HAI MƯƠI SÁU
Ngày 22 tháng 8
Casper Mulholland nuốt gói thuốc giảm a-xít nhãn hiệu Tums thứ ba. Anh cảm giác bụng mình như vạc a-xít đang sôi, ở đằng xa, tàu Apogee II lấp lánh như một viên đạn, đáy được chôn dưới cát sa mạc. Con tàu thực sự không gây ấn tượng đặc biệt, nhất là với đám khán giả này. Phần lớn trong số họ đã nghe thấy tiếng gầm reng mặt đất khi phóng tàu của NASA. Họ đã sửng sốt khi thấy những cột lửa khổng lồ của tàu con thoi quệt ngang bầu trời. Tàu Apogee IItrông không giống tàu con thoi. Trông nó giống tên lửa đồ chơi của một đứa bé hơn. Casper nhận thấy sự thất vọng trong mắt của mấy chục người xem khi họ leo lên bục quan sát mới được dựng lên. Họ nhìn qua khu đất trống trải, cằn cỗi, về phía khu bệ phóng. Ai cũng muốn nhiều thứ đồ sộ. Ai cũng thích kích cỡ và sức mạnh. Những thứ nhỏ bé và giản đơn không khiến họ quan tâm.
Một chiếc xe tải khác xuất hiện ở khu bệ phóng. Một nhóm khách mới chui ra. Họ giơ tay che mắt vì ánh mặt trời buổi sáng. Anh nhận ra Mark Lucas và Hashemi Rashad. Hai thương nhân đã đến xem Apogee ba tuần trước. Anh lại thấy sự thất vọng trên mặt khi họ nheo mắt nhìn về phía bệ phóng.
– Đây là chỗ gần bệ phóng nhất mà chúng ta có thể đến à? – Lucas hỏi.
– Tôi e là vậy. – Casper nói. – Đó là vì sự an toàn của các ông. Ngoài đó có các động cơ nổ đấy.
– Nhưng tôi nghĩ chúng tôi sẽ nhìn kĩ các hoạt động ở bệ phóng của các vị.
– Các vị sẽ được xem đầy đủ hệ thống điều khiển từ mặt đất của chúng tôi. – nó tương đương với Phòng điều hành nhiệm vụ của Houston. Khi tàu rời bệ phóng, chúng ta sẽ lái xe đến tòa nhà đó và chúng tôi sẽ cho các vị thấy chúng tôi điều khiển tàu bay theo quỹ đạo trái đất như thế nào. Đó mới là bài thử nghiệm thật sự của chúng tôi, thưa ông Lucas. Bất cứ sinh viên cơ khí tốt nghiệp nào cũng phóng được tên lửa. Nhưng để đưa tên lửa đó lên quỹ đạo an toàn, rồi hướng dẫn nó lại gần Trạm vũ trụ là vấn đề phức tạp hơn nhiều. Đó là lý do tại sao chúng tôi đẩy lần minh họa này lên sớm bốn ngày. – chỉ để tàu hạ cánh đúng chỗ trên Trạm vũ trụ quốc tế. Chúng tôi sẽ cho các vị thấy hệ thống của chúng tôi có khả năng hạ cánh trên trạm. Tàu Apogee II chính là con chim mà NASA đang săn lùng để mua.
– Anh sẽ không thật sự hạ cánh chứ? – Rashad nghi ngờ. – Tôi nghe nói Trạm vũ trụ đã bị cách ly.
– Chúng tôi sẽ không hạ cánh. Tàu Apogee II chỉ là một hình mẫu. Nó không thể kết nối trực tiếp với Trạm vũ trụ quốc tế do thiếu hệ thống hạ cánh khi đang bay. Nhưng chúng tôi sẽ lái tàu đủ gần trạm để chứng tỏ chúng tôi có thể làm điều đó. Ông thấy đấy, chỉ cần xem xét việc chúng tôi có thể thay đổi lịch phóng tàu trong một thời gian ngắn như vậy đã là điểm ăn khách rồi. Khi nói tới các chuyến bay vào vũ trụ, sự linh hoạt chính là vấn đề mấu chốt. Mặc dù ông Obie đang nằm viện và bị vỡ xương chậu, nhưng các vị thấy chúng tôi sẽ không hủy lần phóng tàu này. Chúng tôi sẽ điều khiển toàn bộ nhiệm vụ này từ mặt đất. Thưa các vị, đó chính là tính linh hoạt.
– Tôi có thể hiểu tại sao các vị hoãn phóng tàu. – Lucas nói. – Ví dụ như do thời tiết xấu. Nhưng tại sao các vị lại đẩy lên sớm bốn ngày? Vài người cộng tác của chúng tôi không kịp đến đây.
