hòa vào nhau trên những hành lang dài thườn thượt.

Tiếng xe lăn-bánh vang lên rin rít chói tai, đôi lúc Stephen Đoàn phải ngừng lại để sửa bánh xe và nhấc chiếc xe lên để chuyển hướng, nhìn tướng anh ròm ròm vậy chứ chuyện chi nặng nhọc trong Giáo xứ anh đều can dự hết – kể cả phần Xác và phần Hồn.

Điệu cười của Kiều Xuân vang lên nho nhỏ như âm thanh của chuông gió.
– Xin lỗi, nhưng anh đưa cô này đi đâu vậy?
Người lính gác chặn họ lại có dáng hơi gầy, nhưng tay chân săn chắc và rắn rỏi, coi bộ vó xứng danh con nhà binh lắm.
Stephen Đoàn nhã nhặn trả lời từng câu hỏi của người lính gác.

Trong lúc nghe anh nói, anh ta để ý sắc diện của Kiều Xuân, chừng như muốn coi ý nàng ra sao, rằng tình nguyện đi theo hay bị cưỡng ép bắt cóc.
– Rất cảm ơn anh vì đã hợp tác với chúng tôi.
Sau cái bắt tay thân tình với người lính gác, Stephen Đoàn tiếp tục đưa Kiều Xuân ra “vườn thượng uyển” – Đây là mỹ danh mà các nữ quân nhân và vợ hay ghệ của mấy ông nhà binh đặt cho khoảng đất trống này, ở đây không chỉ có hoa mà còn có cả rau cải – trái cây, nhờ vậy mà bếp ăn Y Viện và tiền đi chợ của mỗi gia đình quân nhân tiết kiệm được kha khá tiền.
Stephen Đoàn đẩy chiếc xe lăn mà Kiều Xuân đang ngồi lại gần một luống hồng bừng sắc.

Dưới ánh trăng mơ huyền, từng khóm bông như được thếp lên một lớp nhũ vàng óng ánh.

Trong số đó, có một đóa hoa đẹp nhứt, chúng mang sắc hồng nhung thắm nồng, hương thơm dìu dịu thoảng bay mà cần gió động.
Bỗng nhiên, Stephen Đoàn thổi một khúc khẩu cầm.

Âm thanh du dương ấy dìu dặt con tim Kiều Xuân vào một cõi uyên nguyên phước hạnh.
– Anh chơi bài gì dạ?
– “Mon amie la Rose” do nhạc sĩ Cécile Caulier phổ từ thơ của thi sĩ Jacques Lacôme.
Ngừng một đỗi, Stephen Đoàn mới nói:
– Tôi thích nghe bài “Như nụ hồng” do Ngọc Lan ca lắm, đây là lời Việt của ai thì tôi không rõ.

Ngoài ra còn có bản “Nụ hồng mong manh” của ca sĩ Thanh Lan, “Nàng Hồng Hoa” của nhạc sĩ Phạm Duy, “Hoa hồng Tình Yêu” của nhạc sĩ Lê Xuân Trường.
Trước lúc mất, mẹ tôi đã nghe thi khúc này.

Kiều Xuân nhìn chàng Linh mục bằng ánh mắt ngơ ngác.
– Xuân đói chưa?
– Dạ, hơi hơi hà.

– Vậy để tôi ra mua cho Xuân chút gì nghen?
– Dạ, đi đường cẩn thận nha anh.
Stephen Đoàn nở nụ cười trấn an Kiều Xuân.
Biết Stephen Đoàn ra ngoài mua đồ ăn, vài người lính gác nhờ anh mua giùm họ một phần.

Anh bèn mở sổ tay ghi chép lại ý ăn – nếu uống theo khẩu vị từng người để tránh mua trật.

Với cử chỉ này, anh đã lấy được cảm tình của họ, dẫu lát nữa anh có mua lộn đi chăng nữa họ vẫn vui lòng nhận và trả tiền đàng hoàng.
Trước lúc qua Quận Tám mua đồ ăn khuya, Stephen Đoàn tắp vô một cây xăng để bơm đầy bình.

Cũng may cây xăng này còn hoạt động và không hết xăng nên anh mới thoát kiếp dắt bộ thâu đêm.

Nhắc tới xe cộ mới nhớ, nhiều Giáo dân ngỏ ý trang trí và sơn lại màu cho chiếc xe Piaggio ghi xám của anh, nhưng anh từ chối hết, cái màu xe này nó hợp với cuộc đời anh nhất, xam xám tăm tối bất định như mây vảy rồng báo bão.
Nhìn hình tướng bất hảo của chàng tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, người nhân viên nghi ngại cầm cây viết kiểm tra tiền mà săm soi tờ tiền mấy bận.

Đến lần thứ năm, người đó mới chịu mở giỏ lấy tiền thối.

Còn dư bao nhiêu tiền thối, Stephen Đoàn để vào cái nón kết của một thằng nhỏ bán vé số đang dựa lưng nơi gốc cây trứng cá mà ngủ gà ngủ gật.

Ngó bộ dạng ma cô của anh, nó hết hồn hết vía tưởng đâu có anh Hai nào phái người tới đây biểu mình đóng tiền “toàn mạng”, nên quýnh quáng la làng lên.

Chừng thấy mấy tờ tiền trong cái nón kết, nó mới tẽn tò xin lỗi anh rối rít.

Anh tự biết tướng mạo của anh không giống với con nhà tu mà là nhà đạo tặc, nên chỉ cười tươi và chúc nó ngủ ngon.

Khu chợ đêm bên Quận Tám rộn rịp khôn tả.

Stephen Đoàn phải gởi xe ở bãi giữ chứ không thể “người đâu của đó” được.

Sau một vài vòng dạo chợ, anh mới mua được những món ăn – đồ uống mà mấy người lính ấy đặt, cũng như chọn cho mình và nàng đồ ăn vừa miệng hai người.
Lúc anh trở về nàng đã thiếp ngủ.

Đôi má phúng phính đã hao mòn dần theo năm tháng yêu anh, thà nàng cứ điên như ngày xưa, cứ huyễn hoặc bản thân sắp chết cho rồi, yêu anh làm chi…
Không nỡ lay nàng tỉnh dậy, Stephen Đoàn lặng lẽ mở hộp súp óc heo ra ăn.

Anh không thể nào hiểu nổi tại sao Trì Thương lại có thể thoát khỏi cạm bẫy Ái Tình thế tục, đâu phải là nhờ thứ “Vong tình thủy” kia, nhưng bởi do căn cớ nào thì anh chịu thua.

– Anh về rồi hả? – Vừa nói, Kiều Xuân vừa vươn vai duỗi người.
– Ừm…!Súp còn âm ấm, Xuân ăn đi kẻo nó nguội luôn.

Bỗng Kiều Xuân kể:
– Em với anh y như cái bài “Mùa Đông của anh” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh.

– Phải, tình khúc này được song ca Duy Quang – Ngọc Lan ca hay lắm.
Rồi Kiều Xuân nói mà như mếu:
– “Em chỉ là người điên trong vườn hoa Tình Ái…”
– “Anh chỉ là người say bên đường Em nhìn thấy…”
Stephen Đoàn vén mái tóc mai lòa xòa trước trán Kiều Xuân, rồi khe khẽ nói mà như đang hát:
– “…!Em hỡi em, có phải tình băng giá là tình đẹp đôi chúng ta?”
Kiều Xuân nắm lấy bàn tay lạnh ngắt của Stephen Đoàn mà áp lên má nàng.

Giọt lệ trong mắt nàng đã đọng lại trên tay chàng:
– Dạ, vốn dĩ “Những cuộc tình dương gian muôn đời không nghĩa lý.

Nhưng người còn tìm nhau trong vòng tay tình ý…” mà.

Hộp súp ăn dở bị bỏ lại trong sọt rác.

Stephen Đoàn đưa “Người đi qua đời tôi” về phòng dưỡng thương.

Đợi nàng ngủ rồi, chàng sẽ…!chàng sẽ…!Không biết Ignacio Cường sẽ mần thịt anh ra sao, tự nhiên anh nhớ tới biến thân Narasima của Chúa Vishnu, nên bật cười khúc khích.

Bất quá thì “móc tim” và “uống máu” anh thôi.

Chỉ khổ cho ông Thầy Sáu nhát cáy, chắc chiều giờ run như cầy sấy và đang “gọi hồn” anh về dữ lắm.

“Mỹ ơi, Mỹ ơi, Cha đâu rồi.

Mộ kia đề tên con đó sao?”
– Nín.

Hết cha nội kia làm Lam Phương, giờ tới ông làm Trần Thiện Thanh hả?
– “Ôi con buồn con ca nghêu ngao có vài câu…”
– Giờ lại tới Phan Huỳnh Điểu.
Ignacio Cường gọi điện cho người bạn đồng quản xứ.
Sau vài lần “chuông đổ chiều xa”, rốt cuộc ông Cha Phó cũng chịu bắt máy.

Gọi cho ổng mà tưởng đặt lịch hẹn với Đức Giáo Hoàng!
– Tôi đang ở Tổng Y Viện Dân Chủ, chắc sáng mai người nhà của người ta lên thăm nuôi thì tôi về.
Ngó qua Louis Quế, Ignacio Cường thấy chú ta đang vểnh tai chuột lên mà nghe lén.

Coi bộ ba chữ “Tổng Y Viện” đã làm ông Thầy Sáu bớt lo trong dạ, vì chú nghĩ rằng ở đó chỉ có thể là quân nhân hay thân nhân của họ mà thôi, không phải đi bồ bịch – trai gái chi sất.
– Rồi sao rồi, tỉnh chưa?
– Truyền gần hai bịch máu.

Cũng may không phải nhóm máu hiếm.

Ngủ rồi.
– Chừng nào về?
– Về liền.
– Ừ, ban đêm cô hồn hay đua xe, lái xe cẩn thận đó.
Tiếng cười của Stephen Đoàn vọng sang bên tai Ignacio Cường và Louis Quế.

Từ tiếng cười tới tiếng nói, nếu không nhìn thấy khuôn mặt của chàng ta, ai cũng dễ lầm tưởng chàng hết sức khôi ngô và tuấn tú.
Kết thúc cuộc gọi với Stephen Đoàn, Ignacio Cường thở phào nhẹ nhõm rồi đi lấy thuốc giảm nhức đầu uống.
– Cha, Cha.
– Chi nữa? – Ignacio Cường hỏi trong khi hứng nước ấm từ máy làm nước nóng – lạnh.
– Uống thuốc bao tử trước Cha.

Chiều giờ Cha có ăn cái gì đâu…!A, để tôi chạy về nhà coi có món chi ăn được không, tôi đem qua cho Cha liền.

Đừng có uống thuốc giảm đau nha, hổng có gì trong bụng uống vô cào ruột ói chết.
– Dạ, con nghe rồi, ông Sáu “thăng” giùm con.
Uống thuốc bao tử xong, Ignacio Cường lên nhà trên ngồi đợi Louis Quế.

Tay anh lần chuỗi Mân Côi và miệng thì lầm rầm đọc bài Kinh cùng tên.

Anh đã thảo xong điện thơ cho Đức Cha Gabriel – Đinh Thái hồi lúc tám giờ tối, chỉ cần gởi đi mà thôi, song anh không muốn làm như vậy vì chẳng khác nào đi đấu tố Stephen Đoàn, thành ra anh sẽ chờ cái gật đầu đồng ý của anh ta, còn nếu anh ta không chịu thì thôi.
Lần hết đợt này qua đợt khác, mà Sáu Quới vẫn “bặt vô âm tín”.

Có lẽ chị Sáu đã ăn sạch sẽ rồi, chị than rằng hồi đó đâu có ăn nhiều dữ vậy, mà từ ngày sanh thằng Năm tự nhiên mắc chứng ăn vô độ, đêm nào cũng phải xuống bếp ăn phình bụng mới đi ngủ được.

Thời may ban ngày chị làm việc không ngơi tay nên vóc dáng chỉ hơi tròn lẳng và không bị bịnh đường huyết – mỡ máu.

Vừa tính nhớm người lên để đi lại nhà Sáu Quới hỏi một tiếng, rằng nếu nhà của ổng hết món nấu sẵn thì anh sẽ ra ngoài xứ tắp đại tiệm nào ăn luôn, khỏi mắc công đày ải người ta nấu cho mình; thì anh đã thấy chiếc xe Piaggio của Stephen Đoàn rọi đèn sáng rực khoảng sân trước tu xá.

Mùi đồ ăn thơm phức làm bao tử của anh thêm cồn cào.
– Tôi có mua súp thập cẩm bỏ thêm óc heo cho anh và vợ chồng Thầy Sáu.

Riêng anh thì được thêm một hộp cơm tấm thập cẩm.
– Sắp chết…
– Sao vậy?
– Chiều giờ không có ăn cái gì hết.

Để tôi gọi cho cha kia qua lấy mấy bịch súp.

Viện cớ đang mệt trong người nên Ignacio Cường lịnh cho Louis Quế về nhà.

Thắc mắc chuyện chi thì sáng mơi giải quyết, còn bây giờ làm ơn để cho anh yên.
Trước lúc tự giác ra về, Louis Quế càm ràm:
– Ông mà ra tranh cử tổng thống chắc cái dàn cố vấn của ông treo cổ hết.
Chừng khi bóng dáng của Louis Quế khuất dạng, Ignacio Cường mới đưa cho Stephen Đoàn bức điện thơ mà anh đã thảo.

Trong lúc đợi anh bạn đọc xong, anh mở hộp cơm ra ăn trước, “có thực mới vực được đạo” mà.
Sau khi đọc tới đọc lui năm lần sáu lượt, Stephen Đoàn trả lời Ignacio Cường:
– Gởi đi.

Ignacio Cường liền làm theo lời anh bạn đồng tu.

Đoạn nói:
– Có thể tôi sẽ bị treo Chén cùng anh.
Stephen Đoàn rũ mắt xuống, dường như không dám đối diện với người bạn thiết.
– Những người tiếp theo bị liên lụy là Thầy Augustino Dương và Thầy Matthias Hoàn cùng Linh mục Henrico Thạnh.

Hồi nãy tôi có gọi điện cho thằng chả rồi, tôi nghe chả cười mà tưởng đâu chả đang minh họa cho bài “Nụ cười chua cay” của nhạc sĩ Tú Nhi – Chế Linh.

Canh ba gà gáy um sùm.

Giáo xứ nửa quê nửa phố nên hãy còn nghe thấy tiếng gà gáy, vịt thả đồng há mỏ hối hả chạy và sáo sậu kêu réo vang trời; thậm chí trên những tàng cây rậm lá, người ta còn thấy chim chóc vờn bay quanh tổ và sóc nâu chuyền cành lia lịa.

Ngoài trời vẫn mịt mờ mây mù, gió lạnh góp phần giúp màn sương bao trùm lấy xóm Đạo, trên thinh không có lấy một chấm sao leo lét.

Những ai mở quán đều đã thức dậy sửa soạn chuẩn bị, xe cộ giao đồ qua lại lưa thưa, người đi đường lác đác vài bóng; thành ra bầu không khí ở đây về đêm tuy quạnh quẽ nhưng không có cảm giác u buồn hay đáng sợ.
Cũng trong khuya đó, Trần Cảnh Chiêu ở lại nhà xác để khám nghiệm tử thi mất hết nội tạng và giác mạc, kể cả tinh hoàn.

Không biết ai chơi chó với anh mà đã sửa tung bản khám nghiệm hôm bữa, dường như trên cái xác có ẩn chứa manh mối gì đó để Tổ Trọng Án có thể lần ra tung tích của kẻ cầm đầu đường dây kền kền này.
– Chưa về hả con?
– Dạ, chưa Thầy.

– Con nghĩ sao về vụ của cô Kiều Xuân?
– Dựa theo kết quả giám định vết thương, thực sự Kiều Xuân bị cắt cổ tay chứ không phải tự rạch.
Quý Tâm lấy tay đỡ cằm mà nghĩ ngợi.
– Vì cánh tay của cổ vẫn còn hằn lại một vệt bầm tím nằm ở phía trên vết cắt chừng năm phân rưỡi.

Người này phải là nam giới rất khỏe mạnh mới có thể khống chế được cổ và ra tay dứt khoát như vầy, tức là một nhát là lấy mạng luôn.
Với một người muốn tự tử, theo phản xạ tự nhiên của cảm xúc con người, họ sẽ không đủ bình tĩnh để tự tạo ra một vết rạch đẹp giống vầy đâu.

Thông thường họ sẽ rạch đại một đường và đương nhiên vết rạch ấy sẽ có “độ run” rất rõ ràng.
– Nhưng, nếu như đó là một người mắc phải hội chứng đa nhân cách thì sao?
Martin Chiêu thở dài thườn thượt:
– Bây giờ phải mượn tay Cha Mỹ để bắt cổ làm kiểm tra tâm lý.


Sáng cùng ngày hôm ấy, Kiều Xuân đón một người bạn gái lên thăm cô.

Mấy ông lính canh ngoài cửa thấy Quế Trân rất ngộ nên níu lại chòng ghẹo vài câu; vốn dạn dĩ nên nàng ta đâu có ngán ai, khứa nào bỡn một câu thì cô bốp lại một câu, cứ vậy mà câu chuyện dài mãi ra.

Chờ đâu thêm mươi – mười lăm phút nữa, Quế Trân mới vô phòng cô được.
– Phù…!Triệu Tử Long đã cứu ấu chúa thành công.
– Tánh tôi mà được như bồ thì đỡ cho tía má tôi quá.
– Trời ơi, tía má tui chửi tui khùng hoài…!Uống nước dừa hôn?
– Ủa? Bồ đem dao vô đây được hả?
– Chời quơi, ai mà cho? Tui chặt sẵn ở nhà, chế hết nước với cơm vô cái ca, rồi bỏ vô cái giỏ đệm đặng đem tới đây cho bồ uống nè.

– Rồi sáng giờ có ăn gì chưa?
– Rồi, má bồ làm cho tui một tô bánh canh ăn no ứ hự.
– Dzậy mà hổng chịu đem lên cho người ta ăn ké với.
– Thôi đi bà ơi, Sài-Gòn thiếu cha gì chỗ bán đồ ăn ngon mà bà nỡ lòng nào đía tui như dzậy?
Để tránh con gái bị thêm điều tiếng với chòm xóm, chú thím Năm và mấy anh của Kiều Xuân giả đò chơi tình quờ.

Hễ ai hỏi cô bị gì, là họ sẽ đáp rằng, “Ôi, nó trợt chân té nên phải lên thành phố chữa trị vài tuần.

Chỉ bị sái chưn, lỗ đầu nên tụi tui không cần lên thăm gấp.” Có người tin, có người không, nhưng tựu trung người nào người nấy cũng biết điều nên không vặn hỏi chi nữa.
Cửa phòng đột nhiên bật mở.

Người tới là Ignacio Cường, Kiều Xuân buông rơi nụ cười theo cái té ngồi lại giường.

– Cháo lòng, mua thêm chén huyết chưng về cho cô đây ăn bổ máu.

Stephen Đoàn dặn tôi mua giùm cho cô.
Nói đoạn, Ignacio Cường nhoẻn miệng cười.

Mỗi khi anh cười rộ lên sẽ thấy rõ hai lúm đồng tiền trên đôi má.

Tiếc rằng những phút giây ấy thật hiếm hoi và ngắn ngủi.
Kiều Xuân vừa ăn hết tô cháo, Stephen cũng vừa tới.

Đi cùng chàng tu sĩ là pháp y Chiêu, với thân phận một người Giáo dân.

Thể theo lời khuyên của Martin Cảnh, anh sẽ đưa Kiều Xuân đi làm trắc nghiệm tâm lý.

Bác sĩ tâm thần ấy là nữ và đã về hưu, thành ra cuộc gặp gỡ giữa nàng và bà ấy chỉ như là một buổi tiệc trà nho nhỏ giữa hai người, do đó sẽ không khiến nàng nghi ngờ hay phản kháng dữ dội.

Để bảo đảm an toàn, cũng như giữ bí mật, cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra ở vườn thượng uyển; nếu như không có gì bất trắc, cuộc gặp gỡ sẽ tổ chức vào lối ba giờ chiều.

Nghe người thương thuyết phục như vậy, Kiều Xuân gật đầu chịu liền.

Dầu sao cũng chỉ là một cuộc gặp gỡ qua đường thôi mà, nếu không thích thì viện cớ mệt trong người để kết thúc sớm thôi.
Vì có hẹn với Thầy Matthias Hoàn và Thầy Augustino Dương nên hai chàng Cha xứ trung niên xin phép về sớm.

Hai nàng chẳng ai níu lại, đã vậy còn chúc họ đi đường mạnh giỏi nữa.
Quán cà-phê mà hai chàng chọn nằm ven một bờ kinh liễu rủ bên Quận Thủ Thiêm.

Quận này được dành làm nơi trồng cây gây rừng, “ống dẫn thủy” thiên nhiên và bảo vệ ven bờ sông nhằm ngăn sạt lở; thành ra diện tích rất nhỏ và dân số khá ít, quán xá cũng hết sức thưa thớt, nên không gian trong lành và thanh tịnh như ở dưới quê.

Chưa bước vào trong quán mà hai chàng đã nghe Don Hồ trình bày nhạc phẩm “Bài Tình ca Xuân thắm”, nhạc sĩ Quang Nhật đặt lời Việt từ ca khúc “Lamour cest pour rien” của ca – nhạc sĩ Enrico Macias.
– Ở đâu cũng gặp Xuân hết.

– Ignacio Cường lắc đầu ngán ngẩm.
– Chẳng lẽ anh muốn “Mùa Xuân không còn nữa”?
– Với nhiều người thì Tết này ca bản đó hạp lắm.

Ông chủ quán vừa nói vừa lặt lá của cây mai mọc góc phải cổng chào của quán.

Một người khách nam chợt hát khe khẽ:
– “Anh cho em trái phiếu.

Trái phiếu là giấy lộn, tan nát đời em luôn…”
Ông chủ quán quay qua hỏi người khách đang ngồi theo dõi diễn biến sàn chứng khoán mà cười hỏi:
– Không biết năm nay quân nào chế cháo lại bài “Anh cho Em mùa Xuân” của đôi tác giả Nguyễn Hiền – Kim Tuấn há mày?
– Ôi…!Ca sĩ, ca lẻ thời nay con đâu để ý.

Muốn hòa âm thành nhạc vũ trường cũng được.

Con nỏ có bận tâm mô.
Bà chủ quán đon đả rước hai ông Cha vô trong cửa tiệm.

Vì nắng hắt vào quán quá chói chang nên phải nheo mắt một hồi hai chàng mới thấy hình hài của hai vị Linh mục tuổi hạc.

– Tao ngồi một đống ở đây mà hai bây không thấy hả?
Ignacio Cường đáp:
– Mặc đồ đen, ngồi ở góc khuất trong bóng râm, lại gặp ngoài trời nắng dữ, sao mà tụi con thấy Thầy nổi?
– Bớt bớt cái mỏ lại đi Dương.

– Matthias Hoàn vỗ vỗ vai thằng đệ.

– Uống gì mấy cưng?
Stephen Đoàn gọi một ly đá bào rưới si-rô sâm dứa và sữa đặc, còn Ignacio Cường kêu một ly trà gừng mật ong nóng.

– Đức Cha hỏi tụi mình muốn gặp Ông ở đâu?
– Gặp ở nhà con đi.

Sẵn con mời ăn điểm tâm sáng luôn.
– Jesus – Ma! Mày ở đâu ra vậy Thạnh?
– Con kiếm hai cha nội này không gặp, nên lại hỏi ông Sáu, ổng chỉ tùm lum tà la, con bực quá mới ghé trường Dòng tìm hai Thầy, từ từ mới phăng ra được chỗ này.

Bà chủ quán đang bán ế nên thấy khách mới vô thì liền mừng ra mặt.

Vẫn cái giọng ngọt sớt, bà hỏi cậu trai ấy muốn uống gì, thì anh ta trả lời một ly nước mía – thơm – cam – hạnh.
– Mày đi làm điệp viên được rồi đó.

– Augustino Dương tặc lưỡi.
– Rồi sao, chuyện của tui sao?
Ignacio Cường khoanh tay mà thở dài:
– Thì tôi với anh cùng hai Thầy đây gánh tội đồng lõa chứ sao.

Nhẹ thì bị phạt, nặng thì treo Chén – Tùy vào lòng thương xót của Đức Cha Thái mà tụi mình sẽ bị tạm thời hay là vĩnh viễn.
Henrico Thạnh chán nản khoát tay:
– Dẹp chuyện chén – đũa qua một bên đi, cô Xuân sao?
– “Xuân vẫn còn Xuân”.

– Augustino Dương mai mỉa.
– Giờ mày còn hát nữa hả Dương?
– Ca đâu, móc họng mà?
– Trời ươi…!Mày ơi là mày…!Không thể nào nghiêm chỉnh một xíu nào sao?
– Tôi mà nghiêm chỉnh là được điều đi quản xứ từ lâu rồi.
Rồi đó, không ai bảo ai, người nào người nấy lặng trang uống nước và ngắm cây kiểng cùng nghe bầy sáo sậu huyên thuyên với nhau.

Ông chủ quán đang chơi cờ tướng với người đàn ông sống bằng nghề “ôm sàn”; càng đánh càng hăng, lúc này hai người đã lớn tiếng khích bác nhau, bác gái nói mãi họ mới chịu nhỏ tiếng chút.

Bỗng dưng, Augustino Dương vỗ đùi cái độp mà la lên hỏi:
– Tính làm Mộ Dung Phục hay sao mà đòi lên núi Cô Tô hoài vậy?
Ignacio Cường bỡn:
– Lên đó để lùng bắt Nhạc Bất Quần.
– Chứ tưởng bây lên đó để kiếm Mai Siêu Phong là tao nghỉ chơi nhà chòi với mày luôn.
Matthias Hoàn bỗng vỗ đùi cái đét:
– Sáu Quới đâu rồi?
– Nhiều chuyện quá cho ở nhà giữ con rồi.

– Ignacio Cường đáp gọn lỏn.
Sau một cuộc thảo luận nặng nề, mọi người tản ra giải quyết tiếp chuyện riêng của mình.

Matthias Hoàn và Augustino Dương trở về trường dạy học.

Stephen Đoàn ở lại nhà thương để trông coi Kiều Xuân.

Henrico Thạnh ghé nhà tía má.

Còn Ignacio Cường thì tới thăm gia đình một Giáo dân có đứa con trai đang cai nghiện ma túy ở Đan viện Thủ Đức.
– Có muốn đi chung với tôi không Cường?
Ngó chiếc xe taxi một hồi, Ignacio Cường mới trả lời, “Không.”
– Vậy có muốn để tui chở hôn?
Ignacio Cường vẫn lắc đầu từ chối.
Rồi đó, chiếc taxi nổ máy rời đi; chở theo Augustino Dương, Matthias và Stephen Đoàn, riêng Henrico Thạnh thì về nhà bằng chiếc xe gắn máy phân khối lớn của mình.
– Chưa kiếm được xe hả cưng? – Bà chủ quán ân cần hỏi.
– Dạ, tôi tính đi xe ôm.
Nghe vậy, ông chủ quán liền chỉ vô trong góc quán mà lớn tiếng giới thiệu:
– Đó, nó chạy xe ôm mướn đó.

Sáng giờ ế quá nên vô đây ngồi chờ thời.
Người đàn ông đáng tuổi chú anh xô ghế đứng dậy, rồi hớt hải chạy lại mà đưa nón bảo hộ cho anh, chẳng đợi anh nói một lời nào hết.
– Năm hết – Tết đến, đi giùm tui để tui kiếm tiền nuôi gia đình nghen cậu?
– Dạ.

Rồi tiền bạc sao chú?
– Thì người ta lái xe cho hãng lớn bao nhiêu thì tui lấy y chang dzậy hà.

Nếu lẻ tẻ vài đồng, tui còn bớt nữa là…
– Vậy thì con đi.
Chiếc xe gắn máy mà chú tài-xế sử dụng làm “cần câu cơm” có hiệu “Kymco” đời 2013, phủ sắc đen bóng loáng, bửng xe còn gắn thùng đựng để tiện cho việc cất đồ của khách hoặc đi giao đồ ăn – thức uống cho người ta.

Nghe điểm đến khá xa, chú tài-xế mừng húm, coi như bữa nay ông chỉ cần chạy thêm vài chuyến xe nữa là được về nhà sớm để rước cháu nội giùm vợ chồng thằng Hai rồi.
Sau vài phút bợ ngợ không dám bắt chuyện vì mặt mày cậu khách ngầu quá, rốt cuộc ông cũng làm gan mà hỏi bâng quơ cậu khách vài câu.

Và rất ngạc nhiên bởi thái độ thân thiện của cậu.

Cậu này mà chịu cười lên ắt sẽ đẹp trai dữ lắm, hổng hiểu sao mà cái bản mặt cứ nghiêm nghiêm hoài.
Áng chừng một tiếng sau, Ignacio Cường mới tới được con hẻm đó.

Kẹt xe kinh khủng.

Chạy tới đâu mùi mồ hôi và tóc cháy xộc vô mũi đến đấy, cộng thêm hương dầu thơm rẻ – mắc hỗn tạp, keo vuốt tóc hăng hắc và phấn son nồng nặc, nên khiến chàng tu sĩ bị nhức đầu; do đó anh phải nhờ ông xe ôm tắp vô nhà thuốc tây để mua đỡ một cữ thuốc giảm đau liền, thành ra phải tốn gần một giờ đồng hồ anh mới ghé được đây.
– Chú bỏ con xuống đây đi…!- Vừa nói, Ignacio Cường vừa mở bóp lấy tiền.

-…!ở trỏng toàn dân ba đá, bốn đá không; chú vô đó mắc công bị “hỏi thăm” lắm.

– Vậy hả cậu?
– Dạ…!
Đưa tiền xong, Ignacio Cường đi một hơi vô hẻm.

Không quên giơ tay lên vẫy với chú tài-xế mà rằng, “Khỏi thối.”
Nhà của gia đình Giáo dân ấy nằm ở giữa dãy nhà bên cánh tả, trước cổng có gắn một cây Thánh giá nên cũng dễ kiếm; thành ra chỉ mất hơn nửa tiếng lội bộ rã giò, Ignacio Cường đã tìm thấy nó.
Bà cụ đang nằm trên cái võng đặt trên hiên nhà mà nghe tuồng cải lương “Mùa Xuân ngủ trong đêm” của hai vị soạn giả Nguyên Thảo – Vân Hà; tuồng này đôi nghệ sĩ Minh Vương – Lệ Thủy đóng chánh, những nghệ sĩ diễn vai phụ lần lượt có tên như sau: Thanh Kim Huệ, Thanh Sang, Thanh Thanh Hoa, Phương Bình, Phương Thanh và Văn Hường.

Chắc các nghệ sĩ ca mùi quá nên nội lim dim luôn rồi, chàng tu sĩ gọi cỡ nào cũng không thấy nội ừ hử lại.
– Trời ơi, má! Cha tới thăm mình mà má hổng biết hả?
Nội hết hồn hết vía ngồi bật dậy.

Cái miệng thằng Ba y như cái bô, nói sang sảng mà tưởng đâu chửi vô mặt nội!
Vừa tra chìa vào ổ khóa, chú Ba vừa rối rít xin lỗi Cha Chánh xứ.

Đáp lại sự khó xử của ông, người trai trẻ ấy chỉ mỉm miệng cười và nói, “Dạ, không sao đâu chú.”
– Cha, uống gì Cha? – Thím Ba mừng rơn chạy ra hỏi.

– Sáng con đi uống cà-phê rồi thím Ba.
– Thì giờ thêm cữ nữa, có sao đâu.

– Chú Ba tặc lưỡi và vỗ vai cậu Cha Sở.
Sẵn tới giờ cơm trưa, vợ chồng chú Ba khẩn khoản mời Ignacio Cường dùng bữa.

Anh cũng không khách sáo, bèn cúi đầu cảm ơn vợ chồng Giáo dân tốt bụng và nội già bị lãng tai.
Bữa cơm trưa đó có món canh bún miền Nam, cá hủn hỉn kho với tóp mỡ, sườn ram, rau lang luộc, dưa giá và đậu rồng xào hột vịt.
Vừa lấy tăm xăm thử miếng bầu nấu trong nồi canh bún đương sôi trên bếp, thím Ba vừa biểu thằng Út chạy đi mua nước mắm.

Nó lèm bèm vài tiếng rồi mới chịu bỏ cái điện thoại xuống mà xách đí* đi mua đồ cho má nó.
Những lời trên lọt vào tay má nó, thím Ba gõ cái vá múc canh vô thành nồi một cái “choang” rồi chỉ lên nhà trên mà la:
– Suốt ngày cứ game, game, game…!Mẹ bà nó, kêu có đi mua chai nước mắm mà nó cũng vùng vằng với tui…
Ông chú Ba cũng phụ họa:
– Thằng lớn thì nghiện ma túy, thằng Út thì ghiền cái điện thoại; tui dạy con sao mà đứa nào cũng hư hết vậy nè?
Ignacio Cường lên tiếng:
– Theo tánh tình của vợ chồng chú thím thì tụi nó hư là tại tụi nó.
Dẫu sao cậu Cha Sở cũng vẫn chưa (và sẽ không) lập gia đình nên bắt cẩu góp ý là một chuyện khó như hái sao trên trời.

Vì vậy vợ chồng người Giáo dân bèn hỏi lảng sang chuyện khác, chủ đề ấy là về đời sống của thằng con trưởng đang cai nghiện tại Đan viện Thủ Đức.

Tình hình không mấy sáng sủa, nó vẫn chứng nào tật nấy như cũ, các Thầy ở đó tính gởi nó đi chỗ “cao cấp” hơn nếu nửa tháng tới nó vẫn giậm chân tại chỗ.

Có tiếng “lạch cạch”, “lạch cạch” mở cổng rào.

Đoán rằng thằng con Út đã dìa, chú Ba tức tốc chạy ù ra sân để kiểm tra thực – hư.

Tết nhứt tới nơi mà trộm xông đất thì oải dữ lắm.
Thấy đúng là nó, chú Ba liền đứng ở ngoài sân mà nói vọng vô nhà với nội dung biểu vợ dọn cơm.
Sau khi đọc Kinh và làm dấu Thánh, cả nhà mới cầm đũa và bưng chén lên ăn cơm.
Thằng Út vẫn dán con mắt vô điện thoại, cơm ăn chẳng được bao nhiêu, canh thì húp được vài muỗng, đồ ăn chỉ gắp được mấy đũa rồi thôi.
“Roạt.”
– Ủa, gì vậy Cha?
– Ăn cơm, hổng có máy móc gì nữa.

Chừng nào xong bữa tôi sẽ trả lại.

Đôi mắt của Y-Nhã Cường long lên như cọp đói nhìn con mồi.
Thằng Út sợ quá hết dám nhèo nhẹo đòi lại.

Đây là một trong những lần hiếm hoi mà nó rời khỏi điện thoại trong bữa cơm.
Thấy nó ăn được hai chén, nội và vợ chồng chú thím mừng muốn khóc.

Nó mê cái máy riết mà thân thể còm nhom, xanh xao vàng vọt.

Ban đầu cũng la cũng chửi, sau rốt mệt quá nên thây kệ nó luôn.

– Con ăn xong rồi, Cha trả máy cho con nha?
– Đi rửa chén, rồi tôi trả.
Thằng Út xụ mặt xuống một đống.

Nhưng cũng phải ráng làm.
– Rửa cho sạch, không được rửa dối.

– Dạ…!- Thằng Út kéo dài giọng.
Ignacio Cường quắc mắt nhìn nó:
– Để cho Cha hiền nghen con?
Thằng Út hoảng vía gật đầu lia lịa.

Rồi không đợi Cha Cọp nhắc nhở, thằng Út tự giác rửa luôn phần của ổng và người thân nhà nó.

Nội cười móm mém trong lúc phe phẩy quạt mo:
– Hầu như đứa con nít nào trong Giáo xứ cũng đều sợ con đó Cường.
– Dạ, con biết rõ mà nội.
Thằng Út đứng xếp ve một bên.

Nó không dám đòi lại điện thoại hay đóng tuồng “Dương gia tướng diễn nghĩa” nữa.
– Đây, điện thoại của cậu đây…!Xin phép nội với chú thím, con về.
Trước lúc bước qua khỏi cổng, Ignacio Cường nói vọng vào trong nhà:
– Ở Giáo xứ có sân banh, muốn chơi thể loại nào cũng có; đừng có suốt ngày ru rú ở trong nhà bấm máy nữa, uổng tuổi hoa niên lắm.
Thằng Út đã thôi dán mắt vô màn hình điện thoại.

Nó đáp nhỏ, “Dạ, Cha.” Rồi cùng bà nội và ba mẹ ngóng mắt theo bóng hình ông Cha Cọp.
Vốn có thói quen tản bộ tiêu thực nên Ignacio Cường quyết định đi vài vòng thăm hẻm.
Tết Ta chưa đến mà chàng tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đã nghe ban “Hợp ca Thăng Long” trình bày ca khúc “Ly rượu mừng” của nhạc sĩ Phạm Đình Chương.

Gia đình mở khúc Xuân ca ấy sống bằng quầy chạp-phô, trên những sạp hàng đã bày đầy đồ Tết.
“…!Hãy chúc ngày mai sáng trời tự do
Nước non thanh bình
Muôn người hạnh phúc chan hòa…”
Đi loanh quanh một hồi, Ignacio Cường phát hiện hóa ra con hẻm này có vô vàn lối ra và đường tắt, nhưng chẳng có đường nào rộng được năm mét, đã vậy còn bị người dân lấn ra mặt đường để bày hàng bán quán, và cũng không có được quá nhiều bóng mát của cây xanh hay tiếng chim thánh thót.

Người với người chen chúc nhau trong những ngôi nhà vuông vức như những cái chuồng mà anh từng thấy trong sở thú.

Thú thật, nếu như không phải là một tu sĩ, chắc có lẽ anh sẽ không sống ở trong hẻm đâu, mà sẽ dạt về vùng ngoại ô sinh sống và làm ăn; nhịp sống xô bồ chốn nội đô chưa bao giờ phù hợp với anh.
Nhưng cũng vì không thạo đường, Ignacio Cường tự đẩy mình vào một cái ngã ba vắng ngắt: Đường thẳng dài thăm thẳm, lại bị bóng cây sanh áng ngữ ở cuối đường nên không biết sau lưng nó là đâu; ở dưới gốc cây có bày một cái miễu và một cái thùng nhôm – chắc dành để đốt giấy tiền vàng mã.

Bên hữu dẫn tới sau lưng một tòa nhà cao tầng, có thể chủ nhà cho mướn theo dạng từng tầng nên anh mới thấy mỗi tầng treo bảng hiệu và hình ảnh quảng cáo khác nhau.

