HAI MƯƠI LĂM
Đã một giờ bốn mươi lăm phút sáng. Mắt của Jack mờ đi vì mệt mỏi. Các dòng chữ hiện lên màn hình cứ rõ rồi mờ đi.
– Chắc chắn phải có gì đó. – Jack nói như ra lệnh. – Cứ tìm đi!
Gretchen Liu ngồi ở bàn phím giận dữ ngước lên nhìn Jack và Gordon. Cô đang ngủ say khi họ gọi cô đến. Cô đã đến mà không kịp trang điểm và đeo kính áp tròng để chuẩn bị lên hình như mọi khi. Họ chưa bao chưa giờ thấy nhân viên quan hệ công chúng của mình lại thiếu rạng rỡ như vậy. Họ cũng chưa bao giờ thấy cô đeo kính vì gọng kính to càng cho thấy rõ cặp mắt thiếu ngủ của cô.
– Tôi đã nói với các vị rồi, đây là tất cả những gì tôi có thể tìm thấy về nghiên cứu Lexis. – Nexis. Hầu như chẳng có gì liên quan đến Helen Koenig. Về Trung tâm Khoa học biển, chỉ có một tin tức bình thường về tập đoàn này được công bố. Đối với cái tên Palmer Gabriel, các vị có thể tự nhận thấy là ông ta không thích báo chí. Trong vòng năm năm qua, tên ông ta chỉ xuất hiện trên tờ tạp chí tài chính Thời báo phố Wall trong các bài báo kinh tế về Trung tâm Khoa học biển và các sản phẩm của nó. Không có dữ liệu nào liên quan đến sinh học. Thậm chí còn không có ảnh của ông ta.
Jack ngả về sau ghế, dụi mắt. Ba người bọn họ đã ở trong phòng quan hệ công chúng suốt hai giờ đồng hồ qua, lục tìm mọi bài báo về Helen Koenig và Trung tâm Khoa học biển mà họ có thể tìm thấy trên phần mềm Lexis. – Nexis. Họ đã tìm được nhiều bài báo về Trung tâm Khoa học biển, hàng chục bài báo đã nhắc đến các sản phẩm của nó, từ dầu gội, thuốc đến phân bón. Nhưng hầu như không có gì về Koenig hay Gabriel.
– Hãy thử tên Koenig lần nữa xem! – Jack nói.
– Chúng ta đã nhập vào mọi khả năng đánh vần tên cô ấy. – Gretchen nói. – Chẳng có gì hết!
– Vậy thì hãy đánh chữ Archaeon.
Gretchen Liu thở dài, gõ chữ Archaeon và nhấp chữtìm kiếm.
Một chuỗi rất dài các bài báo xuất hiện trên màn hình.
“Các sinh vật lạ trên trái đất. Các nhà khoa học đã phát hiện một dạng sống mới ” (Thư tín Washington).
“Archaeon trở thành chủ đề của hội thảo quốc tế”(Thời báo Miami).
“Các sinh vậy dưới biển sâu cho thấy căn cứ về nguồn gốc sự sống” (Điều tra Philadelphia).
– Các bạn ạ, việc này vô ích thôi. – Gretchen bắt đầu nản. – Chúng ta sẽ mất cả đêm để đọc hết các bài báo trong danh sách này. Tại sao chúng ta không tận dụng buổi tối để đi ngủ?
– Chờ đã. – Gordon nói. – Cuộn xuống bài này đi! – ông chỉ vào đề báo ở gần cuối màn hình. “Một nhà khoa học thiệt mạng trong tai nạn lặn xuống khe Galapagos”.
Gretchen nhấp vào bài báo và cả đoạn văn xuất hiện. Việc này đã xảy ra cách đây hai năm.
BẢN QUYỀN: Thời báo New York.
CHUYÊN MỤC: Thời sự quốc tế.
TIÊU ĐỀ: “Một nhà khoa học thiệt mạng trong tai nạn lặn xuống khe Galapagos”.
TÁC GIẢ: Julio Perez, phóng viên tờ Thời báo New York.
NỘI DUNG: Một nhà khoa học Mỹ nghiên cứu về sinh vật biển Archaeon đã thiệt mạng ngày hôm qua khi tàu ngầm một người ngồi của anh bị mắc kẹt dưới khe biển Galapagos. Thi thể của bác sĩ Stephen D. Ahearn sáng nay mới được tìm thấy, khi đó các dây cáp của tàu nghiên cứu Gabriella đã lôi tàu ngầm lên mặt nước.
“Chúng tôi biết anh ấy vẫn ở dưới đó, nhưng chúng tôi không thể làm gì được”. Một bạn đồng nghiệp của ông trên tàu Gabriella nói. “Anh ấy bị mắc kẹt dưới độ sâu hai nghìn bảy trăm bốn mươi ba mét. Chúng tôi mất nhiều giờ đồng hồ mới lôi được tàu ngầm của anh ấy ra và kéo nó lên mặt nước”.
Bác sĩ Ahearn là giáo sư địa chất tại đại họcCalifornia, ở San Diego. Anh sống ở La Jolla, bangCalifornia.
Jack nói.
– Tên con tàu là Gabriella.
Anh và Gordon nhìn nhau, cả hai đều giật mình vì một ý nghĩ khiến họ ngạc nhiên : Gabriella, Palmer Gabriel.
– Tôi cá đây là tàu của Trung tâm Khoa học biển. – Jack nói. – Và Helen Koenig có mặt ở trên tàu.
Gordon nhìn màn hình.
– Giờ chuyện này đang trở nên thú vị. Anh nghĩ gì về việc Ahearn là một nhà địa chất học?
– Vậy thì sao? – Gretchen ngáp dài.
– Một nhà địa chất học sẽ làm gì trên một con tàu nghiên cứu về biển?
– Để kiểm tra đá ở đáy đại dương chăng?
– Hãy tìm kiếm tên anh ta.
Gretchen lại thở dài.