Casper thấy liều Tums cuối cùng tan ra vì nước bọt chứa đầy a-xít.
– Thực ra lý do rất đơn giản. – Anh dừng lại, lấy khăn tay lau mồ hôi trên trán. – Đó là do cửa sổ bệ phóng mà tôi đã nói. Quỹ đạo của Trạm vũ trụ quốc tế nghiêng năm mốt phẩy sáu độ. Nếu ông nhìn đường bay của nó trên bản đồ, nó sẽ tạo ra sóng hình sin dao động trong khoảng từ năm mốt phẩy sáu độ bắc đến năm mốt phẩy sáu độ nam. Do trái đất quay, trạm sẽ đi qua các điểm khác nhau trên bản đồ trong mỗi lần quay quanh quỹ đạo. Hơn nữa, trái đất không hẳn là hình cầu, điều đó khiến vấn đề phức tạp hơn. Khi đường quay quanh quỹ đạo đó đi qua khu bệ phóng, nó sẽ là thời điểm thích hợp nhất để phóng tàu. Khi kết hợp các yếu tố đó, chúng ta sẽ có các lựa chọn phóng tàu khác nhau. Rồi người ta lại thắc mắc về thời gian phóng tàu vào ban ngày và ban đêm, các góc độ phóng tàu thích hợp và các dự báo thời tiết gần nhất…
Mắt họ bắt đầu đảo loạn lên. Anh đã khiến họ bối rối.
– Dù sao thì. – Casper kết thúc với một vẻ nhẹ nhõm. – Hôm nay, lúc 7 giờ 10 phút sáng nay sẽ là thời điểm tốt nhất. Các vị hiểu rõ điều đó đúng không?
Lucas dường như muốn lắc đầu như một con chó giật mình khi tỉnh giấc ngủ trưa.
– Có chứ, tất nhiên rồi.
– Tôi vẫn muốn đến gần hơn. – Rashad nói vẻ tiếc nuối. Anh ta nhìn tên lửa như một đốm sáng, mũi hếch lên trời. – Ở xa thế này chẳng có gì đáng xem cả đúng không? Nó nhỏ quá!
Casper cười trừ và anh thấy bụng mình tiêu hóa hết sự hồi hộp của anh.
– Ồ, ông biết người ta nói gì không, ông Rashad? Kích thước không thành vấn đề. Quan trọng là ông làm được gì với nó.
Đây là lựa chọn cuối cùng, Jack nghĩ khi một giọt mồ hôi chảy xuống thái dương, làm ướt đường viền trên mũ bảo vệ của anh. Anh đã cố không cho mạch mình đập quá nhanh nhưng tim anh như một con vật đang điên cuồng tìm cách nhảy ra khỏi lồng ngực. Đã nhiều năm rồi, đây là giây phút anh mơ ước: buộc cố định trong ghế ngồi của cơ trưởng, mũ bảo vệ đóng lại, ô-xi lưu thông. Đồng hồ đếm ngược chạy về số 0. Trong những giấc mơ đó, nỗi sợ chưa bao giờ xâm chiếm anh, chỉ có sự háo hức, mong đợi. Anh không nghĩ mình sẽ sợ hãi.
– Anh còn năm phút nữa sẽ cất cánh. Đây là lúc anh có thể rút lui. – đó là giọng nói của Gordon Obie qua đường liên lạc. Gordon đã cho Jack cơ hội thay đổi ý kiến trong suốt chuyến bay từ khu Cát Trắng về Nevada, và cả đầu giờ sáng nay, khi Jack mặc quần áo ở phòng chứa máy bay của công tyApogee, và cuối cùng là khi họ đi xe qua khu sa mạc được rải nhựa đường đến khu bệ phóng. Đây là cơ hội cuối cùng của Jack.
– Chúng ta có thể dừng việc đếm ngược ngay bây giờ. – Gordon nói. – Hủy toàn bộ nhiệm vụ này!
– Tôi đã sẵn sàng.
– Vậy đây sẽ là lần liên lạc cuối cùng của chúng ta. Tôi sẽ không thể liên lạc với anh nữa. Không có đường truyền từ mặt đất, không liên lạc với Trạm vũ trụ quốc tế, nếu không tất cả sẽ nổ tung. Khi chúng tôi nghe thấy giọng nói của anh, chúng tôi sẽ hủy toàn bộ nhiệm vụ này và đưa anh trở về. -Nếu chúng tôi vẫn có thể làm được, đó là điều ông không nói ra.
– Đã rõ.
Ông im lặng.
– Anh không phải làm việc này. Không ai bắt ép anh.