Còn bên tả dẫn tới một khóm nhà dân có diện tích bề ngang khoảng đâu vài mét; trước nhà của căn có cổng rào đối diện với con đường này có trồng một cây cột gắn lủ khủ dây cáp và dây điện, trên cây cột này dán đầy quảng cáo cho vay tiền, mượn nợ “lãi ưu đãi”, hút hầm cầu và khoan cắt bê-tông, khỏi chạy lại coi anh cũng đoán được hết.
Sau một lúc đắn đo, Ignacio Cường tặc lưỡi chọn đại con đường thẳng.
Nhưng đi được đâu chục mét, có một chiếc xe gắn máy chạy vượt qua mặt Ignacio Cường.

Người con gái ngồi đằng sau quay lại hôn gió với anh.

Anh nhăn mặt khó chịu, rồi đành ráng dằn lòng nuốt cơn bực xuống.

Lại có một chiếc xe gắn máy chở hai thanh niên khác chạy trờ tới chỗ Ignacio Cường.

Ánh sáng hắt lên người anh đã khiến anh nhận ra điều bất tường.
“Roạt.”
Ignacio Cường lẹ làng chụp lấy cánh tay của nam thanh niên xa lạ, rồi kéo anh ta xuống xe, khiến cho chiếc xe và người lái lủi vô tường ngăn của con hẻm.
Không để chàng tu sĩ định thần, một toán người cầm mã tấu và ba-ton đã ập tới bủa vây chàng.

“Mãnh hổ nan địch quần hồ”, chàng chỉ đành quơ đại cây đòn gánh mà gánh hàng rong nào đó bỏ quên để chống trả lại.
Những vết thương rướm máu đã xuất hiện khắp thân thể chàng tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế.

Anh có cảm tưởng mình đang chịu hình phạt bá đao mà các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã từng nhận lãnh trong thời kỳ “bài Đạo”.

Anh thu chút hơi tàn gượng dậy mà dốc sức phản đòn.

Có lẽ bản năng sinh tồn đã cứu anh một mạng, hay là Chúa thương mà truyền sức cho anh, mà anh đã hạ gục được vài tên trong nhóm du đãng.

Một tên nhân lúc anh lơ là đã chém xuống ống chân trái của anh, khiến anh mất đà ngã phịch xuống đất.

Đôi mắt anh đã mờ dần đi…
“Đoàng…”
“Đoàng…”
Anh tưởng đâu đám đó bắn chỉ thiên hai phát rồi sẽ bắn chết mình, nên vội vàng làm dấu Thánh Giá trước ngực, đoạn siết chặt chuỗi Mân Côi trong tay.

“Lạy Cha, xin hãy tha tội cho họ vì họ không biết việc họ đang làm…”
Dòng suy nghĩ của chàng Linh mục tới đây thì bị đứt ngang cái phựt.

Trong sự mê man và váng đầu, anh có cảm giác ai đó đã ẵm mình lên; người đó vừa đi vừa đá vào cái gì đó thật mạnh.

Lúc Ignacio Cường tỉnh dậy thì kim đồng hồ đã chỉ bảy giờ tối.

Nhìn cách bày trí trong phòng thì anh nghĩ đây là nhà thương quốc tế, vì anh đã từng có dịp thăm một vị Hồng Y ở một bệnh viện có kiểu trưng bày đồ đạc giống y như vầy.

Toàn thân anh tựa hồ nhuộm trong một cái bể ô-xy già và ê-tê, lại còn phưởng phất mùi máu – mủ rất tanh.

Anh muốn ngồi dậy mà gắng gượng mãi vẫn không được.

Nhưng bởi cái tánh giống hệt cái tên, nên anh cắn môi thật chặt mà ráng rướn người sang phải để nhấn cho bằng được cái chuông báo gắn bên cạnh thành giường.

Sau hơn mười phút vã mồ hôi hột, rốt cuộc anh cũng thành công.
Chưa đầy một khắc, đội ngũ nhân viên y tế đã xộc vô phòng Ignacio Cường với đầy đủ trang thiết bị y tế cần thiết cho một cuộc thăm khám và cấp cứu.

Sau hơn nửa tiếng thăm khám và lấy máu xét nghiệm, người bác sĩ trưởng có gương mặt Tây Phương chúc mừng chàng đã thoát chết, bằng thứ tiếng Việt trọ trẹ và lơ lớ của mình.

Anh ta nói chàng bị nhiễm trùng vết thương, chỉ bị vài nơi khá sâu, còn lại là trên bề mặt, nhưng do mất máu quá nhiều và nhiễm trùng nặng do hung khí không sạch sẽ nên mới nằm liệt một chỗ tới giờ; áng chừng trưa mơi là khỏe re hà.

Anh bẹo, “Giờ tôi có giống xác ướp Ai Cập không Thầy?” “Y chang luôn.

May mà chỗ kia còn nguyên xi”, vị bác sĩ cũng ghẹo lại.

Rồi bỗng anh ta hỏi anh, “Vết sẹo trên lưng Cha là sao vậy? Ý của tôi là đáng ra nó đâu có dòm thấy ghê dzậy.

Chỗ nào trị thương mà dỏm quá chừng.” “Tại tôi, tôi không chăm sóc vết thương cẩn thận nên nó mới tầy quầy dữ dằn như vầy.” “Có muốn xóa sẹo không? Có nhà hảo tâm đài thọ cho Cha từ A đến Z luôn kìa.” “Sẵn làm cơ bụng tám múi với kéo dài chân chút đi.” “Chân nào?” Cả phòng cười bò.

Rồi sau trận cười ấy, một bác sĩ trong đội hơi thoáng lo âu người Linh mục này bị tổn thương dây thần kinh nên ăn nói có phần mác-tăng-xít, thành ra lén ghi lại trong sổ khám bịnh.
Khi đội ngũ nhân viên y tế rời khỏi phòng, Ignacio Cường thôi tươi cười.

Anh ráng trấn an người ta chứ trong bụng chẳng có lấy một xíu vui vẻ.

Chợt, cửa phòng bỗng bật mở.

Một người đàn ông mày kiếm mắt sáng ló đầu ngó vô phòng, chừng biết đây đúng là phòng của người mình cần gặp nên dạn chân bước vào một hơi.

Theo sau lưng anh ta là một người trai trạc tuổi, nhân diện đẹp mã hơn anh ta rất nhiều.

Mùi dầu thơm sực nức trên người của họ đã khiến Ignacio Cường hơi khó chịu.
– Tỉnh rồi à?
Ignacio Cường nheo mắt nhìn Hai Nghĩa và Ba Đức.

Anh nhớ mặt Ba Đức liền vì dung nhan quá ư đẹp trai của anh ta, nhưng người còn lại là ai thì anh nhất thời không nghĩ ra tên nổi.
Hai Nghĩa đỡ chàng Linh mục ngồi dậy, còn Ba Đức thì lót gối sau lưng giùm anh.

Đoạn, Hai Nghĩa hỏi Ignacio Cường cảm thấy thế nào.

Chàng tu sĩ Công Giáo trả lời qua loa rằng, “Khỏe rồi.”
Ba Đức cười hỏi:
– Trưa ăn cơm nhiều lắm phải không? Bác sĩ nói bao tử đầy đồ ăn chưa tiêu.
Mặt mày của Ignacio Cường đỏ lựng.
Hai Nghĩa khoanh tay mà bảo:
– Nhờ vậy anh mới lại sức lẹ.
– Anh là…
– Quên mất tôi rồi sao? Bữa hổm tôi có ghé Giáo xứ thăm Năm Tường đấy.

Tên tôi là Chu Vịnh Nghĩa, theo thứ tự trong Hội là Hai…
– Anh gốc Bắc hả?
– Phải.

Sao anh biết?
– Anh họ Chu.

Trong Nam là họ Châu.
Hai Nghĩa búng tay:
– Đoán trúng phóc.
Rồi ngần ngừ một lát, Ignacio Cường hỏi tu phục của anh đâu rồi.
Ba Đức trả lời:
– Tu phục của anh rách hết rồi, để tôi mua tặng anh cái mới nhé?
– Thôi, tốn tiền anh quá, để ngày mốt tôi lại nhà Richard Lãm vá lại là được rồi.
Do không muốn làm phiền đến bạn hữu Kitô nên Ignacio Cường tắt nguồn điện thoại, anh sẽ im hơi lặng tiếng mà ở đây vài ngày.

“Xin Chúa giữ gìn con.”
Cũng nội trong đêm hôm đó, tại Tổng Y Viện Dân Chủ, Kiều Xuân và Quế Trân đang ăn cơm tối với nhau.

Stephen Đoàn, Henrico Thạnh, JB Khải và Louis Quế đã xách xe chạy đi khắp nơi hỏi thăm tin tức của Ignacio Cường; Martin Cảnh cũng đã nhờ các đồng nghiệp tản đi kiếm giùm.

Thành ra hai nàng ăn cơm mà chẳng biết ngon; ngoài đường xe cộ đông như kiến riện, lại gặp mấy thằng ba gai chạy ẩu thì sao…
– Bồ nè…!- Quế Trân thỏ thẻ.
– Hửm? – Kiều Xuân lên tiếng trong khi vẫn ngậm đầu đũa.
– Công nhận cha Cường chỉ nên làm tu sĩ chớ đừng nên làm chồng người ta.
– Tại sao?
– Tánh ổng gia trưởng quá.

Lại cứng nhắc nữa.

Hổng vừa ý là lớn tiếng nạt nộ.

Ai mà chịu cho thấu.

Kiều Xuân hỏi lảng:
– Bồ ăn cơm căn-tin thấy ngon hôn?
– Cũng được…!Nhưng nêm thịt kho hơi mặn.

Ăn khát nước thấy mồ luôn.

– Mấy ông lính ăn mặn lắm.

Tại đổ mồ hôi quá mà.
– Sao bồ nghĩ vậy?
– Vì người yêu cũ của tôi làm trong Bộ Nội An mà.
Quế Trân ngó sững Kiều Xuân bằng đôi mắt mở bừng.
Kiều Xuân lại kiếm chuyện đánh trống lảng:
– Bồ cài nhạc chuông bài gì mà hay dữ vậy?
– À, “Flash” của Stéphanie de Monaco.

Bả là công chúa thứ thiệt của xứ Monaco đó.

Cuộc đời hoàn mỹ đến khó tin.
Sau một hồi tra cứu tin tức trên mạng về người công chúa xứ Monaco ấy, Kiều Xuân buông xuống một tiếng thở dài thườn thượt.

Người thì không biết chữ “Khổ” là gì, kẻ lại không thấy chữ “Sướng” ra sao.
– Bả còn bài nào hay hôn?
– “Ouragan – Irresistible”, lời Việt mang tên “Không thể chống cưỡng nổi” do Ngọc Lan ca.

Nghe đâu được một đoạn, Kiều Xuân bật cười:
– Người yêu cũ của tôi giống hệt bài hát này vậy…
– Người đặt lời Việt dịch tựa thiệt là tinh tế.
Dường như biết được Quế Trân rất tò mò về mối tình đầu của mình, Kiều Xuân liền mời:
– “Mối tình xưa” sẽ do Ngọc Lan ca.

Nhạc sĩ Vũ Xuân Hùng đặt lời Việt từ tình khúc Nhựt “Ai ni tsukarete” của đôi tác giả Araki Toyohisa và Tsutsumi Kyouhei.

– “Tình đầu…!hay tình cuối…” đều làm đau lòng bồ hết.
– Tại tôi ngu dại nên làm khổ mình – khổ người ta.

– Người yêu cũ của bồ hổng phải là Sở Khanh phải hôn?
– Phải.

Ảnh là cảnh sát chìm, đã mất liên lạc sau khi đột nhập vào một động đ* để giải cứu trẻ em bị nhốt trong đó.

Nhằm tránh cho tôi và người thân bị liên lụy, ảnh dặn tôi phải rêu rao ảnh là Sở Khanh…
– Khoan, vậy bồ thấy cái gì mà tới nỗi bồ bị…
– Tôi bị ép chứng kiến cảnh mổ người sống.

Đoạn băng mà Sáu Ngón gởi hôm bữa chẳng liên quan gì tới chuyện giường chiếu hết.
Rồi trước sự sợ hãi của Quế Trân, Kiều Xuân nhắm mắt đặng hồi tưởng cho rõ ràng hơn:
– Lúc đó tôi bị dụ tới lò mổ heo bên Quận Nhứt.

Quế Trân ngắt lời:
– Khoan, cái lò mổ heo đang rùm beng phải không?
– Nó đó.

Không hiểu vì căn cớ nào mà Kiều Xuân lại nói một lèo:
– Tôi bị thấy cảnh cắt cổ từ từ bằng con dao mổ heo nên bị khủng hoảng tâm lý.

Dù rằng bạn bè của ảnh đã ập tới kịp thời, cứu được cả tôi lẫn viên cảnh sát chìm kia, nhưng vì liên tưởng đến việc người bạn trai đã mất tích bí ẩn sẽ chịu đựng sự tra tấn giống vầy nên từ đó tôi sanh chứng ảo giác rồi suốt ngày nói lảm nhảm một mình luôn.

Năm nặng nhứt, cái năm nặng nhứt á, tôi thường xuyên nằm mơ thấy mình bị cắt cổ hoặc cắt cổ người ta; có lần tôi bị mộng du quá sâu nên đã ra vườn thọc huyết mấy con gà…
Nghe hết những lời này, ai nấy trong Tổ Trọng Án thảy đều toát mồ hôi hột.

Vậy rõ ràng cái người xóa đoạn băng kia không phải vì nhân nghĩa mà là vì muốn che đậy tội ác của băng đảng của thằng khứa.
– Tôi đã gặp Alphonso – Lữ Gia Hạp ở một nhà thương điên trên Bình Phước.

Khi ấy tôi bị điên nặng hơn ảnh, không biết bây giờ ảnh ra sao rồi, có được ra viện hay là phải ở luôn trong đó.
– Sao tự nhiên bồ nói quá trời nói vậy? Hổng sợ tui là gian tế của ai sao?
– Kệ.

Giấu giếm bao nhiêu lâu nay mệt tim quá rồi.

Bất quá thì chết thôi.

Nè, nó muốn tôi chết nè.

Quế Trân sợ Kiều Xuân nổi cơn khùng mà tự vẫn nên hoảng hồn hoảng vía đá sang chuyện khác:
– Thôi, đầu năm đầu tháng đừng nói chuyện chết chóc bà ui.

Nói cái gì đó dzui dzui đi.

Cửa phòng đột nhiên bật mở, hai người bước vào đi chân trần và đắp cà-sa kín thân.

Người nữ lên tiếng trước:
– Sadhu.
– Ni trưởng Mỹ Hạnh?
Tỳ-Kheo Ni Mỹ Hạnh và Trưởng lão Thanh Liên đem tới một giỏ trái cây nặng trịch và một ký trà tim sen.
Thanh Liên lo phần nấu nước pha trà, còn Mỹ Hạnh thì nhận việc gọt trái cây.

Đây là lầu tiên mà Quế Trân thấy một người Tăng sĩ lại đẹp theo kiểu phi phái tánh; nếu sư thầy này mà là nữ, dám đi thi hoa hậu đoạt giải Nhứt lắm.
– Thầy tên gì vậy Thầy?
– Thanh Liên – Đới Kỳ Thanh.

– Ô, Thầy người Hoa hả Thầy?
– Thưa phải.

– Tên của Thầy ngộ quá, có ý nghĩa gì hôn Thầy?
– “Kỳ ngộ lúc Xuân xanh”.

Vì một lần lầm lỡ lúc chớm hai mươi nên má tôi mới sanh ra tôi.

– Tên nghe lãng mạn quá.
– Và kết cục chuyện tình ấy lãng xẹt hơn tiểu thuyết Quỳnh Dao.

Những người nữ cười như được mùa.
– Té ra Thầy cũng đọc tiểu thuyết của bà đó?
– Không, má tôi đọc, rồi tâm tình cho tôi nghe.
– A…!- Cô Tư Lành gật gù.
Mỹ Hạnh mời hai cô nương Kiến Hòa ăn xá-lị giải khát.

Bà có đem theo dụng cụ gọt và xẻ trái cây, cái này không thể khiến Kiều Xuân tự làm tổn thương mình vì nó không có hình dạng như cây dao.
Ăn đâu được vài miếng, hai cô nương ấy nghe Tỳ-Kheo Ni Mỹ Hạnh kể một tích truyện Phật Giáo:
– Năm xưa, lúc mà công chúa Da-Du-Đà-La muốn níu kéo với Đức Phật, bà đã hỏi rằng, “Sao ông lại bỏ mẹ con tôi mà xuất gia?” Đức Phật trả lời rằng, “Nếu tôi ở lại, tôi chỉ có thể làm cho gia đình mình hạnh phúc.

Nhưng nếu tôi ra đi, tôi có thể làm cho tất cả chúng sanh tìm thấy hạnh phúc.” Nghe vậy, công chúa cao quý ngày nào đã chấp nhận buông bỏ mối lương duyên giữa mình và chàng thái tử Tất Đạt Đa, sau đó đã rũ bỏ thân phận hoàng tộc mà trở thành một trong những người lãnh đạo Ni chúng xuất sắc.
Quế Trân hỏi trong khi vẫn còn nhai xá-lị:
– Tại sao lại là “Tìm thấy” mà không phải “Ban phát”?
– Bởi vì Đức Phật không phải một vị Thần trong truyện cổ, Ngài là bậc Giác Giả chỉ đường ngay lối phải cho chúng ta đi mà thôi.

Phước hạnh hay Duyên lành là do mình, không có lời cầu nguyện hay van vái nào có thể khiến ta được ngồi không mà hưởng; mà nếu có ai cho ta thật thì đó chỉ có thể là thế lực hắc ám ám mà thôi.

Kiều Xuân cất giọng buồn rượi:
– Con hiểu ý của Cô.

Chúng sanh cần anh Mỹ.

Anh Mỹ đến với con, ảnh chỉ có thời gian lo được cho vài chục người.

Nhưng nếu ảnh sống đời tu sĩ, ảnh sẽ lo được hơn cả ngàn người.

Dầu ảnh không tin vào kiếp sau, con vẫn nguyện cầu ảnh với con sẽ gặp lại nhau một lần nữa ở kiếp sau, cho con được một kiếp ích kỷ làm vợ ảnh cũng được.
Do không muốn nhỏ bạn lâm vào tình cảnh khó xử mà cũng đầy dẫy nguy hiểm, Henrico Thạnh bèn tới Tổng Y Viện Dân Chủ rước nó dìa nhà mình ở.

Vừa xoa ót an ủi Kiều Xuân, cô Tư Lành vừa an ủi:
– Đừng nghĩ quẩn nữa nghen bồ.

Ráng khỏe mạnh rồi tụi mình lên Đà Lạt ngắm tuyết rơi.
– Ai mà giàu tới độ bày trò “tuyết giả” vậy?
– Hình như thằng khứa con trưởng của Lê Hoài Sang làm chủ thì phải.
– Kệ, mình đâu có liên quan tới mấy vụ chánh trị – chánh em của gia đình đó, lên chơi cho vui đi bồ.
– Chừng nào mới hết?
– Trời, nó mở quanh năm, mua vé mới được dzô, nên gia đình đó ngu gì chỉ tổ chức một mùa.
– Vậy mươi, mười ngày nữa mình đi.
Điện thoại của Thanh Liên đổ chuông.

Thì ra Cận-Sự-Nữ Ly Ái biểu con và Tỳ-Kheo Ni Mỹ Hạnh về nhà nghỉ ngơi.

Ngó lên đồng hồ thì thấy đã mười giờ hơn, hai người lên tiếng xin phép cáo từ rồi cất dao và thâu gom rác gọn ghẽ trước khi rời khỏi đây.
Henrico Thạnh để lại một lốc dầu gió hiệu “Con Ó” và một bịch khô bò cay nửa ký.

Không quên khuyên lơn Kiều Xuân hết lời.

Giọng điệu của anh hoàn toàn khác lúc thường ngày, bây giờ anh đã trở thành một người Linh mục đích thực.

Cả Xuân và Trân đều ngỡ ngàng trước sự thay đổi cấp kỳ của người trai này.
Stephen Đoàn ghé thăm Kiều Xuân khoảng độ nửa tiếng rồi sẽ ghé trường Dòng để ở lại nói chuyện với Cha Matthias Hoàn.

Anh đem tới một hộp bánh trứng, màn thầu, sủi cảo, há cảo, xíu mại, bánh hẹ và bánh xếp Triều Châu; để mua được mớ này, anh đã hùn tiền với Henrico Thạnh, Ignacio Cường, Cha Augustino Dương và Cha Matthias Hoàn.

Ngoài ra, anh còn mua cho cô một ly trà sữa trân châu đường đen cỡ lớn.

Khi Stephen Đoàn bước vào phòng thì bài hát “Được chết vì Yêu” do Ngọc Lan ca đã gần tàn; nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ tình khúc “Mouri dAimer” của nhạc sĩ kiêm ca sĩ Charles Aznavour, anh biết rõ bản nhạc này vì đây là ca khúc mà mẹ anh yêu thích nhất, bà đã nghe suốt cho đến lúc mất.
– Anh Mỹ.
– Bài này còn có lời Anh mang tên “To die of Love” do tác giả bản gốc và danh ca Nana Mouskouri trình bày; người hỗ trợ biên soạn là Howard H.

Liebling.
– “Được chết vì Yêu”.
Stephen Đoàn nhếch miệng cười.

“Người đây, Ta đó tuy gần mà xa.”
– Sao anh mua đồ ăn cho em nhiều dạ?
– Ăn được thì cứ ăn.

Những ngày cuối đời của mẹ tôi, bà không thể tự nuốt được và liên tục bị trào ngược dạ dày.
– Anh coi em là má anh hả?
– Hồi đầu là vậy.
Kiều Xuân nghiêng đầu cười:
– Còn bây giờ?
Stephen Đoàn không trả lời.

Anh lại bệ cửa sổ mà ngồi xuống thổi khẩu cầm, mắt ngó đăm đăm vào nền trời chớp lóa sáng lòa.
Kiều Xuân đã dùng bữa.

Cô ăn không mấy ngon miệng vì những cử thuốc Tây, nhưng vẫn ăn được nhiều cũng bởi thuốc Tây.

Nhớ cái đợt cô điều trị ở Dưỡng trí viện Biên Hòa, cô đã mập lên hai chục ký do tác dụng phụ của thuốc.
Giai điệu của tình khúc “Le géant de papier” do đôi nhạc sĩ Sylvain Lebel – Jeff Barnel sáng tác bay bổng trong gian phòng hăng hăng mùi ê-tê; Stephen Đoàn đang chơi một khúc khẩu cầm buồn.

Kiều Xuân ngắm bóng lưng hanh hao của người thương mà lệ đã thắm nồng; men tình chát đắng đã khiến nàng bị lợm giọng mà sanh ra chứng nuốt không trôi.

– Lời Việt là “Lạc mất mùa Xuân” của nhạc sĩ Lữ Liên?
– Phải.
– “Anh đã thấy mùa Xuân chưa?”
– Tôi thích nghe Ngọc Lan và Tuấn Ngọc ca bài này lắm.
Kiều Xuân bật cười mà như sắp mếu.

Người mà nàng thương vẫn dán chặt mắt vào khung cửa sổ đụng trần, chừng như đang ráng tìm mùa Xuân nào đó ở ngoài kia.

“Mùa Xuân trong đôi mắt Em” mang mang buồn đau vô tận “vì mình xa nhau nên Em chưa biết Xuân về đấy thôi”.
…!
Trưa ngày mốt, Ignacio Cường nằng nặc đòi ra viện sau khi đã chích xong liều thuốc ngừa uốn ván.

Không biết nghe theo lời ai mà đội ngũ nhân viên y tế đồng ý cái rụp, không hề làm khó làm dễ anh ở bất kỳ khoản nào.

Anh hớn hở đổi sang bộ tu phục mới mà Ba Đức lén mua cho anh, rồi ngượng ngùng xịt chút dầu thơm mà người Mục sư của Hội Thánh Tin Lành Lutheran đã gởi biếu mình như một phần quà đầu năm – Nó có tên là “Christian Dior – Sauvage” bản mới nhứt.

Anh ta xài loại “Versace Eros pour Homme”, mùi hương này thiên về…!gợi dục và lãng đãng phong lưu, nên anh ta dư sức biết anh sẽ không chịu, thành ra mới mua cho anh hương “hoàng hôn trên sa mạc” này.

Và cũng nhờ anh ta mà anh mới biết Eros là Thần Tình Ái của xứ Hy Lạp cổ đại; hèn chi mà mùi dầu thơm kia lại được pha chế như vầy.

– Chúa ơi, bây giờ con giống hệt cái làng bông Sa Đéc.

Biết vậy hổng có xức đâu.
“Cạch.”
– Tôi là Lê Vỹ Khiêm.

Đến đây để mời anh xuống chụp hình X-rays một lần nữa.
– Không phải là tôi đã được ký giấy…!À mà khoan đã, tôi có bị gãy xương – nứt khớp đâu mà cần đi chụp hình.
– Cho nó chắc ăn.

Anh nên nhớ anh vẫn còn bị nhiễm trùng máu mà.
– Anh là bác sĩ mà nói chuyện hổng có ăn nhập một chút nào.
Nhưng để được thoát ra khỏi đây càng sớm càng tốt, Y-Nhã Cường vẫn đồng ý với lời ngỏ của người bác sĩ tên Khiêm.

Khoảng đâu một giờ trưa, Ignacio Cường mới chính thức được ra khỏi bệnh viện.
Song cũng chưa được yên nữa, Ba Đức và Hai Nghĩa nài chàng tu sĩ Công Giáo lên xe của họ cho đỡ tốn tiền taxi.
Vì tiền gần hết nên Ignacio Cường lại đành đồng ý với lời mời quá giang của hai chàng Mục sư Tin Lành.

Chiếc xe này hiệu “Hummer – H3”, là dạng xe bán tải có năm ghế ngồi, chạy bằng xăng, đời 2009; chủ nhân của nó là cư sĩ Cao Đài – Tạ Khắc Xương, đúng là chỉ có chiếc xe rộng rãi như vầy mới kham nổi thân hình xổ sữa của anh ta.

– Sang năm tôi sẽ mua chiếc “GMC – Hummer EV” bảy chỗ ngồi.

Coi kiểu dáng, thông số kỹ thuật và tính năng của nó đã lắm.

Đời tôi chỉ ưng Chevrolet, Hummer, Dodge, Porsche, Lexus, Ford, GMC và Jeep mà thôi.

– Chớ tướng của ông xe nhỏ nào chứa nổi? – Tám Khiêm móc họng.
Ba Đức bỡn:
– Ăn riết đi rồi mốt lái xe tăng.
– Trời, trời, muốn đuổi xuống cho đi bộ hết quá.
Ignacio Cường cắt ngang:
– Hôm qua hình như có ai ẵm tôi thì phải?
– Nè, “Hoàng tử” nè “Công chúa”.

Chứ mấy cái thân “mèo ván ép” kia sức mấy ẵm ông nổi.
– Vậy tiếng súng đó là của ai?
– Của tôi.

– Ba Đức và Hai Nghĩa đồng thanh trả lời.
– Mục sư kiểu gì mà giữ súng trong người vậy?
– Tùy lúc là Mục sư, tùy lúc là “Người trong giang hồ”.

– Tám Khiêm trả lời giùm hai người anh.
– Rồi tôi thả anh ở đâu đây Tám?
– Thả đâu cũng được.

Miễn đừng thả ở kinh Nhiêu Lộc thôi.
– “Bên cầu dệt lụa” được không?
– Được.

Hóa ra “Bên cầu dệt lụa” là một quán bán cháo gà – vịt và gà ủ muối nằm kế bên một sạp vải “gia truyền”, khách ăn nghẹt bàn, giờ này mà vô ăn có nước đứng đợi chừng một tiếng mới có chỗ ngồi.
– Kiếm quán khác không Tám?
– Quán khác đi.

Tôi còn ca mổ vào lúc bốn giờ chiều nữa.

Ăn lẹ lẹ rồi chợp mắt ngủ lấy sức một lát.
Vốn hảo ăn nên Tạ Khắc Xương liền giới thiệu gánh xôi của thím Bảy, cách đây khoảng đâu mười mấy cây số, tuy hơi xa một chút nhưng ăn vừa chắc bụng vừa đáng đồng tiền bát gạo.
Tám Khiêm thở dài thườn thượt, rồi vừa kéo sụp cái nón kết xuống vừa dặn rằng:
– Chừng nào tới nơi thì kêu tôi dậy.
– Okay.
Chưa đầy năm phút mà Tám Khiêm đã ngủ ngáy khò khò.
– Tôi mà có con chắc không cho nó theo nghề Y đâu.

Hổng khác nào “Làm dâu trăm họ” cả.

– Tạ Khắc Xương thương cảm bày tỏ.
– Thương thằng Tám thì ráng kiếm đường nào chạy lẹ chút đi.

Để nó có sức mới mổ cho người ta tốt đẹp được.

– Ba Đức nhắc nhở.
Cô con gái của bà chủ gánh xôi đang mở bài “Mùa Xuân gửi em” của đôi tác giả Lê Dinh – Minh Kỳ với phần trình bày của Ngọc Lan.

Mua xong một phần xôi thập cẩm ăn kèm với đùi gà rô-ti, trứng gà non và phá-lấu cho Tám Khiêm và mình, Tạ Khắc Xương mới lay lay anh bạn thiết dậy, mà đáng ra khỏi cần lay, mùi xôi thơm nức mũi đã kéo chàng ta thoát khỏi cơn mê ngủ từ lâu lắm rồi.
– Nhiêu?
– Thôi lâu lâu đãi ông đó.
– Vậy cảm ơn nhen? Ủa mà Ba Đức đâu rồi?
– Qua bên kia mua đồ uống rồi.
– Trời ơi, ổng mà đi mua, gái đeo sao về?
– Thì trước – sau cũng về thôi.
– Tôi mà trễ giờ là tôi bắt đền mấy người đó.
Chừng hơn hai chục phút sau, Ba Đức mới thoát khỏi vòng vây của phái nữ.
– Phù…
– Sao rồi? Được cho nhiêu số rồi?
Ba Đức ngại ngần đáp:
– Khoảng mười mấy.
– Cho bé bự ế vợ được hôn? – Tạ Khắc Xương tếu táo hỏi.
Tám Khiêm gạt ngang:
– Con gái thời nay sợ mỡ lắm ông ơi.
– Chứ ai cưới ông về sợ rách da lắm.
– Sao vậy?
– Xương không hà.
Mấy người kia nghe xong phá lên cười chọc quê chàng Tám.
– Mua đồ tẩm bổ cho đã rồi chê tôi “còi xương”.

– Tạ Khắc Xương bĩu môi nói.
Trước lúc tới nhà Đan sĩ Richard Lãm, chàng cư sĩ Cao Đài trả anh bạn Mục sư Tin Lành kiêm bác sĩ về đơn vị cũ.
Vừa mới đứng trước bậc tam cấp dẫn vô đại sảnh nhà thương, Tám Khiêm đã bị đàn em hớt hải kéo lên lầu đặng nắn xương cho một đứa trẻ nhà giàu bị lọi tay do trèo cây té.
– Lát nữa cậu có ghé nhà Richard Lãm không?
– Không, anh Hai.

Tôi còn phải đi đón Chín Tân nữa.
Ba Đức nhắc nhở anh Hai:
– Bộ anh quên bữa nay thằng Chín phải biện hộ cho thân chủ của nó sao?
– Ờ há!
Ba Đức nói trong khi bấm chuông cửa nhà Richard Lãm:
– Vậy lát khỏi rước tụi tôi, để tôi kêu thằng đệ tới đón.
– Ừ, vậy đi.

Độ rày xăng lên giá quá, đi tới – đi lui dễ chết sớm.
– Biết đâu nhờ vậy mà ông ốm sao? – Ba Đức lại khịa thằng bạn thiết.
– Tôi có thể đi bộ, nhưng không thể bỏ ăn…!Thôi, đía hoài, tôi đi đây…
Trong lúc chờ Richard Lãm ra mở cửa, Ignacio Cường ngắm nghía ngôi nhà của gia đình anh ta.

Vẫn cái kiểu nhà chữ Đinh cổ xưa, viền quanh sân thượng là bồn bông có gắn lan-can inox, cột nhà có vân hình xoắn ốc theo kiểu hoa văn La Mã cổ đại, và sàn nhà lót gạch bông màu sậm, nơi đây gợi cho khách ghé thăm nhớ về một thuở Sài Gòn xưa.

Giữa bốn bề nhà Tây – nhà Á, ngôi nhà này nom thật lẻ loi và cô quạnh.

Sẵn có sân trước, chủ nhà ráng sức vun vén sao cho trồng được vài cây cau và một cây mai, cùng vài luống hoa thôn dã như bông dừa, bướm bà, sao nháy, mười giờ và bách nhật; thành ra tầng trệt phải dành hơn một phần ba diện tích cuộc đất để làm chỗ đậu xe, do đó phòng khách chính phải dời lên lầu Một, phòng khách phụ sắp đặt tạm bợ với một băng ghế mây đủ cho ba người ngồi, một bàn trà kiếng trong và một cái kệ sách vát góc có thể xoay các ngăn bên dưới được – trên đầu kệ chưng một chậu sen đá đã được cách điệu rất tinh xảo.

– Ơi, ai đó? Ra liền nè!
Richard Lãm bước ra trong nhân dạng chỉ mặc một cái quần tà-lỏn và áo thun ba lá mỏng vánh.
Ba Đức giỡn:
– Chúa ơi, tôi tới nhà anh chứ đâu phải tới lầu xanh mà ăn bận kỳ vậy?
– Đang tắm thì bị gọi giựt ra nên đâu có kịp mặc đồ ngoài.
Rồi đó, chàng Đan sĩ trung niên lẹ tay tra chìa vào ổ khóa rồi kéo thanh chốt lên – xuống vài lần để mở cổng.
Nhà sau là một không gian bao gồm bếp nấu, phòng ăn, chỗ ngồi chơi, phòng ngủ, phòng giặt giũ – cất trang phục – ủi đồ, nhà kho, nhà tắm và nhà vệ sinh.

Gần như mọi hoạt động ở tầng trệt đều diễn ra ở đây, nên nhà trên về đêm lạnh ngắt như ngoài nghĩa trang vậy.
Vừa chỉ tay vào cái sập gụ có diện tích khoảng đâu gần chín mét mấy, Richard Lãm vừa cất giọng mời anh em Kitô lên đó ngồi.

Đoạn mau chân bước vô nhà tắm mặc thêm đồ.

An tọa chưa được vài giây, những người khách của Richard Lãm nghe được tiếng ho khù khụ vọng ra từ căn phòng ngủ không khép cửa kín.

Rồi liền sau đó, giọng nói của đứa bé con vang lên:
– Con đói bụng quá chú Út ơi…!Chú Út ới ời ơi…!Chú đâu rồi chú?
Có lẽ không nghe chú Út ừ hử gì, con nhỏ đâm ra hoảng sợ nên đã bước ra khỏi phòng.
– Chú!!!
– Gì, gì hả Út?
Bé Mai chạy tót vô lòng chú Út mà quýnh quáng vòng tay ra sau lưng chỉ trỏ.
– Bạn của chú.

Một là Linh mục và hai là Mục sư.
Bé Mai mới thôi sợ hãi mà bước lại khoanh tay thưa từng người.

Tới phiên Y-Nhã Cường, nó run lên mà hỏi:
– Sao mặt chú thẹo không vậy chú?
– Chú bị đụng xe, con.
Đôi bàn tay của bé Mai cầm lấy bàn tay trái của chàng tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế mà rằng:
– Chú đau hôn chú?
– Không con, chú chỉ đang nếm trải “Cuộc thương khó của Đức Jesus Christ” mà thôi.
– Nghĩa là sao hả chú?
Nhưng Richard Lãm đã cắt ngang lời giảng của Ignacio Cường.

Bé Mai hãy còn quá nhỏ để nó hiểu thấu Thánh Kinh…
– Có ai muốn làm một chén cháo không?
Không ai hưởng ứng lời mời của Richard Lãm.
Vậy là chàng Đan sĩ bèn múc một phần cho bé Mai mà thôi.

Chị dâu của anh xắt nhuyễn rất nhiều lá tía tô và hành lá, cốt để bé Mai chóng khỏi bệnh.

Nó bị sốt siêu vi dai dẳng, lại sinh chứng đau cổ họng gây ho, chắc phải sang tuần sau mới đi học nổi.
– Ui, con ghét ăn tía tô.
– Ăn cái này nhiều thì con mới mau khỏe mà ăn KFC.

Biết chiêu nhõng nhẽo không có tác dụng nên bé Mai thôi mè nheo.

Có chú Út ở nhà, ba mẹ nó ít la rầy và nghiêm khắc với nó hơn; nên lần nào chú Út trở lại Đan viện nó cũng khóc la um sùm.
– Bộ tu phục cũ của anh đâu, Y-Nhã?
Ignacio Cường đưa cái bao nylon màu đen cho Richard Lãm.

Sau khi coi thử “xác áo”, Richard Lãm chỉ biết lắc đầu kêu Trời.

Oán thù chi mà chém Y-Nhã nhiều thế này.

Nhìn cái áo chẳng khác nào “Áo vũ cơ hàn” cả.
– Không được thì để tôi đem về làm nùi giẻ.
– Trời, giẻ gì cha? Để tôi lấy khúc vải mới vá chèn vô.

Bảo đảm không đẹp không lấy tiền.
Rồi đó, Richard Lãm đi te te một hơi vô phòng giặt để lấy máy may điện cỡ nhỏ, khúc vải màu chùng thâm, cuộn chỉ lớn, kéo bấm, kéo cắt cán vàng bản bự và kim may.

Bé Mai dù đang bệnh vẫn lăng xăng chạy ra – chạy vô phụ chú Út một tay, mặc cho chú Út biểu nó ngồi im ăn cháo.

Richard Lãm có dáng vẻ cục mịch, tay chân thô kệch, nhưng giọng nói hệt như phát ra từ dây thanh quản của một thiếu niên và tài Nữ Công Gia Chánh thì khéo khó ai bằng.

Sự tương phản kỳ khôi này khiến người mới gặp anh ta dễ nhớ mặt anh ta, và cho dù có lâu ngày gặp lại đi chăng nữa cũng không nhầm lẫn anh ta với ai.
Bé Mai vừa ăn nhơi nhơi cháo vừa nghe Thái Hiền ca bài “Bầy thú rừng của nàng Bạch Tuyết” của nhạc sĩ Trọng Phương – Đây rất có thể là một bút hiệu của nhạc sĩ Tuấn Khanh sanh năm 1933.

Thế giới của trẻ con chỉ nên mơ tưởng tới xứ sở thần tiên huyền diệu và phước lành, chứ không phải là đời sống nặng gánh cơm áo gạo tiền và hiểm nguy rình rập trên đường mưu sinh.

Richard Lãm đã vá xong cái áo mà tô cháo của bé Mai chỉ vơi hơn một chút.

Chú Út rầy nó vài câu rồi bắt nó phải ăn thêm vài muỗng nữa.

Nó phụng phịu một lúc lâu rồi mới chịu cầm muỗng lên ăn.
– Để tôi giặt và phơi luôn cho.

Ngồi ngoài này một mình, bé Mai sợ sệt lùi vào sát góc tường.
Hình ảnh ấy gợi cho Ignacio Cường nhớ đến con gái của chú Năm.