– Các vị nợ tôi một đêm ngủ ngon giấc đấy. – cô gõ tênStephen D. Ahearn và nhấp chữ tìm kiếm.
Một danh sách hiện lên, tổng cộng có bảy bài báo. Sáu trong số đó viết về cái chết của anh ở khe vực Galapagos dưới đáy biển.
Có một bài báo được viết cách đó một năm trước khi anh chết:
“Thông báo của bộ quốc phòng dân sự Mỹ : Giáo sư Ahearn sẽ trình bày các phát hiện mới nhất về nghiên cứu thiên thạch. Anh sẽ là nhân vật chủ chốt trong Hội nghị Địa chất học thế giới tại Madrid”(Công đoàn San Diego)
Cả hai người nhìn màn hình và khi đó họ quá kinh ngạc nên không nói được lời nào.
Rồi Gordon từ tốn nói.
– Chính nó đấy, Jack. Đó chính là điều họ cố giấu chúng ta.
Jack thấy tay mình tê cứng, họng khô rát. Anh chỉ tập trung nhìn một từ, từ đó đã nói lên tất cả.
Thiên thạch.
Nhà của giám đốc Trung tâm vũ trụ Johnson Ken Blankenship nằm trong một dãy các ngôi nhà không tên ở ngoại ô Clear Lake, có rất nhiều nhân viên làm việc tại Trung tâm vũ trụ Johnson cũng sống ở đó. Thật là một ngôi nhà quá lớn với một người độc thân.
Dưới ánh sáng của những bóng đèn, Jack thấy sân trước hoàn toàn trống trải, hàng rào được tỉa rất gọn. Khoảng sân được chiếu quá sáng vào lúc ba giờ sáng, đó chính là điều người ta nghĩ Ken Blankenship sẽ làm. Ông nổi tiếng về tính cầu toàn, cũng như nổi ám ảnh thái quá về an ninh. Có lẽ có cả một máy quay đang theo dõi chúng ta lúc này, Jack nghĩ khi anh và Obie chờ Blankenship ra mở cửa. Họ phải bấm chuông mấy lần mới thấy bật đèn bên trong. Rồi Blankenship xuất hiện, thân hình thấp béo như Napoleon và đang mặc áo choàng tắm.
– Mới ba giờ sáng. – Blankenship ngạc nhiên. – Các anh đang làm gì ở đây?
– Chúng ta cần nói chuyện. – Gordon vào đề ngay.
– Có vấn đề gì với điện thoại của tôi à? Các anh không thể gọi trước sao?
– Chúng tôi không thể dùng điện thoại, nhất là với việc này.
Họ bước vào nhà. Chỉ khi cánh cửa đã đóng lại, Jack mới nói.
– Chúng tôi biết Nhà Trắng đang cố giấu điều gì. Chúng tôi đã biết Chimera đến từ đâu.
Blankenship nhìn anh. Sự bực bội khi bị đánh thức lúc nửa đêm tiêu tan ngay. Rồi ông nhìn Gordon để xác nhận thông tin đó của Jack.
– Điều đó đã giải thích mọi việc. – Gordon nói. – Đây là bí mật của Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm, tính đa nghi của Nhà Trắng. Và sự thật là sinh vật này biến đổi theo cách mà các bác sĩ của chúng ta chưa từng thấy bao giờ.
– Các anh đã phát hiện điều gì?
Jack nói ngay.
– Chúng tôi biết Chimera là kết hợp giữa con người, chuột và động vật bò sát. Nhưng Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm không cho chúng ta biết các ADN khác trong nhiễm sắc thể của Chimera. Họ sẽ không cho chúng ta biết Chimera thực sự là gì và nó đến từ đâu.
– Đêm qua các anh nói với tôi là nó được gửi từ chuyến hàng của Trung tâm Khoa học biển, từ một mẻ tế bào Archaeon.
– Đó là điều chúng tôi nghĩ. Nhưng Archaeon là các tế bào vô hại. Chúng không có khả năng lây bệnh cho người. – đó là lý do tại sao thí nghiệm đó lại được NASA phê chuẩn. Có điều gì đó về sinh vật Archaeon này rất khác biệt, một điều mà Trung tâm Khoa học biển không cho chúng ta biết.
– Ý anh muốn nói gì? Thứ gì khác à?
– Về nơi nó đã đến. Từ khe nứt Galapagos.
Blankenship lắc đầu.
– Tôi thấy nó chẳng có ý nghĩa gì ở đây.
– Mẻ tế bào này được các nhà khoa học trên tàuGabriella phát hiện, đó là một con tàu của Trung tâm Khoa học biển. Một trong các nhà nghiên cứu đó là tiến sĩ Stephen Ahearn. Ông ấy đã rời tàu Gabriella, rõ ràng với tư cách là nhà cố vấn hàng đầu. Trong một tuần, ông ấy đã chết. Con tàu ngầm siêu nhỏ của ông ấy mắc kẹt giữa khe nứt và ông ấy đã chết ngạt.
Blankenship không nói gì, chỉ đứng nhìn Jack.
– Tiến sĩ Ahearn nổi tiếng về nghiên cứu thiên thạch. – Jack nói. – Các mảnh vụn như thủy tinh đó được tạo ra bất cứ khi nào sao băng va chạm với trái đất. Đó là lĩnh vực chuyên sâu của tiến sĩ Ahearn, địa chất học về sao băng và thiên thạch.
Blankenship vẫn không nói gì. Tại sao ông ấy không phản ứng gì? Jack băn khoăn. Ông ấy không hiểu điều này có ý nghĩa gì sao?
– Trung tâm Khoa học biển đã cử Ahearn đến khe nứt Galapagos bởi vì họ cần ý kiến của một nhà địa chất học. – Jack nói. – Họ cần xác nhận một thứ họ tìm thấy dưới đáy đại dương, đó là một mảnh sao băng.
Mặt của Blankenship cứng đơ. Ông quay đi và vào bếp.