– Hãy thống nhất về việc này đi! Hãy đốt cây nến khốn kiếp này ngay đi, được chứ?
Tiếng thở dài đáp lại của Gordon rất to và rõ.
– Được rồi, chuẩn bị. Chúng ta còn ba phút nữa sẽ đếm ngược.
– Cảm ơn Gordon vì mọi việc.
– Chúc may mắn, mong Chúa phù hộ anh, Jack McCallum.
Đường truyền liên lạc đã bị ngắt.
Đây có thể là giọng nói cuối cùng mình được nghe, Jack nghĩ. Từ lúc này trở đi, đường truyền duy nhất từ trung tâm điều hành Apogee sẽ là các dữ liệu hướng dẫn trên tàu và các máy tính hướng dẫn đường bay. Con tàu sẽ tự lái, Jack chẳng hơn gì một con khỉ câm điếc ngồi trên ghế phi công.
Anh nhắm mắt, chỉ tập trung vào nhịp tim của chính mình. Giờ anh thấy bình tĩnh một cách kỳ lạ và chuẩn bị cho điều không thể tránh khỏi, cho dù đó là việc gì đi chăng nữa. Anh nghe thấy tiếng kêu vù vù và tiếng lách cách của các máy móc trên tàu sắp chuẩn bị phóng lên. Anh tưởng tượng bầu trời không một gợn mây, không khí trên đó đặc như nước, như một biển nước mà anh phải vượt qua để vào vũ trụ chân không.
Ở đó Emma đang hấp hối.
Đám đông trên đài quan sát bỗng im lặng. Đồng hồ đếm ngược được chiếu trên màn hình nhích sang nấc chỉ còn sáu mươi giây và kêu tích tắc liên tục. Họ sắp cho tàu cất cánh, Casper nghĩ. Một giọt mồ hôi chảy trên trán anh. Anh chưa bao giờ tin sẽ có giây phút này. Anh đã nghĩ nó sẽ bị hoãn lại, bỏ dở hay hủy hoàn toàn. Anh đã trải qua quá nhiều thất bại, quá nhiều điều rủi ro với con chim khổng lồ đó. Bông hồng đã chết đó như mật đắng trong cổ anh. Anh quan sát những người đứng trên đài và thấy nhiều người trong số họ đang lẩm bẩm tính thời gian khi mỗi giây trôi qua. Đầu tiên đó chỉ là tiếng thì thầm, rồi nó biến thành một hợp âm, làm xao động không khí.
– Hai chín, hai tám, hai bảy…
Tiếng thì thầm đã biến thành một hợp âm có nhạc điệu. Nó to dần lên khi mỗi giây trôi qua.
– Mười hai, mười một, mười…
Tay Casper run đến nỗi anh không thể nắm vững tay vịn. Mạch anh đập mạnh trong mỗi ngón tay.
– Bảy, sáu, năm…
Anh nhắm mắt. Ôi, lạy Chúa, họ đã làm gì thế này?
– Ba, hai, một.
Đám đông đều đồng loạt há hốc miệng kinh ngạc. Rồi tiếng gầm của động cơ bao trùm lấy anh, mắt anh mở to. Anh nhìn lên trời. Một vệt sáng đang bay lên. Giờ việc đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Đầu tiên là ánh sáng chói lòa, rồi một tiếng nổ dữ dội, tiếng nổ xé rách màng nhĩ của họ. Chuyện đó đã xảy ra với tàu Apogee I.
Nhưng vệt sáng đó vẫn tiếp tục bay lên cho tới khi nó chỉ còn là một chấm nhỏ trên bầu trời trong xanh.
Ai đó vỗ mạnh vào lưng anh. Anh giật mình quay lại, thấy Mark Lucas đang cười với mình.
– Nó bay rồi, ông Mulholland! Lần phóng tàu này thật tuyệt vời!
Casper lại cố nhìn lên trời lần nữa. Vẫn không có tiếng nổ nào.
– Tôi nghĩ ông chưa bao giờ nghi ngờ điều đó, đúng không? – Lucas cười hỏi.
Casper nuốt nước bọt.
– Không hề!
Liều cuối cùng.
Emma xoay ống tiêm, từ từ tiêm hết chất trong xi-lanh vào mạch máu. Cô rút mũi tiêm, ấn ga-rô vào chỗ tiêm, rồi gập cánh tay lại để giữ nó cố định khi cô ném kim tiêm đi. Cô có cảm giác đây là một nghi lễ thiêng liêng, một hành động được thực hiện với thái độ sùng kính và thiêng liêng. Cô biết đây là lần cuối cùng cô tận hưởng cảm giác này, từ sự nhói đau của mũi tiêm đến chỗ sưng do buộc ga-rô quá chặt trên cánh tay. Liều thuốc cuối cùng này sẽ giúp cô cầm cự được bao lâu?