Cái đêm kinh hoàng đó đã hủy hoại cuộc đời của cả gia đình nhỏ, và khiến cho chú Năm bị đuổi cùng giết tận.
Có lẽ không cảm thấy yên tâm nên bé Mai đã chạy ù vào phòng giặt đồ.

– Sao nó sợ người lạ dữ vậy hai anh?
Hai Nghĩa và Ba Đức đều nhún vai và lắc đầu, tỏ ý không hiểu và cũng không biết.
– Có ai ở nhà hôn?
– Ơi, ra liền!!!
– Có ai ở nhà hôn?
– Ra liền, ra liền!!!
– Có ai ở nhà hôn?
Nghĩ người ta bị lãng tai nặng nên Richard Lãm không lên tiếng nữa.

Anh chạy hết tốc lực ra sân trước, rồi cười phá lên mà nói:
– Cha, Cha ghé nhà con có chi hôn?
Đan trưởng – Đan Viện Thủ Đức Thomas – Lâm Diệu Tường giở cái nón rộng vành và ôm trước ngực mình.

Trên môi ông hiện ra một nụ cười hiền từ vô ngần và ánh mắt ông đong đầy tình thương.
– Vô thăm bây hổng được sao?
Vừa dắt chiếc xe Velo – Solex giùm Đức Cha Tô-Ma, Richard Lãm vừa hỏi thăm ông về Đan viện.
– Thì cũng “Một ngày như mọi ngày.

Em trả lại tình tôi…” thôi con.

Nhưng mà…!
Hiểu ý Đức Cha Tô-Ma, Richard Lãm thôi nói.

Nhác thấy bé Mai đang lấp ló sau cửa hông dẫn xuống nhà sau, Thomas Tường cười hỏi:
– Khỏe chưa bây?
– Dạ, còn nhức đầu quá nội.
– Nội có đem cho con mứt dừa nè.

Ráng uống thuốc vô cho sớm khỏe lại nghen?
Bé Mai dạ nhỏ rí.

Ignacio Cường là người mừng nhất với sự xuất hiện của Đức Cha Tô-Ma.

– Jesus – Ma, mặt con bị sao vậy?
Ignacio Cường kể vắn tắt cho vị Đan trưởng già hay.

Nghe tới đâu, gương mặt ông đăm chiêu đến đó; ông có nghe người ta đồn Y-Nhã đang bao che cho tội phạm nguy hiểm, nhưng chẳng lẽ vì vậy mà người nhà nạn nhân phẫn uất đến nỗi sai lính chém anh ư?
Trước lúc về phòng coi Đô-rê-mon, bé Mai thưa nhóm người lớn một tiếng thật ngoan; không quên lấy theo bịch mứt dừa và một ly trà bạc hà âm ấm.
Thấy Ignacio Cường soạn thuốc uống, Richard Lãm bèn mời ba người bạn Cơ Đốc ăn bún riêu.
Ba Đức khoát tay từ chối:
– Thôi, ăn bún riêu hôi miệng lắm, tụi tôi còn phải đi nhiều nơi nên làm biếng đánh răng lắm.
– Vậy ăn hủ tíu gõ của hai má con Út Đẹt nghen?
Ba người bạn Cơ-Đốc của chàng Đan sĩ cục mịch gật đầu đồng ý.
Phía sau nhà là một cống thoát nước nhưng được khỏa xi-măng xây kín trên bề mặt thành vỉa hè, nhân đó gia đình Richard Lãm trổ cửa hậu để thuận tiện đi ra con hẻm gần đó.

Tuy diện tích không được bao nhiêu nhưng chủ nhà vẫn chừa đất để làm sân trước và sân sau, thành ra dù là nhà dạng ống chật hẹp song không tạo cảm giác bí bách hay tù túng.
Vừa thu dọn quần áo máng trên sào, Richard Lãm vừa mắc cỡ phân trần.
Thomas Tường phì cười và vỗ vai thằng con mà rằng:
– Ai cũng có đồ như vậy, chỉ khác là của nam hay của nữ thôi, căn cớ chi mà bây lại mắc cỡ chớ?
Bé Mai ghiền coi phim hoạt hình nên không đi theo họ.

Do lo sợ cháu gái bị xâm hại nên Richard Lãm dặn dò nó đủ điều; không chỉ vậy, anh còn hướng dẫn nó cách thoát hiểm nếu bất ngờ nhà cháy hay bị chập điện.

Nó lóng lỗ tai nghe, rồi giơ mặt dây chuyền Thánh giá lên mà thể hiện sự cam đoan với anh.

Chìa khóa sơ-cua anh giữ một cái – nó giữ một cái, sợ nó để đâu quên mất nên anh kiếm sợi dây mà móc vô rồi đeo vào cổ nó luôn.
– Chú Út…!Chú nhớ mua cho con hoành thánh nấu nghen…
– Rồi, chú Út nhớ mà.

Nhớ, ai lạ lạ thì phải gọi điện báo cho chú liền, tuyệt đối không được mở cửa hay ra sân trước đó.
– Dạ, con cũng nhớ mà.
Bà chủ quán ngó thấy gương mặt đầy sẹo của Y-Nhã Cường thì rất sợ.

Tưởng đâu là dân anh – chị không chớ.

Chừng nghe anh ta bị té xe nên để lại thẹo mới an tâm một chút.

Do ăn cơm trưa trễ nên Đức Cha Tô-Ma không ăn nổi hủ tíu.

Để ủng hộ quán nước ế khách nằm kế bên tiệm hủ tíu, ông đãi xấp nhỏ và mình một chầu nước giải khát.

Chưa bước qua “địa phận” mà Thomas Tường đã nghe Sĩ Phú ca bài “Ru Em từng ngón Xuân nồng” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Nhắc đến người sĩ quan Không Quân ấy, bỗng ông nhớ về tình khúc “Em còn nhớ mùa Xuân” của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên – Bài hát này chú Miên dành tặng cho bông hồng của đời chú, mà ông đã nghe suốt trong những năm trường dùi mài Thánh Kinh và Thần Học ở Đại Chủng viện.

Mới đây mà đã mấy mươi năm rồi.
– Con làm cho ông một ly cà-phê đen đá thật đắng, rồi, nhớ rồi chưa? Tiếp, một ly cam vắt vừa uống…!Kế, một ly trà dâu ít đường…!- Thomas Tường ngừng nói để cô gái viết cho kịp.

Đợi cô gái đọc lại xong xuôi, ông mới đặt thêm món.

– Một ly bạc xỉu bình thường.
Chừng Thomas Tường quay về thì chủ quán đã dọn bàn xong.

Richard Lãm ăn hủ tíu xương, Ignacio Cường ăn hủ tíu – mỳ Nam Vang, còn hai cậu Mục sư thì đều ăn hủ tíu Nam Vang có thêm chén xí-quách; đứa nào đứa nấy đều đã cầm đũa lên ăn.
Do di chứng của những nhát mã tấu nên Ignacio Cường đã bị nhiễm trùng máu.

Thành ra anh hay hành sốt thất thường.

Ăn đâu được vài đũa hủ tíu – mỳ, anh ôm đầu mà gục mặt xuống cho đỡ mắc ói.
– Con không sao chứ, Cường?
– Con hơi mệt thôi, thưa Đức Cha.
Thomas Tường đặt tay lên trán thằng con cùng Dòng Chúa Cứu Thế.

“Chính Chúa chọn con, nên dẫu đường con đi trải đầy đá sỏi và bẫy giăng, con vẫn nguyện vác Thánh Giá đến cuối đời”, ấy là lời tuyên thệ mà ông đã từng nghe Y-Nhã Cường nói, và giờ đây nó đã minh chứng bằng cả mạng sống của mình.

– Sao con lại không khóc hả Cường?
– Con phải mạnh mẽ để làm chỗ dựa cho bầy Chiên.

Con mà yếu đuối, họ biết nương dựa vào ai trên trần thế này hả Đức Cha?
Chuỗi Mân Côi mà Ignacio Cường hay đeo ở bên hông áo đã nhuộm đẫm máu anh.

Cả mặt dây chuyền Thánh Giá mà anh hằng giữ trên cổ cũng vậy.

– Chừng nào con quởn, ghé Đan viện Thủ Đức nhe? Để Cha tặng con chuỗi Mân Côi và sợi dây chuyền mặt Thánh Giá khác.

Với lại Cha cũng có cao thuốc giảm ngứa hay lắm.
Ignacio Cường chắp tay mà nói lời cảm ơn vị Viện Phụ đáng kính.

Sau bữa ăn nặng trĩu ưu sầu, nhóm Cơ Đốc Giáo hối hả về nhà để trông chừng bé Mai.
Vừa nghe chú Út gọi điện thông báo đã về, bé Mai liền chạy ra sân sau mà đón ông chú Đan sĩ.

Trên tay nó vẫn còn cầm cái remote và bịch mứt dừa.
Biết Ignacio Cường rất mệt nên Hai Nghĩa và Ba Đức dìu anh ta lên võng nằm nghỉ.

Thomas Tường còn chườm khăn lạnh lên trán của anh ta để hạ sốt.

Nằm đâu được một lát, Ignacio Cường chạy tốc vào nhà vệ sinh mà nôn ói dữ dội.
Thấy không an tâm, Thomas Tường liền gọi xe tới chở thằng con đi cấp cứu.

Nhiễm trùng máu mà có dấu hiệu như vầy nguy hiểm lắm.
Ước khoảng hơn nửa tiếng sau, chiếc xe ấy mới đến.
Chiếc xe ấy hiệu “Chevrolet – Tahoe” có bảy chỗ ngồi, thêm ghế tài-xế nữa là tám.

Dẫu đang bệnh trong người nhưng bé Mai vẫn đòi đi theo, Thomas Tường vui vẻ ưng thuận và mời nó ra băng nhì ngồi, vì con nít ngồi ghế phụ nguy hiểm lắm.
– Trời ơi, mặt anh sao vậy?
Người vừa la lên là tài-xế, cũng vừa là một Đan sĩ của Đan viện Thủ Đức, tên gọi Jacob Nhượng.
– Bị chém.
– Vết khâu có hành ngứa không?
– Rân rân một chút.
Biết chàng Cha Sở Giáo xứ St.

Pio không muốn kể rõ chi tiết, Jacob Nhượng thôi hỏi han hay đề cập tới.

Anh có nghe phong thanh anh chàng này đang bao che cho một tội phạm nguy hiểm nào đó; nhưng nếu người sai là anh ta thì tại sao anh ta lại bị ai đó truy sát?
Không nỡ để bé Mai buồn, Richard Lãm nhờ anh bạn đồng tu đưa mình sang Quận Chín để mua chè Thái trên đường Nguyễn Tri Phương cho nó và gia đình anh.

Suốt quãng đường, bé Mai chỉ ho có đôi ba lần, chứng tỏ là bệnh tình nó đã thuyên giảm.

Richard Lãm mừng lắm, bèn hứa khi nào nó thiệt hết ho anh sẽ đãi nó một chầu “Jollibee” hạng nhứt.

Mất khoảng ba tiếng đồng hồ, Ignacio Cường mới rời khỏi nhà thương.

Bác sĩ nói tình trạng của anh không có gì đáng ngại, nhưng vẫn cần theo dõi thêm vì nhiễm trùng máu không phải là một căn bệnh đơn giản.

Hai Nghĩa và Ba Đức dìu Ignacio Cường lên xe.

Do lo sợ tiệm chè sẽ nghỉ nên Thomas Tường đề nghị để Jacob Nhượng chở hai chú cháu đi chơi; về phần mình, ông ở lại đây với hai cậu Mục sư trung niên đặng coi chừng Ignacio Cường.
– Con muốn đi đâu, Cường?
– Về thẳng Giáo xứ của con.

Mấy bữa rày chắc xóm Đạo nháo nhào hết rồi.
Bởi ngày mai sẽ tới phiên Richard Lãm hát Thánh ca trên đài radio, nên đêm nay Jacob Nhượng cho bạn mình nghe trước để khuya nay luyện giọng.

Bài ấy mang tên “Kinh Tình Yêu (Như một sự tình cờ) do nhạc sĩ Phạm Vĩnh Sơn phổ từ thơ của Linh mục Nguyễn Công Đoan và qua phần trình bày của Mai Hương.

Richard Lãm khe khẽ nhẩm theo, tiếng hát anh trong như làn suối, ngân nga xa xăm như từ dãy núi vọng lại, lúc trầm lúc bổng nghe thanh thoát khôn cùng.
– Anh mà song ca với Ngọc Mỹ chắc hay lắm.
– Là ai?
– Cha Phó Stephen – Đoàn Ngọc Mỹ, quản xứ chung với tôi.

Ảnh ái mộ anh lắm, ngày nào mà không mở đài radio của mấy anh lên nghe.
Đôi má của Richard Lãm ửng đỏ.

Anh hứa nho nhỏ rằng lần tới sẽ đem chuỗi Mân Côi lại tặng Cha Mỹ.

Trước thái độ của Richard Lãm, ai nấy thảy đều cười sặc sụa.

Người gì đâu mà hiền như cục đất, mới nói động có chút xíu là đã mắc cỡ rồi.
Do không muốn mọi chuyện thêm rối tung nên Y-Nhã Cường biểu thả anh xuống ở cái chợ cóc cách Giáo xứ khoảng độ vài trăm mét để anh về một mình.

Nhưng với sức khỏe của anh, và nỗi lo anh bị ám hại một lần nữa, không ai đồng ý hết.

Rốt cuộc Hai Nghĩa, Ba Đức và Jacob Nhượng phải hộ tống anh về; dẫu sao có bốn mạng đánh lộn dễ ăn hơn.
– Cũng sắp đến rồi.

Thôi mấy anh về đi.

Ba người bạn Cơ Đốc bấy giờ mới yên tâm mà quay bước trở ra xe.
Ignacio Cường vừa mới đặt chân xuống cổng chính của Giáo xứ, Stephen Đoàn, cố Phêrô Toàn và Sáu Quới đã dẫn Hội Đồng Mục Vụ và rất nhiều Giáo dân đến thăm hỏi.
– Jesus – Ma, đứa nào làm Cha ra nông nỗi này? Cha kể cho tụi tôi nghe đi, tụi tôi xử mà không đẹp là không vác mặt về đây đâu.
Ignacio Cường vỗ vai mà trấn an cháu trai của Phó Chủ tịch Hội Đồng Mục Vụ.
Cố Phêrô Toàn nước mắt lưng tròng mà rờ tay lên ba đường khâu trên mặt cậu Cha Sở mà cụ coi như cháu ruột trong nhà.

Môi cụ cứ mấp máy mãi mà không thốt nổi nên lời.

Một lúc lâu, cụ mới phát ra được một câu:
– Tội nghiệp cháu tao quá bây ơi.
Louis Quế run giọng hỏi:
– Rồi bác sĩ nói sao?
– Không có vấn đề gì nghiêm trọng, chỉ nhiễm trùng máu và phải chích ngừa uốn ván vài mũi.
– Trời ơi, vậy mà mày nói hổng có gì nghiêm trọng hả con?
– So với việc Đức Chúa Jesus bị đóng đinh, thì mấy nhát chém trên người con chẳng là cái thá gì hết.
– Trời đất quỷ thần ơi…!- Nói tới đây, cố Phêrô Toàn xăn hai ống tay áo của Ignacio Cường mà lên coi.

– Đ* má quân nào mà ác ôn dữ vậy bây?
– Quân của Caesar.
Viện cớ mệt trong người, Ignacio Cường xin phép lui về tu xá nghỉ ngơi.

Dù rất muốn níu chàng lại để hỏi chuyện, nhưng ai nấy đều không dám mở lời, thành ra anh bình thản lên chiếc xích-lô của ông Giáo dân sống bằng nghề nhiếp ảnh gia và quay phim đám – tiệc mướn.
– Cha đụng ai mà bị chém vậy?
Ignacio Cường thở dài thườn thượt mà không nói gì.
Trở về tu xá, Ignacio Cường máng liền cái áo chùng thâm mới vá vô tủ đồ.

Đã mấy ngày chỉ được lau mình bằng cách chậm khăn ướt nên bây giờ được tắm chàng Cha Sở mừng lắm.

Dựa theo sự căn dặn của Tám Khiêm, anh lấy băng vải, mà anh ta đã cắt sẵn, dán lên từng vết thương để cho chúng không bị vô nước mà lâu lành.
Chừng tắm – gội đầu xong xuôi, Ignacio Cường mới lột hết những miếng băng vải ngăn thấm nước.

Vì vết thương do mã tấu gây ra nên anh đau rát khôn cùng, gỡ tới đâu trái tim anh lại nhói đến đó.

Mai còn phải đi chích ngừa uốn ván, thăm khám và băng bó vài vết thương sâu lòng.

Chưa kịp ngả lưng xuống giường ngủ một chút, chàng tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đã nghe ai kêu mình ơi ới ngoài cửa sổ.

Đứng dựa ban-công ngó xuống, anh thấy vợ chồng Sáu Quới và vợ chồng dượng Bảy đang đứng ngóng mình dưới gốc bạch mai đại thụ.
– Chi đó quý vị?
Vợ chồng dượng Bảy bắc tay làm loa mà hô:
– Qua hội trường ăn cơm với tụi tôi nè Cha.
– Dạ, tôi nghe rồi.
Dè đâu Giáo dân đã mở tiệc mừng ông Cha Sở toàn mạng trở về.

Bữa cơm tối đó có lẩu cù lao, cá trê chiên xù cuốn bánh tráng với rau sống và chấm nước mắm gừng, cơm chiên cá mặn, giò heo phá-lấu nướng, gỏi ngó sen tôm – thịt, vịt quay Bắc Kinh, hột vịt lộn và canh sườn nấu trà Bắc ăn kèm bánh quẩy.
Cố Phêrô Toàn quở:
– Mèn đét ơi, sao toàn đồ dễ phong không vậy bây?
Ignacio Cường lắc lắc đầu mà cười hiền:
– Không sao đâu cố ơi.
Stephen Đoàn vẫn không nói lời nào.

Điều ấy đã khiến Ignacio Cường phật lòng, chàng cũng làm thinh luôn và cố ý tránh mặt anh bạn đồng quản xứ.

Thái độ “Hai đứa giận nhau” của hai ông Cha đã làm Thầy Phó Tế để tâm tới, máu nhiều chuyện nổi lên, chú ta nhướng con mắt bên trái – vểnh lỗ tai bên phải lên thám thính và thu thập tin tức.
Cũng nhận ra sự khác thường ở Stephen Đoàn, cố Phêrô Toàn giả bộ mời thằng cháu ăn thêm vịt quay rồi nhân đó hỏi:
– Con đang buồn chuyện gì sao Mỹ?
Nụ cười trên môi chàng Cha Phó héo hắt tựa lá thu:
– Có buồn chi đâu cố.

Con đang rầu mà thôi…

Bữa nay Stephen Đoàn không tới thăm Kiều Xuân, nhưng cô không buồn vì biết anh phải ở lại Giáo xứ săn sóc Ignacio Cường.

Quế Trân đã về nhà Henrico Thạnh.

Bây giờ trong phòng chỉ còn có mình cô và ánh đèn huỳnh quang hoang lạnh.
– Tôi có làm phiền cô không cô Xuân?
– Anh…!anh là…
– Tôi là Cảnh, bạn sơ giao của Cha Mỹ nè.

Tôi có làm sao không mà cô không nhớ tôi nổi vậy?
Kiều Xuân phì cười, từ thái độ của cô cho thấy cô không có điều chi bất minh để đến độ lộ vẻ chột dạ:
– Tôi nhớ mặt anh, nhưng không nhớ rõ tên thôi mà.
– Tôi có mua bánh pizza, cô ăn một miếng hôn?
– Dạ.
Vừa mở hộp bánh pizza, Martin Cảnh vừa niềm nở giới thiệu:
– Pizza tự chọn, không bỏ khóm, mua ở chỗ bạn tôi.
– Tôi cũng ghét bỏ khóm trong bánh pizza lắm.
Chiếc bánh pizza bao gồm những nhưn như sau: Thịt ức gà xắt miếng vuông, ớt chuông tam sắc, phô-mai mozzarella, hành boa-rô, cần tây, bacon, nấm rơm, cà chua bi và tôm nhỏ; trên bề mặt còn phủ thêm một lớp phô-mai dạng bột, sau đó được nướng sơ qua bằng cây khò hơi gas để tăng thêm độ béo và thơm ngọt.
– Tôi còn mua thêm một lốc “Nitro Pepsi” hương vanilla…
Kiều Xuân thích thú bày tỏ:
– Chà, tôi chưa từng uống loại này bao giờ…
– Ở đây có tẩy không?
– Dạ có, hồi nãy cô Trân có mua sẵn cho tôi một thùng đá viên.
– May quá…
Trong lúc chờ người bạn của anh Mỹ làm xong hai ly nước, Kiều Xuân ướm hỏi anh ta:
– Đôi mắt của anh ta sao mà giống người yêu cũ của tôi quá.
Martin Cảnh bật cười hỏi vặn lại:
– Giống chỗ nào?
– Đôi mắt của hình cảnh.
Martin Cảnh lắc đầu nguầy nguậy với một nụ cười tươi rói trên môi.
– Còn nhớ “Bồ câu không đưa thư” không?
Martin Cảnh hơi quay đầu lại.
– Dãy số bí ẩn đó mấy anh vẫn chưa khám ra phải không?
– Cô có đang chơi đùa với tình cảm của người khác không vậy cô Xuân?
– Không, tôi thương anh Mỹ thiệt lòng.
Martin Cảnh nhớ tới bịnh án của Kiều Xuân.

Kỳ thực, nàng ta chỉ bị sang chấn tâm lý nhẹ, nhưng ai đó đã cố tình đổi sang đơn thuốc điều trị chứng tâm thần phân liệt, thành ra thần kinh nàng ta mới ra nông nỗi như ngày nay.

Kết quả kiểm tra ban trưa đã chứng minh nàng ta không bị đa nhân cách hay tâm thần phân liệt, nhưng thái độ của nàng ta khuya nay đã khiến chàng pháp y không an tâm và mất tin tưởng vào sự “giám định” kia.
– Tôi xin lỗi anh nghen.
– Sao vậy?
– Tôi không biết nãy giờ tôi đang nói gì nữa.

Trí nhớ của tôi lúc có lúc không, hổng biết điều chi giả – cái nào thật nữa.
– Tôi nhớ Cha Mỹ có nói Xuân từng uống thuốc hướng thần…
– Thì sao?
– Uống thuốc có hiệu quả không?
– Chi vậy?
– Để tôi giới thiệu cho một người bạn Giáo dân.
Nghe đến đây, Kiều Xuân lắc đầu nguầy nguậy mà nói:
– Uống vô buồn ngủ thì nhiều mà giãn thần kinh thì ít.
– Đó là tác dụng phụ thường gặp của thuốc mà cô.

Phải điều trị về lâu về dài…
– Về lâu về dài là bao nhiêu? Chưa gì mà tôi đã bị đau bao tử và mắc chứng cuồng ăn vô độ rồi.
Rồi Kiều Xuân chợt nhếch miệng cười:
– Đám bác sĩ chỉ biết nhét thuốc vô đầu nạn nhân chứ có bao giờ tin họ không cần thuốc cũng khỏi đâu.

Vết thương lòng mãi mãi không thể nào vá lành bằng đơn thuốc của con người.
Martin Cảnh thôi hỏi han.

Anh giục Kiều Xuân mau ăn uống để còn đi ngủ nữa.

Ăn uống xong xuôi, Martin Cảnh xin phép ra về.

Trước khi đi, anh không quên giúp Kiều Xuân dọn dẹp và thâu gom rác sạch sẽ, cũng như xịt nước thơm cho căn phòng.
Ngồi một mình trong phòng vắng, đã vậy còn tắt đèn tối thui, chút ánh sáng leo lét của đèn đường không đủ mạnh để rọi tới nơi đây, không gian quanh Kiều Xuân ảm đạm đến lạ.

Cô lắng tai nghe tiếng sương rơi trên nhành phượng mất mùa hoa, lòng thầm tưởng về quá khứ, nơi ấy cô cười nhiều hơn và rời xa Chánh Pháp nhiều hơn.

– Mưa ta?
Quả thật, ngoài trời đang nổi dông, rồi mây mưa ùa tới nhanh như muốn làm vũ bão.

Vừa thò chân xuống giường đặng xỏ dép, cô vừa quơ tay tìm chiếc điện thoại của mình.

Đứng tựa vào thành tường mà nhìn xuống, Kiều Xuân thấy mấy anh lính canh chạy như vịt trong tình trạng ướt như chuột lột; nửa tức cười đau ruột, nửa lại thấy mến thương khôn cùng.

Không phải cô quởn mà có cảm tình với người dưng, chẳng qua họ khiến cho cô nhớ tới hai ông anh ở nhà mà thôi; hồi xưa còn nghèo, mỗi lần trời đổ mưa là hai ổng lại loi nhoi ra ngoài sân gom củi – lá và đồ đạc để ngoài ngoải như bị đỉa bu hút máu vậy.

Qua ngày mốt, các triệu chứng trên cơ thể Ignacio Cường đã thuyên giảm đôi phần.

Không biết bằng cách nào mà nhóm Tăng sĩ trên Phụng Hoàng Sơn biết anh gặp chuyện nên đã gởi mấy ký trà giải độc và thanh nhiệt cho anh uống; chỉ cần nhìn nét chữ rất đẹp là anh biết liền người thảo thơ là Châu Lợi.

Cũng may cách pha chế rất dễ, chế nước sôi vô rồi hãm độ nửa tiếng là xong chén thuốc; nhờ vậy mà chứng táo bón và lạt miệng của anh đã hết trơn.

Từ chén thuốc này anh lại nhớ tới người Tăng sĩ có ngoại hình y hệt phái nữ kia, một người thẳng tánh và có sở kiến độc đáo, ở gần anh ta anh cảm thấy hết sức thoải mải và dễ chịu, nói nghe quái đản là giống như được thân cận với mẹ hiền, bởi lẽ anh không cần phải uốn lưỡi – lắc môi để tránh làm mất lòng nhau, do đó mới có cảm xúc như trên.
Henrico Thạnh đã thay Ignacio Cường cuốc hết vồng khoai và giặm lại mấy liếp rau.

Còn JB Khải thay anh lên lớp dạy Giáo lý.

Riêng Stephen Đoàn, người bạn đồng quản xứ với anh vẫn đi đi về về thường, gần như hai mươi bốn giờ của anh ta đã chia thành hai nửa: Một nửa ở ngoài đường và một nửa ở trong xứ; tuy không vui song anh không để lộ ra mặt, chỉ bởi anh không muốn gây thêm phiền phức và buồn bực cho ai đó nữa.
Uống xong cử thuốc, Ignacio Cường kiểm lại đồ đàng hoàng rồi mới lại nhà của ông Thầy Sáu.
Đã cuối Đông nên trời hưng hửng nắng, thành ra vết thẹo trên mặt chàng Y-Nhã không bị hành đỏ hay sưng tấy, do đó chàng chẳng cần đội nón hay nhiễu sự hơn là che dù.

Nhưng nhiều Giáo dân xót ruột vẫn nài chàng đội nón và che dù; trước thịnh tình của bà con xóm Đạo, chàng không biết nói lời gì nên chỉ biết chắp tay xá họ một cái thay cho câu cảm ơn và từ chối.

Chưa đi tới nhà Louis Quế mà trên tay chàng đã lủ khủ bao, bịch, túi,…!đựng đủ món ăn chơi; trông chàng giờ hệt như cây thông Noel vậy.
Còn cách ngôi nhà có “Hoa soan trên thềm cũ” của đại gia đình Thầy Sáu, Ignacio Cường dừng chân đặng ghé thăm một gia đình mẹ góa con côi để gởi lại mấy phần quà mà Giáo dân đã trao cho anh.

Nghe đâu chị này tính kết tóc se duyên với ông chủ một hãng sửa xe lớn bên Quận Bảy, nhưng những chuyện bất tường xảy đến với con riêng nổi đình nổi đám độ rày đã khiến chị chùn bước; trước mặt mình thì người ta hứa ngon hứa ngọt, vắng mặt mình rồi liệu người ta sẽ giữ lời hay là lủm luôn đây.

Chàng tu sĩ gợi ý chị ta nên kêu ông đó về đây sống, vì ở đây có hàng trăm con mắt giám sát, hễ ổng mà giở trò là bà con sẽ ngăn chặn liền.

Chị ta tỏ vẻ mừng rơn, rồi rối rít cảm ơn Cha vì đã hiến kế cứu mình.

Vấn đề đi bước nữa dưới góc nhìn của Giáo lý bên Đạo đã khiến Ignacio Cường băn khoăn hoài không dứt.

Tự nhiên anh ước sao cho đầu óc mình bình thản như Thanh Liên, không ngại lời đàm tiếu của ai hết, phần hồn nghĩ sao thì phần xác thể hiện ra như vậy.

– Thầy Sáu.
Không có ai trả lời Ignacio Cường hết.
– Thầy Sáu!!!
– Dạ, có con!
Vợ Thầy Sáu bồng thằng nhỏ ra mà cằn nhằn ông chồng:
– Tui nhớ hổng lầm là cha lớn hơn ổng cả chục tuổi, sao sợ ổng dữ vậy hả?
Thầy Sáu bẽn lẽn cười duyên chớ hổng có thanh minh – thanh nga chi sất.
Chị Sáu nhéo hông ông chồng nhát cáy một cái thiệt đau, rồi nguýt dài thườn thượt đã đời mới chịu lên gác nằm chơi với thằng con.
Louis Quế xoa xoa hai lòng bàn tay vào nhau mà cười hỏi lý do tới thăm chú.
Ignacio Cường đưa bọc đồ cho Louis Quế mà rằng:
– Cái này là cho chị Sáu, lấy về mà may áo dài du Xuân.
– Còn tôi đâu Cha?
– Thầy mặc âu phục là được rồi.

Hay tính làm chương trình kỷ niệm “Mười năm tình cũ” mà đòi mặc đồ đôi với chỉ?
Louis Quế bật cười:
– Nói giỡn chứ tôi dư biết Cha hết “nhớt” rồi.

Ignacio Cường cũng phì cười:
– Biết vậy là tốt.
– Hồi sáng Cha Mỹ mới cho tôi xấp vải may áo dài, nay ráp với xấp của Cha là thành đồ đôi rồi.
– Rồi Cha Mỹ đâu?
– Đi phát cơm với nhóm cư sĩ Hòa Hảo nào đó rồi.
Ignacio Cường nghe vậy thì cảm thấy an tâm phần nào.

Với tâm trạng mừng rỡ, anh nói lời từ tạ người bạn già rồi rảo gót ra về.
Henrico Thạnh đã mần xong việc, hiện đang ngồi câu cá trên con đê gần cổng Nam, cái thùng sơn đã đầy nhóc cá sông tươi chong.

Thấp thoáng bóng dáng của JB Khải trên cây bần ba mươi tuổi, cái tướng leo trèo của anh ta trông y hệt như một diễn viên xiếc tài ba.
Nhác thấy Ignacio Cường, Henrico Thạnh bèn mở một bài hát lên để bẹo gan thằng bạn:
“…!Em thương một người trai
Lạnh lùng đi giữa đời
Thường gục đầu vào cánh tay
Nụ cười không đến môi
Quên mất Tình Yêu rồi…”
Ấy là bài “Vòng tay giữ trọn ân tình 2” của đôi nhạc sĩ Y Vân – Đỗ Kim Bảng, qua phần trình bày của Thanh Tuyền.
JB Khải cười đến nỗi xém chút nữa là rớt thẳng xuống đất.
Ignacio Cường sẵn tay khỏ đầu Henrico Thạnh, rồi hỏi sao cùng một điệu nhạc mà phần lời này lại khác với phần lời mà chàng ta đã nghe vậy.
Henrico Thạnh thủng thẳng trả lời:
– Lời Một do nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng viết, nội dung nguyên bản là thể loại Chiêu Hồi, nhưng vì phần lời quá ư tình tứ và nồng nàn nên ai cũng tưởng là thể loại Trữ Tình; thấy vậy ông Bảng bèn nhờ ông Vân giúp sức đặt lời Hai theo thể loại Trữ Tình luôn.
– Vậy cô Thanh Tuyền ca lời mấy?
– Lời Hai.
– Còn lời Một?
– Như Quỳnh, Hoàng Oanh, Phương Dung,…!Theo thiển ý của tui thì cô Hoàng Oanh ca đạt nhứt.
Rồi sau một đỗi “xem dung nhan ấy bây giờ ra sao”, Henrico Thạnh lại nổi máu giỡn hớt:
– Tui tưởng anh là bác sĩ Black Jack không đó.
– Lát có muốn tôi cho anh thành “Jeff the Killer” không?
Sau khi phóng xuống đất, JB Khải liền bước tới vỗ vai Ignacio Cường mà cười hỏi:
– Khỏe chưa?
– Còn hơi rêm rêm.
– Trưa nay Thạnh tính nấu canh chua trái bần, cá thì chia làm hai phần: Một mớ đem kho, mớ kia chiên giòn với mỡ heo, rau thì hái ngoài sau hè, lát nữa nếu Thầy Dương có qua thì có sò huyết xào mắm me ăn.
– Sao nấu với bần?
– Giác, keo, lá giấm đâu mà nấu.

– Ờ há.
– Ở dưới quê rẻ sình, lên đây mắc như quỷ.

– Henrico Thạnh chép miệng.
Bếp ăn nơi tu xá đã lâu mới được dùng để nấu một mâm cơm đàng hoàng; thường ngày hai ông Cha quản xứ chỉ hâm đồ ăn hay nấu nước pha trà và cà-phê, thành ra trên kệ không có lấy một hũ gia vị và trong tủ lạnh cũng chẳng có một thứ đồ la-ghim.

– Dòm cái bếp của mấy cha oải chè đậu thiệt.

– Henrico Thạnh vừa nói vừa mở cửa tủ ra coi.

– Ở đây có tiệm chạp-phô hôn?
Ignacio Cường nói, “Có.”
– Tui ghi toa, hai anh đi mua nhen?
JB Khải càm ràm:
– Mua lộn đừng trách.
– Ờ, chửi thôi hà.
Ignacio Cường hỏi:
– Tiền đâu?
– Có tiền mua được là xưa rồi, không tiền mà mua được mới hay chớ?
– Ừ, “Tiền bạc là phù du, mà không trả tiền là phù mỏ”.

– JB Khải nhếch miệng cười.
Giỡn qua giỡn lại một hồi, Ignacio Cường và JB Khải mới chịu đi mua đồ theo toa của Henrico Thạnh.

Chưa gì mà chả đã đày đọa hai người rồi.
Trong lúc chờ hai ôn thần kia đem đồ dìa, chàng Linh mục xứ dừa lo mần cá, vo gạo nấu cơm và lặt rau; cũng may ở đây có muối hột, nếu không anh lại mất thời giờ vô ích.

Anh hổng ưa nếp sống thành đô nên hổng cảm thấy buồn khi phải xa gia đình và chịu tụt hậu so với bạn bè đồng trang lứa.

Nhiều phen tụi nó cà khịa anh là người Việt Nam mà hổng biết trào lưu đang thạnh hành hay mấy người đang nổi trong giới giải trí.

Biết để làm chi? Được ích lợi gì? Toàn là nghe một đám bươi móc chuyện nhà để mua vui vài trống canh cho thiên hạ, không thì cũng khoe khoang, khoác lác đời tư hũ mắm của mình, thêm mấy ba – mấy má mua bài tâng bốc con cái hết sức xạo quần.

Ngặt nỗi tía má anh ham dzui nên lần nào lên nhà chơi anh cũng thấy hai đấng sanh thành dán mắt vô truyền hình mà cười nghiêng cười ngả; giờ đây anh nghĩ nên đặt thêm câu “Con khác Cha là nhà có phước” cho hạp với thời thế con Tạo xoay vần này.
Trong lúc Hoàng Oanh đang ca bài “Cánh nhạn đầu Xuân” của chồng cô – tức nhạc sĩ Mai Châu, Henrico Thạnh thấy một cái đầu nhô lên nhấp xuống sau cái cửa sổ nằm kế bên cửa hậu.
– Cha, Cha…
– Chi mậy?
Đứa nhỏ đeo cái xắc trước ngực, dáng vẻ còm nhom, ốm yếu như con mèo hoang, nước da sạm đen hôi mùi cháy nắng, và đầu tóc thì bù xù, dẫu đã được cái nón kết “đóng khung”.
– Tui tưởng cậu tên Lượm.
– Dạ, con đi bán vé số chớ hổng có đi giao liên, thành ra con hổng phải tên “Lượm”.
– Vậy chắc cậu tên “Nhặt”?
– Cha nói gần đúng rồi đó.

Con tên Nhựt.
– Gần ghê há?
– Sát rạt luôn Cha.
– Rồi vô đây mần chi?
– Cha mua giùm con mấy tờ vé số.

Còn không thì cho con xin dĩa cơm.

Sáng giờ bán ế quá chắc lát nhịn đói.
– Cậu làm tui nhớ vở “Gia tài của Cha” của nhóm kịch “Líu Lo”, trong đó có đoạn như vầy, hai anh em tán gia bại sản phải đi xin ăn, nhưng gặp ai cũng ca, “Cho tui dĩa cơm sườn, lấy thịt không lấy xương…”
Đứa bé trai gầy như con bọ que, nên khi nó cười hơi lớn một chút là toàn thân rung lên hệt thân cây sắp bị đốn ngã, nhìn vừa buồn cười vừa thấy tồi tội.

Nếu như người viết là khứa đã sáng tác bài thơ kia, câu văn mô tả trên sẽ như thế này.
– Dạ, con xin cơm thừa canh cặn, chớ hổng dám đòi cao lương mỹ vị.
– Nghe cải lương bao nhiêu tuồng rồi?
– Dạ, tới năm ngoại con mất thì chắc được bảy năm.
Henrico Thạnh bèn đưa cây chổi rơm để nó phụ anh quét nhà quét cửa.

Nó vui vẻ xách chổi đi quét, vừa làm vừa ca một bài hát tân thời bằng thanh âm đơn đớt của con nít.
– Vé số còn bao nhiêu xấp?
– Dạ, còn năm cọc dày cui.
– Đưa cho tui một cọc.
Một cọc là một trăm tờ.

Vị chi năm cọc là năm trăm tờ.

Ai từng đời một đứa con nít mà bán vé số nhiều như người ta đi rải truyền đơn thế này.
Henrico Thạnh kiểm lại từng tờ một.

Không tờ nào là giấy trắng hay vé số cũ trộn vô.

Hết thảy đều ghi thời hạn bữa nay.
– Quân bất nhơn nào bắt cậu đi bán vé số nhiều dữ thần dzậy?
Nó không khóc lóc hay sụt sè sợ hãi.