– Đó là lý do tại sao Nhà Trắng quá lo lắng về Chimera! – Jack tiếp tục. – Họ biết nó từ đâu đến. Họ biết nó là gì.
Blankenship nhấc điện thoại và quay số. Một lúc sau, ông nói.
– Đây là giám đốc Trung tâm vũ trụ Johnson, Blankenship. Tôi cần nói chuyện với ông Jared Profitt. Vâng, tôi biết bây giờ là mấy giờ. Đây là trường hợp khẩn cấp nên nếu cô có thể kết nối tới nhà ông ấy…. – ông im lặng một lát. Rồi ông nói trên điện thoại. – Họ đã biết. Tôi không nói với họ. Họ tự tìm ra. – ông dừng lại. – Jack McCallum và Gordon Obie. Vâng, thưa ngài, họ đang đứng ngay đây, tại bếp của tôi. – ông đưa điện thoại cho Jack. – Ông ấy muốn nói chuyện với anh.
Jack cầm điện thoại.
– Tôi, Jack McCallum đây.
– Có bao nhiêu người biết? – đó là câu đầu tiên Jared Profitt hỏi anh.
Câu hỏi đó khiến Jack hiểu vấn đề này nhạy cảm mức nào. Anh nói.
– Chỉ các bác sĩ của chúng tôi biết. Và vài người ở Trung tâm Khoa học biển. – Anh chỉ nói vậy, anh biết đáng lẽ mình nên kể ra vài cái tên.
– Các anh có thể im lặng không? – Profitt hỏi.
– Còn tùy!
– Vào cái gì?
– Vào việc ông có hợp tác với chúng tôi không, và chia sẻ thông tin với chúng tôi.
– Anh muốn gì, bác sĩ McCallum?
– Toàn bộ sự thật, mọi thứ các vị biết về Chimera, kết quả khám nghiệm tử thi, dữ liệu từ các thí nghiệm y khoa của các vị.
– Nếu chúng tôi không chia sẻ các thông tin đó thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra?
– Đồng nghiệp của tôi ở NASA sẽ gửi fax đến mọi hãng thông tấn ở Mỹ.
– Và nói với họ chính xác là cái gì?
– Sự thật, rằng sinh vật này không bắt nguồn từ trái đất.
Ông ta im lặng rất lâu. Jack nghe thấy cả tiếng tim ông ta đập mạnh qua điện thoại. Chúng ta đoán đúng phải không? Chúng ta đã phát hiện ra sự thật đúng không?
Profitt nói.
– Tôi sẽ yêu cầu bác sĩ Roman nói với anh mọi chuyện. Anh ấy sẽ gặp anh tại khu Cát Trắng. – rồi ông ta dập máy.
Jack gác máy, nhìn Blankenship.
– Ông biết mọi chuyện này bao lâu rồi?
Sự im lặng của ông ta chỉ khiến Jack thêm tức giận. Anh tiến về phía trước vẻ đe doạ và Blankenship lùi lại về phía bức tường trong bếp.
– Ông biết chuyện này được bao lâu rồi?
– Chỉ… chỉ mấy ngày thôi. Tôi đã thề là sẽ giữ bí mật.
– Còn người của chúng ta đang chết trên đó thì sao?
– Tôi không còn lựa chọn! Điều này sẽ khiến mọi người hoảng sợ. – Blankenship hít sâu một hơi và nhìn thẳng vào mắt Jack. – Anh sẽ hiểu tôi định nói về việc gì nếu anh đến khu Cát Trắng.
Ngày 20 tháng 8
Emma cắn chặt răng, cố buộc ga-rô thật chặt. Các mạnh máu ở tay trái nổi lên như những con giun dưới làn da xanh xao. Cô lấy cồn lau phần cánh tay dưới khủyu và nhăn mặt khi kim tiêm đâm vào. Như con nghiện khao khát cai bệnh, cô tiêm hết những gì còn lại trong xi-lanh, nới lỏng ga-rô. Khi đã xong, cô nhắm mắt để mình trôi tự do. Cô tưởng tượng ra các phân tử chất kích dục màng đệm ở người như những ngôi sao hy vọng nhỏ bé đang di chuyển trong mạch máu mình, cuộn lên đầu và hai lá phổi. Nó di chuyển dần lên các động mạch và mao mạch. Cô thấy dường như mình đã cảm thấy tác động tức thời của nó, cơn đau đầu dần biến mất. Cơn sốt bốc hoả của cô cũng tan biến thành một thứ gì đó hư vô. Chỉ còn ba liều, cô nghĩ. Còn ba ngày nữa.
Cô tưởng tượng hồn mình lìa khỏi xác. Cô thấy mình như thể đang ở đằng xa, cuộn tròn lại như một bào thai trong quan tài. Một bong bóng bọc màng bay ra từ miệng cô rồi vỡ tung, thành các sợi chỉ ngoằn ngoèo như những con giòi.
Cô mở mắt ngay và thấy mình đang ngủ, đang mơ. Áo cô ướt đẫm mồ hôi. Đó là tính hiệu tốt. Điều đó có nghĩa là cơn sốt của cô đang hạ.
Cô xoa hai bên thái dương, cố quên đi hình ảnh trong giấc mơ nhưng không được. Sự thật và giấc mơ cứ quện vào nhau.
Cô cởi áo ngoài, lấy một chiếc áo sạch trong ngăn tủ của Diana. Dù gặp ác mộng, giấc ngủ ngắn đó đã giúp cô sảng khoái một chút. Giờ cô lại tỉnh táo và sẵn sàng tìm kiếm các giải pháp mới. Cô bay đến phòng thí nghiệm Mỹ và mở tập tin về Chimera trên máy tính. Đây là một sinh vật ngoài trái đất, Todd Cutler đã thông báo với cô như vậy. Mọi thứ NASA biết về sinh vật này đã được truyền tới các máy tính trên tàu cho cô. Cô xem lại các tệp thông tin đó, hy vọng tìm ra được điều gì đó mới, một phương pháp mà chưa ai nghĩ ra. Mọi thứ cô đọc đều quen thuộc và không lối thoát.