Mà thản nhiên kể về anh Cả, người này là em trai ruột thịt của một tướng lãnh trong Bộ Quốc Phòng, chuyên sống bằng nghề chăn dắt và bóc lột sức lao động của trẻ nhỏ và người có chút nhan sắc.
– Có chỗ dựa nên ổng đâu có ngán ai.
Nó chốt bài luận văn bằng một câu kết chua chát.
– Không ai có thể bán hết năm trăm tờ trong vòng một ngày, ngay cả đại lý cũng vậy.
– Tại ổng muốn tụi con bán càng nhiều càng tốt nên mới bắt đi lấy nhiều như vầy.
– Đứa nhỏ này là ai nữa vậy Thạnh?
Louis Quế vừa hỏi vừa lại gần thằng nhỏ mà dòm ngó từ trên xuống dưới.

Chừng biết nó là đứa con nít hay vô xứ bán vé số thì yên tâm mà lảng sang chuyện khác:
– Vợ tôi biểu tôi đem qua cho các Cha vài món đồ la-ghim để nấu ăn.

Henrico Thạnh ngó xuống cái giỏ đệm trên tay trái của ông Sáu Quới mà than thở rằng:
– Trời ơi biểu đi mua có mấy món đồ mà giờ chưa về nữa…
– Giáo xứ cũng rộng mà Thạnh.
– Rộng khỉ mốc chứ rộng.

Có bằng cuộc đất ở dưới quê tui hôn? Đi đốn chuối mướn cho người ta mà đi lâu lắc vậy chắc cạp đất ăn.
Ước độ nửa tiếng nữa, mới thấy JB Khải và Ignacio Cường lò dò trở về.

– Đừng nói là đi luôn tới Chợ Lớn rồi nha?
– Hông, đi mấy chợ cóc vòng vòng ở đây thôi.

– JB Khải đính chính.

– Tiệm chạp-phô đâu phải siêu thị mà cái chi cũng có.
– Lề mề.
Xả cơn tức xong, Henrico Thạnh đưa cái bàn nạo dừa cho JB Khải để anh ta lấy nước cốt dừa kho tép.

Louis Quế thì lãnh phần róc mía và chặt khúc khúc.

Và Ignacio Cường thì đi lặt đậu rồng, rửa và bào dưa leo, và cuối cùng là đi luộc đọt nhãn lồng.
Độ khoảng một tiếng sau, Henrico Thạnh mới nấu xong mâm cơm, bao gồm các món như sau: Cá kho mía và nước dừa xiêm, tép chấy dừa, canh chua trái bần nấu với tép mòng và đậu hũ, đọt nhãn lồng luộc, đậu cô-ve xào thịt bò và óc heo chưng hột gà.
Louis Quế xuýt xoa trước bàn ăn thịnh soạn.

Chú không dè một người ba lơn như ông Linh mục Thạnh lại có thể nấu được một bữa cơm ra trò.
– Sao anh làm lẹ vây Thạnh? Mấy luống khoai, mấy cái mương anh làm xong hết ráo.
Henrico Thạnh phì cười:
– Tui là con nhà nông mà.

Cày sâu cuốc bẵm quen tay rồi.
Hai Lúa và Út Mén bấy giờ mới về.

Đứa nào đứa nấy tự giác đi rửa mặt và tay sạch sẽ, rồi mới chọn ghế mà ngồi xuống.

Đối với sự có mặt của Nhựt, tụi nó không lấy làm ngạc nhiên lắm, vì ở dưới quê ông Tía thường hay đãi cơm cho người cần.

Út Mén huých cùi chỏ vô cánh tay thằng nhỏ bán vé số, ra dấu cho nó làm theo lời Tía Cường.

Thằng nhỏ lính quýnh làm theo, nhưng trên gương mặt nó lại treo lên nụ cười không nên có.
Ignacio Cường đã nhìn thấy điều ấy, song anh không nổi trận lôi đình hay rầy rà chi sất; bởi lẽ thằng nhỏ là người ngoại Đạo, bắt nó làm theo mình đã là một chuyện không đúng, chứ đừng nói tới việc ép nó phải tôn trọng Thánh Kinh trong khi nó còn không biết các Chúa Thánh Thần là ai.

Nói chuyện với Thanh Liên riết, tự nhiên anh bớt nóng nảy hẳn đi, và cũng không còn quá để tâm tới từng câu từng chữ của đối phương nữa.
Vì vợ đi ăn đám cưới nên Louis Quế ở lại ăn cơm luôn.

Chú hăm hở gắp thử một khoanh cá kho mía, rồi cặp với chút cơm trắng mà đưa vô miệng nhai.

Mới vừa nuốt xong, chú liền bật ngon cái mà ngợi khen hết lời:
– Ngon.

Ngon số dzách luôn.
– Vậy mà có người hổng biết quý đó.
JB Khải nguýt dài.

Rồi lầm lầm lì lì mà sớt miếng óc heo vào chén của mình.
Louis Quế bỗng bình phẩm về việc nuôi heo:
– Vớt bèo nuôi heo lời lắm.

Henrico Thạnh gật gù:
– Ờ, bèo có sẵn trong mương, sáng chịu khó ra lua một mớ là bớt khẳm tiền cám.
– Rồi lên đây ai lo ở dưới?
– Ba má vợ của anh Hai cô Xuân sẽ lo vụ này.

Tui trả tiền công đàng hoàng, còn cho phép hái rau và lượm trứng hổng tốn tiền.
– Hổng sợ ổng bả lấy hết hả?
– Hông.

Tui tin bà con quê tui.
JB Khải xọt vô hỏi:
– Cây dù của tôi đâu?
– Tui để ở đẳng á.

Tính làm Bạch Xà hay gì mà mua dù vậy?
– Anh có thể sống một ngày mà không có cái móc câu trong họng không?
– Thông cảm đi.

Ngày nào cũng uống trà “Móc Câu” nên bị vướng vài cái trong cổ họng.
JB Khải hứ một cái thiệt lớn, làm mọi người được phen cười sặc sụa.

Thằng nhỏ bán vé số cùn quằn không chịu về cái ổ của nó.

Ở đây nó được ăn ngon, mặc đẹp, rồi còn cả học hành và vui chơi cùng chúng bạn; ở kia ngày nào nó không bị đánh bầm mình bầm mẩy và chịu đói từng đêm.
Ignacio Cường thở dài thườn thượt, rồi gật đầu chấp nhận cho nó ở lại tu xá.

Nó sẽ ở kế bên phòng anh, tức phòng số Hai, để tiện bề dòm chừng.
Henrico Thạnh cau mày hỏi:
– Tụi nó giữ giấy tờ của cậu hết rồi phải không?
– Dạ phải.
– Có nhớ tên ba má, nội ngoại, cô bác, cậu mợ, dì dượng,…!nào để người ta lần theo mà cấp lại giấy tờ không?
– Dạ có, con nhớ rõ tên của bà nội và má lắm, biết luôn sanh thần nữa.
– Để thư thư vài bữa rồi tui dẫn cậu đi làm lại giấy tờ.
Tin rằng mình đã thoát khỏi hang sói nên còn bao nhiêu tiền trong túi Nhựt vét hết đi mua trà sữa và bánh trái ăn cho đã thèm.
– Để chú đãi tụi bây một chầu trà sữa nghen? – Louis Quế ngỏ lời.
Nhựt là người vỗ tay lớn nhất.
Rồi đó, Sáu Quới dẫn ba đứa nhỏ lại tiệm trà sữa của nhỏ Út Điệu.

Quán nhỏ ấy nằm gần Đất Thánh vì nhà của nhỏ cất ở đó, nhưng mặc dù là vậy nhỏ vẫn bán rất được, hết thảy đều nhờ công thức pha chế do nhỏ tự sáng tạo ra.
Nhựt nói muốn uống trà sữa thập cẩm, Hai Lúa thì chọn rau câu cà-phê, tàu hũ bạc hà và bánh pudding hột gà làm thành một ly thạch ba màu, và Út Mén chỉ vô cái hình chụp món Milo sữa đặc dầm đá có bỏ thêm bánh flan bí đỏ.
– Chú là thảo trình viên theo dạng freelancer nên không có chỗ làm cố định.

Thỉnh thoảng, chú tham gia các chương trình tìm lỗi trên nhu liệu hệ thống của người ta để lấy tiền ăn xài; nhưng mười thì chỉ có một lần thành công, còn lại bị oánh văng ra hết.
– Vậy ra chú không có thớ trong cái nghề của chú lắm? – Nhựt e dè hỏi.
Louis Quế gãi đầu cười giả lả.

Chú đã tham gia nhiều khóa đào tạo và rèn luyện kỹ năng thảo trình, nhưng không có ai có thể giúp chú hiểu ra điểm khiếm khuyết của chú nằm ở đâu để chú thay đổi mà nâng cao tay nghề.
– Mấy đứa ở lại vui vẻ nhe? Chú còn phải về nhà làm thiết kế website cho người ta, trưa mơi giao rồi.
Xấp nhỏ dạ ran.
Trở về nhà với tâm trạng buồn hiu và cái bóp nhẹ tênh, Louis Quế không nói không rằng mà đi một hơi lên gác để về phòng mình và ngồi làm việc ở đó.
Vì phòng ở ngay hướng Tây nên xế trưa và chiều tà rất oi bức và ngộp ngạt, cực chẳng đã Sáu Quới mới phải lắp máy lạnh “bốn ngựa” để cho dễ thở.

Nhưng gắn đâu được vài tháng, đã nghe mấy người kia nói bóng nói gió chê trách chú đủ điều.

Chú đã nhường các phòng tốt nhất cho họ rồi, tiền mua máy lạnh chú cũng tự trả, tiền điện hằng tháng chú cũng góp thêm rất nhiều, vậy mà họ vẫn chưa vừa lòng.

Ba má chú đành-nói vậy thì phòng ngủ của ai cũng được gắn máy lạnh hết.

Tưởng đâu yên chuyện rồi.

Dè đâu tháng trước tiền điện cao quá họ lại thi nhau than vắn thở dài, đổ thừa người này xài hoang, nghi ngờ kẻ kia dùng phí; có ai mà tin gia đình của ông Thầy Sáu lại hục hặc nhau vì tiền, ngay cả cố Phêrô Toàn và hai ông Cha trung niên còn nhìn lầm là…
Trong lúc sạc điện thoại, Louis Quế mở nhạc lưu trong máy lên nghe.

Nếu vợ chú có ở nhà, chắc sẽ chửi anh té tát vì cái tật ẩu tả.

Nghe mấy cái tin trên mạng riết đụng đâu cổ cũng sợ cháy nổ và thương vong.

Mấy khứa chiến hữu hay kêu chú là “Baby cute” của cổ, nhưng chú cũng biết cái nghĩa thứ hai mà đám bạn gán cho chú là “Barbecue” do làn da sậm như màu nước sốt ướp thịt nướng.
Sẵn có hoa tay, Louis Quế làm luôn nghề thiết kế huy hiệu cho các nhãn hàng, hãng – xưởng và quán sá.

Khách hàng tưởng chú là “Thừa Sai” của Chúa nên đòi hỏi chú quá trời quá đất.

Chú đặt biệt “ưa” cái nết “Sao cũng được”, rồi chừng khi chú vẽ xong, họ lại giãy đành đạch và bắt phải sửa theo ý thích của họ!
Đang căn lại các góc, sao cho con thiên nga nằm gọn trong hình lục giác, Louis Quế ngừng tay mà đưa mắt ngó chiếc điện thoại; rồi lẩm bẩm hát theo vài câu trong bài hát “Xuân về nhớ Tết năm nay” của nhạc sĩ Hoài Linh qua phần trình bày của song ca Thái Châu – Diễm Chi:
“Buộc bụng thắt lưng, cái Tết này buộc bụng thắt lưng
Vui Xuân – Mừng Tết, cô bác ơi chín lo – một mừng
Giàu tiền thừa bạc cái Tết mới sang
Ta nghèo dăm đòn bánh tét, với bánh chưng cũng thừa ung dung…”
Trời ơi cố nhạc sĩ đã nói lên nỗi lòng của chú và muôn dân Việt Nam trong thời buổi gạo châu củi quế, xăng là vàng – dầu là kim cương này!
Hồi ông cố của Sáu Quới còn sống, cố có nguyên dĩa than “Shotguns – Xuân 74” này.

Thời may chú lo xa nên đã chép lại qua USB, thành ra dù dĩa kia đã hết nghe được, nhưng âm vang ngày xưa của nó sẽ còn ngân nga mãi theo dòng chảy thời gian.

Sau hơn hai tiếng làm “Linh hồn tượng đá”, rốt cuộc ông Thầy cũng thiết kế xong huy hiệu cho khách hàng.

Song chú chưa gởi đi liền mà nhắn tin hỏi ý kiến khách hàng, không quên đính kèm tấm ảnh chụp bản phác thảo chưa bỏ màu.

Nhiều khách hàng sợ chú ở không nên bày trò cho chú làm hoài.

Thiệt là thấy muốn nựng hết sức vậy hà.

Quả đúng như trong dự đoán của Sáu Quới, khách hàng nói năm nay em hạp với màu đỏ nên anh chịu khó phối màu sao có “huyết sắc” trong đó giùm.

Chú thầm nghĩ trong bụng, với cái nết của bây thì không có cái màu nào hạp với bây hay phù hộ bây hết; nhưng trên máy, chú vẫn dịu ngọt giải thích và dỗ dành để khỏi mắc công làm lại từ đầu.

– Má nó…!Vẽ mệt chết mẹ còn bắt vẽ lại! Tao mà biết thằng thầy phong thủy nào xúi bây chọn màu đỏ, tao lại bẻ răng nó liền.

Nó muốn “Màu tím hoa sim”, “Nỗi buồn hoa phượng” hay “Bông bí vàng”, tao chiều ý hết.

Thế là tối nay chú hết có thời gian dẫn gia đình nhỏ ra rạp coi mèo.

– Chiều nay có đi chơi…!Sao mặt mày bí xị vậy cha? Bị ông Cường chửi nữa hay gì mà “Cuối ngày trên phố buồn hiu” vậy?
– Con nhỏ khách nó đì tôi nè bà.

Nó chắc là bà con với Lucifer, tên gọi “Lu-xu-bu”; hồi đầu hổng banh cái mỏ ra nói mình muốn màu đỏ đi, đợi người ta bỏ màu xong mới òn ĩ, “Anh ơi anh sửa giùm em…”
– Nín.

Con ghệ hay khách hàng mà nói giọng ngọt sớt vậy?
– Dạ, khách của em, chị Hai.

Chồng chị hổng phải là Alain Delon hay Hà Gia Kính đâu mà từng tuổi này rồi mà vẫn có gái theo.

Chị Sáu lườm ông chồng ngũ tuần một cái muốn rớt con mắt, rồi hẩy đí* đi một hơi vô phòng của mấy đứa nhỏ để kiểm tra bài vở trên lớp của tụi nó.
Nhắc tới bồ bịch, tự nhiên Sáu Quới nghĩ về Cha Phó Stephen – Đoàn Ngọc Mỹ.

Ổng xấu đau xấu đớn như vầy chắc hổng có ghệ gộc chi đâu ha? Cha Cọp còn có cửa, Thầy Antonio Vũ, rồi Henrico Thạnh và JB Khải thì cầm chắc phần thắng rồi.

Nhưng sao chú vẫn nghe người ta đồn thổi Cha Mỹ có người yêu sau lưng dzậy cà?
Biết rằng có ngồi ở đây tới khuya cũng không thể đào ra ý tưởng thiết kế mới, nên Sáu Quới bèn soạn đồ đi tắm.

Sau đó chú xách xe đi rảo vài vòng Quận Nhứt cho khuây khỏa tinh thần.

– Anh đi đâu?
– Đi vòng vòng…
– Vậy dẫn em với mấy đứa nhỏ đi chung luôn đi.
– Cũng được.
Rốt cuộc tối đó xấp nhỏ vẫn được coi mèo, kể cả thằng cu mới nứt mắt được vài tháng.
Nghĩ ban chiều còn dám bao ba đứa nhỏ người dưng một bữa, do đó Sáu Quới quyết định đãi vợ con một chầu món ngon tại một nhà hàng Á – Âu tọa lạc trên một con đường cùng Quận.
Sẵn thuận đường, Sáu Quới đổ thêm xăng và thả vợ mình xuống để cổ mua bánh trái để dành ăn khuya.
– A…!Thẻ không quẹt được…!
Sáu Quới đành trở vào xe ngồi đợi vợ đi ra, chứ bây giờ chú mà bỏ xấp nhỏ ở đây một mình nguy hiểm lắm.
– Thẻ không quẹt được hả?
– Dạ.
– Tôi trả giùm cho.

Sáu Quới không kiềm được mà xì cười.

– Nhiêu?
Sáu Quới bỡn:
– Một trăm đồng.
– Trăm hai.
Sáu Quới tròn mắt nhìn người đàn ông có khuôn mặt xương xương.
Đáp lại sự thất thố của Thầy Sáu, anh ta thủng thẳng giải thích:
– “Chevrolet – Suburban” hao nhiên liệu dữ lắm.
Cuối cùng chiếc xe phải đổ trăm tám mới đầy bình.

– Đã đi xe thì đừng có đổ theo kiểu nhín nhín.

Mau hư xe lắm.

Xe cộ chứ đâu phải phi cơ mà sợ đầy quá dễ phát nổ…!Rồi có thay nhớt và đổ nước mát định kỳ không? Với lại phải làm sạch hệ thống cánh quạt và điều hòa thường xuyên nữa.
– Dạ có.

– Sáu Quới cười khổ.

– Nhưng cái khoản đổ xăng không trả nổi đầy bình nên chỉ đổ non phân nửa xíu thôi.

– Với đồng lương xứ này thì khó lòng mà nuôi xe Mỹ nổi.
– Xe anh là xe nào?
– Chiếc “Porsche – 911” đó.

Vì không thân thiết với người đàn ông hảo tâm một cách quái dị nên Sáu Quới xin phép kết thúc cuộc nói chuyện để về trông con.
Người đàn ông kia cũng không giữ lại, chỉ chúc ông Thầy Phó Tế và gia đình của chú vài câu phước lành, rồi cũng quày quả trở về xe của mình.
– Ai vậy anh?
– Hổng biết nữa.

Tự nhiên cho tiền anh đổ xăng.

Mà cho gần hai trăm đồng mới ghê chớ.
Chị Sáu cau mày hỏi:
– Anh có đọc số tài khoản hay cầm tiền của ổng không?
– Không, ổng trả bằng thẻ của ổng, chẳng đề cập tới chuyện xin số tài khoản hay đổi tiền chi sất.
– Trời ơi, thời nay mà còn tồn tại một người đổ xăng giùm hả Trời?
– Còn chớ em.

Miễn mình tin có người tốt là mình sẽ gặp người tốt hoài.
Trong chiếc xe “Porsche – 911”, Mặt Xương đang châm giùm điếu xì-gà cho Nón Cao Bồi và Áo Gi-lê; rồi cũng tự thưởng cho mình một điếu thơm thơm.
– Đã tìm được Đoàn Tòng chưa? – Nón Cao Bồi vừa hỏi vừa sửa lại cái nón cao bồi.
Bài “Kỷ niệm một mùa Xuân” của nhạc sĩ Vân Tùng do song ca Thanh Vũ – Thanh Tuyền trình bày vọng tới ngày càng gần.

Tiếng hát phát ra từ cái loa kẹo kéo cỡ rất lớn ấy đã át đi câu trả lời của Mặt Xương.

Ngó theo chiếc xe bán kẹo kéo, Nón Cao Bồi chỉ còn biết cười khổ một tiếng rồi giục Áo Gi-lê mau lên đường.
oOo
Tết đã cận kề mà tình hình buôn bán ở chỗ má con họ Trần vẫn không mấy sáng sủa mấy.

Hai người không nỡ cắt bớt nhân viên, lại còn phải giảm số lượng thành phẩm, nên lợi tức thâu về rất thấp và hầu như ngày nào cũng huề vốn.

Nếu không nhờ Vệ Thu chống lưng, ắt hai người sẽ phải sang tiệm mất.

Bữa nay nhân viên của quán đang chia nhau trang trí cửa tiệm theo không khí mừng Xuân – đón Tết.

Tiếng hát của Hải Lý trong bài “Rước Xuân về nhà” của nhạc sĩ Nhật Ngân vang vọng trong quán ế nghe sao thật buồn.

Sắc mai vàng thắm cũng không sao cứu vãn tâm trạng bấp bênh của từng người.

– Út Thương tới…
Đám nhân viên hò reo như mừng hoàng thượng giá đáo.

Hễ Út Thương ghé tiệm là họ đều có quà và lộc ăn, đôi lúc còn được lì-xì nữa, nên ai cũng coi Út Thương là cậu chủ của cái quán này.
Lần này Út Thương đãi nguyên đám đi ăn buffet thượng hạng ở một nhà hàng nằm trong tòa cao ốc trên đường…, có thể đưa gia đình và thân bằng quyến thuộc đi theo.

– Vậy là Chủ Nhựt này quán mình nghỉ một ngày hả con?
– Dạ.
– Vậy để mợ hồi người ta một tiếng.
Một cô gái tóc thắt bính lúc lắc hai lọn tóc mà hỏi Út Thương:
– Anh Út có người yêu chưa?
Út Thương cười:
– Chưa, nhỏ.

– Trước đây có bồ không?
– Có, có vài con ghệ.

Nhưng thấy mòi đào mỏ nên “Đường tình đôi ngã” rồi.
Tự nhiên nhỏ đó nín khe.
Chú Thương hiểu ý nên tủm tỉm cười suốt.

Làm như dễ ăn của ngoại lắm vậy.
– Trưa nay mợ Hai nấu món chi dạ?
– Bánh canh gà.
– Ngon a.
Mợ Hai mời Út Thương nếm thử món bánh Tiramisu.

Thấy con trai của ông ghệ ngần ngừ hoài, mợ Hai sốt sắng giải thích:
– Hổng có “Cinnamon” trong này đâu con.
Nghe vậy, Út Thương mới chịu đi lấy bánh Tiramisu ăn.
Ăn đâu được vài muỗng, Út Thương tấm tắc khen hết lời.
– Con có bị dị ứng với đại hồi, nhục đậu khấu, bạch đậu khấu,…
– Mợ Hai, con không biết mấy chữ này, có thể cho con cái tên trong tiếng Anh không?
– Mợ Hai dốt trất, con.

Có gì thì mợ sẽ đưa bịch gia vị nấu phở và nấu cà-ri cho con hửi, con ghét thứ gì thì báo cho mợ biết một tiếng.
– Dạ, vậy đi.
Chưa kịp xuống nhà sau để nướng bánh mì baguette, Viber của mợ Hai đã phát nhạc ầm ĩ.

Chú Thương lẹ tay mở Laptop lên để nghe máy cho rõ và quay “Video call” sắc nét hơn; anh cũng không quên chỉnh webcam và bật Bluetooth giùm má.

– Ông hả?
Vệ Thương bước lại mà vẫy tay chào “cha già dân tộc” của mình một tiếng rồi lủi ra nhà sau stream game.

– Cái thằng này…!Trời ơi hổng có thưa gởi tui một tiếng nữa…
– Nó vẫy tay với ông rồi đó.

“Xin vẫy tay chào” đó.
– Rồi bà sao?
– Ế.

– Sáng mơi bên đây tôi chuyển tiền qua cho.

Mợ Hai sượng sùng mà nói lời cảm ơn nhỏ rí.
– Thôi đi bà ơi…!Bà hai thứ tóc rồi đó.

Bày đặt mắc cỡ chi cho mấy đứa con nít nó cười?
Mợ Hai che miệng để giấu nụ cười chúm chím.

Sau khi trấn tĩnh lại, bà mới hỏi về tình hình kinh tế bên Hoa Kỳ, có khó khăn giống như nội dung trên mấy tờ báo trong Nước nói không.
– Tuần trước con nhỏ nhân viên của tui đi chợ “Hòa Bình” mua một pound sườn heo mà chỉ mất 3 đồng Mỹ kim; còn tui ghé chợ “ABC” mua một pound cua rang muối về nhậu mình ên với giá 12 đồng Mỹ kim.

Bà nghĩ với mức lương một giờ mười lăm đồng thì liệu dân Mỹ có chết đói hay thèm mà không dám mua ăn không?
– Ở bên Mỹ có ai bị đói ăn không ông?
– Có.
Trước sự kinh ngạc cực điểm của mợ Trần, ông già dịch vật thủng thẳng giải thích:
– Tại vì ngán quá nên đợi đói mới ăn.

Làm hai tiếng, tui cho ăn sang nên mới nói làm hai tiếng luôn đó, là đủ ăn đủ món trong một ngày rồi.

Ngoại trừ làm biếng, nghiện ngập – hút chích, bị bịnh tâm lý hay mất khả năng lao động nên mới sống khổ; chớ bên đây ai còn tay chân lành lặn và thần kinh bình thường thì đều kiếm được việc hết, thậm chí không biết tiếng Anh như bà đi làm lao công quét dọn cho công-ty của người Việt cũng được 16 đồng đến 20 đồng một giờ rồi.

– Vậy còn hơn tui bên này bán quán nữa.

Hồi trước tui bán một giờ được hơn trăm đồng Mỹ kim, lợi tức thâu về đủ sức nuôi nhân viên và sống dư dả.

Vậy mà bây giờ ráng lắm mới bán hết hàng và lâu thiệt lâu mới có người ta đặt đồ.
– Bà có biết nhỏ em kết nghĩa của tôi làm dược sĩ được hưởng lương bao nhiêu một tháng không?
– Nhiêu?
– Gần ba chục ngàn Mỹ kim.

Một giờ làm của nó gần một trăm đồng.

Bà có kê súng vô đầu nó, nó cũng không chịu về Việt Nam sống đâu.
– Ê, cậu Ba nhà ông kìa.
Vệ Cung vẫy tay mà nói lời chào mợ Hai.

Khuôn mặt vốn dĩ rất đẹp trai, nay lại càng sáng rỡ hơn nhờ nụ cười tươi tắn trên môi.

– Mua gì cho tao ăn vậy bây?
– Con ghé qua “Popeyes”, “In-N-Out” và “Taco Bell” với “Pizza Hut”.

Ba coi cái nào ba ăn được thì mở ra ăn nghen?
– “Popeyes” chắc lại là sandwich gà chiên cay với khoai tây chiên, cái này ba ăn được.

Để hai cuộn gà của “Taco Bell” lại thôi.

Còn bao nhiêu hai đứa bây xử hết đi.

Đời ba bây không bao giờ nuốt pizza vô.
– Ông thích ăn bánh xèo hôn?
– Dân miền Tây đương nhiên ghiền bánh xèo rồi bà.
– Mốt dìa tui đổ cho chục cái.

Ăn chừng nào ngán mới thôi.
– Ba con còn ghét món poke nữa mợ.
– “Pô-kê” là cái gì hả con?
Vệ Thu giải thích:
– Là một món ăn Hạ-Uy-Di – Hawaii, có hai kiểu: Một là ăn như salad và hai là ăn với cơm; nhưng điểm chung là đều ăn với một số loại đồ biển – thường là để sống và cắt thành từng miếng vừa ăn, trước khi ăn trộn với nước sốt, các loại rau và hột rang; nhiều người còn bỏ thêm trái bơ để tăng độ béo nữa.
– Món gì mà nghe tanh dữ vậy ông?
– Nó với sushi “sống” tui đều không thích ăn.

Tui chỉ ưng sushi “chín” thôi.
Vệ Kích cũng đã có mặt trong nhà bếp.

Người đàn ông đẹp trai như tượng tạc ấy liền giỡn với em trai bằng những câu tiếng Anh mà mợ Hai không hiểu, nhưng xét về thái độ thì hai người trai đó đều rất vui vẻ và không tỏ cảm xúc phật lòng với đối phương.
Vừa cầm dao cắt bánh pizza, Vệ Kích vừa hỏi em trai về cách thảo trình cho các loại máy móc nông nghiệp.

Có vài vấn đề liên quan tới tánh mạng người sử dụng và phẩm chất nông sản nên Vệ Cung chưa duyệt qua bản thảo trình mà nhóm kỹ thuật viên đã nộp cho anh ta.
Trong lúc đợi ông ghệ thảo luận với hai thằng con xong, mợ Hai xuống nhà sau kiểm tra mẻ bánh mì baguette và một số loại bánh nướng khác.

Vệ Thương đang trò chuyện với người theo dõi.

Bao nhiêu tiền mà người ta gởi cho cậu, cậu đều đi làm phước hết; và mặc dù được lãnh lương Youtube cũng khá, nhưng cậu vẫn nhận tiền “cấp dưỡng” của ông già, mà dẫu cậu không lấy thì ba cậu cũng sẽ chuyển thẳng vô tài khoản.

Tuy ngoài miệng hay la hay chửi song không bao giờ ba cậu bỏ rơi hay bỏ mặc các con, lúc nào ông già cũng là hậu phương vững chắc của cậu và hai anh.
– Má ơi…!
– Rồi.
Trong phòng ăn chỉ còn lại Vệ Thu, hai đứa con của ông đều đã về phòng tắm rửa và nghỉ ngơi.

Đồ ăn cũng đem lên phòng luôn.

Tự nhiên mợ Hai cảm thấy tội nghiệp cha ghệ, từng tuổi này rồi ai cũng mong được ăn cơm chung với con cái, nhưng guồng xoay đời sống đã khiến mơ ước ấy xa xôi diệu vợi.
Mợ Hai vui miệng kể về nội dung của một đoạn băng trên mạng, rồi hỏi quan điểm của ông ghệ về vụ này.
– Một trái bơ thượng hạng và bảo đảm xẻ ra là ăn ngon có giá hơn ba đồng Mỹ kim.

Tính ra, chỉ mất một tiếng đồng hồ là mua được bốn trái; không làm tròn năm trái vì còn phải trừ hao đóng thuế nữa.

Lương công nhân Việt Nam, tính cho chẵn là mười đồng Mỹ kim một ngày, một ký bơ thân dài có giá gần ba đồng Mỹ kim, mỗi ký bơ được hai hoặc ba trái, vị chi làm nguyên một ngày chỉ mua được có mười trái là cùng.

Vậy bây giờ bà thấy làm ở bên nào xứng đáng với công sức bà bỏ ra hơn?
Những người có tài và nghề nghiệp ổn định bên đây không đời nào bỏ Mỹ về Việt Nam làm Youtuber chê Mỹ để kiếm sống hết.
– Hèn chi mà ông có ác cảm với Youtuber.
– Bậy nghen bà! Tui chỉ là không muốn thằng Út bị biến thành công cụ mị dân và bảo vệ cho đám tà quyền.

Còn nó muốn lên bình luận trò chơi hay chủ đề khác như thế nào cũng được hết.

– Ở bển có bán xá-xị không ông?
– Có, nhưng không gọi là “Xá-xị” mà kêu là “Root beer”.

Ngày xưa xá-xị được làm từ nhựa cây xá-xị, bây giờ ít có ai dám bán theo công thức cũ lắm, lần nào tui mua cũng trúng chai hương liệu công nghiệp không, nhứt là root beer nên này.
– Biết dzậy sao vẫn mua uống?
– Nhớ.

Nhớ cái thời có được vài xu là a thần phù ra sạp vải bà Hai ngồi đợi ông bán nước dạo đẩy xe qua để mua cho bằng được một chai “Sá-xị Chương Dương”.

Hồi đó, tui bị mấy ông lớn lớn trong xóm trác, họ biểu chai này đọc là “Cương dương”, nên mắc cỡ hổng dám chỉ tay vô cái chai nước màu nâu cánh gián, tới chừng ông bán nước ký vô cái đầu cái cốc rồi la quân nào đồn bậy dzậy bây, tui mới biết cái tên gốc của nó đẹp ra sao.
– Vậy chắc lúc đó ông chưa biết chữ?
– Ờ, mới bốn tuổi mấy hà, nghe ai dạy gì hay nấy chớ có biết giống ôn gì đâu.

Tui còn nhớ ổng nói, “Bây thấy hôn, mình ít chữ nên bị người ta nắm đầu quay mòng mòng.

Bây phải ráng học cho tao, biết càng nhiều càng tốt, như vậy mới mong ra đời hổng bị bắt thóp hay ăn hiếp được.” Sau này tui mới biết, ổng là ký giả kiêm thi sĩ rất nổi tiếng ở miền Nam trước năm 75, thú vui của ổng là đi bán nước dạo và đạp xe vòng quanh đô thành.
– Ông thấy việc mở nhà hàng ở bển sao?
– Tui thấy ngộ một cái là có nhiều người không biết nấu bún riêu và bún mắm mà lại đi bán món này.

Thí dụ như nấu bún riêu lai bún Thái cũng được, ăn vẫn xuôi như thường; đằng này nấu nước lèo lạt nhách, đồ bổi thì lỏng lẻo, mà lại bán với giá ở trên trời.

Thành ra nhiều nhà hàng bên đây mau dẹp tiệm là vậy, ham nấu nhiều món, mà hổng món nào ra hồn hết, nên người ta đâu có ghé lại lần sau.
– Ông nói hạp ý tui.

Hồi đầu thằng Thương cũng đòi nấu món này món kia, tui cản dữ lắm nó mới dẹp đó chớ.
– Tui vẫn còn nhớ một bài viết trên báo của người Việt, kể về một câu chuyện như vầy: Người này vô quán đặt món bún bò Huế, chừng nhân viên bưng ra thì là phở thông thường.

Người này mới hỏi mình ăn bún bò chứ đâu có ăn phở mà đem phở ra đây, thì nhân viên phân trần vì tiểu bang này ít người Việt nên bán bún bò theo dạng phở luôn! Có nhiêu đó mà cũng lường gạt thực khách, thiệt hết nói nổi.
– Nếu như thấy ít người thích ăn bún bò thì đừng có đưa món đó vô thực đơn.
– Thì đó! Có vậy thôi mà cũng giở trò xí-gạt.

Không có bán thì nói không có bán.

Đằng này lấy tên bún bò mà múc phở cho khách ăn.
– Mà quán đó bán gì?
– Bán phở và vài món ăn kiểu Việt.

Quán này cũng đông khách lắm, nhưng là khách nước ngoài chớ hổng phải khách gốc Việt.
– Hèn chi mà…
– Có một điều tui thấy rất ngộ là mỳ Tàu và mỳ Nhựt ăn ở đâu cũng mặn hết.

Có lần tui vô tiệm mỳ Tàu ăn thử món bánh canh nấu theo kiểu Việt của họ, bà có tin là tui ăn xong tui có cảm tưởng vừa mới uống nửa chai nước tương hôn? Kể từ đó về sau, tui hổng bao giờ ăn ở tiệm đó hết, mà đem dìa hâm lại bằng cách pha loãng với hai chén nước đầy để giảm bớt độ mặn.

– Ừ, nước lèo của Hàn và của Việt thường nêm vừa ăn và ngọt thanh.

Còn nước lèo của Tàu và của Nhựt hay bị sắc nên dễ bị quá mặn và gây ngán…!Ủa mà ông người Hoa mà cha nội Ba Tàu?
– Tàu lai Việt rồi cưng.

Bà cũng biết tui đẻ ở xứ này, lại không sống trong khu đồng hương, cha lại mất sớm, bên nội có gần gũi ngày nào đâu, để mà thích ứng với khẩu vị Trung Hoa.

Giờ một câu tiếng bổn xứ tui còn nói hổng được, chớ đừng nói chi là…
– Vậy chắc ông ném về tàu lá hay tàu hũ ky rồi.
– Ờ, bà nói đúng rồi đó.

Có khách ghé vào tiệm hỏi về việc đặt bánh kem ba tầng cho sinh nhật của cháu trai họ nên mợ Hai phải ngắt ngang cuộc tán gẫu với ông ghệ.
Thương thảo một hồi, cuối cùng khách cũng chịu cái giá mà mợ Hai đề ra; cũng như đặt tiền cọc trước.

Ông ta hẹn bảy giờ ngày Chủ Nhật phải giao tới, nếu trễ hơn nửa tiếng là coi như xù.

Mợ Hai chưng hửng hỏi, “Sao vậy?” Ông ta đáp, “Chín giờ con trai tôi phải ra phi trường nên bảy giờ phải có bánh để làm phông nền chụp ảnh kỷ niệm một tấm.” Trước sự đòi hỏi quá đáng của khách hàng, mợ Hai ráng dằn lòng xuống mà nói lời đồng ý; bữa đó chắc phải biểu thằng Thương thức dậy từ hồi một giờ sáng mới được.
Cách nửa vòng Trái Đất, Vệ Thu đang nghe bài “Tình Xuân” do Mạnh Đình ca, đây là nhạc phẩm của nhạc sĩ Lê Đức Long.

Giữa tư dinh xa hoa lộng lẫy, xung quanh ông chỉ có bóng người làm qua lại chứ chẳng có nổi một người ruột thịt.

Hai đứa con ông lớn khôn hết rồi, cả ngày làm việc cực khổ, ông đâu nỡ bắt chúng phải hầu chuyện hay ăn uống cùng mình.

– Ba.
Vệ Thu mừng rỡ quay lưng lại nhìn.

Là thằng Ba đây mà.

Thằng Hai cũng đã xuống tới và sắp lại chỗ mà ông đương ngồi:
– Gì vậy hai đứa bây?
– Sáng mơi con với anh Hai tính mời ba lên Riverside đi dã ngoại một chuyến, rồi dạo vài vòng Bolsa, có được không ba?
Vệ Thu mừng quýnh lên.

Ông ấp a ấp úng mà nói, “Hai đứa bây đừng có xí-gạt tao nghen?”
Hai đứa con ông ngó nhau mà cười khúc khích.

Rồi không ai nói ai, họ lần lượt kéo ghế ngồi xuống và ăn uống cùng đấng sanh thành.

Nhác thấy lon nước tăng lực hiệu “Monster” của thằng Hai, Vệ Thu giựt mình hỏi mợ Hai; vì bả không có ở đó nên ông phải nói thiệt lớn:
– Thằng quỷ có uống nước ngọt nhiều hôn bà?
– Gì đó? Gì đó?
– Nó có uống nước ngọt nhiều hôn bà?
Mợ Hai tặc lưỡi:
– Thì…!ngày nào cũng làm một lon nước tăng lực.
– Trời ơi…!Nó muốn banh bộ đồ lòng hay sao mà uống suốt vậy?
– Út nói phải uống nhiều thì stream game mới hay được.
– Hay mụ nội tui chứ hay!
Mợ Hai cất giọng giải hòa:
– Thôi, kể chuyện lạ lạ cho tui nghe đi ông.
Vệ Thu húng hắng giọng, đoạn kể:
– Có nhớ thằng cháu mà tui nói cho bà nghe hôm bữa không?
– Nhớ.
– Cái chuyến bay từ Đại Hàn sang Hoa Kỳ đã làm nó được một phen hú vía.

Chuyện là như thế này: Phi cơ vừa mới cất cánh, đã nghe phi công chánh phát loa mà rằng: Xin chào quý khách.

Tôi là phi công chánh của chuyến bay này.

Đây là lần đâu tiên tôi đi tuyến đường này…” Trời ơi, mới nghe tới đó, nó muốn rụng rún, thì ra đây là chuyến bay từ Đại Hàn sang Hoa Kỳ đầu tiên của người đó, chứng tỏ người đó mới lên chức phi công chánh không được bao lâu hết.