Cô mở tệp thông tin về nhiễm sắc thể. Một chuỗi nucleotit chạy dọc màn hình. Nó trải ra thành một chuỗi bất tận các chữ cái A, C, T và G. Đây là mã quy định của Chimera. – dù sao cũng chỉ là một phần của nó. Đó là những phần mà Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm đã chọn lọc để chia sẻ với NASA. Cô nhìn chằm chằm vào nó như bị thôi miên khi các mã gen chạy dọc màn hình. Đây là phần cơ bản nhất của dạng sống ngoài trái đất đang phát triển bên trong cô. Đây là chìa khóa của kẻ thù. Giá như cô biết cách sử dụng nó.
Chìa khóa.
Cô bỗng nhớ lại những điều Jack đã nói với cô trước đây về các hooc-môn. Để hooc-môn hoạt động, nó phải bám chặt vào cơ thể gốc, vào một tế bào cụ thể nào đó. Nó như chiếc chìa khóa đang tìm kiếm để khớp vào ổ khóa.
Tại sao hooc-môn như chất kích dục màng tế bào dành cho động vật có vú lại có thể hạn chế sự sinh sản của dạng sống ngoài trái đất này? Cô tự hỏi. Tại sao một sinh vật ngoài trái đất, một thứ quá xa lạ với sự sống trên trái đất lại có các ổ khóa khớp với chìa khóa của chúng ta?
Trên máy tính các chuỗi nucleotit đã cuộn đến phần cuối. Cô nhìn con trỏ nhấp nháy và nghĩ về các sinh vật được sinh ra trên trái đất và bị Chimera lấy mất ADN. Bằng cách lấy các gen mới đó, dạng sống ngoài trái đất đã phần nào giống con người, một phần giống chuột, và một phần là bò sát.
Cô liên lạc với Houston.
– Tôi cần nói chuyện với ai đó ở Trung tâm Khoa học biển. – cô nói.
– Cụ thể là ai? – chỉ huy liên lạc nói.
– Một chuyên gia về bò sát.
– Chờ nhé, Watson!
Mười phút sau, tiến sĩ Wang ở Trung tâm Khoa học biển đã được nối với điện đàm.
– Cô thắc mắc về loài bò sát à? – ông hỏi.
– Đúng, về Rana pipiens, loài ếch đốm phía bắc.
– Cô cần biết thông tin gì?
– Chuyện gì xảy ra nếu ông cho ếch đốm tiếp xúc với các hooc-môn của con người?
– Cụ thể là hooc-môn nào?
– Ví dụ như Estrogen. Hay hooc-môn kích dục màng đệm ở người.
Bác sĩ Wang trả lời ngay.
– Các loài bò sát nhìn chung đều bị ảnh hưởng tiêu cực trong môi trường có hooc-môn nam tính. Thực ra việc đó đã được vài người nghiên cứu. Một số nhà khoa học nghĩ số lượng ếch nhái suy giảm trên thế giới là do chất hooc-môn nam tính làm ô nhiễm các nguồn nước và ao hồ.
– Các hooc-môn nam tính nào?
– Ví dụ như một vài loại thuốc trừ sâu có thể gần giống hooc-môn nam tính. Chúng phá hủy hệ thống nội tiết của các loài ếch, khiến chúng không thể sinh sản hay phát triển.
– Vậy là thuốc đó không thực sự giết chúng?
– Đúng, nó chỉ ngăn cản quá trình sinh sản thôi.
– Vậy loài ếch đặc biệt nhạy cảm với chất này?
– Đúng vậy, nhạy cảm hơn nhiều so với động vật có vú. Hơn nữa, da ếch có khả năng thẩm thấu. Vì vậy nhìn chung chúng nhạy cảm với chất độc hơn. Đó là một kiểu mà chúng ta gọi là “gót chân Achilles”.
Gót chân Achilles. Cô im lặng một lúc để nghĩ về điều đó.
– Bác sĩ Watson. – tiến sĩ Wang nói. – Cô có hỏi gì nữa không?
– Có. Loại bệnh hay chất độc nào có thể giết chết ếch nhưng không làm hại gì động vật có vú?
– Đó là một câu hỏi rất hay. Nói về thuốc độc thì nó tùy thuộc vào liều dùng. Nếu cô cho ếch ăn một ít thạch tín, nó sẽ chết. Nhưng thạch tín cũng giết chết con người nếu liều dùng quá cao. Và tương tự, các bệnh do vi khuẩn gây ra thì chỉ có một số vi khuẩn và vi rút giết chết ếch. Tôi không phải là bác sĩ chuyên khoa nên tôi không chắc nó có giết chết con người hay không, nhưng…
. – Các loại vi rút à? Đó là những loại nào?
– Ồ, ví dụ như vi rút Rana.
– Tôi chưa từng nghe cái tên đó.
– Chỉ có những chuyên gia về bò sát mới biết chúng. Chúng là các vi rút ADN, thuộc họ vi rút Irdo. Chúng tôi nghĩ chúng là nguyên nhân gây ra hội chứng phù ở những con nòng nọc. Những con nòng nọc sẽ bị phù lên và xuất huyết.
– Chúng có chết không?
– Phần lớn là chết.
– Loại vi rút đó có giết người không?
– Tôi không biết. Tôi nghĩ người ta cũng chưa biết điều này. Các loại vi rút Nara đã giết một lượng lớn các loài ếch trên khắp thế giới.
Gót chân Achilles, cô nghĩ. Mình đã tìm ra nó.
Bằng cách lấy thêm ADN của loài ếch vào nhiễm sắc thể, Chimera đã một phần là loài bò sát. Nó cũng bị một số loại vi rút ảnh hưởng như bò sát.
Cô nói.