Chắc có lẽ vì quá vui sướng nên người đó ngồi nói suốt mười phút mới chịu ngưng miệng.

– Vậy chắc cháu ông run lắm?
– Chứ còn gì nữa.

Nó nói nó có cảm tưởng mình là con chuột bạch vậy.

Dựa theo tông giọng của người đó thì nó chắc mẩm người này hãy còn rất trẻ và là dân Đại Hàn.

Tới chừng phi cơ sắp hạ cánh, người đó lại phát biểu mười phút nữa, chừng như người đó rất hạnh phúc vì đã thực hiện được một chuyến bay êm đẹp.
– Rồi ông thấy sao? Phát biểu cảm nhận đi chớ.
– Thiệt là hạnh phúc khi được làm công việc mà mình yêu thích và được sống theo ý của mình.
Mợ Hai biết ông ghệ đã chấp nhận con đường mà Vệ Thương muốn đi nên ngoẻn ngoẻn cười.
– Ông thấy đi hãng “Cathay” được không?
– “Cathay” là “Quốc Thái”.
– Hả?
– Nói bà đừng tưởng tui nổ nghen?
– Rồi, nói đi.
– Chục năm nay tui toàn đi phi cơ riêng và phi cơ thuê nên hổng biết phẩm chất của các chuyến bay thương mại ra sao hết.
Mợ Hai che miệng cười sặc sụa.

Rồi ráng nín cười mà hỏi:
– Ông có bao nhiêu phi cơ riêng?
– Ba chiếc.

Thằng Út chưa có vì nó hãy còn quá nhỏ và chưa làm gì xứng đáng để được nhận món quà lớn này.
– Sao về đây dòm phèn dữ dạ cha?
– Tui là “Cô Thắm về làng” mà bà.

Ở đâu sống theo kiểu đó, xuống miền Tây mà diện quá làm gì, coi có khác nào con khỉ làm trò không?
– Mà, ông đang uống vậy?
– “Coca – Dream flavored” loại không đường, còn thằng Ba uống “Pepsi” hương xoài.

Tiểu bang California là thiên đường đồ uống, hằng tháng mỗi hãng đồ uống lại tung ra một mẫu mới và mùi vị mới; nhưng có điều ngộ cái là mỗi loại mới chỉ bán có một đợt, phải đợi lâu lắm nó mới bán lại loại đó, như chai “Pepsi – Xoài” mà thằng Ba đang uống chẳng hạn, gần một năm mấy mới thấy trên thị trường.
– Ở bển thích ăn trái gì ông?
– Sao tui biết bà? Nhưng mà theo như tui nghĩ thì là trái dừa, bên đây bán kem khóm – dừa đắt lắm, nhiều hãng kem lớn đều bán loại này; kế là trái xoài, hễ mà kem xoài được bán trên thị trường là coi như sạch bách trong vòng một nốt nhạc…
Mợ Hai chép miệng tiếc nuối:
– Tui làm bánh flan với bánh pudding ngon lắm đó…!
– Xin lỗi bà nghen…!Tui phải tham gia cuộc họp với mấy đứa nhân viên…
Rồi không đợi mợ Hai kịp phản ứng, Vệ Thu đã kết thúc cuộc gọi.
Mợ Hai thở dài một tiếng, rồi bỏ xuống nhà sau coi chừng lò nướng bánh.
– Ba con lại cúp máy bất thình lình hả mợ?
– Ờ, stream game xong rồi hả con?
– Dạ…!Nào giờ ba con vậy mà mợ…!Có lần ba hứa chở tụi con đi “Disneyland” chơi, ai ngờ sửa soạn xong rồi, đối tác thông báo chấp nhận ký kết làm ăn với nhau…
Mợ Hai xoa đầu Út Thương mà khe khẽ dỗ dành nó, mặc dù bà biết nó không cần mình an ủi chi sất.

Có lẽ cảm nhận lại tình mẫu tử mà mình vốn thiếu thốn, người trai sanh ra ở Mỹ ấy để yên cho bà dỗ dành; cậu không hiểu tại sao anh Hai Thương lại nỡ làm đau lòng mợ Hai chỉ vì một người không thương ảnh.

oOo
Bữa nay Đức Hoàng lại phải gặp nha sĩ.

Để hàm răng hắn vào khớp, bác sĩ thẩm mỹ nói phải mất hơn ba năm; còn hai năm nữa hắn mới thoát khỏi cái niềng kim cô này.

Chỉnh nha và làm sạch răng xong, Đức Hoàng và mấy thằng bạn rủ nhau đi làm lại sổ thông hành.
Tống Ngạn đã đổi xe.

Chiếc xe “Mitsubishi” bán lại cho đại lý với giá rẻ bèo; có hai nguyên nhân mà gã phải chịu thiệt: Một là đời của nó quá cũ và Hai là nó đã từng bị đụng móp đầu.

Dù muốn dù không, gã cũng phải đổi sang hiệu mắc tiền hơn để lái đường xa được an toàn; vậy là gã bèn mua “GMC – Yukon Denali” bảy chỗ màu xám pha bạc, gã tính mua “Chevrolet – Suburban” chín chỗ nhưng vì giá tiền quá cao mà đời lại cũ nên đành chuyển sang hiệu này.

– Công nhận.

– Ernest Nguyễn tặc lưỡi.

– Ngồi xe sang cái mình sang hẳn ra.
– Mày thấy cái màu xe sao là cái bản mặt tao vậy đó.

Phân nửa tiền bảo hiểm của ông già đổ vô cái xe này hết.

Ernest Nguyễn ngó Khán Bình mà hỏi:
– Sao mày tỉnh queo vậy?
Khán Bình trả lời tỉnh rụi:
– Bạn bè với mày gần hai mươi mấy năm, kêu đoạn tình đoạn nghĩa cái một sao đành, với lại đứa làm bậy với anh Hai tao là cha mạ mày chớ có phải mày đâu mà giận.

Mày còn đé* biết ổng bả là cha mạ mày mà.
Cũng may Ty Công-An Gia Định bữa nay chỉ có non chục người đến trước nên bốn đứa chỉ mất chưa đầy một tiếng là đã hoàn thành xong phần viết đơn.

Đức Hoàng là người chụp hình sau cùng, do hắn phải xác nhận một số giấy tờ để chứng minh mình đã đi thẩm mỹ và đã thay đổi gương mặt.
– Anh ơi.
Cảnh sát viên nghiêm mặt hỏi:
– Sao anh?
– Anh biết “Sống trong đời sống cần có…” một cái gì không anh?
Nét mặt của viên cảnh sát hơi giãn ra:
– “Một tấm lòng…”, bài này của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
– Hổng phải, cần phải chụp hình có tâm chút.

Anh chụp sao mà Cửu Huyền Thất Tổ nhà tôi đội mồ sống dậy cũng không nhận ra tôi là con cháu của họ luôn, huống hồ chi là bên Quan Thuế nước người ta.
Bởi lẽ Ty trưởng đã thông báo hôm nay có thanh tra tới thăm một cách bất thình lình nên anh ta ráng cười thật tươi và nói lời xin lỗi với Đức Hoàng.
– Được chưa anh?
– Dạ, đẹp rồi.

Cảm ơn anh nhiều nha?
– Dạ, anh đi mạnh giỏi.
Xe vừa mới khởi động, đã nghe tiếng Đức Hoàng bình phẩm:
– Cha nội này đi đóng kịch chắc đạt lắm.

Ernest Nguyễn gật gù:
– Chắc bữa nay có cô hồn nào ghé kiếm ăn nên mới ráng giả vờ giả vịt như vậy.
Thấy thời tiết đẹp quá nên Khán Bình rủ nguyên đám ra công viên bên Quận Nhì ăn trưa.

Vì mỗi đứa một ý ăn nên Tống Ngạn phải cho xe chạy vòng vòng; hết lết qua đường này lại quẹo tới đường kia.
Đức Hoàng làm răng còn ê nên mua một hộp súp thập cẩm về nuốt trọng.

Đang đau thương vô bờ, chợt nghe khứa nào đó gọi:
– Anh đẹp trai quá, đóng vai người qua đường trong phim của tôi được không? Cả ba anh kia nữa, đóng vai nhóm bạn chắc hợp lắm.
Chưa kịp để cho “Nhạn – Vàng – Bình – Công” phản ứng xíu nào, người đạo diễn trung niên bước lại gần Đức Hoàng mà dòm mặt đăm đăm:
– Trời, có niềng răng nữa hả? Vậy khỏe rồi.

Đỡ tốn tiền hóa trang.

Dẫu không thích xuất hiện trên màn ảnh, nhưng nhớ tới cảnh nghèo của gia đình mình nên Đức Hoàng gật đầu chấp thuận rồi hỏi liền chuyện tiền nong.

Thái độ thẳng tưng của hắn đã làm người đạo diễn rất đỗi ngạc nhiên và thích thú; phần đông những người mà anh ta tuyển thường giả bộ đong đưa, tỏ vẻ mình vì nghệ thuật chứ chẳng hứng thú với kim tài.

Cũng muốn giúp thằng bạn có tiền lo Tết cho gia đình nó, nên ba đứa kia cũng nhận lời cái rụp và hỏi luôn tiền cát-xê.
– Mấy anh ngộ thiệt hen.
– Tánh tụi tôi nào giờ vậy đó.

– Đức Hoàng cười mơn.

– Được, phim này là phim tâm lý – xã hội, mấy anh đóng vai bạn học cũ của nữ chính, địa điểm diễn ra cuộc gặp lại nữ chính là ở nhà nhỏ lớp trưởng.

Hiểu chưa? Buổi họp lớp ấy mà.
– Dễ mà.

– Ernest Nguyễn bật cười.
– Khỏi cần nói câu nào hết.

Đứng vẫy tay và cười cho có tụ là xong rồi.

Bốn đứa đều gật đầu đồng ý đóng cảnh này.

– Nhưng nói trước, vì nháng qua nháng lại chưa đầy mười phút nên cát-xê chỉ có hai trăm đồng, đóng không?
– Đóng!
– Đồng thanh ghê.

Làm nghề gì dạ, chia sẻ được hôn?
Tống Ngạn nhận phần trả lời:
– Ký giả.
– Vậy có gì viết bài PR giùm nghen? Tôi trả tiền cao cho.
Đức Hoàng bỗng ngứa miệng hỏi:
– Anh nghĩ sao về việc lấy hình tượng có thật ra làm phim? Có thể nêu ra một thí dụ được không?
Chàng đạo diễn trầm tư đôi lát, rồi mới thở dài mà bộc bạch rằng:
– Nếu muốn làm phim về cô Ba Trà thì nên tham khảo nội dung tác phẩm “Nợ đời” của cụ Hồ Biểu Chánh, để soạn kịch bản không bị dung tục hay cải biên quá trớn mà xúc phạm tới đời tư của người ta.
Cứ lấy đề tài Sài Gòn xưa, mà trang phục và trang điểm thì làm theo kiểu thời nay, thổ ngữ thì lai tạp, bối cảnh thì dàn dựng cẩu thả, diễn viên thì diêm dúa và khẩu hình xấu, chưa kể đến là kịch bản kích dục với tuyên truyền một chiều nữa.

Tống Ngạn trình bày:
– Vậy rõ ràng muốn tìm cách bôi bác và hạ nhục chớ đâu phải là muốn phục dựng văn hóa Sài Gòn – Gia Định?
– Chớ còn gì nữa.
– A…!Giọng của cậu là giọng Sài Gòn rặt.

Có biết hát hôn?
– Nó ca hay dữ lắm, mà lại còn biết chơi đờn guitar nữa.

– Đức Hoàng hướt lời mà đáp.
– Hát thử một khúc được không?
Tống Ngạn ca đại một bài hát Xuân sáng tác trước năm 75.
Chàng đạo diễn tấm tắc khen, rồi thở dài mà nói:
– Diễn viên xứ mình bây giờ phần đông là người ham nói thích diễn xuất chứ hổng phải là người biết diễn xuất.

Mời các anh coi bài hát “Qaafirana (Kenardath)” do song ca Nikhita Ganhdi – Arijit Singh trình bày để nhìn thấy tài nghệ diễn xuất của diễn viên xứ họ.
Vì hiếu kỳ nên nguyên nhóm mở lên coi thử.
– Thiết lập của nam chính trong phim này là một hướng dẫn viên du lịch kiêm nghề cộ người và hàng hóa; sinh ra trong một gia đình nghèo khổ nên nam chính luôn có một mặc cảm về giai cấp mà mình thuộc về, thành ra đối với người mướn mình, tức là nữ chính, nam chính luôn giữ khoảng cách và không muốn nói chuyện với cô.

Các anh có thể thấy diễn viên nam đã hòa theo tâm lý và lối sống nhân vật rất đạt; ban đầu thì tự ti và né tránh nữ chính, đoạn giữa thì mừng vui khi được gặp nữ chính, và sau rốt là anh ta đã mở lòng đón nhận nữ chính và thôi tự dằn vặt mình nữa.

– Nội dung phim này ra sao hả anh? – Ernest Công hỏi.

– Đoạn cao trào của phim này dựa trên một vụ thiên tai có thật ở Kenardath; nội dung tương tự “Titanic”, nhưng nam chính vì cứu người mà mất mạng chớ không phải là vì cứu riêng nữ chính.
Và rốt cuộc, lời thỉnh cầu Chúa Shiva bảo hộ cho chuyện tình của họ đã không thành sự thật.
Diễn xuất của nam chính rất chân thật.

Rất đáng tiếc, anh ta quá vắn số…
– Hả? Ông đóng vai chính chết rồi ư? – Ernest Công hỏi.
– Ừ.
Ernest Công lại hỏi:
– Hình như những người có tài năng thực thụ hay bị chết yểu há anh?
– Ừ, “Anh hoa phát tiết ra ngoài.

Nghìn thu bạc mệnh, một đời tài hoa.”
Đức Hoàng đặt câu hỏi:
– Anh nghĩ sao về phim trong Nước?
– Phim Bắc Kỳ làm thì giáo điều, dạy đời; kể cả một bà bán rau ngoài chợ cũng thạo Kinh Thi.

Phim Nam Kỳ đóng thì mọi tầng lớp thứ dân đều la làng như heo bị thọc tiết.

Người ta đi coi phim chứ đâu phải vô nghe dạy đời trên đầu trên cổ hay bị tra tấn lỗ tai bằng mấy câu chửi và gây hài vô duyên thô thiển.

Bây giờ nhiều phim xứ này còn đạo luôn tình tiết gây cười trong phim Hồng Kông và lối diễn xuất của diễn viên bên đó nữa.
Khán Bình hỏi:
– Anh có biết phim Hồng Kông nào hay không?
– “The Tigers – The legend of Canton”.

Bộ phim này châm biếm Tôn Trung Sơn và đồng đảng của ông ta, coi tới đâu cười đã đời tới đó.
Bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công” giục anh ta giới thiệu thêm.
– Anh này muốn nịnh đầm ông Hán gian để trà trộn vô hàng ngũ của ổng đặng làm nội ứng chống quân Nhựt.

Nói hoài nói mãi mà ông kia vẫn tỏ mồi chưa tin, anh ta mới sáng tác một bài hát xưng tụng ổng.

Anh ta ca tới đâu, thuộc hạ của ông kia ói máu liệt địa hết vì phát gớm cái sự xưng tụng quá xá xạo của anh ta.

Đến nỗi ông kia cũng chịu hổng nổi mà phải nhét găng tay vô miệng anh ta để cứu mạng thuộc hạ của ổng.
Rốt cuộc cái người đẩy đồng chí cách mạng vô khám lại là thằng cha đồng chí đồng đảng.
Hồi chưa cứu được Tôn Trung Sơn là năm thằng ăn hại vô danh tiểu tốt đất Quảng Đông, tới chừng thành công thì tự tôn xưng “Ngũ Hổ Quảng Đông”.
Vì phim này dựa trên tài liệu ca ngợi cách mạng nên yếu tố hài hước rất nhiều.

Thí dụ như một đồng chí cao chưa tới mét bảy bị nhốt vào khám, vậy mà có thể thò tay không ra lấy chìa khóa trên lưng quần tên lính Nhựt ngồi cách ổng những ba mét! Hay câu ám hiệu của các đồng chí là “Vì cách mạng, quên mình”, chừng thấy lính Nhựt kéo tới đông quá thì “Vì mình, quên cách mạng”; có đoạn nhóm “Ngũ Hổ” thấy hai tên lính Nhựt đang đi tuần thì xông vô đánh hội đồng, đến lúc một toán lính Nhựt áp tới giải vây cho đồng đội thì bỏ chạy hết ráo, ánh mắt thằng nào thằng nấy như thầm nói, “Mày ở lại làm anh hùng lưu danh thiên cổ đi, tao dìa trước đây.”
Có đứa con nít chìa tập vé số mời mua nên chàng đạo diễn ngừng nói mà giở bóp ra lấy tiền mua giùm nó vài tờ.

Bộ tứ kia cũng góp tiền cho nó ăn trưa, chứ tuyệt nhiên không mua ủng hộ.
Đợi nhỏ gái đi rồi, chàng đạo diễn mới nói tiếp:
– Bởi vì nhóm nhân vật chính không cố cường điệu hóa thành anh hùng ái quốc hay hoàn hảo mọi mặt, cũng như cái ác của bên lính Nhựt không bị thể hiện quá nhiều trên phim, nên xem rất thoải mái và có cảm giác tự nhiên, chân thật.
Đức Hoàng hỏi:
– Ai là đạo diễn phim này vậy anh?
– Đạo diễn Ngọ Mã.

Nhắc tới Ngọ Mã mới nhớ, tuy là đạo diễn nhưng ông không đặc cách bản thân đóng những vai dễ ưa và nhàn nhã; trái lại toàn lựa vai thấy ghét, kiểu như già dê, phản quốc, lường gạt,…!và “chết yểu”, hòng gây tiếng cười cho khán giả.

Hễ mà phim đang tới khúc gay cấn, nhìn thấy mặt ông là người ta tự biết ông xuất hiện để gây cười nhằm giảm bớt sự căng thẳng cho họ.
Đức Hoàng hỏi nữa:
– Có phim nào của ông Mã mà hài hôn anh?
– Bên mình sửa tựa thành “Cảnh sát trưởng”, ông thủ vai cảnh sát trưởng chuyên tập huấn tân binh, mà tánh ông cảnh sát trưởng này hách dịch và ưa ức hiếp “ma mới” nên đám tân binh ghét dữ lắm.

Cho nên lúc ra thao trường tập bắn, ông cảnh sát trưởng mới bày mẹo: “Muốn ngắm bắn chính xác, lựa hình của kẻ thù mà dán lên tấm bia.” Thế là nguyên đội chọn tấm hình chụp toàn thân của ổng mà nhắm bắn xối xả.

Phim này chắc hết coi được rồi, vì tựa gốc không biết thì làm sao mà kiếm trên mạng được.

Bên nam có Ngọ Mã và Hứa Quán Anh.

Bên nữ có Ngô Quân Như và Uyển Quỳnh Đan.

Chuyên trị vai phụ gây hài.
Khán Bình nhận xét:
– Bây giờ bên Tàu có nhiều phim bắt chước mấy phim cảnh sát hài Hồng Kông thời trước năm 2000, mà nhìn mặt diễn viên không có cảm tình nổi.
Chàng đạo diễn gật đầu:
– Cái mặt của họ không có nét tếu tự nhiên.

Đã vậy thì thôi diễn bình thường đi.

Đằng này ráng vặn vẹo gương mặt rồi bẻ mồm bẻ miệng để gây hài; thành ra nhìn hết sức mệt mắt và khó chịu.
Hơn nữa, tuy là phim cảnh sát hài nhưng yếu tố võ thuật vẫn được chú trọng.

Tới lúc cần diễn cảnh đánh đấm thì các diễn viên đều đi được đường quyền bài bản và tấn – thủ rất tốt; thậm chí còn sử dụng thành thạo binh khí, súng ống và kíp nổ nữa, ngay cả ông Ngọ Mã cũng làm được chuyện này.

Còn phim cảnh sát hài của Tàu thì sao? Diễn viên nam còn cõng không nổi diễn viên nữ thì nói chi đóng cảnh đánh đấm.
Tới phiên Tống Ngạn hỏi:
– Anh có nhận xét gì về phim trong khu vực Á Châu?
– Bên Hàn bây giờ có một trào lưu là hễ đóng vai nhà giàu là lại ăn mặc giống hệt Hoàng gia Anh; cá biệt có một bà đóng vai Thần Giàu Có diện nguyên bộ đầm màu xanh lơ y chang kiểu của Nữ hoàng Anh.

Xét về mặt diễn xuất và dựng bối cảnh, Philippines giỏi hơn mình.

Vai nào ra vai nấy, không có chuyện người giúp việc đeo răng sứ, gắn cặp lông mi giả dài hơn hai thước và ăn diện hực hỡ hơn chủ nhà.

Người nào đóng vai giàu thì mỗi tập mặc một bộ đồ mới, lâu thật lâu mới mặc lại một bộ cũ trong tập phim nào đó; về điểm này, tôi thấy họ ăn mặc sang trọng và đúng cách hơn Đại Hàn, Đại Hàn dựa vào kiểu chưng diện bên Hoàng gia Anh nhiều quá nên đâm ra mất hay và không có nhiều nét riêng.
– Còn về mặt nhan sắc, anh ưng bên nào?
– Phi Luật Tân.

Vì diễn viên nữ xứ này ít sửa sắc đẹp nên coi phim của họ không bị rối mắt; còn bên Đại Hàn nhiều người sửa quá nên nhìn diễn viên nữ rất dễ bị lộn tiệm.

Còn diễn viên nam của Phi Luật Tân ra dáng đàn ông và cứng cáp hơn Đại Hàn nhiều.
Nhưng về mặt nội dung kịch bản, Đại Hàn hay và phong phú hơn Phi Luật Tân.
Ernest Công đặt câu hỏi:
– Anh có bộ phim kinh dị nào hay không?
– Đây là hai bộ phim Đại Hàn mà tôi khá ưng ý.

Bộ phim đầu tiên tên là “White”, nếu diễn viên chính đúng là thành viên của ban nhạc “T-Ara” thì rõ ràng bộ phim này đã tiên đoán trước sự tan đàn xẻ nghé của ban nhạc.

Bộ phim thứ hai là “Hide-and-Never-Seek”, bộ phim này có lẽ dựa trên cái chết bí ẩn của Elisa Lam và cái kết của bộ phim cũng chính là giả thuyết mà đạo diễn đặt ra cho vụ án này.

Còn một bộ phim nữa mang tên “The Night Shift”, nhưng phần tình tiết khá rối rắm nên nếu như mấy anh chỉ muốn xem cho vui sẽ cảm thấy mất vui sau khi xem xong.
Đức Hoàng cười giỡn:
– Nhưng anh thấy hay phải hôn?
Chàng đạo diễn cũng bật cười:
– Phải, tôi thì thấy hay đó.

Do đã tới giờ đi gặp nữ chính của bộ phim nên chàng đạo diễn cáo từ ra về.

Trước khi rời khỏi, anh ta không quên nói giờ quay và địa điểm phim trường cho bộ tứ biết để mà đến kịp.
oOo
Sáng nay Hội Thánh có Lễ nên Ba Đức đưa bé Hải đến trường giùm anh Hai.

Đáng ra để cho chị Hai chở đi, nhưng vì Hội Thánh đang gây thù với rất nhiều người nên chàng Mục sư đẹp tuyệt trần phải lãnh vụ này.
Trước cổng trường Tiểu Học, những quầy hàng rong bày bán đủ mặt hàng: Đằng đó là một ông lão bán bánh bao từ khi mái đầu còn xanh cho đến lúc cháu – chắt ra đời mà vẫn còn phải nai lưng ra kiếm sống, kia là một cô vác bụng bầu ngồi bán xôi các loại, và dọc theo bờ tường rào là những mảnh đời cơ cực, lam lũ khác; chuyện về họ nếu viết ra ắt hẳn sẽ dày hơn toàn bộ tác phẩm của cụ Hồ Biểu Chánh.

Nhác thấy một người đàn ông bán kẹo bông gòn đang khoanh tay mà đứng ngó trời mây hiu quạnh, Ba Đức tự nhiên động lòng trắc ẩn mà mua ủng hộ cho anh ta hết chỗ kẹo treo ở trên quầy và dặn làm thêm ba chục bịch nữa để đủ phần chia cho các Cơ Đốc Nhân và khách viếng của Hội Thánh.

– Anh đẹp trai vậy chắc là người trong ngành giải trí hả?
– Dạ không.

Tôi làm việc bàn giấy tại nhà thôi.
– À, “Freelancer.”
Trái với suy đoán của Ba Đức, người đàn ông ấy không hỏi tên hay bất cứ điều gì liên quan tới đời tư của chàng.

Điều này đã làm chàng rất vui vì bản thân chàng không cảm thấy thoải mái khi phải đề cập tới chủ đề đó với người xa lạ.
Trở về nhà thờ vào lúc tám giờ sáng, lúc này ca đoàn đang hát Thánh Ca dưới sự chỉ huy của Chín Tân, và những Cơ Đốc Nhân khác đang hòa giọng theo, do đó Ba Đức lặng lẽ đứng chờ ở sân trước để không phá hỏng bầu không khí trang nghiêm đương có.
Nhưng yên lặng được đâu một khắc, Ba Đức lại gặp mặt hai anh em Đan sĩ đến từ Đan Viện Thủ Đức nên phải nói chuyện đôi ba câu xã giao.

Vụ hành hung Linh mục Y-Nhã Cường đã khiến cho Đức Cha Tô-Ma Tường hết sức bất an, tuy đã được Đức Cha Gabriel – Thái đứng ra bảo đảm rằng sẽ giải quyết ổn thỏa nhưng ông vẫn bồn chồn không yên trong dạ.
oOo
Ngoại trừ hai người Tăng sĩ ngoại quốc, những Sa-môn kia đều về quê của mình mà đi tảo mộ và thắp nhang cho Ông Bà – Tổ Tiên.

Ở mỗi chặng đường, họ sẽ dừng chân phát gạo và các phần quà khác.

Dĩ nhiên, hai Sa-di mới thâu nhận và hai Cận Sự-nữ cũng đi theo.

Nhờ sự quen biết với nhóm cư sĩ Hòa Hảo mà Tăng đoàn mượn được chiếc xe mười sáu chỗ hiệu “Mercedes- Benz” dòng “Sprinter”.

Người cầm lái vẫn là Phá Vân – Phan Thụy Long.

Và để cho hai chàng Tăng sĩ cao kều bớt mỏi chân, hàng ghế thứ nhì sẽ nhường cho họ ngồi.

Sau một hồi thảo luận, băng đầu là của Phá Vân và Phú Lâm, băng thứ ba là của Thanh Liên và hai Cận-Sự Nữ, băng kế của Thiện Sanh và Châu Lợi, và băng còn lại là chỗ của Hỷ Tín, Trì Thương và Đoạn Trần.
Xe vừa mới xuống chân núi, Phú Lâm tinh mắt phát hiện con trai của anh bạn thiết, con trai của Thầy anh, cháu trai của bạn Thầy anh và cậu trai mồ côi mồ cút đã đứng đó đợi họ tự bao giờ.
Phá Vân liền thắng xe cái kịch, rồi mở chốt cửa đặng đẩy cửa bước xuống.

Anh sung sướng xoa đầu đứa con trai độc đinh của mình, đoạn xách giùm nó mấy bịch đồ lỉnh kỉnh và nặng trịch.

Thanh Liên lên tiếng:
– Thay đổi một số vị trí.

Nhà ai thì người nấy ngồi gần nhau.

Tư thù thì giữ khoảng cách như cũ.

Vậy là Phan Huy Tường ngồi ở cái ghế giữa trên băng nhứt, còn Phú Lâm ngồi sát mé cửa sổ.

Thiện Sanh lên băng nhì ngồi cùng hai cha con họ Trần.

Băng thứ ba giữ nguyên.

Băng thứ tư thuộc về Nguyễn Quý Sinh, Vệ Giản và Hỷ Tín.

Băng cuối cùng vừa đủ chỗ cho Hoàng Kỳ, Thủy Diệu, Trì Thương và Châu Lợi.

Thời may thân nhân của Trì Thương – Trần Mộc Thảo không đi theo, nếu không sẽ lâm vào tình cảnh khó xử mất.
Vừa chỉnh kiếng chiếu hậu, Phá Vân vừa giới thiệu:
– Có loại Mercedes chỉ có hai ghế ở băng nhứt nên Bảo Sơn không mua, thay vào đó y ta thêm chút tiền để mua loại có ba ghế.
Trần Hoàng Huy nhướng mày hỏi:
– Đời nào?
– “313CDI”, 2013.

Xong rồi phải nhờ hãng tháo cái vách ngăn phân chia khu vực tài-xế và hành khách nữa, lại tốn khẳm tiền tân trang và gắn các loại thiết bị điện tử ưa thích.

Bảo Sơn tính lắp thêm cái nhà vệ sinh trên xe nữa nhưng còn dụ dự được – mất nên chưa làm.
– Ừ, thêm một chỗ, lợi lắm; cần đèo thêm ai cũng được.
– Có điều xe hai ghế đẹp hơn xe ba ghế nhiều.

Kiểu dáng ba ghế thua xa lắc xa lơ.
Phú Lâm bật cười:
– Được cái này thì mất cái kia mà.
Phá Vân nghe thằng con hương hỏa khoe rằng trình độ Anh ngữ của nó đã khá hơn trước rất nhiều thì lấy làm mừng lắm; bởi lẽ theo cách nhìn của anh, Toán – Lý – Hóa – Sinh bết bát cũng không sao, nhưng Quốc văn, Sử – Địa và Sinh ngữ mà yếu là coi như đi tong, không tiến thân ở đâu được hết.

Anh khuyên con nên ráng hết sức đọc sách, đọc nhiều chừng nào tốt chừng nấy, miễn nội dung không liên quan tới Thất Tình Lục Dục là được, vì con anh hãy còn quá nhỏ để bước vô thế giới đầy đau khổ triền miên đó.

Nó hứa sẽ nghe theo lời anh.

Điều này làm anh sầu muộn khôn cùng, chính những năm tháng bị bạc đãi đã khiến nó hết mực tin tưởng anh, thành ra anh chẳng cảm thấy vui khi con trai ngoan ngoãn tuân theo mọi điều anh mong muốn.

Anh nào hay lệ đã phủ mờ mắt anh…
Đường lên Bình Phước mịt mù bụi khói của xe cộ.

Đường mới làm xong mà cứ tưởng như thời mới khai hoang lập đất, đi đến đâu lắc lư toàn thân đến đó, cũng may Phá Vân lái giỏi nên không ai cảm thấy lâu lư mà mắc ói.

Qua khỏi thành phố Đồng Xoài vài cây số, nguyên đoàn dừng chân ở một xóm nhỏ ven lộ cái.

Thấy trời hãy còn sớm bửng, bà Liên bèn khuyên mọi người nên đi viếng mộ vợ cũ của Đoạn Trần rồi hẵng đi tìm quán ăn cơm.
Vì Trần Hoàng Huy lập mộ cho mẹ trên đất của người ta nên gã phải đem quà tới biếu và xin phép một tiếng.

Vốn là dân giang hồ có máu mặt nên chủ nhà không dám hó hé một lời nặng nhẹ nào với gã; trái lại còn ngọt dịu hỏi thăm gã và những người khác, thái độ của chủ nhà đã đủ để Đoạn Trần hiểu con trai có thớ ra sao trong giới xã hội đen.
– Cha.
Nấm mộ đất vung tròn như cái bụng bầu sáu tháng của thai phụ.

Dòm tới đây, những ký ức một thời yêu đương mặn nồng với người nằm trong mộ đã khiến cho Đoạn Trần.

Bất giác, ông vuột miệng nói:
– Anh về rồi nè em.
Dù đã quá muộn màng…
Trần Hoàng Huy phụ cha sắp mâm trái cây và bông cúng.

Vừa làm, Đoạn Trần vừa kể cho con nghe năm xưa cha đã từng tặng mẹ bó bông vạn thọ trong ngày Lễ Valentine vì không có tiền mua bông hồng, vậy mà mẹ con vẫn rất vui như thường.

Bấy giờ gã trai tứ chiếng mới hiểu tại căn cớ nào mà cha lại chọn bông hồng làm bông cúng…
Nguyễn Quý Sinh, Vệ Giản và Phan Huy Tường đã nhổ cỏ xong.

Nấm mồ sơ sài đắp bằng đất, ngay cả bài vị nơi đầu mộ cũng chỉ là một miếng cây đục đẽo qua loa, xương cốt chắc bị mùa nước nổi làm cho rã thây từ lâu lắm rồi.
Đợi cho nhang tàn khói lặng, hai cha con họ Trần mới đem dẹp mâm trái cây.

Mâm trái cây nhà ông cũng khác thường so với nhà người ta, thay vì bày mâm ngũ quả, họ lại chọn cơm sầu riêng và dâu tây, đây là những thức quả mà lúc sinh thời người phụ nữ bạc mệnh thèm ăn nhưng không có tiền mua.

Ngoại trừ Tăng đoàn, ai nấy đều được ăn sầu riêng và dâu tây lót dạ.
Trước lúc đi ăn trưa, nguyên đoàn đi phát quà cho một xóm nhà trọ giáp ranh địa phận Bình Dương và Bình Phước.

Mỗi phần gồm hai chục ký gạo, hai thùng mỳ gói, hai ký tung lò mò, hai ký chà bông cá, hai ký bì chay, trọn bộ gia vị nêm nếm – mỗi thứ một cái, hai chai dầu ăn cỡ lớn, một vỉ hột vịt, hột gà và trứng cút – mỗi vỉ một tá, một ký mứt dừa ngũ sắc, một ký thèo lèo và cứ* chuột, một lốc sữa chua uống vị trái cây – mỗi lốc gồm sáu chai, hai hộp bánh bích quy hảo hạng và một lốc dầu khuynh diệp do cư sĩ Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Bửu Sơn Kỳ Hương bào chế; ngoài ra mỗi nhà còn được lì xì năm trăm đồng để có tiền sắm sửa đón Tết hay mua vé về quê.

Nếu ai không thích hoặc uống không được sữa chua, sẽ được đổi sang năm lon sữa đặc hoặc một bịch cà-phê nặng độ hai ký.

Và ai mà thích uống trà thì sẽ được cho thêm hai gói trà; có bốn loại cho họ chọn: tim sen, bông a-ti-sô sấy khô, trái nhàu và bông lài.
Chưa đầy hai tiếng mà số quà và số tiền mà họ đem theo đã vơi hơn phân nửa.

Nhưng trong những tiếng cảm ơn pha lẫn với tiếng khóc vì quá đỗi vui mừng, có tiếng nói của một người đàn ông vang lên, “Tu mà giàu thế chắc ngày mai tao xuống tóc đi tu như các bố đây cho khỏe.”
Phan Huy Tường bất bình thay cha cậu nên định lên tiếng chửi một trận cho hả tức.

Song Phá Vân đã vịn vai con trai mà lắc đầu nguầy nguậy.

Phần quà này do cha đỡ đầu, tức nhà tài phiệt Vệ Thu tài trợ, cùng với sự hùn phước của cư sĩ Hòa Hảo – Trần Bảo Sơn và cư sĩ Cao Đài – Tạ Khắc Xương, cho nên quà và tiền mới được nhiều đến vậy.

Nghe nguyên đoàn cần đi vệ sinh, những người thọ ơn đều nhiệt tình mời về nhà họ.

Hỷ Tín là người lên xe đầu tiên.

Chưa kịp về chỗ ngồi, đã thấy Trì Thương chầm chậm bước lên xe.
– Tín.
Hỷ Tín chắp tay mà lắng tai nghe.
– Cẩn thận.

Hỷ Tín buồn rượi gật đầu.

– Đã muốn đưa cậu vô tù thì họ đã thủ sẵn hết rồi.
Trì Thương đưa mắt nhìn xa xăm mà đọc bài kệ:
“Ai tuyên truyền giả dối
Chuyện không bảo là có
Có làm bảo không làm
Cả hai sau khi chết
Đều sanh vào Địa Ngục
Đền trả Ác Nghiệp này.”
Bài kệ này nằm trong “Kinh Pháp Cú số 306”.

“Vậy đệ có bị xuống dưới Địa Ngục Vô Gián không?”
– Có thể có, mà cũng có thể không.

Rời khỏi xóm lao động nghèo, cả đoàn thẳng tiến tới một quán ăn trong địa phận Bình Dương.
Đón tiếp họ là thái độ hết sức ngạc nhiên và có phần tọc mạch của cả chủ lẫn nhân viên trong quán.

Bà Liên tươi cười:
– Tụi tôi tới đây ăn uống có trả tiền, không phải đi xin, muốn bán hay là không nói một tiếng đi kẻo qua giờ Thọ Thực của Tăng đoàn.
Ông chủ gượng gạo xin lỗi, rồi giục nhân viên mau dọn bàn cho đoàn khách đông đảo.

Bà Liên chuyền thực đơn cho từng người, bữa nay bà bao nên ai thích ăn món chi cứ gọi, nhưng xin đừng khiến cho Tăng đoàn phạm giới Tam Tịnh Nhục.

Hỷ Tín không thích ăn quá cay nên dụ dự mãi mà không chọn món mực trứng chiên nước mắm, lại thêm phần không biết quán này bán “mực đang bơi” hay mực đã qua chế biến nên cứ nhăn mặt đăm chiêu hoài.

– Mực đã qua chế biến.

– Trì Thương lên tiếng giải vây cho Hỷ Tín.

– Rồi, một phần mực trứng chiên nước mắm, không quá cay và nêm hơi lạt.

Ngoài ra, cho cậu này thêm một dĩa mỳ xào sườn chua ngọt và một chén súp thập cẩm có bỏ óc heo.
Ai nấy thảy đều gọi món mặn, duy chỉ có Thanh Liên là kêu một dĩa trái cây sữa và một cái bánh bao ngọt cỡ lớn.
Do đã lâu ngày không được ăn cơm tiệm nên A Luật và thím Huê ăn ngon miệng lắm.

Thấy vậy, bà Liên bèn mời họ gọi thêm vài món nữa.

Hai chị em cũng không khách sáo, liền kêu một dĩa dồi trường chiên bơ tỏi và một dĩa hàu nướng mỡ hành.
Nhác thấy một người ghi hình Thủy Diệu, Nguyễn Quý Sinh tính chạy tới chửi một chập, nhưng đã bị Thủy Diệu nắm vai ghị lại và niềm nở nói, “Thị phi là của thế gian.

Thọ Thực là của chúng ta.”
Ăn uống xong xuôi, bà Liên kêu tính tiền.

Ông chủ ngó thấy bà khách này và người sư cô kia có nét giống nhau thì nghĩ bụng đây chắc là mẹ con ruột, con gái mà đẹp vậy chắc hồi trẻ bả cũng phải sắc nước hương trời dữ lắm; chẳng bù cho vợ ông, đẹp bao nhiêu đẻ con gái giống ông nên xấu bấy nhiêu, mỗi bận dòm nó ông tiếc đứt ruột.