– Có cách nào lấy được mẫu của một trong các vi rútNara không? Để thử nghiệm nó trên Chimera?
Ông im lặng rất lâu.
– Tôi hiểu rồi. – tiến sĩ Wang nói. – Chưa ai thử điều đó. Chưa ai nghĩ đến việc…
– Ông có thể lấy các loại vi rút đó không?
– Có, tôi biết hai phòng thí nghiệm nghiên cứu về bò sát ở California. Họ đang nghiên cứu về vi rút Nara.
– Vậy thì hãy làm ngay. Và hãy báo cho anh Jack McCallum. Anh ấy cần biết chuyện này.
. – Anh ấy và Gordon Obie đã đến khu Cát Trắng. Tôi sẽ tìm họ ở đó.
Cỏ lăn cuộn ngang trên mặt đường và chạy dọc theo những cồn cát. Họ lái xe qua gác canh, hàng rào điện và khu quân sự lạnh lẽo. Jack và Gordon ra khỏi xe, nheo mắt nhìn lên mặt trời. Mặt trời như một quả cam đỏ rực bị cát bụi che mờ. Đó là màu hoàng hôn, không phải vào giữa trưa. Họ đã cố chợp mắt vài giờ trước khi cất cánh ở Ellington. Jack thấy đau mắt khi nhìn thấy ánh sáng ban ngày.
– Lối này, thưa các vị. – người lái xe nói.
Họ theo người lình vào tòa nhà.
Việc đón tiếp lần này khác với lần trước Jack đến đây. Lần này người họ tống họ tỏ vẻ tôn trọng và lịch sự hơn. Bác sĩ Isaac Roman đã đứng chờ ở bàn tiếp đón mặc dù trông anh ta không được vui mừng vì chuyến đến thăm của họ.
– Chỉ anh được phép đi cùng tôi, bác sĩ McCallum. – Anh ta nói. – Ngài Obie chờ ở đây. Đây là thỏa thuận.
– Tôi chưa bao giờ thỏa thuận như vậy. – Jack nói.
– Còn ngài Profitt thì có, thay mặt cho anh đấy. Anh là người duy nhất có lý do vào tòa nhà này. Tôi không có nhiều thời gian nên anh quyết định nhanh cho. – Anh ta quay đi, bước về phía thang máy.
– Giờ đó sẽ là bạn đồng hành chết tiệt của anh. – Gordon nói. – Đi đi, tôi sẽ chờ.
Jack theo Roman vào thang máy.
– Điểm dừng đầu tiên là tầng hầm số hai. – Roman giải thích. – Ở đó có các thí nghiệm trên động vật của chúng tôi. – cửa thang máy mở, trước mặt họ là một bức tường bằng kính. Đó là cửa sổ quan sát.
Jack lại gần cửa sổ và nhìn vào phòng thí nghiệm bên trong. Trong lồng nhốt những con khỉ nhện và chó. Ngay bên phải ô cửa là những chiếc lồng bằng kính nhốt chuột. Roman chỉ vào những con chuột.
– Anh sẽ thấy mỗi lồng đều dán ngày giờ chúng bị nhiễm bệnh. Tôi không nghĩ ra cách nào tốt hơn để thể hiện bản chất chết người của Chimera.
Ở lồng ghi ngày thứ nhất, sáu con chuột có vẻ khỏe mạnh. Chúng đang đạp các bánh xe rất khỏe.
Ở lồng ghi ngày thứ hai, những dấu hiệu đầu tiên của bệnh đã xuất hiện. Hai trong sáu con đang co giật, mắt chúng như những giọt máu màu đỏ tươi. Còn bốn con khác túm tụm lại với nhau trong trạng thái ngủ lim dim.
– Hai ngày đầu là giai đoạn sinh sản của Chimera. – bác sĩ Roman nói. – Anh biết đấy, quá trình này trái ngược hẳn với những gì chúng ta thấy trên trái đất. Thường thì một dạng sống phải đạt đến thời kỳ trưởng thành rồi mới sinh sản. Chimera sinh sản trước, sau đó mới lớn lên. Nó phân chia rất nhanh và tạo ra tới hàng trăm phiên bản của chính nó trong vòng bốn mươi tám tiếng. Chúng bắt đầu từ kích thước siêu nhỏ. – mà chúng ta không thể thấy bằng mắt thường. Chúng đủ nhỏ để chúng ta hít vào trong không khí hay chui vào qua màng nhầy của chúng ta. Thậm chí chúng ta không hề biết mình đã bị nhiễm bệnh.
– Vậy là chúng sẽ lây lan trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống?
– Chúng lây lan trong bất cứ giai đoạn nào. Chúng chỉ cần được tự do trong không khí. Thường thì việc này xảy ra khi nạn nhân chết hoặc khi xác chết bị nổ tung vài ngày sau khi chết. Một khi Chimera đã gây bệnh cho chúng ta, một khi nó đã nhân lên trong cơ thể thì mỗi bản sao lại bắt đầu phát triển, và bắt đầu tiến hoá thành…. – Anh ta dừng lại. – Chúng tôi không biết phải gọi nó là gì. Tôi nghĩ là các túi trứng. Vì chúng chứa các dạng sống bên trong.
Jack chuyển sang lồng ghi ngày thứ ba. Tất cả những con chuột đang co giật, chân chúng duỗi ra như thể chúng đang bị sốc điện liên tục.
– Đến ngày thứ ba. – Bác sĩ Roman nói. – Ấu trùng phát triển rất nhanh, thay thế các chất trong não nạn nhân bằng các chất nhầy. Chúng phá hủy các chức năng thần kinh của động vật chủ. Và đến ngày thứ tư…
Họ nhìn lồng ghi ngày thứ tư. Tất cả lũ chuột, trừ một con đều đã chết. Các xác chết chưa được bỏ ra, chúng nằm cứng đơ, miệng há to. Vẫn còn lồng để xem, quá trình phân hủy vẫn tiếp tục.