– Sao hai huynh cười vậy? – A Luật hỏi Trì Thương và Châu Lợi.
Thanh Liên và Đoạn Trần cũng bật cười khúc khích theo.
– Chẳng hay sao con gái chị đẹp vậy mà phải lánh đời làm Ni?
Bà Liên trợn tròn mắt:
– Trời ơi ông nội, con tôi là đàn ông chớ đâu phải đàn bà!
– Ủa? Thiệt hả? Đàn ông hả?
Thanh Liên cởi lớp y áo che vai trái xuống.

Để cho ông chủ nhìn rõ rồi, chú mới đắp y lại như cũ.
– Trời ơi! Vậy mà nãy giờ tôi tưởng Ni Cô không!
Đến giờ Thiện Sanh mới hiểu tại sao các Thầy và sư huynh lại cười.
Điểm đến tiếp theo là quê của Phú Lâm ở Vũng Tàu.

Chiếc xe phải đánh một vòng khá xa mới đến được đó, thành ra ngoại trừ Tăng đoàn, ai nấy đều ráng chợp mắt một lát.
Tới đó thì trời đã xế trưa.

Cũng may đường sá ở đây tốt hơn nên người nào người nấy không bị mệt mỏi hay tệ hơn là mắc ói.
Tòa biệt thự ấy nằm gần Bãi Sau, thể theo trí nhớ của Phú Lâm thì nó có diện tích khoảng một ngàn mét vuông – bao gồm cả sân vườn và hồ bơi.

Anh chắc mẩm mấy đứa nhỏ đã rất giỏi bơi lội và “cầm – kỳ – thi – họa” đều đã biết hết.

Sau ba hồi chuông cửa, cuối cùng cũng có người chịu ra mở cửa cho Phú Lâm.

Người ấy là bạn thân của anh.
Vừa hay vợ Phú Lâm cũng bước ra.

Cô ta nhìn anh như “Người chết trở về”.

– Hóa ra năm đó thí chủ cùng y ta tống tôi vô tù để cướp đoạt tài sản nhà tôi.
– Mày đừng có nói bậy, Lâm.

Tại mày biệt tung biệt tích nên tao mới…
– Sẵn tay nhào vô hốt của luôn chớ gì?
Cả vợ và bạn thân của Phú Lâm đều lặng trang mà lấm lét ngó chỗ khác.
– Con tôi đâu?
Cô ta trả lời nhỏ rí:
– Đã về nhà nội sống rồi.
– Cái gì? Ông nội nó đã mất rồi thì lấy ai mà nuôi nó.
– Thì nó sống với cô…!Thôi tôi mệt anh quá, muốn biết thì lại nhà đó hỏi đi.

Nè, địa chỉ nè…
Phá Vân đã tra xong địa chỉ nên biểu Phú Lâm mau lên xe để anh đưa tới đó thăm con.
Người bạn từng thân của Phú Lâm tính níu anh lại nhưng đã đôi chân đã quen băng rừng vượt suối của anh đã giúp anh thoát khỏi sự kiềm giữ của khứa đó.
Trì Thương đột nhiên nói lớn:
– Mau chạy lẹ đi.

Kẻo hai người đó báo cảnh sát bắt đệ thì khốn.
Ban đầu Phú Lâm nghĩ các con sống ở khu nhà giàu nên nằng nặc đòi Phá Vân lái xe qua đó trước.

Nhưng Thanh Liên và Trì Thương đã bắt Phá Vân phải đi đúng theo địa chỉ mà cô kia đã đưa.

Lời Thầy và huynh cao hơn lời bạn thiết nên Phá Vân quyết định đi theo ý hai người.
Rất nhanh chiếc xe đã có mặt trong xóm nghèo.

Con đường làm dang dở mịt mù bụi và sình lầy.

Tới giờ phút này Phú Lâm vẫn không tin con mình sống ở đây.
Nhờ thím Huê và bà Liên mà Phú Lâm đã kiếm được ngôi nhà ấy.

– Trời đất ơi…
Ngôi nhà chưa đầy hai mươi mét vuông được dựng bằng mái tole vách lá, sàn nhà là đất gồ ghề và dơ dáy.

Bàn thờ của người cha quá cố treo đỡ trên vách.

Nhà trên chỉ có một cái sạp tre cọt kẹt.

Không biết nhà dưới có bếp nấu và cầu tiêu – nhà tắm hay không.
Phú Lâm cất tiếng gọi các con những mấy lần mà chẳng có ai đáp lại.

Bất đắc dĩ, anh phải gọi tên cúng cơm của chúng:
– Hải Lam, Kim Sơn, Bảo Thạch.
Nghe xong tên của xấp nhỏ, ngoại trừ Thủy Diệu và Hoàng Kỳ vì không rành tiếng Việt, ai nấy đều phì cười.

Nội cách đặt tên cũng đã hiểu hồi trước Phú Lâm trọng vật chất ra sao.
A Luật thắc mắc:
– Sao hai đứa kia là “Núi vàng” và “Đá quý” mà đứa đầu lại đặt tên thường thôi vậy Lâm?
– Aquamarine có nghĩa là “Ngọc Hải Lam”.

Nhỏ trưởng nữ của tôi mang tên của một loài ngọc thượng phẩm đó.
Bấy giờ Thủy Diệu và Hoàng Kỳ mới bật cười khúc khích.

– Ba đứa con tôi tượng trưng cho ba màu sắc: Xanh lam, Vàng kim và Xanh cẩm thạch.

– Đúng là ba tụi mình rồi bây ơi.
Tiếng nói ấy vọng từ dưới nhà sau lên.
Phú Lâm mừng húm mà gọi:
– Phải Hải Lam không con?
Ba đứa con của Phú Lâm xuất hiện trong bộ dạng “Áo vũ cơ hàn”.

Dáng vẻ bần cùng của chúng đã làm người cha ruột bụm miệng nén tiếng khóc.
– Bộ ông nội không để lại cho con chút gì sao?
– Dạ, má với dượng lấy hết rồi.
– Vậy cái chòi này của ai?
– Dạ, là chòi canh vịt nhà chú của ổng.
– Ổng là ông dượng phải không?
Hải Lam khóc nức nở mà gật đầu lia lịa.
Phú Lâm lảo đảo xém té.

Thời may Hoàng Kỳ và Thủy Diệu đỡ kịp.

– Ba sẽ chỉ cách cho hai con đầu tư chứng khoán.

Ba mua toàn của tập đoàn lớn bên ngoại quốc và trái phiếu chánh phủ Hoa Kỳ nên hai con sẽ không sợ bị mất trắng đâu.
Hai đứa nhỏ ngơ ngác nhìn chị Hai.
– Con chỉ muốn hỏi ba một câu…
– Hỏi đi con?
Đôi mắt trưởng nữ nhà Phú Lâm dường như đang rực sáng nhờ ánh nắng hắt vào lệ đọng trên mi:
– Bộ Ông Phật quan trọng hơn tụi con sao mà ba bỏ tụi con đi tu?
Trì Thương lịnh cho Thủy Diệu mở hai đoạn video cho xấp nhỏ coi để tụi nó hiểu rõ nguồn cơn mọi sự.

Cái video này được trích từ máy ghi hình an ninh mà Phú Lâm đã gắn lén trong phòng khách và nhà bếp; anh sẽ vừa cho chúng coi vừa lên tiếng giải thích để chúng dễ nắm được hơn.
Trong đoạn video, má của tụi nhỏ đã hứa sẽ thay Phú Lâm nuôi dưỡng con cái, và năn nỉ anh nên lánh mặt một thời gian, đợi mọi chuyện êm xuôi rồi hẵng về.

Vì sự vắng bóng của anh sẽ cứu vãn được công-ty tài chánh, cũng như tương lai sung túc của xấp nhỏ, nên anh đành dằn lòng mà nghe theo lời người đàn bà đầu ấp tay gối ấy.

Ai ngờ đâu trong thời gian anh thọ giới Sa-di, vợ anh đã ơn phương ly hôn, rồi không biết bằng cách nào mà cô ta ngụy tạo được bản giám định thương tích hòng vu khống anh đã bạo hành mình và xấp nhỏ, thành ra anh bị tước quyền nuôi con vĩnh viễn.

Đã vậy anh còn bị chiếm luôn một số bất động sản và tài khoản ngân hàng, nên buồn đời quá anh mới gởi thân nơi cửa Phật luôn, chứ đáng lẽ nếu vợ anh đàng hoàng thì anh đã xuống núi hoàn tục từ lâu lắm rồi.
– Trời ơi, má con bả ác còn hơn con quỷ nữa…
– “Nói có sách, mách có chứng.” Ba không hề vu khống má con một tiếng nào.

Kim Sơn hỏi cha nó:
– Sao ba lấy máy ghi hình an ninh hay vậy?
Rất đỗi bất ngờ với câu hỏi của nó, nhưng vì “cây ngay không sợ chết đứng” nên Phú Lâm trả lời liền:
– Một cái máy ba gắn trên bàn thờ, ngụy tạo thành hoa văn trên độc bình.

Và một cái máy ba gắn trên cái đồng hồ, ngụy tạo thành chi tiết của nó.

Lúc ba đem đi, má con tính giựt lại để xem xét, nhưng cũng may ba đã kịp thời chuyền cho Hoàng Kỳ và Thủy Diệu mà đem ra xe; lúc má con lấy lại hai vật trên thì hai cái máy ghi hình đã được Trì Thương đem giấu trong tay nải, thành ra má con chỉ tưởng đây là đồ cổ bán rất có giá mà thôi…
Trì Thương cắt ngang:
– Má của mấy đứa dặn mấy đứa hỏi như vậy phải không?
Kim Sơn cúi gằm mặt không đáp.
– Hồi nãy có ai gọi điện tới không?
Bảo Thạch vuột miệng đáp:
– Dạ dượng…
– Con nít quỷ.

Mới có nứt mắt mà đã biết chỉ điểm và gài hàng rồi.

– A Luật tức tối nạt nộ.
Kim Sơn và Bảo Thạch khóc thút thít.

Thằng Ba mếu phân bua:
– Tại ổng nói con mà hổng nói dzậy ông quánh con nát đí* chớ bộ.
Hải Lam cũng mếu miệng mà kể lể cho cha nghe rõ căn cớ nào mà con ruột lại đi nói lời quấy với đấng sinh thành.
– Thu gom đồ đạc, quần áo hết cho tôi…!- Thanh Liên cắt ngang đoạn cải lương của Hải Lam.

– Lát hai người đó kiếm chuyện làm khó là còn mệt dữ nữa.
– Xe đâu mà đi hả Thầy? – A Luật lo lắng đến nỗi cắn môi tới rướm máu.
– Tôi thủ hết trơn rồi.

Từ lúc nhìn thấy sắc diện hai người kia là tôi đã gọi điện cậy Trần Hoàng Huy tới ứng cứu.
– Sadhu, Sadhu, Sadhu…!- Thiện Sanh chắp tay mà cảm tạ Đại Trưởng lão.
Chưa đầy nửa tiếng sau, một chiếc xe đò ba mươi bốn chỗ hiệu “Hyundai – Universe Mini Global Noble” đậu trước sân ngôi nhà xập xệ, người cầm lái là một người đàn ông có bộ dạng bặm trợn như “Hắc Toàn Phong – Lý Quỳ”, mấy đứa con của Phú Lâm đứng sát vào nhau mà run rẩy lẩy bẩy.
– Cái mặt thằng này như con quỷ, chớ cái bụng của nó là Ông Tiên.

Tụi bây mau lên xe đi.

Hay là muốn về ở với dượng? – Trần Hoàng Huy đứng chống nạnh mà hăm he xấp nhỏ.
Nghe vậy, xấp nhỏ quýnh quáng nhào lên xe.
Trần Hoàng Huy lại nói:
– Ai mắc tiểu – mắc ỉ* gì đi nhe? Tôi không có muốn thấy cái cảnh đi giữa đường rồi mới la làng đó.
Chiếc xe của Trần Bảo Sơn bây giờ giao lại cho người đàn ông mặt mày dữ tợn.

Hoàng Kỳ và Thủy Diệu được xếp ngồi ở ghế cạnh cửa lên – xuống.

Nhưng xét khoảng cách để chân quá hẹp nên hai người xin phép đổi xuống băng chót.

Còn hai cái chỗ ngồi đó thì nhượng cho Đoạn Trần và Trần Hoàng Huy; hàng ghế sau lưng là chỗ của Thanh Liên, tiếp theo là của hai đứa con của Phú Lâm, kế nữa là Phú Lâm và con nhỏ trưởng nữ, cuối cùng là bà Liên và thím Huê.

Về hàng ghế phía tay trái, băng đầu là của Phan Huy Tường và Vệ Giản, băng kế là của Nguyễn Quý Sinh và A Luật, băng sau rốt là của Châu Lợi và Trì Thương.

Riêng Hỷ Tín quyết định ngồi ở băng chót ở vị trí mé tay mặt, vẫn còn dư những mười mấy ghế trống nên ai nấy đều khuyên cậu nên lựa một băng mà ngồi riêng, chứ tác người của Hoàng Kỳ và Thủy Diệu quá cao lớn đâm ra ngồi một ghế hơi chật; do vậy mà cậu bèn dời lên băng trên, lòng không khỏi tiếc nuối cho dòng xe này, bởi lẽ tuy mẫu mã bên ngoài, cách trang trí cùng các thiết điện tử của chiếc xe hết chỗ chê, nhưng kích thước của cái ghế lại hạp với khổ người Á Đông hơn là Âu, Mỹ, Latin và Phi Châu, thành ra đó trở thành một điểm trừ đáng tiếc cho dòng xe rất tuyệt này.
– Rồi, bụng êm hết rồi phải không? Ai mắc ói uống thuốc ngừa hết rồi phải không? Đồ đạc không còn thiếu thứ gì phải không? Xong hết thiệt sự rồi phải không?
Thấy ai nấy đều xác nhận mọi thứ đã vô đâu vào đó rồi, Trần Hoàng Huy mới biểu Phá Vân lái xe thật mau.
Chiếc xe vừa chạy đâu được vài trăm mét, Trần Hoàng Huy tinh ý nhận thấy một người đang ráng chụp lại bảng số xe.

Cũng may gã gắn bảng số giả nên nếu khứa kia có ghi lại được cũng chẳng tày nào tìm ra.

Chừng nào rời khỏi Vũng Tàu, gã sẽ để lộ bảng số thật.
Tới địa phận Đồng Nai, Trần Hoàng Huy lệnh cho Phá Vân kiếm đại bến xe, bãi đất trống hay cây xăng nào đó mà tắp vô một lát.

Chiếc xe vừa thắng lại, Trần Hoàng Huy đã nhảy phốc xuống xe mà đi xăm xăm ra phía sau đí* rồi nhìn trước ngó sau một đỗi trước khi tháo bảng số giả xuống.

Phá Vân cũng xuống đổ thêm nhiên liệu cho chiếc xe, vài người khác cũng rủ nhau đi vệ sinh.
– Xe đò này đẹp quá, mình đi nghe anh Định?
Vệ Thương, Samuel Định và La Yến Thanh đang loay hoay kiếm xe đò thì chợt bắt gặp một chiếc xe rất đẹp và còn khá mới, lại rộng rãi nữa chứ.
– Ủa anh…!anh Thảo phải hôn?
Trì Thương chắp tay mà nói, “Phải.”
– Mèn đét ơi…!Lâu quá mới gặp lại anh…!Xe này của anh hả? Cho em đi ké nha?
– Xin cậu cứ tự nhiên quá giang.
– Mấy đứa này có phải đi chung hôn anh Thảo?
– Phải.
Vậy là Vệ Thương bèn dẫn ba đứa con của Phú Lâm và Vệ Giản đi mua nước giải khát ở quán cà-phê nằm bên kia đường.
– Nè, uống nước tăng lực với tôi đi thầy Hai.

– Trần Hoàng Huy vừa mời vừa đưa bịch nước tăng lực “Red Bull vị thanh long đến trước mặt Phá Vân.
Phá Vân dụ dự hoài mà không dám nhận.
Thanh Liên bèn giải vây:
– Không uống thì sao mà tỉnh táo lại xe được.
Nghe vậy, Phá Vân mới chịu cầm bịch nước tăng lực và hút vài ngụm.

Rồi vui miệng, anh kể:
– Hồi xưa tôi từng đóng thế cho một diễn viên Hollywood, phân cảnh ấy là nhào lộn xe gắn máy phân khối lớn trên sa mạc, té trầy mình trầy mẩy năm lần mới thành công.
Trần Hoàng Huy nhíu mày hỏi:
– Mình làm chết cha – chết mẹ mà người ta nổi danh, sao anh vẫn vui được vậy?
– Tôi tự biết bản thân diễn xuất rất tệ nên chỉ cần góp mặt thoáng qua hay đóng thế cho người ta là đã mãn nguyện lắm rồi.
– Xe này hả anh Định?
Một người đàn ông rất đẹp trai đi cùng với một người đàn ông ngoại quốc bảnh tỏn.

Cũng như gã trai tên Định, trên người họ thơm phức mùi nước hoa sang trọng của phái nam.

Sau hơn nửa tiếng nghỉ chân ở cây xăng, chiếc xe mới rời khỏi Đồng Nai mà chạy cái út về Long An.
– Oa, lần đầu em được đi xe đò đó.
Trước ánh mắt ngạc nhiên của bà Liên, thím Huê, Hỷ Tín và Thiện Sanh, Út Thanh thủng thẳng giải đáp:
– Nó toàn đi xe hơi riêng không hà.
Samuel Định ngồi riêng ở băng trên hàng ghế của Hỷ Tín, tiếp nữa là Judas và Manuel Ngô, còn hai chàng Út thì qua băng áp chót ở cánh tả an tọa.
Rời khỏi thành đô, chiếc xe đò thẳng tiến về Long An; nơi đây là chốn chôn nhau cắt rún của Phá Vân, đã lâu không về thăm nhà, không biết ba mẹ anh liệu đã thứ tha cho anh hay vẫn còn tin lời thế gian mà từ mặt anh tiếp.
Tới địa phận Long An, Phá Vân tắp vô một cây xăng khá lớn để đổ thêm dầu cho chiếc xe đò.

Sẵn tiện kiểm tra nước giải nhiệt và nhớt luôn.

Thành thử ra, trong lúc chờ đợi người Tăng sĩ ấy làm xong hết thảy mọi việc, ai nấy kéo nhau đi vệ sinh và mua bánh trái – nước uống đặng đem lên xe ăn giải buồn.

Biết Phú Lâm không có tiền, bà Liên bèn biếu anh một khoản kha khá để mua đồ mà đàn con ưng bụng.

Anh chắp tay cảm ơn bà, rồi hăm hở dẫn xấp nhỏ lại khu vực bán hàng đông nghẹt khách; vì sẵn vốn, đất lại dư, nên ông chủ cây xăng mở luôn một bến nghỉ chân phục vụ khách thập phương, do đó đã giàu lại càng giàu thêm.
Hỷ Tín có cảm tưởng Samuel Định đang theo dõi cậu.

Từng ánh mắt đến cử chỉ của anh ta đều khiến cho cậu có sự liên tưởng đó.

Nhưng tới chừng quay phắt lại nhìn thì lại thấy người đàn ông có kiểu tóc hai mái như Cổ Thiên Lạc thời trẻ ấy đang trò chuyện với nhân viên pha chế ở một quầy cà-phê.

Chẳng lẽ anh ta là cảnh sát chìm sao?
– Đã mua đủ đồ hết chưa? – Châu Lợi vừa hỏi vừa bước lên xe.
Chiếc xe đò dừng lại trước cổng một ngôi cổ tự lặng ngắt, rất hiếm khi nơi này mở cửa cho khách viếng chùa, sinh hoạt phí của chùa đều do thành viên trong chùa góp sức.

Bà Liên gọi điện thoại cho Ni trưởng Mỹ Hạnh để Sư cô biết mà ra rước họ vô chùa.
– Oa, bữa nay Tăng đoàn xuống núi hết luôn hả?
– Phải.

– Thanh Liên chắp tay mà cúi đầu chào sư đồ của anh.

Sư đồ liền vội vàng chắp tay thưa lại.
Trước lúc để mọi người vào khách phòng, Mỹ Hạnh dặn dò cánh mày râu không được đi xuống sau hè, vì nó gần nơi nương thân của những người nữ có vấn đề về mặt tinh thần hay không muốn nhìn thấy phái nam.

Những ai đã có râu phì cười và hứa sẽ tuân thủ theo quy tắc của bà.
Dãy phòng ấy nằm ở một bờ đất mé bên tay trái, ngăn cách với sân trước bằng một con mương khá sâu, nối liền với nhau bằng một cây cầu trải đá nhám ít trơn có lan-can thiết kế theo kiểu họa tiết phim cổ trang Tàu, hỏi ra mới hay thí chủ cúng dường ngôi cổ tự này là người Minh Hương nên kiến trúc và cách bày trí nơi đây có khuynh hướng giống bên xứ ổng, hèn chi mà nhìn đâu cũng thấy dương liễu, hồng đậu, mẫu đơn, cẩm chướng, bạch mai và quỳnh hương.
– Hồng đậu này có trổ bông lần nào chưa hả Hạnh? – Bà Liên cười hỏi.
– Trời ơi, Ly cũng biết đó, hồng đậu sống ở xứ lạnh thì làm sao mà trổ bông – kết trái ở đây được.
– Ông thí chủ đó cũng cố chấp thiệt.

Trồng quá trời cây xứ lạnh bên cố hương của ổng.

– Thím Khuê xen vô.

Rồi thím bình phẩm.

– Tự nhiên làm tôi nhớ tới bài hát “Hồng đậu sinh Nam quốc” quá…
Đáng ra con Hai đã xuống nhà sau ngủ với bà Liên và thím Huê, nhưng vì nhìn thấy cái máy Nintendo của Vệ Thương nên nằng nặc đòi ở lại chơi điện tử với hai thằng em.

Cũng may cậu công tử nhà họ Vệ đem theo ba cái máy nên nhóm của cậu có thể chơi trò chơi yêu thích của mình mà không bị khó xử với ai hết.

Chứng kiến cảnh tượng trên, Phú Lâm buồn rầu bỏ ra ngoài sân tản bộ.

Trì Thương biết được nguồn cơn nên vội bám theo sư đệ.
Rất mau, hai người đã sánh vai nhau mà đi.

Trời chưa quá khuya mà chung quanh đã tối mịt vì mây dày quá đỗi, chút ánh sáng yếu ớt của mẩu trăng Hạ Huyền không đủ thắp sáng màn đêm đông se lạnh, vài con đom đóm lập lòe trên một bụi cây dương liễu xanh rì rì.

– Mấy đứa nhỏ mất dạy quá.

Đồ của người ta mà nằng nặc đòi cho bằng được.

Cổ đã hứa với đệ sẽ nuôi nấng tụi nó nên người, bây giờ tụi nó nên gì?
– Đệ có nghĩ nên giao xấp nhỏ cho mợ Hai không?
– Nếu má con Thầy đồng ý thì đệ xin vâng.
Thấy đã gần tới sau hè nên hai huynh đệ quành đầu lại.

Lúc này quỳnh hương đang nở rộ, mùi thơm thoang thoảng vô cùng dễ chịu và thanh nhã; tưởng chừng như không gian đã được ướp trong hương thơm của loài hoa tuyết trắng này.

– Sao huynh không thương Hoàng Lan?
– Hoàng Lan hay hoàng lan thì cũng đều như nhau thôi.

Tôi không thấy được sự rung cảm của mình với loại bông này…!
Bỗng ngoài cửa vang lên tiếng xe inh ỏi.

Biết rằng Trần Hoàng Huy, Nguyễn Quý Sinh và Samuel Định đã về nên hai huynh đệ nhanh chân bước lại mở cổng cho ba người.
Do vẫn còn đang uống thuốc nên A Luật và Hỷ Tín được phép ăn tối.

Phú Lâm nạt xấp nhỏ:
– Chơi hoài vậy mấy đứa? Lại đây dọn bàn ăn cơm nè.
Xấp nhỏ riu ríu tắt máy rồi chạy lại trải chiếu và sắp chén, dĩa, đũa, muỗng và nĩa.
Thể theo ý của Nguyễn Quý Sinh, Trần Hoàng Huy mua cơm thịt heo chiên xù, mực xào dưa leo, cá rô kho tộ, lạp xưởng vịt nướng, canh chua tép và gỏi rau muống chua ngọt.

Về phần món tráng miệng thì chọn theo sở thích của Manuel Ngô, với chè bưởi và trà trái cây thanh mát.
Manuel Ngô trao tận tay từng người một ly trà trái cây, riêng những ai không phải là Tăng sĩ thì sẽ được thêm một chén chè bưởi thơm ngọt.

Bữa cơm đang diễn ra trong một bầu không khí sum vầy và ấm cúng, chợt sét đâu nã giữa trời đêm: Trên đài đang phát một bản tin truy nã Phú Lâm vì tội danh bắt cóc trẻ con!
– Nữ thí chủ ấy muốn bịt miệng tôi để không bị bắt ra tòa vì tội danh gian lận thuế.

Phú Lâm nói với thanh âm nhẹ hẫng, không vương một xíu hận thù hay oán trách, tựa hồ như cái tin ấy là nói về ai đó chứ không phải mình.
Thanh Liên gợi ý:
– Không cần thanh minh, chẳng cần biện hộ, cứ việc giao xấp nhỏ cho má tôi như lời Trì Thương đã tỏ.

Tòa án sẽ làm hư đường tu của Thầy.
– Dạ.

Samuel Định nhíu mày hỏi:
– Đó có phải là trốn không hả anh Liên?
– Không.

Nữ thí chủ đó chỉ muốn chắc chắn Phú Lâm sẽ không vạch trần mình, chứ không hề muốn nhận lại con chi sất, thành ra để cho Phú Lâm lánh mặt là biện pháp tốt nhứt.

Châu Lợi tiếp:
– Đừng khiến cho xấp nhỏ gieo thêm lòng hận thù với má chúng.
Đôi mắt xấp nhỏ đỏ hoe.

Dù không biết bà Liên là ai nhưng chúng cũng đành phải tin rằng bả sẽ là cứu cánh cho cuộc đời chúng và ba của chúng.

Nghĩ đến đây, không hẹn mà ba đứa cùng đưa mắt dòm người đàn bà mang tiếng là cư sĩ nhưng ánh mắt vẫn còn lắng đọng bụi trần.

– Hết Hỷ Tín rồi lại tới Phú Lâm bị truy nã…!- Phá Vân lắc đầu ngao ngán.
Trì Thương trầm giọng hỏi:
– Ai là người đã báo tin cho nữ thí chủ ấy biết?
Đoạn Trần giãi bày:
– Chắc là…!cô đó nghi nên chạy lại coi thử thôi.

Cũng có thể là do người chồng sau xúi biểu hay ai đó nhiều chuyện mà bày mưu – hiến kế.
Bà Liên vừa lấy đôi đũa gắp cho mỗi đứa một cục lạp vịt vừa niềm nở mời:
– Ăn thêm đi mấy đứa.

Đồ ăn còn ê hề hà.

Bỏ mứa tội lắm.

Gắp xong, bà Liên gác đôi đũa lên dĩa lạp vịt.

Rồi cầm đôi đũa của mình lên mà và cơm ăn.
Trần Hoàng Huy hỏi:
– Cái thằng có cái đầu “Hai mùa mưa nắng” ăn gì mà thấy rầu vậy mày?
– Tôi không thích ăn mấy món này.

– Vậy chớ ăn cái gì được?
Đến lúc này, Nguyễn Quý Sinh mới sực nhớ xô gà “Lotteria” nhúng đủ loại sốt để quên trên xe.

Trước lúc đi lấy, cậu hô lên:
– “Đao hạ lưu nhân”.

Chờ tui vô lấy gà cho ăn.

Mấy đứa nhỏ nữa.
– Trời ơi, thêm một thằng nữa…!- Trần Hoàng Huy cười khổ.
Bốn xô gà đầy vun đã cứu khổ cứu nạn Vệ Thương.

Cậu cười híp cả mắt rồi chắp tay mà nói lời cảm ơn Nguyễn Quý Sinh, rồi mỗi tay lẹ làng lấy một cái đùi gà béo mẫm.

Xấp nhỏ nhà Phú Lâm sợ hết nên hớt hải bỏ chén cơm xuống mà nhào vô bốc hai cái.

Vệ Giản và Phan Huy Tường cũng hoảng hồn lấy cho mình hai cái.

– “Nạn đói năm Ất Dậu” hả? – Trần Hoàng Huy lắc đầu ngao ngán.
Thời may Nguyễn Sinh mua bốn tá nên chỉ sợ ngán lòi bản họng chớ không sợ ai bị thiếu phần.

Một xô miếng gà chiên giòn để nguyên không tẩm sốt, hai xô có tẩm sốt – mỗi loại sốt ba miếng gà và một xô miếng gà ướp gia vị nướng.
Trần Hoàng Huy lại hỏi:
– Mày đẻ ở đâu mà mày hổng ăn được đồ Việt dzậy mày?
– Dạ, bên Mỹ, anh.
– Hèn chi…
– Ăn gà chiên hôn anh?
– Hông, tao ăn gà nướng.

Vừa nhai thịt đùi gà, Trần Hoàng Huy vừa ngẫm nghĩ đến phương cách giúp Phú Lâm thoát nạn.

Giang hồ tụi gã luôn có câu “Nước sông không phạm nước giếng”, nếu như vợ cũ của ổng có liên hệ tới nhóm giang hồ khác thì gã sẽ không ra mặt giúp mà sẽ nhờ người khác.
– Đừng có bận tâm đến chuyện của Phú Lâm nữa.

– Thanh Liên nói mà không nhìn mặt Hai Huy.

– Tự khắc tụi tôi có cách giải quyết.
Sau khi dặn dò con trai vài câu, Phá Vân về phòng ngủ.

Phải lái xe suốt mười tiếng đồng hồ đã làm anh mệt nhoài, cũng may Trần Hoàng Huy biết lái xe nên ban nãy anh không cần phải lái xe đi mua cơm tối.

Vừa ngả lưng xuống giường, anh đã ngáy um sùm.

Hoàng Kỳ và Thủy Diệu cũng đã say giấc nồng bên cạnh.
– Tội nghiệp, nguyên ngày nay bị đày.

– Phú Lâm bật cười mà bình phẩm.
Thấy đã gần mười hai giờ, Phú Lâm bắt xấp nhỏ ngừng chơi điện tử mà lên giường đi ngủ.


– Sadhu.

Một người Tăng sĩ đeo mắt kiếng gọng màu khói chắp tay mà thưa nguyên đoàn.

Sau lưng anh ta là một người trai trẻ-tuổi hơn, và cũng đắp y hệt khuôn anh ta.
Thanh Liên reo lên:
– Chân Tâm.

Còn cậu này là…
– Học trò của tôi: Sa-di Duy Hảo.
Đoạn Trần cau mày hỏi:
– Chùa đâu?
– Bị đập rồi.

Đất cũng bị lấy luôn.

Nên sẽ lên Phụng Hoàng Sơn sống cùng các vị.
– Có kịp soạn rương không?
– Thời may tôi đã lo liệu trước ngày bị cướp.
Trả lời xong xuôi, hai thầy trò Long An lên xe ngồi.

Chiếc xe hãy còn dư rất nhiều ghế nên dù bên trong có hơn hai mươi người vẫn không khiến ai cảm thấy bị ngột ngạt hay chen chúc.

– Thấy con khôn không cha? Con mà biểu tụi nó lấy chiếc hai mươi chín chỗ kia là chết mẹ rồi.
Chiếc xe đò chạy vô một xóm nhỏ nằm lọt thỏm giữa bốn bề ruộng lúa và vườn thanh long.

Con lộ tráng nhựa cho có, bề mặt lốm đốm “Hố đen – Hố trắng”.

Hai bên đường không làm vỉa hè nên lớp đất nhám cào thi nhau lầy lội mỗi khi mưa xuống hay nước lên.

Hầu như nhà nào cũng có cái mương trước nhà, những bụi chùm ruột và cây dại nhân đó mọc đầy dẫy; những nếp nhà quê nép mình dưới bóng lá hương hoa dân dã.
Băng qua một cây cầu bê-tông do một nhà hảo tâm bên Úc bỏ tiền ra xây, len vô những con đường hẹp té lại ngoằn ngoèo những khúc quanh bất chợt, rồi đi hết mấy bờ ruộng đang vào vụ Đông – Xuân, mới tới “Phan gia chi mộ”.
Quả nhiên, đúng như trong dự đoán của Phan Thụy Long, cổng rào khu mộ đã bị bóp ổ khóa cứng ngắc.

Hỷ Tín bỗng dưng bước lại gần cái cổng, rồi đổ thứ chất hóa học gì đó vô phần lõi của ổ khóa.

Sau một vài thao tác nữa, chỉ trong vòng không đầy năm phút, cậu đã có một chiếc chìa khóa ăn rơ với cái ổ.
– Sư phụ! – Trần Hoàng Huy chắp tay mà xá cậu Sa-di bị câm ba cái.

Hỷ Tín chỉ chỉ vào Thủy Diệu, ý muốn nói người chỉ mình làm cách này là anh ta.

– Nó đổ cái gì vậy? – Bà Liên tò mò hỏi.
– Sáp ong và phụ gia.

– Thủy Diệu đáp gọn lỏn.
– Nghề cũ của Thủy Diệu là điệp viên mà.

– Châu Lợi giải thích vắn tắt.
Phá Vân mừng rơn đẩy cổng bước vô.

Khu mộ đã được dọn cỏ sạch sẽ, thùng đốt giấy tiền vàng mã vẫn còn âm ỉ cháy, khói nhang tỏa hương trầm thơm ngát, mùi bông vạn thọ gợi nhớ gợi thương những năm cũ đã qua.

Màu vàng rực của những tàng bông mai trổ sớm và màu đỏ chói của những bồn bông trang đã khiến cho khung cảnh càng thêm u hoài.

Do mỗi ngôi mộ đều đã được thắp nhang nên Phá Vân chỉ cắm thêm một cây cho từng ngôi mộ.

Sợ người nhà đuổi ra nên Phan Thụy Long cậy mọi người cùng mình đi cặm mộ cho lẹ.
Bên cạnh ba nén nhang cháy dở có thêm một nén nhang mới đốt.

Bà Liên còn lấy cây cọ nhỏ quét bớt tàn nhang vương trên bệ bia.

Rồi đó, những bó bông cúng được kết từ cúc trắng, vạn thọ, huệ tây và bách nhật lần lượt điểm tô những ngôi mộ cùng kiểu và kích thước.
– Ông sơ con nè Tường.
Nghe vậy, Phan Huy Tường khoanh tay mà cúi đầu thưa ông sơ một tiếng.
Phan Thụy Long âu yếm xoa đầu nó.
Tâm nguyện đã được hoàn thành, Phá Vân vui vẻ rời đi cùng Tăng đoàn.
Nhưng xấp nhỏ kêu réo mắc tiểu quá nên người Tăng sĩ tên Long phải chỉ chỗ cho chúng đi vệ sinh.

Nếu như gia đình anh để nguyên như cũ, thì cái cầu tiêu cá ấy nằm dựa gốc một bụi chùm ruột, trên có mái tole sơn màu xanh biển và vách thì cũng quây từ mấy miếng tole dày cui không sơn màu.

Do có “bi sử” té cầu tiêu cá nên nhà anh lắp thêm tay vịn ở bốn bề, để lỡ trợt chân còn có cơ hội thoát nạn.
Ước khoảng mươi – mười lăm phút, ba đứa con của Phú Lâm dắt díu nhau trở về xe.

Phú Lâm bắt từng đưa xòe tay ra đặng anh xịt keo rửa tay khô cho chúng, không quên dặn chúng nhớ lau lại với khăn giấy ướt để tránh bị ngộ độc do nuốt phải thứ thuốc sát trùng này trong khi ăn và uống.

Hỏi chúng mới hay cái cầu tiêu cá đã bị thay thế bằng nhà cầu tân thời rất sạch sẽ và an toàn; chắc là trong nhà đã có cháu nhỏ nên ba mẹ Phá Vân mới dẹp cái đìa ấy đi.
Đợi hoài, đợi mãi mà không thấy Phan Huy Tường đâu, Phá Vân nóng ruột định chạy vô coi thử, nhưng đã bị nhị sư huynh níu lại.

Ở trong này, Phan Huy Tường đang nói chuyện với ông nội.

Ông nội của nó không nói cho nó biết ổng là ông nội của nó, ổng chỉ tự xưng là người gác mộ mướn cho Phàn gia, nhưng nó cũng đâu có ngu hay bị đui mà không nhận ra đường nét trên gương mặt ổng và cha nó hao hao nhau.

Tưởng ông nội không muốn nhận lại cháu, nó mới tìm cớ thoái lui càng sớm càng tốt.

Song, ông nội lại giữ rịt nó và khẩn khoản mời nó ở lại chơi.

Song nó hết lời cự tuyệt, ông nội mặt mày buồn xo mà đi một hơi qua bờ đất bên kia; té ra “Phàn gia chi mộ” có tới hai cái cổng, cái cổng thứ hai này ngăn cách giữa khu mộ và vườn trái cây của gia đình.

Nghĩ rằng đã yên, nó liền đi te te một hơi ra cổng trước, ai dè đâu đi được chừng chục mét, lại nghe tiếng gọi giựt lại của ông nội…!và ai đó.

Bà lão đó cầm lấy tay nó mà khóc sướt mướt, rồi hết rờ đầu lại nựng mặt, cơ hồ như muốn xác minh đây đích thị là máu mủ ruột rà của thằng Long.

Đến bây chừ nó mới biết bà này là bà nội của nó, nó không có nét gì giống bả hết, công nhận có bao nhiêu sắc tướng nó đều hưởng hết bên ông nội và ba.

Bà nội chẳng thể nào kiềm cơn xúc động mà mở miệng hỏi nó một câu, bả chỉ biết lấy khăn tay chậm nước mắt và ngó nó mà sụt sùi khóc.

Trong lúc nó đang bối rối, ba nó thình lình xuất hiện và kéo nó ra sau lưng.

Do tự thấy mình ngu muội vì quá tin miệng thiên hạ và lời đường mật của hai đứa con dâu cùng hai thằng con rể, nên đôi vợ chồng già không biết phải ứng xử sao với thằng con mà họ đã thẳng thừng từ mặt, đã vậy còn không để lại cho nó bất cứ cái gì; trong khi trước đây nó đi đóng phim – đóng thế cho người ta được bao nhiêu tiền nó đều cúp núp đem về phụng dưỡng hai người, tới chừng nó sa cơ thất thế lại xua đuổi nó vì sợ nó lây bịnh cho cả nhà.

Nhắc đến vụ nhiễm HIV/S, hai người đưa mắt nhìn nó từ trên xuống dưới; dù tấm áo cà-sa đã che kín thân nó nhưng họ vẫn nhận thấy tướng tá nó rất phương phi và mạnh cùi cụi, mặt mày – tay chân cũng không có bị phát ban hay lở lói như những người mắc phải căn bịnh ấy, cơ thể cũng không bốc mùi hôi thúi do bị mưng mủ từ những miệng vết thương không lành, bởi vậy họ mới hiểu ra lời đồn trên là bá láp.

Càng nghĩ họ càng tức và giận, rồi từ cái sự tức mình và giận người mà họ thi nhau bưng mặc khóc tức tưởi.
Biết rằng ba mẹ đã hiểu mình bị oan, Phá Vân thở phào nhẹ nhõm rồi chắp tay mà cúi đầu thưa đấng sinh thành một tiếng trước khi dắt con trở ra xe.
– Khoan, khoan đi đã Út.

– Bà lão chạy cà nhắc lại mà chụp lấy tay của thằng Út Long và đứa cháu nội.

– Vô nhà chơi xíu rồi hẵng về.
Trong lúc Phá Vân đang phân vân, bỗng nghe thấy tiếng nói của Chân Tâm:
– Chừng nào trở về An Giang rồi đệ hãy ghé.

Ghé bây giờ không yên lỗ tai với đám “phu xướng – phụ tùy” ấy đâu.
Ông lão cảm thấy ý kiến của thằng nhỏ tu chung với con trai rất chí lý nên bèn ngỏ lời hẹn một ngày khác.

Giặc trong nhà đông như quân Nguyên, chỉ cần sơ sẩy chút là bị chúng bày kế đuổi ra ngoài đường liền.
Phá Vân gật đầu đồng ý, rồi dắt con trai đi một hơi ra ngoài xe.
– Sao nó hổng nói với vợ chồng mình tiếng nào vậy ông?
– Tại tụi mình biểu không muốn nghe nó nói thêm một tiếng nào nữa.

Nó làm đúng theo ý của hai đứa mình mà.
Vừa ổn định chỗ ngồi xong, Thanh Liên đề nghị:
– Bữa nay ăn theo ý của Hoàng Kỳ và Thủy Diệu nghen?
Vệ Thương là người mừng nhứt, thiếu điều muốn nhảy cẫng lên reo hò ầm ĩ.
Đêm qua Thanh Liên đã thấy ánh mắt tiên tiếc của hai sư đồ, liền hiểu ra họ đang thèm ăn gà chiên theo kiểu tiệm ăn Âu – Mỹ – Úc.

Dẫu sao họ cũng đã nỗ lực tinh tấn suốt mấy năm qua, bữa nay phá lệ cho họ ăn theo sở thích, coi như một phần thưởng nho nhỏ.
Thể theo sự sành ăn của hai anh em họ Ngô, nguyên đoàn ghé nhà hàng trong một khu nghỉ dưỡng sang trọng trên đường…; nơi đây phục vụ ẩm thực Á – Âu – Phi, phẩm chất món ăn và nước uống khá ngon và hình thức trình bày cũng rất đẹp.
– Bữa nay để tôi trả tiền.
Nhìn tấm thẻ trên tay Vệ Thương, Hoàng Kỳ và Thủy Diệu biết ngay cậu ta xuất thân từ danh gia thế phiệt.

Hoàng Kỳ và Thủy Diệu tuy khác màu da và chủng tộc nhưng nết ăn của hai người đều là kiểu Anh – Pháp – Mỹ, thành ra cả hai quyết định ăn chung với nhau.

Để ăn được nhiều món, mỗi người gọi bốn món khác nhau, rồi lấy đũa sớt từng món vô chén riêng.

Hoàng Kỳ chọn gà lăn bột chiên bơ tỏi, vẹm nướng blue cheese, potjiekos (thịt nai hầm ăn với sốt cà-ri) Phi Châu và giò heo muối xông khói; còn Thủy Diệu thì chọn cơm risotto hải sản kiểu Ý, salad Hy Lạp, cá tầm hấp Na-Uy và poutine (khoai tây chiên trộn thập cẩm) Gia Nã Đại.

Về phần súp, Hoàng Kỳ ăn súp nấm – mướp hương và Thủy Diệu ăn súp cà chua nấu với kem và hành lá.

Ăn đâu được vài miếng, Trần Hoàng Huy ngoắc bồi bàn lại đặt món Á.

Vị béo ngậy của bơ, kem và phô-mai đã khiến gã bị lợm giọng, giờ đây gã đã thấu hiểu cảm giác cự tuyệt mắm, đồ lòng, hột vịt lộn và sầu riêng của dân Âu – Mỹ.
Đặt xong món bào ngư nướng mỡ hành và giò heo muối chiên giòn với dĩa rau muống ngâm chua, Trần Hoàng Huy súc miệng bằng bia để át sự ngán ngấy của mấy món chế phẩm từ sữa, đoạn nuốt xuống cái ực và mở miệng bình phẩm:
– Ớn quá mấy người ơi.
– Không quen ăn không nổi đâu.

– Thủy Diệu phì cười.

– Tụi tôi còn có hai món rất đơn giản nhưng khá khó ăn với phần đông người Việt: Đó là món đậu hộp sốt cà và mỳ Ý sốt cà ăn kèm với bánh mì sandwich xắt lát mỏng.
– Trời ơi mới nghe mà đã muốn nhợn rồi.
Cũng bởi ít ai nuốt nổi nên hai Tăng sĩ quốc tịch Hoa Kỳ, Judas và Vệ Thương được thêm phần ăn.
Út Thương chợt hỏi:
– Cách sử dụng cùi-dìa của anh Diệu sao mà giống phong thái Hoàng gia Anh quá.

Ba em tốn bộn tiền mướn bà cô về dạy tụi em cách cư xử quý tộc, bả dạy bao nhiêu – em quên bấy nhiêu, ba em tức gần chết.
– Tôi từng là điệp viên Anh Cát Lợi mà.

– Thủy Diệu hơi nhếch miệng cười.
Bỗng Út Thương quay qua cặp cổ thằng bạn cùng vai vế trong nhà mà hỏi:
– Mày có biết tại sao thịt heo đực bị hôi không?
Út Thanh vừa lắc đầu vừa gặm chân gà nướng sa-tế.
– Tại nó không bị thiến đó.
“Bốp.”
Út Thanh vỗ đầu Út Thương một cái như trời giáng, đoạn gằn giọng hỏi:
– Ý mày nói thịt tao thơm phải không?
Út Thương vỗ vai thằng chiến hữu, tỏ ý cầu hòa.
– Tao nói thiệt chớ tánh tình mày y chang ông Trần Kim Thương.

Không sanh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm mà cái nết giống hệt từng li, từng tí, từng gang.

– Bởi vậy nên tao mới tội nghiệp cho mợ Hai giùm ổng.
Rồi quay sang người luật sư Nam Mỹ, Vệ Thương hỏi:
– Anh ăn con gì ngộ vậy?
– Con cút.

Cút bỏ lò kiểu Na-Uy.
– Bánh kẹp nhưn thịt bò có nêm nếm đúng kiểu Ba-Tây không anh?
– Không, giống bánh bao thịt heo hơn.

Ăn hơi chán một chút.
Bữa ăn trưa hôm đó tốn gần hai ngàn Mỹ kim, cộng thêm tiền boa cho nhân viên là năm trăm nữa, chơi chơi không cũng khoảng hai ngàn rưỡi.

Các nhân viên cùng viên quản lý chắc bị lậm ba cái phim “Chủ tịch và Cái kết…” đang phát sóng tràng giang đại hải trên mạng nên cứ ngó dáo dác kiếm máy ghi hình bí mật.

Trước lúc rời khu nghỉ dưỡng, ai nấy đều đi vệ sinh và rửa tay – rửa mặt cho tỉnh táo.

Độ chừng nửa tiếng sau, Phá Vân thông báo giờ khởi hành và không quên nhắc lại một lần nữa rằng ai cần đi vệ sinh hay mắc ói thì xin hãy đi giải quyết rốt ráo, xe sẽ chạy không ngừng suốt mấy tiếng đồng hồ nên sẽ rất phiền phức nếu có ai đó mắc phải hai triệu chứng trên.
– Gia Định đâu? – Phá Vân lo lắng hỏi.
– Mất rồi.

– Trần Hoàng Huy đáp gọn lỏn.
Ngồi chỗ cũ cũng chán, nguyên đoàn bèn đổi chỗ ngồi.

Sau một hồi suy xét, Út Thương và Út Thanh ngồi gần cửa lên – xuống, sau lưng là Judas và Manuel Ngô, tiếp nữa là Vệ Giản và Nguyễn Quý Sinh, kế đó là A Luật và Duy Hảo, sau rốt là Thanh Liên và Chân Tâm.

Về hàng ghế bên trái, băng đầu là của Phú Lâm, băng nhì là của Trần Hoàng Huy, băng thứ ba là của Đoạn Trần và Hỷ Tín, băng thứ tư để trống, băng thứ năm là của Châu Lợi và Trì Thương, băng thứ sáu là của hai đứa con trai của Phú Lâm, băng thứ bảy là của đứa con gái của Phú Lâm; để cho Hoàng Kỳ và Thủy Diệu ngồi thoải mái hơn, Trần Hoàng Huy gập bớt năm hàng ghế nhằm giúp hai anh gác chân cho đỡ mỏi.

Còn bà Liên và thím Huê xuống băng chót ngồi; số là hai người buồn ngủ nên muốn chợp mắt một lát thành ra phải lánh xuống đây ngồi.
– Xin lỗi vì đã để quý vị phải đợi lâu.
Samuel Định vừa đánh tiếng vừa ngồi xuống cạnh Phú Lâm.
Tưởng đâu yên ổn rồi, ai ngờ vừa rời khỏi địa phận Long An, bỗng đâu bên kia đường có người đàn ông nhào ra vẫy xe kịch liệt.

Hình như anh ta đi chung với một người đàn ông đồng tuổi và hai đứa con nít, vì họ thấy người đàn ông ấy lôi anh ta vô quán cóc trong tiếng lèm bèm trách móc.
Đã biết rõ người này bắt lộn xe, nhưng Trần Hoàng Huy vẫn cho phép họ đi chung.

Tuy đã nghe tiếng kêu dừng xe của Hai Huy, song Phá Vân không thắng liền mà chạy thêm mười mấy mét nữa mới thắng xe, bởi nếu thắng gấp quá vừa gây tai nạn cho người vừa gây nguy hại cho mình.
Hai Huy nhảy xuống xe, rồi đi xăm xăm lại quán cóc.
Người ngoắc xe ban nãy cười ngượng hỏi:
– Đây là xe gia đình hả?
– Lên đại đi.

Không tính tiền đâu.
Nghe vậy, người ngoắc lộn xe mừng húm.

Rồi thúc hai đứa nhỏ và thằng bạn mau lên xe.
– Cảm ơn vì đã cho tụi tui quá giang nha.
– Không có chi…!Nhưng mà, đi vệ sinh chưa?
Hai Lúa và Út Mén tự giác chạy cái vù xuống nhà sau để đi tiểu.

JB Khải và Henrico Thạnh cũng làm theo luôn.
Trong lúc đợi bộ tứ ấy xong chuyện, Hai Huy mua một gói thuốc lá và một cái hộp quẹt, rồi làm một điếu cho thỏa cơn ghiền.

Nam Kỳ vào Đông thay đổi nhân diện trong một ngày xoành xoạch: Rạng sáng lạnh như cắt da như cắt thịt, đến trưa nắng chói chang tới nỗi như muốn thiêu sống người ta, cuối ngày lại mang bộ mặt chằm dằm – chù ụ như ai ăn hết của kèm theo những trận gió lớn bất thần.

Những ngày đầu Xuân hay có mưa lớt phớt, lúc nào nền trời cũng mang một màu sắc ảm đạm; mà cũng nhờ vậy mà bà con miệt vườn mới phân biệt rõ đâu là ngày Đông và đâu là ngày đầu mùa mưa.
Henrico Thạnh và JB Khải ngượng ngùng tìm chỗ.

Thời may chiếc xe này còn quá nhiều hàng ghế trống nên họ không gây phiền hà cho đoàn khách ấy.

– Nè, qua cánh hữu ngồi đi, rộng rãi tha hồ lựa băng ngồi.
Hai Huy bỏ băng ghế đầu và chót, giữ ba băng ghế nằm giữa.

Băng số Một và số Ba gã sắp cho đâu mặt với nhau, còn băng số Hai thì gập đứng cho rộng chỗ.

Chiếc xe này có mười lăm hàng ghế, mỗi hàng ghế có hai chỗ; băng chót gồm bốn chỗ được nâng lên khá cao, nếu tính luôn ghế của tài-xế thì chiếc xe này có tổng cộng ba mươi lăm chỗ, trong xe còn có một tủ lạnh mini rất tiện lợi.
Nghe tiếng bao tử kêu còn hơn vắt rừng U Minh của nhóm khách kỳ ngộ, Út Thương bèn đứng dậy mà mở ba-lô lấy ra một hộp giò heo muối chiên giòn, một hộp giò heo muối xông khói, mộ t hộp giò heo phá-lấu nướng, một hộp dưa chua, một hộp rau sống và ba hộp bánh hỏi chan mỡ hành rồi ngỏ ý mời họ ăn.

Còn Trần Hoàng Huy thì mở tủ lạnh lấy ra hai ly nước tăng lực Red Bull vị thanh long có tẩy và hai ly Milo.

Và để cho họ ăn uống thoải mái hơn, Trì Thương gấp lưng một băng ghế và điều chỉnh cho nó cao hơn một xíu đặng tạo thành một cái bàn nhỏ; Hai Huy gắn thêm một cái khung chắn có hình dáng như cái hộc tủ lên mặt bàn nhằm phòng ngừa đồ ăn – thức uống văng xuống mà làm dơ nệm ghế và mặt sàn.
Trời ơi đang đói mà có mâm cơm dâng tới tận miệng, nên hai chàng Linh mục gật đầu chịu liền.

Nhìn dáng điệu gắp đũa của hai chàng là ai nấy đủ biết đang đói meo râu cỡ nào rồi.

Hai đứa nhỏ còn mệt nên ăn nhỏ nhẻ từ từ, với lại chúng cũng không hảo mấy món này nên ăn không mạnh miệng lắm.
Thấy vậy, Út Thanh mới mời hai anh em ăn mỳ Ý sốt cà chua – thịt bằm và gà chiên phủ phô-mai.

Hai đứa nhỏ cảm ơn lia lịa, rồi hăng hái cầm nĩa – muỗng lên ăn.

– Rồi, vừa lòng hết chưa, cho xe nổ máy nghen.
Rồi đó, Phá Vân kéo cần gạt về D và dận ga chầm chậm để nhóm khách mới lên không bị lâu lư mà mắc ói.

– Chết cha, quên hỏi, đi đâu đây?
– Tụi tui về Kiến Hòa.
Hai Huy thở phào nhẹ nhõm:
– Tưởng lên Sài Gòn là chết bà rồi.
Vì buồn chán nên Hai Huy mở băng nhạc Xuân “Hài hước ban Số Dzách: Trần Văn Trạch và Ban Số Dzách” cho mọi người cùng nghe.

Những trận cười giòn giã vang lên trong chiếc xe thơm mùi đồ ăn – thức uống; ngay cả Thủy Diệu và Hoàng Kỳ cũng cười theo, bài hát mà hai người cùng thích là ca khúc nhạc chế “Mừng tuổi”.
Trước lúc chia tay với đoàn người hiếu khách, Henrico Thạnh biếu cho họ năm buồng dừa – mỗi buồng một giống và hai quầy chuối xiêm đang vú, cùng chục vỉ hột vịt lộn, hột gà lộn và trứng cút lộn đem dìa ăn cho bổ máu.

Trong khi những người quá giang đang bịn rịn chia tay với nhóm mìnn, Trần Hoàng Huy đang lo lắng thằng bạn sẽ chơi tiểu lòn để cướp địa bàn làm ăn của mình.

oOo
Song ca Mai Hương – Tuyết Mai đang hát bài “Mùa Xuân xa em” của nhạc sĩ Y Vũ.

Quán cà-phê của Thừa Tân những ngày cuối năm lưa thưa khách; nhân viên xin nghỉ để ôn thi và về quê khá nhiều, nhờ vậy mà chàng chủ quán không bị lâm vào tình cảnh nợ tiền nhà băng.
Quỳnh Như nhân bị cảm mạo mà được trốn học một bữa, cô rình rình ba mẹ không để ý mà xách chiếc xe Mobylette được cho đi tới đây gặp ông chú bảnh bao.
– Chú, cuối năm tặng con một bài đi chú?
– Bài gì?
Đôi má cô bé ửng hồng:
– Bài nào về mối tình đầu đó chú?
Vậy là Thừa Tân mở bài “Tình đầu” của nhạc sĩ Hoàng Trọng và thi sĩ Hồ Đình Phương, được trình bày qua giọng ca của Ngọc Lan.
– Ăn kem không nhỏ?
– Bữa nay tha cho chú, tại con bị đau họng rồi.
– Vậy ăn chè nóng cho bớt đau.
– Dạ.
Thừa Tân sai nhân viên đi mua chè trôi nước cho nhỏ, rồi quay qua làm một ly hồng trà ấm cho bé con bướm trắng.
– Sao khóc nữa?
– Bài buồn quá chú.
Thừa Tân phì cười:
– Khờ quá!
Quỳnh Như phồng má dỗi hờn.
– Tôi có từng thương vài người, nhưng rốt cuộc là tôi tự mình đa tình thôi.

Ai nấy nghe tôi từng ở tù, mặc dù là ở tù oan, thì cũng đều tránh né hết.
Quỳnh Như bỗng giở chứng đòi nghía hình thời còn vàng son của Thừa Tân.
– Đây nè.

– Thừa Tân đưa điện thoại cho cô bé.
Khuôn mặt của ông chú hồi trẻ hết sức đẹp trai và có nhiều nét giống tài tử Hương Cảnh.

Hai mươi năm cuộc đời đã làm chú tàn hương phai sắc đi rất nhiều.

Nghĩ tới lúc mình bằng tuổi ông chú cũng sẽ giống vậy, ánh mắt của cô nữ sinh thành đô buồn đau vô hạn.
– Ai rồi cũng phải già mà cô.
– Nhưng mà chú vẫn còn bảnh trai, còn con thì sao?
Tự nhiên được khen nên Thừa Tân không biết phải phản ứng ra sao.

Anh đành kiếm chuyện khác để nói:
– Tôi có từng đọc qua một bài viết nói về một ban nhạc Đại Hàn, nội dung đại ý là tin đồn yêu đương của một thành viên trong ban nhạc này với một ai đó cũng thuộc giới giải trí, trời ơi ta nói…!hàng loạt bình luận tục tĩu và nguyền rủa người đăng kéo dài như liên tu bất tận chỉ sau một ngày đăng bài.

Cái gì mà hâm mộ cuồng loạn dữ vậy? Người đăng đã chú thích đây chỉ là tin đồn và nghi vấn, chứ không hề khẳng định một tiếng, ấy vậy mà một đám kéo bầy kéo đàn vô rủa xả người ta và nói người ta tung tin vịt…
– Chú yên tâm đi.

Con hổng có bị khùng như vậy đâu.

Bài nào vừa ý con nghe, không thích con chuyển sang bản mới.
– Tôi không tài nào hiểu nổi chứng bệnh hâm mộ thần tượng thái quá của rất nhiều người.

Rốt cuộc nhân viên cũng mua được chè về.

Viên nào viên nấy y hệt cái mặt đang chù ụ vì sầu đời và chiêm nghiệm nhân sinh của Quỳnh Như.
– Thật ra, sẽ tới lúc Như chẳng thấy ai đáng để Như hâm mộ hết.
– Lúc đó là lúc nào chú?
– Lúc mà Như đã đọc được kha khá sách, và sẽ nhận ra những người nổi danh bằng nghề biểu diễn cũng như mình mà thôi, họ không hề đáng để đợ họ lên bệ thờ và liều sống liều chết bảo vệ danh tiếng cho họ.
Một người khách đội khăn đóng và mặc áo dài bước đến yêu cầu một thể loại nhạc mới.

Sau khi bị nhạc đám cưới tra tấn thì anh ta muốn được “đổi gió” nên đã đến đây tìm Thừa Tân.
– Băng nhạc “Minh họa “Truyện Kiều”” Một, Hai và Ba của nhạc sĩ Phạm Duy.

Sẵn đây nói luôn, băng nhạc này được biên soạn từ năm 1997 cho đến khoảng năm 2005, do đó không có chuyện cụ đạo nhạc mấy bộ phim Tàu đang nổi thời nay đâu.

Nhiều người bây giờ ưa đòi tác quyền giùm bên đó lắm, thậm chí nhạc Nhật mà cũng nằng nặc nói là lấy của nhạc sĩ gốc Hoa luôn.
– Vậy là cụ đã đi trước thời đại rồi hả anh?
Thừa Tân gật đầu:
– Băng nhạc này kết hợp giữa các loại hình nghệ thuật xứ Bắc Kỳ và cổ nhạc Trung Hoa, thành ra hợp ca toàn là người Bắc rặt, gồm những ca sĩ như sau: Tuấn Ngọc, Ái Vân, Thái Hiền, Thái Thảo, Duy Quang, Duy Cường.

Riêng phần Ba, có sự góp mặt của Anh Dũng trong vai “Mã Giám Sinh”, nhưng vắng bóng vợ chồng Tuấn Ngọc và Thái Thảo.
– Trong băng nhạc này, anh có bài nào ưng không?
– “Sè sè nấm đất bên đường”.

Nhạc mở đầu của ca khúc này có nét giống với “Kinh Hồng Vũ”, một trong những nhạc phim của “Hậu cung Chân Hoàn truyện”.

Song, như tôi đã nói ở trên, cụ soạn trước, thành ra cụ không có đạo nhạc của ai hết.
– Còn bài nào nữa không?
– “Dễ hay tình lại gặp tình”.

Tuấn Ngọc hát nốt cao nghe đã lỗ tai lắm.

Trước lúc về chỗ ngồi để thưởng trà Thiết Quan Âm, người khách cúi đầu cảm ơn chàng chủ quán dễ thương.
– Như có biết tôi thích cụ Phạm Duy ở khoản nào không?
– Sao con biết?
– Cụ luôn hạn chế để người ở miền này hát nhạc miền khác.

Chứ không có xô bồ như bây giờ, giọng Bắc mà đi ca cải lương.

– A…
Quỳnh Như mở sách ra học bài để theo kịp chúng bạn.

Do ở tù hết mấy năm niên thiếu nên Thừa Tân bị trễ nãi chuyện sách đèn, thành ra anh không học hết lớp Mười và cũng chẳng có đi học nghề, vì vậy anh không thể chỉ bài cho cô bé được.

Phiền phức sao bài bữa nay khó quá, nên nhỏ ngồi vò đầu bứt tai mãi mà không hiểu để giải bài; trong cái khó ló cái khôn, anh bèn nhờ cậu nhân viên học giỏi giải đề giùm con nhỏ.
Một người khách nam ngó Quỳnh Như một cái rồi cười hỏi Thừa Tân:
– Có bài nào tán gái hay không anh?
– Có, “Đưa Em vào vườn Địa Đàng” của nhạc sĩ Mạnh Quỳnh, bài này có Duy Khánh ca mùi mẫn lắm.
Nhưng vì sợ Quỳnh Như khó chịu nên Thừa Tân mời anh khách nghe bài “Bài Xuân này xin hát quanh năm” do Hoàng Oanh ca, đây là một sáng tác của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng.
Người khách cũng thôi chòng ghẹo, anh ta xin lỗi Quỳnh Như rồi trở về bàn ngồi với chúng bạn.
– Chú thấy hôn, con cũng có giá lắm chứ bộ.

– Giá sống ăn hủ tíu hay ăn với bánh ướt?
Quỳnh Như nguýt ông chú già một cái sắc lẻm.
Bản nhạc vừa tan chưa được bao lâu, đã có một người khách già mà đẹp lão tới yêu cầu một bài hát có nội dung têu tếu vì tâm can ông đang rầu.
– Dạ, “Xuân yêu” của nhạc sĩ Xuân Phát, ca sĩ Mỹ Tho – Trung Chỉnh sẽ là người trình bày.

Bài này vừa lạ vừa vui vừa ngộ.
Người khách cất giọng cảm ơn, rồi đứng gần máy đặng nghe cho rõ:
“…!Cô Xuân ơi, mùa Xuân mới nay về, mai vàng kết tên Cô
Nhưng trong Tôi, Cô là mãi muôn đời mùa Xuân tôi thầm nhớ
Tôi yêu Cô dù biết Cô Xuân lớn hơn Tôi…”
Nụ cười trên môi Augustino Dương tắt lịm.

Sao đi đâu ông cũng gặp con nhỏ tên Xuân vậy nè?
“…!Bao lần Tôi muốn trách sao Cô quá vô tình
Người ta đã yêu, lại cứ nói: “Ngoan, chị thương…””
– Hay không ông?
– Hay…!- Hai chữ “Khỉ mốc” ông Cha Dòng nuốt xuống bụng cái ót.

Rồi ông hỏi.

– Có nước nào giúp thanh nhiệt mát gan không cậu?
– Dạ, con bán nước giải khát, hổng có bán thuốc Bắc.
– Vậy thôi một ly cà-phê đen nhiều đá ít đường.
Một người khách nam hỏi:
– Cái bài “Hành trình trên Quê Hương” là của ai vậy anh?
– Của Thanh Sơn, chỉ có bản thu âm của Sơn Ca là đúng với bản gốc, sau 75 nhạc sĩ đổi lời và sửa tựa rồi.
– Sao anh?
– Sau năm 75, bài này biến thành “Hành trình trên đất Phù Sa”.

Nhưng mắc cười ở chỗ là bản mới này lại hay hơn bản gốc rất nhiều.
Học hành xong xuôi, Quỳnh Như được Thừa Tân chở đi hóng gió bằng chiếc xe hơi hiệu “Porsche”.
Vừa cài dây an toàn, Quỳnh Như vừa hỏi ông chú:
– Giới thiệu xe xíu đi chú.
– “Porsche – Panamera GTS Sport Turismo”.
– Trời, dài dữ!
Thừa Tân phì cười, đoạn tâm sự với bé con:
– Tôi mê chiếc “Porsche – 911” lắm mà không có dư tiền sắm nổi.
– Vậy sao hồi đầu chú hổng mua nó?
– Nó có hai cửa hà.

Đi riêng hay chơi bời bạn bè không sao hết, nhưng ngặt nỗi ba má tôi “nhà quê” nên đóng cửa không được.

Lần chạy thử trong phòng trưng bày của một hãng xe khác, ba má tôi xém bị thương vì đưa tay ra đóng cửa.
– Tại sao?
– Xe đó cửa đóng do bấm nút.

Tôi đang bấm nút hạ cửa thì ba má tôi cũng vừa lúc đưa tay ra đóng…
– Trời ơi.

– Cho nên tôi thấy xe hai cửa là tôi nổi sẩy.

Chừng nào tôi dư tiền sẽ sắm chiếc hai cửa.
Rồi Thừa Tân quay qua hỏi con nhỏ:
– Còn chiếc kia sao? Êm chưa?
– Dạ, cũng được hà chú.
Ngang qua một tiệm may kiêm sạp vải, Thừa Tân ngừng xe để vô lấy bộ áo dài du Xuân cho ba má.

Quỳnh Như cũng nhiều chuyện mà đi theo ngắm nghía vải vóc cùng những bộ trang phục may rồi.
Chủ tiệm đang ngồi uống bạc xỉu và ăn bánh tiêu mặn nơi quầy thu ngân.

Gương mặt được trang điểm kỹ lưỡng, nhưng cũng không che được dấu hiệu của thời gian lưu lại trên đấy.

Những thợ may do bà tuyển lựa đang cật lực làm việc để kiếm thêm chút tiền ăn Tết.

– Thưa bà, đây là biên lai nhận hàng mà tôi đã ký với cô Hoàng Lan.

Sau một hồi kiểm tra tờ biên lai và đối chiếu trên Laptop, bà chủ tiệm mới sai nhân viên mở khóa tủ và lấy đồ cho khách.

Trong lúc ấy, bà đứng đợi Thừa Tân chuyển phần tiền còn lại vào tài khoản của mình.
– Xin lỗi quý khách, tôi lại bị tụt đường huyết nên mặt mày hơi khó coi và nói chuyện không xuôi tai nổi.
– Dạ, không sao hết.

Nhận lấy bộ áo dài từ tay nhân viên, Thừa Tân kiểm tra khắp lượt rồi mới nhờ người đó gấp lại và bỏ vô hộp giùm.
Bà chủ tiệm hơi nhăn mặt hỏi:
– Hài lòng rồi há?
– Dạ, ưng bụng rồi.

– Con nhỏ con tôi bữa nay phải lên công-ty họp hành…!Cái con nhỏ này, có sẵn chỗ bán buôn không chịu, lại thích đi làm mướn cho người ta.

Trở lên xe, Quỳnh Như đòi ông chú mở bản nhạc giống như cái bài mà con nhỏ đã nghe trong tiệm.
Vừa mở điện thoại để kiếm bài “Nửa chừng Xuân” của nhạc sĩ Châu Đình An qua giọng hát của Ngọc Lan, Thừa Tân vừa nghĩ tới cuộc hẹn với luật sư vào sáng ngày mai.

Anh cần phải có kế sách để đối phó với Yên Hồng, nếu không anh sẽ phải đi tù oan lần thứ hai.
oOo
Đỗ Hiểu Thiên tới thăm Thúy Liễu vào ngày cuối cùng trong năm.

Chú có đem theo một con ngỗng quay béo ngậy, hai vỉ bánh hỏi và một bịch rau sống.

Nhận được quà biếu của Hiểu Thiên, ông Tám Què mừng lắm, nhưng dù vậy ông vẫn không dám mời cậu này vô nhà vì sợ bệnh tình của con gái phát tác.
– Anh tới đây kiếm Liễu chi vậy?
– Tôi muốn nhờ Liễu làm người mẫu một lần nữa.
Bức tranh vẽ Thúy Liễu được Đỗ Hiểu Thiên đặt tên là “Nàng”, và đã được một nhà sưu tầm mua lại với giá khá cao chỉ sau vài ngày rao bán.

Toàn bộ số tiền nhận được chú sẽ gửi cho làng “Thiên Thần”.
– Vậy bữa nay chú sẽ vẽ Liễu ra sao?
Mới nghe “Anh” êm tai được một chút, giờ người ta đã đổi thành “Chú” rồi!
Để giúp Thúy Liễu bớt căng thẳng, địa điểm vẽ tranh sẽ nằm ở sau hè nhà của cha con nàng.

Nơi đây có bờ mía làm tường rào và bông mười giờ làm nền, cũng với những điểm nhấn của bóng cây mát rượi.

Thúy Liễu trải chiếu ngồi xếp bằng dưới bóng râm của cây mai tứ quý, mỗi tay đặt trên một bên đùi theo hình dạng chụm lại như búp sen, dáng lưng hơi khòm một chút cũng không sao.

Những bóng nắng xuyên qua khoảng trống của vòm cây tạo thành một tấm áo bông mai khổng lồ, mỗi hoa giả đan cài với hoa thật, làm cho không gian quanh nàng Hai như bừng sáng lên.
Hiểu Thiên mở bài hát “Và Tôi yêu Nàng”, bản gốc là bài “And I love Her” của đôi tác giả Paul McCartney – John Lennon, và người trình bày là Duy Quang.

Chú sẽ cố thoát ly khỏi thị hiếu khách hàng mà hòa mình vào thế giới nội tâm của bản thân.

Tranh lần này có thể không bán được, cũng không sao cả…
– Chú Quang ca nghe sao mà giống một chàng thư sinh đang tỏ tình với người thương ghê; kiểu kiểu như dù biết mình không giỏi tiếng Anh cho lắm nhưng vẫn ráng ra sức tập dợt để dành tặng người thương, nên cách hát rất đỗi ngọt ngào và dịu dàng.
Hiểu Thiên bật cười:
– Còn có lời Hai nữa, tên là “Vẫn mãi yêu anh” do song ca Kiều Nga – Ngọc Lan biểu diễn, người đặt lời Việt là ai tôi cũng không rõ luôn.
– Hình như là nhạc sĩ Lê Đức Cường đó chú.
– Vậy hả? – Hiểu Thiên gãi đầu cười trừ.
Ông Tám Què vừa ngồi nhậu vịt quay trong nhà vừa dòm ra ngoài sân.

Ông mong Hiểu Thiên sẽ thành con rể của mình, dù lòng thầm biết điều đó sẽ khó xảy ra vì quá khứ của Hai Liễu quá ư kinh khùng.

Cũng nội trong ngày hôm đó, Stephen Đoàn lại nhà của Đức Cha Gabriel – Đinh Thái mà xưng tội.

Đáng ra anh đi một mình, nhưng Thầy Matthias Hoàn, Thầy Augustino Dương, Ignacio Cường và Henrico Thạnh nói đã phạm tội đồng lõa với anh nên anh đành phải để họ đi chung.
Nhờ đặt hẹn trước nửa tháng mà nguyên đoàn mới gặp được Đức Cha Thái tại nhà của ông.

Nghe Stephen Đoàn trình bày xong, Gabriel Thái có cảm tưởng sét đánh ngang tai.

Ông không thể ngờ một người được lòng Giáo dân như Linh mục Mỹ lại phạm phải Điều răn thứ Sáu.

Mà lý do khiến ông bị ngạc nhiên thứ hai là bởi khuôn mặt quá đỗi xấu trai và không dễ ưa của Linh mục Mỹ mà cũng có cô gái đem lòng thương yêu được.
– Bây giờ con tính sao Mỹ? Quyết định bị huyền chức hay là giải tội để ở lại Đạo?
– Con muốn xin Đức Cha giúp con thực hiện Bí tích Giải Tội để ở lại Đạo.

Gabriel Thái lấy tay đỡ trán.

Hồi trước ông đã thở phào nhẹ nhõm vì Linh mục JB – Trương Tấn Khải thực sự bị hàm oan, tưởng đâu Giáo xứ mà Đức Cha Vincent – Trung gìn giữ đã yên ổn, ai dè đâu giờ lòi ra vụ này…
– Còn đây là đồng phạm của con phải không?
Hết thảy đều gật đầu xác nhận.
Gabriel Thái chất vấn Ignacio Cường:
– Sao tới giờ này con mới báo cho Cha biết?
– Con muốn Giáo dân có một mùa Giáng Sinh yên lành và yên bình.
– Con biết nếu phạm phải lỗi này thì Stephen Đoàn không có tư cách để thực hiện Thánh Lễ và các Bí Tích phải không?
– Con biết.
– Vậy tại sao…
– Vì Giáo dân không có thích con bằng Stephen Đoàn.

Nhờ Stephen Đoàn mà tình hình trong xứ đã trở nên êm thắm và ngày một tốt đẹp hơn.

– Và con đã lợi dụng Stephen Đoàn?
– Con không có lợi dụng.

Xin Đức Cha đừng hỏi cơ con như vậy.

Matthias Hoàn và Augustino Dương đều cảm thấy mệt tim trước thái độ không khoan nhượng của thằng con đối với Gabriel Thái.
– Mỹ và cô gái kia chỉ là rung động nhất thời, không đi quá xa để đến nỗi bị huyền chức.
– Vậy theo con một nụ hôn là rất gần hả?
– Vậy con hôn tay Cha có phải là đi quá xa không?
– Cường!!! – Thầy Dương và Thầy Hoàn thảng thốt kêu lên.
Ignacio Cường đứng bật dậy mà trình bày rằng:
– Con sẽ nói những lời lạc Giáo.

Xin Đức Cha hãy bình tĩnh mà nghe con nói hết câu…!Thầy Dương và Thầy Hoàn đừng có cản con, để con nói! Thạnh, cả anh nữa, buông tôi ra!
– Các Thầy cho Ignacio Cường nói đi.

Lần trước vì không chịu nghe nó nói mà tôi đã treo Chén oan JB Khải.
– Con cảm ơn Đức Cha…!
Ignacio Cường nhìn Stephen Đoàn mà nói:
– Cô Kiều Xuân là một người thần trí bất ổn nên Stephen Đoàn không biết làm cách nào để phản kháng lại chuyện cổ hôn mình.

Thứ hai, vì ám ảnh với sự vắn số và cái chết đau đớn của người mẹ quá cố nên Stephen Đoàn mới đón nhận tình yêu của cô Kiều Xuân; thành ra đóng kịch lâu dài quá ảnh lại ngộ nhận ảnh cũng thương cổ thiệt, và từ đó ảnh thương luôn cổ.
– Vậy là rốt cuộc Mỹ thương cô Kiều Xuân?
– Dạ, và đó là tình yêu dựa trên tình thương, thành ra ảnh không có tội.
– Trời đất ơi, mày nói cái gì vòng vòng vậy Cường? – Augustino Dương vuột miệng trách.
– Xin Thầy hãy để cho con nói.

– Ignacio Cường giơ tay trấn an Thầy anh.

Gabriel Thái im lặng nghe tiếp.
– Chừng nào tình yêu dựa trên tình dục, khi đó ảnh mới có tội.

Tức là hồn – xác của anh thực sự phạm phải Điều răn thứ Sáu.

– Rồi quay qua Stephen Đoàn, Ignacio Cường hỏi.

– Anh chưa từng có ý nghĩ gì trên giường phải không?
– Chưa từng.

– Stephen Đoàn gật đầu cái rụp.

– Tôi chỉ nghĩ rằng nếu mình không phải là tu sĩ thì có lẽ sẽ mang lại một cuộc sống hôn nhân tốt đẹp cho cổ.
Bốn người kia hồi hộp đợi Ignacio Cường lên tiếng.

Và chàng tu sĩ có đôi má lúm đồng tiền ấy biện giải rằng:
– Đó chỉ là tình huống giả định mà ai cũng có thể nghĩ ra trong đầu.

Như chuyện của Thầy Dương và Bà phước Florida, có lẽ đôi lúc Thầy và Sơ nhớ lại tuổi hoa niên sẽ nghĩ ra điều mà Stephen Đoàn đã nghĩ, nhưng cả Thầy và Sơ đâu có muốn thực hiện điều này đâu.

Thì khi nghe Kiều Xuân khơi gợi những chủ đề như vậy, tự khắc đầu óc của Stephen Đoàn sẽ mường tượng ra đáp án cho những câu hỏi đó; nếu thật lòng Stephen Đoàn muốn đi xa hơn, thì bữa nay ảnh sẽ không tới đây gặp Đức Cha đâu.
– Con phản biện giùm Stephen Đoàn làm chi? Nó làm sai mà nó không nói, toàn để con nói không hà.
– Bởi vì con không muốn làm lãng phí thời gian của Đức Cha.

Ý là bữa hổm ngồi tâm sự với Thầy Hoàn thôi mà ảnh đã nước mắt ngắn dài.

Bây giờ để ảnh nói nữa, ảnh cũng sẽ lặp lại cái cảnh vừa khóc vừa kể lể; Đức Cha vừa không hiểu gì vừa khiến cho mọi người thêm mệt mỏi.

Thôi, để con nói cho rồi.
– Con biết con đang làm gì không Cường?
– Biết, con đang nói Sự Thật cho Đức Cha nghe và không để Giáo hội mất đi một tu sĩ tài đức.
Đức Cha Thái phì cười:
– Quả không hổ danh Cha Cọp…!Nể mặt con, Cha quyết định nhận lời Giải Tội cho Stephen Đoàn và Thầy – Bạn với con.