Đến ngày thứ năm, các xác chết bắt đầu phình to.
Ngày thứ sáu, những cái bụng đã to hơn và da của chúng căng như mặt trống. Chất nhầy rỉ ra từ những cặp mắt mở to và lấp lánh trên hai lỗ mũi.
Đến ngày thứ bảy…
Jack dừng lại bên cạnh ô cửa và nhìn lồng ghi ngày thứ bảy. Các xác chết bị nổ tung rải rác dưới đáy lồng như những quả bóng bay bị nổ.
Da của chúng bị xé rách, để lộ ra những đống nội tạng đã phân hủy màu đen. Ngay cạnh mặt của một con chuột chết là một khối chất sền sệt mờ đục. Chúng đang cựa quậy.
– Các túi trứng. – Roman nói. – Đến giai đoạn này, các khung rỗng trong cơ thể động vật chủ chứa đầy túi trứng. Chúng phát triển với tốc độ chóng mặt và ăn hết mô của sinh vật chủ. Chúng ăn hết các bó cơ và nội tạng. – Anh ta nhìn Jack. – Anh biết vòng đời của các côn trùng ký sinh không?
Jack lắc đầu.
– Những con côn trùng trưởng thành tiêm trứng vào một con sâu còn sống. Các ấu trùng phát triển, ăn hết dung dịch trong cơ thể con chủ. Trong suốt thời gian đó, con sâu vẫnsống. Nó nuôi một dạng sống ăn thịt nó từ bên trong cho đến khi ấu trùng khiến con sâu nổ tung từ bên trong. – Roman nhìn những con chuột chết. – Các ấu trùng này cũng nhân lên, sinh sôi trong cơ thể nạn nhân còn sống. Cuối cùng đó cũng chính là thứ sẽ giết chết con chủ.
Toàn bộ ấu trùng này được bọc trong hộp sọ, gặm nhấm trên bề mặt của các chất màu xám. Chúng phá hủy con sâu, khiến nó bị chảy máu trong sọ. Áp suất trong đó sẽ tăng. Các mạch máu trong mắt bị ép mạnh, rồi nổ tung. Con vật chủ chịu những cơn đau đầu khủng khiếp và rối loạn. Nó sẽ vật lộn lên xuống như người say. Trong vòng ba đến bốn ngày, nó sẽ chết. Và dạng sống đó vẫn tiếp tục ăn xác chết, lấy đi ADN của nó, sử dụng ADN đó để đẩy nhanh quá trình tiến hóa của nó.
– Thành cái gì?
Roman nhìn Jack.
– Chúng ta vẫn chưa biết điểm kết thúc. Trong mỗi thế hệ, Chimera lấy ADN từ sinh vật chủ. Chimera mà chúng tôi đang thí nghiệm không giống với con ban đầu. ADN của nó đã phức tạp hơn nhiều. Dạng sống này đã tiến hoá hơn.
Và ngày càng giống người, Jack nghĩ.
– Đây là lý do tại sao việc này là bí mật tuyệt đối. – Roman nói. – Bất cứ tên khủng bố hay nước thù địch nào cũng có thể đào khe Galapagos để lấy chúng. Sinh vật này nếu rơi vào tay những kẻ độc ác…. – giọng nói của anh ta bé dần.
– Vậy là sinh vật này không phải do con người tạo ra?
Roman lắc đầu.
– Nó đã vô tình được tìm thấy ở khe nứt và được tàuGabriella mang lên mặt đất. Đầu tiên, tiến sĩ Koenig nghĩ cô ấy đã tìm ra một loại Archaeon mới. Nhưng thứ cô ấy tìm thấy chính là thứ này. – Anh ta nhìn khối trứng đang chuyển động. – Cách đây một nghìn năm, chúng đã bị nhốt trong phần còn lại của thiên thạch ở độ sâu hai nghìn bảy trăm bốn mươi ba mét. Điều đó đã kiểm soát nó trong suốt một thời gian. Đó chính là lý do nó nằm ở dưới đáy biển, chứ không phải trên mặt đất.
– Giờ tôi đã hiểu tại sao các anh lại thử nghiệm nó trong phòng điều áp.
– Trong suốt thời gian trước đó, Chimera đã phản ứng vô hại khi ở dưới khe nứt. Chúng tôi nghĩ nếu có thể tái tạo áp suất đó, chúng tôi sẽ có thể khiến nó ôn hòa như trước.
– Và các anh làm được không?
Roman lắc đầu.
– Chỉ tạm thời thôi. Dạng sống này đã thay đổi quá nhanh trong môi trường trọng lực siêu nhỏ. Bằng cách nào đó, nó đã được đem lên Trạm vũ trụ quốc tế. Công tắc sinh sản của nó đã được bật lên, như thể nó đã được lập trình để giết người. Nhưng cần mất đi trọng lực để quá trình đó hoạt động trở lại.
– Liệu pháp dùng bội áp suất này có tác dụng tạm thời trong bao lâu?
– Những con chuột bị bệnh vẫn khỏe mạnh nếu được nhốt trong lồng. Cho đến giờ chúng tôi đã khiến chúng sống được mười ngày. Nhưng ngay khi chúng tôi cho chúng ra ngoài thì bệnh lại tiếp tục.
– Còn vi rút Rana thì sao? – một giờ trước, tiến sĩ Wang ở Trung tâm Khoa học đời sống của NASA đã nói chuyện ngắn gọn qua điện thoại với Jack. Ngay khi đó, một nguồn vi rút tiêu diệt loài bò sát đã được chuyển đến bằng máy bay của Lực lượng không quân tới phòng thí nghiệm của bác sĩ Roman.
– Các nhà khoa học của chúng tôi tin là nó có tác dụng.