Rồi day qua Augustino Dương, Gabriel Thái nói:
– Ông tội nhiều quá nên phải làm chót.
– Tôi tội chi mà nhiều?
– Quản học trò không nghiêm, bao che cho nó khi nó làm sai, không răn dạy nên mới khiến nó gặp nguy hiểm…
– Không, con bị người ta chém là lỗi tại con, xin đừng trách oan Thầy Dương.
Lúc này Gabriel Thái hết cười:
– Con sẽ còn bị như vậy nếu như không chịu sửa cái tánh cứng đầu – cứng cổ của mình.
– Con sẽ không thỏa hiệp với Quỷ Dữ.

Con làm Linh mục là để sáng danh Chúa và bảo vệ đàn Chiên, không phải là để đẹp lòng những con mắt trần thế.

Sau một hồi sững sờ, Đức Cha Thái nghẹn ngào:
– Con thực sự rất giống tánh nết của Linh mục Gioan Lasan – Nguyễn Văn Vinh.

Hy vọng cuộc đời con sẽ…
Vừa hay GB Thành và thầy Dự đã tới nên cuộc tranh luận tạm kết thúc.
Chiếc xe mà Simon Tử sử dụng là của Thầy Phó Tế – Louis Quế, hiệu “Chevrolet – Suburban” chín chỗ ngồi.

Gabriel Thái lên ngồi cùng thầy Dự, băng nhì là của GB Thành và Matthias Hoàn, băng thứ ba là của Augustino Dương và Henrico Thạnh, và băng cuối cùng là của Stephen Đoàn và Ignacio Cường.

– Khoan đã, cho con đi với.
Raphael Lễ được phân ngồi ở giữa Stephen Đoàn và Ignacio Cường, nhưng chàng ta xin nhường ghế giữa cho Stephen Đoàn và ngỏ ý ngồi ở chỗ của Stephen Đoàn.

Stephen Đoàn vui vẻ đồng ý.
Henrico Thạnh rủ Đức Cha, các Thầy và mấy người bạn đồng tu về nhà mình ăn điểm tâm sáng.

Mất hơn nửa tiếng mới tới được nhà của người thân Henrico Thạnh vì kẹt xe dữ quá.
Thể theo lời giới thiệu của Henrico Thạnh thì diện tích của cuộc đất ước độ hai ngàn mấy trăm mét vuông; vì sợ mấy đứa cháu dìa quê bị chết đuối nên tía – má anh đã xây một cái hồ bơi ở bên hông nhà lớn để tụi nó học bơi – lội, nhờ vậy mà đứa nào đứa nấy đều bơi – lội rất giỏi và biết lặn sâu dưới nước đúng cách.

Tía – má còn bỏ công đổ đất làm liếp trồng rau và đắp vồng trồng khoai, đặng giúp quán bún của chị Ba bớt được tiền chợ khoản nào hay khoản nấy, mà cũng nhờ cái tiếng rau cải – trái cây tự trồng nên thực khách đến ăn mỗi lúc một đông, không bao giờ chị bị bán ế hay bị khách mắng vốn.

Trước lúc trở lên nhà chị Ba ăn uống, Henrico Thạnh dẫn mọi người đi thưởng mai và coi kiểng ở sau hè – Đây là thành quả của tía, anh Hai và anh rể hằng bao năm qua.

Nhác thấy ba má chồng của chị Hai đang ngồi trong nhà mát mà ngắm con lộ đông xe qua – lại, Henrico Thạnh lên tiếng thưa gởi; ông bà hớt hải mời chú Út và khách của chú ngồi xuống nói chuyện chơi với mình, nhưng Henrico Thạnh nhỏ nhẹ mà rằng xin hẹn lần sau.
Đi gần tới gốc hoàng mai đại thụ nằm áng lối dẫn lên nhà anh Hai, Gabriel Thái tinh ý phát hiện một cái miễu nhỏ khói nhang nghi ngút.

Không để Đức Cha nói câu nào, Henrico Thạnh đã lên tiếng rằng ở nhà anh còn có một cái bàn thờ Thiên nữa; bây giờ Cha Gabriel mới biết Đạo gốc của Linh mục Thạnh là Đạo Phật.
Simon Tử hỏi:
– Hai đàng dâu – rể của cậu đều ở đây hết à?
– Dạ phải.

Bên nội thì do bể hụi nên lên đây sống chung với chị Ba, còn bên ngoại thì do giữ cháu và nuôi chị dâu nên lên đây sống chung với anh Hai.

Kể từ ngày gia đình bên nội dọn về đây ở, vợ chồng chị Ba nhường căn nhà bán quán cho họ ở, còn gia đình chỉ thì dọn vô nhà lớn ở.

Hèn chi thái độ của đôi vợ chồng già ban nãy lại khúm núm như vậy.

Cái kiếp ăn nhờ ở đậu, dẫu người ta thiệt lòng thương cho nương thân, nhưng tự thân vẫn nảy sanh sự tự ti và lo sợ bị đuổi.
– Dân Bến Tre có cái “mật hiệu”, hễ nghe ai mà “đi Mũi Né” là tự giác chòm xóm biết người đó bỏ trốn mất dạng rồi.

Chưa lên tới cửa sau nhà chị Ba mà nguyên đoàn đã nghe Phương Dung ca bài “Gió chuyển mùa thương” của nhạc sĩ Mạnh Phát.

Người mở nhạc phẩm đó là “tội đồ” của ba má chồng chị Ba, tức ông anh rể ham lời mà bị người ta gạt hết tiền, thời may ổng có nghề sửa xe đạp và xe gắn máy nên cũng tự nuôi lấy thân trên đất Sài Gòn được.

Ngó thấy chú Út nhà gái, dù đang vá vỏ xe đạp cho khách, ổng liền lật đật đứng dậy mà lên tiếng cười mơn thăm hỏi; Henrico Thạnh chắp tay mà xin ổng đừng khách sáo như vậy nữa, người trong nhà không mà…
– Ủa? Út.

Mày đi đường nào mà nãy giờ tao hổng nghe tiếng – thấy hình gì dzậy?
– Tui đi lối bên hông nhà ông Hai á.
– Mèn đét ơi…!- Chị Ba mừng rơn bỏ hết tô – chén đang soạn mà lại sắp bàn – dọn ghế đặng có chỗ cho thằng Út và quý Thầy đồng tu của nó an tọa.

Có bà khách chờ lâu quá mà lại thấy cảnh trên nên tức mình chửi nhỏ nhỏ mấy tiếng; Henrico Thạnh bèn sấn tới bắt bún và cột nước mắm cho bà, không quên cho thêm một cuốn chả giò và một nhúm bì ram để thay lời xin lỗi, thái độ của bà khách chuyển giận thành vui liền.
Thầy Dự và Gabriel Thái mỗi người một tay mà đỡ GB Thành ngồi xuống ghế.

Rồi đó, hai ông chia nhau ngồi một bên Cha Thành.

Xong đâu vào đó, Simon Tử lại tủ kính mà lựa món bún hợp khẩu vị với mình.

– Dạo gần đây cái chi cũng đắt đỏ hết cô nhỉ?
– Dạ, cái gì cũng mắc mỏ hết, chú.

Tụi con ráng neo giá để giữ khách nên toàn bán huề vốn không hà; lâu lâu mới được một ngày lời khẳm.
– Ở đây bán món bún gì thế?
– Bún thịt nướng – chả giò – bì ram – nem lụi – bò lá lốt, bún măng vịt, bún mắm, bún gỏi và, bún Thái, bún thịt xào, bún nước lèo và bún cá lóc.
– Ôi giời đất ơi! Cái quán bé tí mà bán nhiều gớm?
– Coi dzậy chớ không cực lắm đâu chú.

Vì ngoài con ra, còn má con và gia đình má chồng phụ một tay nữa.

Mà, chú ăn được món chi?
– Món đầu tiên.

Cô Ba nghĩ ngợi một chút, rồi mới sực nhớ ra mà soạn tô bắt bún và gắp đồ bổi.

– Sao cô không bán bún Bắc hay bún Trung?
– Con không thích ăn nên hổng thích bán.

Bán món gì mình ăn được, lỡ ế còn ăn nổi…!- Nói tới đây, cô Ba cười hi hi thật hiền.
Tuy chỉ là một tiệm ăn nhỏ nhưng cô Ba vẫn mua máy rửa chén thượng phẩm, nhằm bớt đi khoản tiền mướn người rửa chén.

Công việc sắp chén dơ vô máy do chồng chị làm, dù rằng anh không muốn nhúng tay vô một xíu nào.
Hai Lúa và Út Mén chạy ù ra mừng ông Tía.

Nãy giờ tụi nó ở trên gác mà coi phim hoạt hình của đài “Disney Plus” với mấy đứa cháu của ông Tía.
Nghe hai đứa nhỏ gọi Linh mục Thạnh bằng “Tía” ngọt sớt, Gabriel Thái run rẩy hỏi:
– Mấy…!mấy người đừng có nói đây là con riêng của Henrico Thạnh nha?
– Bớt tài lanh tài lẹt đi ông nội.

– Augustino Dương đã trở lại giọng điệu hằng ngày.

– Rồi mày làm giấy tờ cho tụi nó chưa Thạnh?
Henrico Thạnh gãi đầu:
– Không hiểu ông đó mắc giống gì mà ký cái rẹt, hổng có làm khó làm dễ con chi hết.
– Chắc là bị ai đó hăm he rồi.
Matthias Hoàn hỏi Gabriel Thái về ngày Giải Tội, Đức Tổng Giám Mục bèn nói chắc là qua tháng Giêng.
– Chúa ơi, đi giải tội mà tôi cứ tưởng xếp lịch đi gặp diễn viên Hollywood.

– Thông cảm cho tôi đi cha.

Cuối năm lu bu đủ thứ chuyện.

JB Khải cũng đã có mặt.

Quá đỗi ngạc nhiên trước sự xuất hiện của Đức Tổng Giám Mục Giáo phận Sài Gòn Gabriel – Đinh Thái, chàng tu sĩ từng bị huyền chức oan chỉ biết đứng chết trân như Từ Hải mà quên mất phải thưa Đức Cha một tiếng.
– Ngồi xuống đây đi Khải.

Cha có chuyện cần nói với con.
JB Khải lúng túng ngồi xuống cái ghế đối diện với chỗ ngồi của Đức Cha Thái.
Trong lúc người trai tu sĩ đang bối rối khôn nguôi, thì vị Giám Mục già cũng áy náy không kém.

Ông hy vọng buổi nói chuyện sáng nay sẽ giúp hàn gắn vết thương lòng của JB Khải; chỉ vì sự mù quáng và thiên kiến cá nhân mà xém chút nữa ông đã khiến cho Giáo hội mất đi một vị Mục Tử thuần thành và giàu nhiệt huyết.

Nghĩ đến đây, ông đưa mắt dòm Stephen Đoàn và Ignacio Cường, miệng ông nở nụ cười tự bao giờ mà ông chẳng hay biết.

Chiều ngày hôm sau, Gabriel Thái ghé Tổng Y Viện Dân Chủ để xem mặt mối tình đầu của đứa con trai tên Mỹ.

Vốn có quen biết với tổng thống Khánh nên nhóm sĩ quan canh gác đồng ý cho ông tới phòng bệnh của Kiều Xuân; nhưng chỉ được đứng bên ngoài nhìn vào chứ không được gặp gỡ và nói chuyện trực tiếp.
Công nhận Kiều Xuân đẹp thật.

Nét đẹp dễ gây thương nhớ và bồi hồi, cái cảm giác ấy gợi cho ông nhớ đến “Loài hoa không vỡ” của nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương, hèn gì mà thằng Mỹ lại rung động với nó…
– Thưa Đức Cha.
Biết rằng đã hết giờ, Gabriel Thái gật đầu thật khẽ rồi nói lời cảm ơn cậu sĩ quan đã lên tiếng nhắc nhở mình.
Vẫn như ban nãy, ông ra về bằng cổng sau, với sự hộ tống của hai người sĩ quan đồng tuổi trung niên.
– Bác Hai.
– Chờ lâu không bây?
– Con mới tới cái sột hà.
– Đi đâu vậy Lễ?
– Con đi phát cơm với anh em Đan sĩ.
– Cho tao đi chung với.

Địa điểm mà nhóm tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế chọn là một xóm “dạt” ven một bờ kinh bên Quận Năm.

Người dân ở đây toàn là dân tứ xứ và có mức lợi tức rất thấp; trẻ nít học hành dang dở hay chưa từng đến trường một buổi nào nhiều như ri, còn tệ nạn thì đầy dẫy, đi tới đâu cũng thấy “luyện Trúc Cơ kỳ” và mời gọi đi khách.

Mấy đứa nhỏ nói lời cảm ơn qua loa trong lúc với tay lấy hộp cơm – canh.

Những người lớn thì ngồi coi đá banh, bao nhiêu tiếng chửi thề vang lên giòn giã như bắp rang trong chảo, nghe một ông trong băng nói kỳ này mà thua độ nữa chắc tao “Vị thân vong quốc”.

– Mấy con có muốn đi học không? – Gabriel Thái thương xót hỏi.
– Không.
Rồi đó, sầm một cái, cánh cửa bị đóng lại thật gấp; xém chút nữa là Đức Cha đã gãy mũi rồi.
– Chỉ là con Chiên lạc mà thôi.

Xin mấy đứa nể mặt Cha mà đừng có giận nó nghen?
– Dạ.
Tự dưng Gabriel Thái nhớ tới Linh mục Ignacio – Huỳnh Đức Cường, nếu đổi lại là nó chắc đứa nhỏ kia sẽ bị thủng màng nhĩ.


Sáng hôm sau, nhân lúc quởn đãi, Gabriel Thái lén kêu xe taxi để đến Giáo xứ St.

Pio viếng mộ Đức Cha Vinh-Sơn – Trung.

Trên đường tới đó, ông tắp vào một quầy bán bông Tết sớm đặng mua một chậu cúc vàng và vạn thọ dâng Cha.

Thấy ông già cả, người trai hành nghề lái taxi không cho phép ông khiêng chậu bông, mà bắt phải để cậu ta với chủ quầy làm.

Nhằm tránh bị phát hiện, Gabriel Thái mua luôn đồ ăn sáng ở bên ngoài; bao gồm một ổ bánh mì chả cá và một ly cà-phê đá hơi ngọt – Bữa nay là thứ Sáu nên ông phải kiêng thịt.

Cậu tài-xế dễ thương cũng được ông mời một ổ bánh mì, nhưng cậu ta ăn bánh mì thịt nướng và uống Coca đá.

Hai ông cháu vừa dùng điểm tâm vừa trò chuyện thâm tình như người một nhà.
Tưởng đâu đi giờ này không gặp ai, không ngờ lại có người tới sớm hơn cả ông!
– Thái!
Người đó còn biết tên ông nữa.
– Sao hổng ở nhà ngủ cho khỏe mà ra đây dẫy mộ chi?
– Jesus – Ma, Dương phải hôn?
– Nó đó.
– Còn Hoàn đâu?
– Ôi cái ông đó mà kể làm chi, yếu mà bày đặt ra gió nữa nên mới làm một chút mà đã dìa nhà chú Toàn nằm võng rồi.

– Ăn gì chưa?
– Rồi, ăn ở nhà chú Toàn rồi.
Hai người hết biết nói gì với nhau, chỉ lặng lẽ hì hục khiêng chậu bông tới trước đầu mộ của Cha Vincent Trung.

Ngày trẻ mỗi thằng khiêng hai chậu bông ngon ơ, giờ già cả rồi phải hiệp sức nhau mà khiêng mới đặng.
Gabriel Thái biểu:
– Thôi, nói chuyện như “Những ngày xưa thân ái” nghen?
– Ờ, vậy đi.
– Tao với mày đâu còn là hai thằng choai choai nữa.
– Phải, già đầu hết rồi.

Chúa muốn gọi về lúc nào chẳng hay.
Dường như thời gian đã quay ngược trở lại.

Họ thấy người trước mặt trong bộ dáng thiếu niên quậy cùng trời nát nước như năm nào.
– Chừng nào tao về hưu, tao với mày mở quán thục bi-da nghen?
Augustino Dương phì cười:
– Ừ, hứa rồi đó.
– Rồi Hiến Mai sao rồi?
– Chết rồi.

Nó lên cơn suyễn bất tử mà không ai hay biết nên đã ra đi rồi.

Tao mới biết thôi.

Nó chết cách đây ba năm mấy mà tao mới biết thôi.

Tao vẫn vô tâm như ngày nào.
– Người ta con gái mà mày nỡ đặt tên “Hiến Mai”.
– Ai biểu cái mỏ của nó giống cái mái hiên.
– Bởi vậy mày bị Cha Phan-Sinh Hùng phạt hoài cũng đúng.

Một nhà dân gần đó đang mở bài “Lính du Xuân” của nhạc sĩ Y Vân qua tiếng hát của Hùng Cường và phần phụ họa của Sơn Ca.

Bây giờ là bảy giờ rưỡi, trong Giáo xứ đã rộn ràng hơn rồi, người qua – kẻ lại ồn ã tiếng cười đùa và chuyện trò.

Những tiếng hót véo von của loài chim hiền và gió lùa qua nhành cây – tán lá làm xôn xao mảnh Đất Thánh buồn tênh.
– Mày giúp tao quản thằng Cường cho chặt.

Tao không muốn nó trở thành Thánh Tử Đạo vì phải nhận lãnh cái chết oan khuất đâu.
Augustino Dương thở hắt ra một nặng hơn chì:
– Tánh nó nào giờ vậy mà.

“Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả – Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”.
– Người kia “sạch” hay “dơ”?
– Sạch.
Rồi Augustino Dương kể về việc thằng Mỹ đã rạch tay trái mà lấy máu viết thư minh oan cho thằng Khải.

Nghe tới đâu, sắc mặt Gabriel Thái khó coi tới đó; ông nào hay nào biết có rất nhiều uẩn tình và khúc mắc trong vụ đẩy JB Khải tới bước đường bị huyền chức, nay nhờ có thằng chiến hữu năm xưa mà ông mới hiểu và biết đầu cua tai nheo mọi sự.

– Tô-Ma Tường nói với tao vừa phát hiện quần trong dính máu.

Ác đạn ở chỗ đó là đồ của nữ.

Mà nó lại nằm dưới nệm của Richard Lãm.
– Ý của mày là có người muốn phá Đan Viện phải không?
– Phải, kể từ sau cái ngày Tô-Ma Tường không chịu bán mảnh đất ấy cho một nhà đầu tư…
– Nín, nín, “tai vách mạch rừng”.
– Ờ, mày hiểu phải hôn?
Augustino Dương gật đầu.

– Tao không nghĩ đạo đức của cậu kia tệ như vậy đâu.
Augustino Dương lại gật đầu.
– Nhưng mà tao hổng có ngờ thằng Mỹ lại có bồ.
– Bồ khỉ mốc mày chứ bồ! Đã nói là nó ngộ nhận mà…
– Mày cũng y chang thằng Cường hà, binh lấy binh để.
– Ờ, con tao, tao binh, vậy được hôn?
Thấy bộ dáng đã “hết date” mà còn sửng cồ làm dữ của thằng chiến hữu, vị Giám Mục già được phen ôm bụng cười ngất ngơ ngất ngưỡng.

– Sao năm xưa mày hổng làm hung với Cha Phan-Sinh Hùng như vầy nè.
Augustino Dương trợn mắt:
– Cho ổng quánh tao chết hay chi?
Nói đến đây, hai đứa cười ngất.

Khi niềm vui lắng xuống cũng là lúc nỗi buồn kéo đến, những kỷ niệm đẹp đẽ trong quá khứ cứ thế ùa về, khiến cho hai người tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế được phen rơi lệ và đau đáu khôn nguôi.

Thảng nơi Đất Thánh vắng ngắt, dường như hai vị Linh mục già thoáng nghe ai đó cười hỏi, “Mấy đứa tới thăm Cha hả?” như những năm đã xưa…!Giựt mình quay đầu nhìn lại, cả hai không thấy ai hết, chỉ thấy tấm di ảnh của Đức Cha Vincent – Cao Nhật Trung đang đắm trong ánh hào quang của nắng dịu trong một ngày đầu năm mới.
oOo
Dù đã cận Tết nhưng Xương Tuyết vẫn chưa hoàn thành nội dung Giai phẩm Xuân mà mình được giao.

Cũng may còn có anh Ba Hói giúp đỡ nên gã điên mới không gặp tình cảnh Tết này hết tiền thưởng.
– Lát đi ăn với “Nhạn – Vàng – Bình – Công” không?
– Quởn mà, đi cho vui.
– Ráng bồi bổ lấy sức rồi viết nốt giùm tao.

Tao cho mày cái sườn rồi đó, lắp giùm tao thành khoảnh đi.
– Năm nào cũng nhai đi nhai lại vụ mấy con Giáp.

Nội dung thì bị kềm kẹp.

Nên năm nay em chẳng sung viết con mẹ gì.
Chợt anh Ba Hói phá lên cười:
– Lâu lắm rồi mới nghe mày chửi thề nha.

Thôi ráng đi con, viết văn “cúng cụ” để có tiền mà sống.

Tao sợ mày bị bắt nên đâu bao giờ giao cho mày phụ trách mảng Chính trị hay Đời sống – Xã hội, nhưng rốt cuộc mày cũng viết tuốt luốt.
– Em nợ anh nhiều lắm Ba Hói.

– Biết vậy là tốt.

Thôi xách xe tới quán con quỷ bạn của tao đi, năm mới – năm me ế chảy thây vô ăn ủng hộ để nó có tiền lo cho hai đàng nội – ngoại.
– Chỉ làm người hay làm mọi vậy anh? Năm nào cũng bị hai đàng bòn tiền như đám tham nhũng bòn quốc khố.
– Bởi…!tao kêu nó bỏ phứt thằng chồng rồi ở dzậy cho phẻ mà nó hổng chịu.

Trước lúc khởi hành, anh Ba Hói gửi tin nhắn cho đám đàn em đồng nghiệp để tụi nó biết đường mà tới, kẻo lôi thôi mất thì giờ.

– Ê mậy.
– Dạ?
– Nó hỏi tụi mình ăn xong có đi đâu không, nếu về thẳng tòa soạn luôn thì nó cho đi quá giang xe.
– Rồi, tới rước đi.

Trưa trờ trưa trật vầy đi đâu.
– Ừ, “Đi đâu loanh quanh cho tiền nhẹ túi…”
Cà rởn một hồi nữa, hai anh em mới thấy bóng dáng chiếc xe “GMC” đậu ở trước cổng tòa soạn.

Do hai ông chủ nhiệm không có ưa nhau nên mấy đứa đàn em không dám bước vô lãnh thổ của địch quốc, mà nhá máy báo rằng họ đã tới.

Vừa cài dây an toàn, anh Ba Hói vừa châm chọc:
– Hai ông chủ nhiệm tính diễn tuồng “Mối hận Kim – Bình”.

– Đ*má, diễn cái đách què gì thì Tết này thằng chả cũng hổng tăng tiền thưởng Tết cho tụi em.

– Đức Hoàng chửi một hơi cho hả cơn tức.
– Bên tao cũng vậy.

Mà nhà mày có mấy đứa em?
– Năm đứa.
– Tao thấy tao nổi sảy rồi đó.
– Bởi, làm thêm đủ đường mà rót tiền về quê nuôi hổng nổi, cộng thêm ba má rình rình đánh đề nữa…
Xui rủi sao mà kẹt xe, ước khoảng một tiếng nữa chiếc xe mới có thể lết sang Quận Bình Chánh; thành ra, nguyên đoàn cùng nhau thảo luận nội dung mà một tờ Giai phẩm Xuân nên có và Văn học – Nghệ thuật trong Nước.
Người mở đầu là Ernest Nguyễn:
– Anh nghĩ nền Văn Chương trong Nước có sự kỳ thị và phân biệt giai cấp không, anh Tuyết?
– Có chớ.

Phần đông giới sáng tác truyện từ xưa đến nay thường cho người giàu là kẻ ác và tiểu nhân, còn người nghèo là thiện lương và quân tử; như vậy không phải là kỳ thị và phân biệt giai cấp sao?
Anh Ba Hói nhếch miệng bình phẩm:
– Sáng tác theo phong cách “Bần cố nông”.
– Muốn Văn học – Nghệ thuật phát triển thì đừng có kiểm duyệt và người viết phải thoát khỏi lối mòn.

Ngay cả truyện ma mà cũng viết theo định hướng nữa.
Khán Bình hỏi:
– Định hướng sao?
– Truyện ma toàn áp đặt người giàu là kẻ ác, hại chết người nghèo lương thiện, mười thì hết bảy mang nội dung như vậy rồi.
Nguyên đám cười ồ.
Tống Ngạn nhận xét:
– Thì người nghèo viết truyện mà.
Đức Hoàng xen vô:
– Còn người giàu viết sách dạy đời và chỉ trích người nghèo không biết lo làm ăn.

– Mấy người giàu kiểu đó hình như vô tù với phá sản hết rồi.

– Ernest Công phì cười.
Đức Hoàng hỏi:
– Có ai biết Hội Đồng nào tốt không?
Xương Tuyết nhận phần kể:
– Hồi xưa có một ông Hội Đồng sống theo Tây học, giữ gìn nền nếp gia phong theo Nho Giáo, quanh năm suốt tháng chăm bẵm làng xóm và giúp xóa mù chữ cho bà con gần xa.

Hễ tá điền nào bị bịnh hay không nộp tô đúng thời hạn, ông lại sai người tới hỏi thăm và cho luôn tiền tiêu xài nếu lý do chậm trễ không liên quan tới Tứ Đổ Tường; đã có rất nhiều tá điền nhờ được ông cho tiền chữa bịnh kịp thời mà thoát chết, và ông cho luôn chứ không hề đòi lại một cắc nào.

Còn con nít trong vùng, chỉ cần nó khoanh tay thưa ông hay ông thấy nó khoanh tay thưa những bậc cao niên khác, ông sẽ sai gia nhân lấy bánh Pháp ra thưởng liền và khuyên lơn nó nên hiếu học.

Mỗi lần nhà có giỗ quải, bà con trong vùng đổ về nhà ông để phụ mần đám, mần xong không những được trả tiền công mà còn được nhậu nhẹt và coi hát tuồng thoải mái; nhưng, ông cấm ăn bỏ mứa, ăn không hết thì xách về để dành, chứ tuyệt nhiên không được phí phạm thức ăn, nếu ông tận mắt chứng kiến cảnh tượng trên thì người đó sẽ không được phép tham dự một lần nào nữa nữa.

– Ông đó là ai vậy anh?
– Ông cố ngoại của tôi.

Ông là một trong những đại điền chủ của miền Tây ngày xưa.

Sau này, mỗi bận gặp lại người trong dòng họ của tôi, những bậc cao niên đã từng sống trong cái vùng đó vẫn gởi lời cảm ơn ông cố ngoại tôi vì đã đỡ đần gia đình họ trong suốt thời kỳ tranh tối tranh sáng ấy.

Khán Bình hỏi:
– Ông có nhiều vợ không anh?
– Ông chỉ có một người vợ, không nạp thiếp hay đi léng phéng với ai hết.

Khi ông mất, chẳng có cái chuyện con rơi – con rớt về đòi chia phần hay trong nhà tranh của với nhau.
Bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công” mời gã điên trình bày thêm:
– Ông là minh chứng cho sự hòa hợp Đông – Tây một cách đúng đắn: Sở học và Thương nghiệp theo Tây Phương và Lối sống và Gia phong theo Đông Phương.

Ông thường mặc đồ bà ba và áo dài khăn đóng.

Chỉ trừ trường hợp vạn bất đắc dĩ, ông mới diện âu phục và ăn bận theo kiểu cách Tây Phương.
– Vậy chắc ông cố ngoại của anh cũng giống như cụ Petrus – Trương Vĩnh Ký, tức là “túng thế phải tùng quyền”?
– Phải, ông không thay đổi được thời cuộc nên chuyển sang thay đổi đời sống của bà con chòm xóm theo hết khả năng và vốn liếng mà mình có; nhờ vậy mà nguyên cái xóm đó khá yên ổn, lâu thật lâu mới có vài vụ gây lộn do hiểu lầm hay gà bay chó sủa vì đánh ghen, hễ mà thấy can không đặng là bà con lại mời ông đứng ra phân giải và khuyên lơn, và lần nào cũng êm đẹp hết.
Tống Ngạn hỏi:
– Có nhà văn nào viết truyện dựa trên sự kiện có thật không Tuyết?
– Như Thôn Thượng Xuân Thụ chẳng hạn, ông đã từng sống qua giai đoạn đảng Cộng Sản Nhật Bản hưng thịnh và những cuộc biểu tình của tầng lớp sinh viên diễn ra đều như cơm bữa nên trong mỗi tác phẩm của ông đều có yếu tố liên quan đến hai sự kiện kể trên.

Đó là chi tiết thật ẩn trong nội dung hư cấu.
Đức Hoàng trầm ngâm lên tiếng:
– Có cuốn sách nào của Haruki Murakami mà bị phản đối không anh?
– Khá nhiều.

Một trong số đó là “1Q84”, theo lời của ông thì đây là cách để ông trả lời cuốn sách “1984” của nhà văn George Orwell.

Chi tiết gây tranh cãi là nữ chính tự có thai; nhiều người theo Kitô Giáo cho rằng chi tiết này xúc phạm tới Đức Mẹ Maria.

Kỳ thực nội dung của cuốn sách này không hề đả động gì Cơ Đốc, mà là nói về Giáo phái Aum Shinrikyo – Những kẻ đã gây ra vụ thảm sát trên xe điện ngầm; cũng xin nói thêm, ông cũng là người đã viết ký sự về Giáo phái này, nhan đề quyển sách ấy là “Ngầm”.
Chiếc xe rốt cuộc cũng lăn bánh được.

Chạy đâu được trăm mét thì nó lại đứng im ru vì giao thông hỗn tạp ở đó.

Cũng may máy lạnh trong xe hoạt động tốt nên ai nấy mới không bị chết vì ngạt thở.
Xương Tuyết chợt kể:
– Tôi mới vừa phát hiện vài người cải trang thành Nam Kỳ, dầu đã cố gắng hết sức nhưng vẫn để “lòi cái cọng rau muống dài thòng” như nhận xét của nhà văn Dương Nghiễm Mậu.
Đức Hoàng vừa khui chai nước điện giải có ga vừa cười:
– Nhái chữ, nhái văn thì dễ chứ muôn đời không nhái giọng và hồn cốt được.
Khán Bình hỏi:
– Sao anh biết?
– Vì họ cố tình viết đớt một vài chữ mà không ngờ có những chữ phải viết đớt “tập thể”.

Người ngoài nhìn vô tưởng đâu họ chống bên kia, ai ngờ cốt yếu làm xấu mặt và chia rẽ bên đây.

Ai hả hê bị họ dụ thì ráng chịu.

Anh Ba Hói ngừng viết mà ngửng lên nói:
– Trung dủ, “Dị rứa.” Bắc bảo, “Gớm chửa.” Nam biểu, “Ngộ hén.”
– Tôi học theo cụ Vương Hồng Sểnh nên luôn ra công học tiếng địa phương và ngôn ngữ mới, thành ra tôi có thể nhận biết kẻ mạo danh.
Tống Ngạn hỏi:
– Có chữ nào mà trong này say năm 75 lấy theo chữ ngoài Bắc không anh?
– Trước năm 75, Nam Kỳ xài “Bút hiệu”.

Sau năm 75, đổi thành “Bút danh” theo ngoài Bắc luôn.
Anh Ba Hói vừa kiểm tra bản thảo vừa nói:
– Nam Kỳ nào nói, “Chúng tui”? Chỉ họa hoằn trong văn viết và phim – kịch mà thôi.
Đức Hoàng chưng hửng hỏi:
– Vậy Nam Kỳ nói chữ nào?
– Tao sẽ không trả lời đâu.
Ernest Công chép miệng nói:
– Hèn chi mà hai anh biết người này ở xứ khác nhái giọng miền Nam.
Anh Ba Hói nhếch miệng cười:
– Bởi họ ráng sửa giọng miền họ theo khẩu âm Nam Kỳ nên mới viết theo kiểu câu Trung khôn ra Trung, Bắc chả ra Bắc và Nam hổng theo Nam.
Đức Hoàng tò mò hỏi:
– Sao anh cười hả anh Ba?
– Tại tao thấy nhiều người hả hê vì tưởng bở khứa này theo phe mình nên tức cười thôi.
Xương Tuyết gật, gật đầu:
– Mỹ Tho mà kêu là “Mỹ tho tiểu phố”.
Rồi gã điên dựa đầu vào cửa sổ mà bình phẩm:
– Thật ra cái danh hiệu “Đồng Khởi” nên dành cho đất Huế, chứ không phải là quê của tôi.

Anh không thấy hễ có ai đụng đến xứ họ là họ nhào vô tấn công liền à?
Khán Bình bật cười.

Ừ, xứ mô hạ bệ vua Bảo Đại trước tiên.
Đức Hoàng góp chủ đề:
– Hễ ai bình luận “Cay nhỉ?” là hết tám trên mười đều viết ngọng chữ “L”, “N”, “Tr” và “Ch”.
Ernest Công bật cười:
– Kế là câu “Chó cứ sủa, đoàn người cứ đi”, “Đất nước ta vừa trải qua chiến tranh…” và “Không thích thì cút qua nước ngoài sống”.

Hễ ai đọc mấy câu này là lộ hết gốc gác, trình độ nhận thức và nghề nghiệp; y như bùa chú trong “Harry Potter”.

Nguyên nhóm thi nhau cười ầm ĩ.
Xương Tuyết góp ý:
– “Tử vong” là danh từ.

“Thiệt mạng” là động từ.

Cho nên phải ghi là “Số ca tử vong” và “Đã bị thiệt mạng” mới đúng.

Mang danh nhà báo mà bạ đâu cũng xài “Tử vong” một cách sai bét bèn ben.

Anh Ba Hói phì cười:
– Thì nó là “nhà báo” chứ đâu phải “Ký giả”.

Danh từ với động từ mà còn không phân biệt được, hổng hiểu đám đó tốt nghiệp trường Báo Chí ra sao.

Xương Tuyết lại tiếp:
– “Sự cố” đã chính thức “Khai tử” chữ “Trục trặc”, “Hỏng hóc”, “Hư hại”, “Tai nạn”,…!”Sự cố” là một chữ hoàn toàn vô nghĩa và không biết ai đã rước nó nào tự điển Việt Nam.

Tống Ngạn lên tiếng hỏi:
– Tôi có một thắc mắc chưa tìm ra lời giải đáp.
Nguyên nhóm im lặng lắng nghe.
– Nếu như Nam Kỳ vào thời Pháp thuộc mù chữ hết thì tại sao tác phẩm của cụ Hồ Biểu Chánh, cụ Trương Vĩnh Ký, cụ Huỳnh Tịnh Của,…!lại bán chạy? Chẳng lẽ người dân sang tới mức độ mua về lấy giấy gói xôi hả? Mà nếu như thực dân Pháp muốn dân ta mù chữ hết thì tại sao lại để các bậc hiền nhân xứ mình in sách dưới dạng chữ Quốc ngữ và không quá cấm đoán ấn loát báo giấy?
– Ờ há!
– Cho nên, theo thiển ý của tôi, thì dữ kiện trên e là sai sự thật.

Còn cái vế sau, tôi vẫn còn đang tìm hiểu nguồn cơn và lý do thành hình dữ kiện này.
Ernest Công quay lại chủ đề chữ Quốc ngữ:
– Bữa nay có chữ “Đặc công nước” thay cho “Thủy Quân Lục Chiến” và “Hải Quân” nữa.
Xương Tuyết trình bày:
– Tư liệu là của riêng anh nếu như anh không muốn công bố rộng rãi.

Còn tài liệu là của chung nếu như anh muốn phổ biến khắp nơi.

Bây giờ người ta cứ lẫn lộn hai chữ này hoài.

Thí dụ: Bản thảo ghi cốt truyện là tư liệu của tôi, tôi đăng lên trên mạng cho mọi người cùng đọc thì nó đã trở thành tài liệu, không còn ở dưới dạng tư liệu nữa.
– Đã “Tư” có nghĩa là “Riêng”, vậy mà nhiều người không hiểu cứ xài tầm bậy tầm bạ.

– Anh Ba Hói càm ràm.
Xương Tuyết tiếp:
– “Chữ” chứ không phải là “Từ”.

“Từ” là nói theo cách của bên Tàu, còn bên mình là “Chữ”.

“Từ” bên mình có nghĩa là một câu, còn bên Tàu là một chữ.

“Chữ cái” khác với “Chữ”.

Trước giờ ông bà toàn ví von “Chữ Hiếu”, “Chữ Tình”, “Chữ Nghĩa”, “Chữ Nhân”, “Chữ Đức”,…!có ai đời ghép mấy tiếng đó với chữ “Từ” đâu.

Có từ là “Từ mặt”, “Từ từ”, “Từ đường” hoặc có nghĩa là đoạn tuyệt với ai đó, thí dụ như “Tao từ mày”, “Tôi từ bà”,…!
Đức Hoàng hỏi:
– Còn chữ nào mình xài đúng mà sửa theo lời người ta mà thành sai không?
– Anh mà còn nói “Đầy rẫy” thì anh đâu phải rành tiếng Nam Kỳ rặt.

Chữ đúng là “Đầy dẫy”.
– Anh phải chứng minh lời anh nói tôi mới tin được.
– Được, “Đại Nam Quấc Âm Tự Vị” quyển Một của cụ Paulus – Huỳnh Tịnh Của, trang 218 và 261; và “Việt Nam tự điển – Quyển Thượng” trang 425.

Sao này trong Nam sửa giọng theo ngoài Bắc thành “Đầy rẫy” luôn.
Khán Bình hỏi:
– Ông Hai Đạo Dừa bị mắc tin đồn nào là nực cười nhất hả anh Tuyết?
– Mấy khứa nằm vùng đã vu khống Ông Hai là tình báo của CIA…
Chưa nói hết câu mà bạn bè của gã điên đã cười như được mùa.
Chiếc xe lại tiến thêm được hai trăm mét nữa.

Thể theo sự chỉ dẫn của anh Ba Hói, Tống Ngạn quẹo vô một con lộ nhỏ như cái lỗ mũi; ráng chạy tới cuối đường sẽ đến được lộ lớn vắng hoe, vì hai bên là công trình bỏ hoang và đất trống.

– Nhìn kìa, nhìn kìa…!- Đức Hoàng chợt la lên.
oOo
Chú thích:
1/ Tên tựa chương này được đặt theo tên tác phẩm “Mùa Xuân và Con chim Én” của nhạc sĩ Hoàng Trang.

Hồ mỗ có điều muốn nói:
Đầu năm kính chúc mọi người
Giàu thêm tài lộc, cửa nhà thịnh hưng
Sức khỏe – Gia đạo bình an
Đường xa muôn nẻo nếu nguy hóa lành.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.