– Về mặt lý thuyết là vậy. Nhưng còn quá sớm để phóng tàu con thoi lên cứu họ. Trước hết, chúng ta phảichứng minh vi rút Nara có tác dụng, nếu không anh sẽ gây nguy hiểm cho tính mạng của các phi hành gia trên tàu con thoi. Chúng ta cần thời gian thử nghiệm vi rút đó. Ít ra cũng mất mấy tuần.
Emma không còn vài tuần, Jack nghĩ. Cô ấy chỉ còn ba ngày đủ dùng thuốc kích dục màng nhầy ở người. Anh im lặng nhìn lồng chứa xác những con chuột, nhìn những quả trứng trong chiếc tổ nhầy của chúng. Giá như mình có thể mua thêm thời gian.
Thời gian, Jack bỗng nhận ra một điều. Anh nhớ lại điều gì đó Roman đã nói với mình.
– Anh đã nói là phòng bội áp suất đã giúp những con chuột sống sót mười ngày.
– Đúng vậy!
– Nhưng tàu Discovery mới đâm xuống cách đây mười ngày.
Roman tránh ánh mắt anh.
– Anh đã chuẩn bị phòng bội áp suất ngay từ đầu. Điều đó nghĩa là anh đã biết mình đang đối mặt với cái gì. Thậm chí trước khi anh thực hiện mổ tử thi.
Roman quay đi, trở về thang máy. Anh ta há hốc mồm kinh hãi khi Jack túm lấy cổ áo anh ta và xoay anh ta sang bên.
– Đây có phải là chuyến hàng vị mục đích thương mại không? – Jack hỏi. – Phải không?
Roman hất tay anh ra và lộn về phía sau, ngã về phía tường.
– Bộ quốc phòng sử dụng Trung tâm Khoa học biển là mặt nạ. – Jack nói. – Anh đã trả tiền để họ gửi thí nghiệm đó lên cho mình, để che giấu sự thật là dạng sống đó dùng để phục vụ mục đích quân sự.
Roman lao về phía thang máy, định chạy trốn.
Jack chụp được áo của anh ta, túm chặt lấy cổ áo.
– Đây không phải là vụ khủng bố sinh học. Đây chính làsai lầm khốn nạn của chính anh!
Mặt Roman tím tái.
– Tôi không… không thở được!
Jack thả anh ta ra. Roman trượt dài trên bức tường, chân khuỵu xuống. Anh ta không nói gì một lúc lâu, chỉ ngồi lì trên sàn, cố lấy lại hơi thở. Cuối cùng, khi anh ta nói, anh ta chỉ còn thều thào.
– Chúng tôi không có cách nào khác để xem nó sẽ phản ứng ra sao. Nó sẽ thay đổi thế nào nếu không có trọng lực…
– Nhưng anh biết nó từ hành tinh khác đến.
– Đúng vậy.
– Và anh biết đó là một con quái vật, và nó đã có ADN của loài bò sát.
– Không, không. Chúng tôi không hề biết điều đó.
– Đừng có lừa tôi!
– Chúng tôi thực sự không biết làm cách nào lại có ADN của con ếch trong nhiễm sắc thể của nó! Chắc chắn việc này đã xảy ra trong phòng thí nghiệm của Koenig. Có thể cô ta đã nhầm lẫn. Cô ta chính là người đã tìm thấy sinh vật này ở khe nứt và là người duy nhất nhận ra nó là gì. Trung tâm Khoa học biển biết chúng tôi quan tâm tới nó, một sinh vật ngoài trái đất. Và tất nhiên chúng tôi quan tâm tới nó. Bộ quốc phòng đã trả tiền cho thí nghiệm bằng máy bay KC-135 của họ. Còn chúng tôi tài trợ để thí nghiệm đó được đưa lên Trạm vũ trụ quốc tế. Nó không thể được đưa lên đó với tư cách là một chuyến hàng của quân đội. Có quá nhiều câu hỏi được đặt ra, quá nhiều phòng ban chất vấn. NASA sẽ nghi ngờ tại sao quân đội lại quan tâm đến một sinh vật vô hại dưới đáy biển. Nhưng sẽ không ai thắc mắc nếu đó là nghiên cứu của một cá nhân. Vì vậy, nó đã được đưa lên như một chuyến hàng vì mục đích thương mai, và Trung tâm Khoa học biển là người tài trợ. Bác sĩ Koenig là nhà nghiên cứu chính.
– Bác sĩ Koenig giờ ở đâu?
Roman từ từ đứng lên.
– Cô ấy chết rồi.
Thông tin đó khiến Jack ngạc nhiên.
– Tại sao? – Anh khẽ hỏi.
– Đó là một tai nạn.
– Anh nghĩ tôi tin điều đó sao?
– Đó là sự thật!
Jack nhìn kỹ anh ta một lúc và tin Roman không nói dối.
– Sự việc này xảy ra hai tuần trước ở Mexico. – Roman nói. – Ngay sau khi cô ấy từ chức ở Trung tâm Khoa học biển. Chiếc taxi chở cô ấy đã bị phá hủy hoàn toàn. Và Viện nghiên cứu y tế Quân đội Mỹ về các bệnh lây nhiễm lấy đi mọi thứ trong phòng thí nghiệm của cô ấy.
– Anh có ở đó kiểm tra không? Anh đã ở đó và chứng kiến toàn bộ hồ sơ của cô ấy đã bị tiêu hủy không?
– Chúng ta đang nói về một dạng sống ngoài hành tinh. Đó là sinh vật nguy hiểm hơn nhiều so với chúng ta tưởng tượng. Đúng, thí nghiệm đó là một sai lầm, một thảm hoạ. Nhưng bây giờ hãy tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra nếu thông tin đó bị giới khủng bố biết được?
Đây là lý do tại sao NASA không được biết gì, tại sao sự thật lại không được phơi bày.
– Và anh vẫn chưa thấy điều tệ hại nhất của nó sao, bác sĩ McCallum?
– Anh muốn nói gì?
– Tôi muốn cho anh thấy một điều nữa.
Họ đi thang máy xuống tầng hầm tiếp theo, tầng hầm số ba. Sâu hơn xuống âm phủ, Jack nghĩ. Họ lại bước ra và nhìn thấy một tấm kính. Phía sau là một phòng thí nghiệm khác có nhiều công nhân mặc đồ không gian.
Roman ấn nút điện đàm và nói.
– Ai đó đem mẫu vật đến đây được không?
Một trong các nhân viên phòng thí nghiệm gật đầu. Cô ta đi về phía cánh cửa, xoay ổ khóa khổng lồ và biến mất ở trong. Khi trở ra, cô ta đẩy một cái bàn trên đó là một chiếc khay và một hộp chứa bên trên. Cô ta đẩy nó về phía cửa quan sát.
Roman gật đầu.
Cô ta mở hộp thép, nhấc ra một chiếc xi-lanh Plexiglas, đặt nó lên khay. Chất bên trong đang chuyển động nhẹ nhàng lên xuống trong dung dịch sát trùng sạch.
– Chúng tôi đã tìm thấy thứ này ăn sâu vào xương cốt của Kenichi Hirai. – Roman nói. – Xương sống của anh ấy đã bảo vệ nó khỏi chấn động khi tàu Discovery lao xuống. Khi chúng tôi lấy nó ra, nó vẫn sống nhưng rất yếu.
Jack lắp bắp nhưng anh không nói lên lời. Anh chỉ nghe thấy tiếng quạt thông gió và tiếng mạch anh đập dồn dập khi anh sợ hãi nhìn chất bên trong xi-lanh.
– Ấu trùng sẽ phát triển thành vật này. – Roman nói. – Đây chính là bước tiếp theo.
Giờ anh đã hiểu tại sao đây là bí mật. Thứ anh nhìn thấy được bảo vệ trong dung dịch sát trùng. Nó đang cuộn lên trong xi-lanh và nó đã giải thích tất cả. Mặc dù đã bị phân rã do quá trình bị chích ra nhưng tính năng cơ bản của nó vẫn rõ ràng. Nó có lớp da bóng của loài bò sát, ấu trùng có đuôi và bào thai của nó có xương sống uốn cong. Nó không chỉ là bò sát, mà là thứ gì đó đáng sợ hơn vì gen gốc của nó không rõ ràng nữa. Động vật có vú, anh nghĩ, thậm chí còn có thể là con người. Nó đã bắt đầu trông giống động vật chủ.
Nếu có thể gây bệnh ở một loài khác thì nó vẫn có thể biến đổi hình dáng. Nó có thể lấy ADN của bất cứ sinh vật nào trên trái đất, nó có thể lấy bất cứ hình dạng nào. Cuối cùng nó sẽ tiến hóa đến một điểm mà nó không cần động vật chủ để phát triển và sinh sản nữa. Nó sẽ độc lập và tự túc. Có lẽ nó còn có trí khôn nữa.
Và lúc này Emma là một cơ thể sống cho những thứ này. Có thể cô ấy là một cái kén đầy chất dinh dưỡng cho chúng phát triển.
Jack run rẩy khi anh đứng trên đường nhựa và nhìn khu đất trống để đỗ máy bay. Chiếc xe jeep chở anh và Gordon trở về khu căn cứ Cát Trắng của Lực lượng không quân giờ đây chỉ còn là một chấm nhỏ, để lại vệt bụi dài ở đường chân trời. Ánh nắng gay gắt khiến anh chảy nước mắt. Và trong một thoáng dường như khu hoang mạc bốc hơi, biến mất trong mắt anh, như thể nó đang chìm dưới nước.
Anh quay sang nhìn Gordon Obie.
– Không còn cách nào khác. Chúng ta phải làm việc đó.
– Luôn là vậy mà. Điều đó đúng với mỗi lần phóng tàu cũng như mỗi nhiệm vụ. Tại sao lần này lại khác?
– Sẽ không có kế hoạch đề phòng bất trắc hay hỗ trợ an toàn. Tôi biết chúng ta đang đối mặt với việc gì, và đó là phương án liều lĩnh.
– Nhưng nó có thể giải quyết việc này. Khẩu hiệu của họ là gì? Nhỏ hơn, nhanh hơn, rẻ hơn.
– Thôi được. – Gordon nói. – Giả sử anh không bị nổ tung trên bộ phóng, giả sử lực lượng không quân không bắn anh tơi bời trên không. Khi anh đã lên đó, anh vẫn đối mặt với trò cá cược nguy hiểm nhất là vi rút có tác dụng không?
– Gordon, ngay từ đầu tôi đã xác định một điều: Tại sao lại có ADN của loài lưỡng cư trong nhiễm sắc thể. Làm thế nào mà Chimera đã được cấy gen của loài ếch. Roman nghĩ đó là việc ngẫu nhiên, một tai nạn trong phòng thí nghiệm của Koenig. – Jack lắc đầu. – Tôi không nghĩ đó là một tai nạn. Tôi nghĩ chính Koenig đã cho gen loài ếch vào đó, đó là một phép thử sai an toàn.
– Tôi không hiểu.
– Có thể cô ấy đã dự đoán trước được những mối nguy hiểm tiềm tàng, về việc sinh vật này có thể biến đổi như thế nào trong môi trường trọng lực siêu nhỏ. Nếu Chimera vượt khỏi tầm kiểm soát, cô ấy muốn có cách tiêu diệt nó. Đó chính là cánh cửa thoát hiểm khi nó phòng thủ. Và đây chính là cánh cửa đó.
– Vi rút tiêu diệt loài ếch.
– Nó sẽ thành công, Gordon. Nó phải thành công. Tôi đặt cược cả mạng sống của mình vì nó.
Một đợt bụi xung quanh họ, cuốn tung cát và những mẩu giấy vương vãi. Gordon quay lại và thấy bên kia đường là chiếc máy bay T-38 đã đưa họ từ Houson đến đây. Ông thở dài.
– Tôi nghĩ là anh sẽ nói vậy.