Cô quay lại nhìn lồng nhốt chuột mà cô đã chuyển vào khoang dịch vụ Nga. Ở đó sáng hơn. Con chuột cái duy nhất giờ cuộn tròn như quả bóng và run rẩy, nó sắp chết. Ảnh hưởng của hooc-môn đó không được lâu dài. Những con chuột con đã chết ngay sáng hôm đó. Sáng mai, Emma nghĩ, mình sẽ là sinh vật duy nhất sống sót trên trạm.
Không, không phải là người duy nhất. Có một sinh vật khác bên trong cô. Các ấu trùng sẽ nhanh chóng qua giai đoạn ngủ đông để bắt đầu tiêu hóa và phát triển.
Cô đặt tay lên bụng như một phụ nữ mang thai kiểm tra bào thai bên trong. Thật sự nó rất giống một bào thai, sinh vật cô đang mang trong mình sẽ lấy đi các đoạn ADN của cô. Theo một cách nào đó, nó là con cháu có quan hệ máu mủ với cô. Nó có đoạn gen của động vật chủ mà nó ký sinh trên đó. Đó là Kenichi Hirai, Nicolai Rudenko, Diana Estes, và giờ là Emma.
Cô sẽ là người cuối cùng. Sẽ không có con vật chủ nào nữa, không có thêm nạn nhân nào nữa vì sẽ không có ai đến cứu cô. Trạm vũ trụ bây giờ chỉ còn là nấm mồ chôn bệnh tật, bị cấm đoán, không ai được phép đến gần. Nó như lãnh địa của người hủi trong thế giới cổ xưa.
Cô bay ra ngoài khoang dịch vụ Nga, về khu vực đã bị mất điện của trạm. Hầu như không còn đủ ánh sáng để cô nhìn thấy đường đi qua các nút chuyển giao tối tăm. Trừ tiếng thở đều đều của cô thì tất cả đều im lặng ở phần cuối trạm. Cô di chuyển trong các phân tử không khí đã từng cuộn trong lá phổi của những người giờ đã chết. Thậm chí lúc này cô lại cảm nhận thấy sự hiện diện của năm người đã chết. Cô còn tưởng tượng thấy giọng nói của họ còn vang vọng đâu đó. Tiếng mạch đập của cô yếu dần và là âm thanh cuối cùng còn sót lại trong sự im lặng đó. Đây là không gian họ đã sống cùng nhau, tất cả đều bị ám ảnh bởi những bước chân họ đã qua.
Và chẳng mấy chốc, cô nghĩ, mình cũng thành hồn ma trên trạm này.
Ngày 24 tháng 8
Jared Profitt thức giấc lúc nửa đêm. Chỉ cần nghe chuông điện thoại reo hai lần là ông đã tỉnh sau giấc ngủ sâu và hoàn toàn tỉnh táo. Ông nhấc máy.
Giọng nói ở đầu bên kia rất thô lỗ.
– Tổng tư lệnh Gregorian đây. Tôi vừa nói chuyện với Trung tâm điều khiển của chúng tôi đặt tại núi Cheyenne. Có một vụ phóng tàu thử nghiệm từ Nevada, nó đang trên đường tiến gần đến Trạm vũ trụ quốc tế.
– Vụ phóng tàu nào?
– Của Công ty cơ khí Apogee.
Profitt cau mày, cố nhớ cái tên đó. Mỗi tuần có hàng trăm vụ phóng tàu từ các nơi khác nhau trên khắp thế giới. Một số công ty hàng không thương mại luôn thử nghiệm hệ thống nổ đẩy hay bắn vệ tinh lên quỹ đạo trái đất, thậm chí họ còn thiêu chết mấy người. Bộ tư lệnh không quân đã phát hiện chín nghìn vật thể nhân tạo bay vào quỹ đạo.
– Hãy nhắc lại cho tôi nhớ về vụ phóng tàu ở Nevada này đi! – ông yêu cầu.
– Apogee đang thử nghiệm phương tiện phóng tàu có thể tái sử dụng mới. Họ đã phóng nó lên lúc 7 giờ sáng qua. Họ đã thông báo với Trung tâm vũ trụ liên bang theo quy định nhưng mãi đến khi đã phóng tàu họ mới thông báo cho chúng tôi. Chuyến bay này được đối tác mới của họ tài trợ. Họ phóng tàu đến quỹ đạo trái đất ở tầm thấp, đi qua Trạm vũ trụ quốc tế, sau đó trở về trái đất. Giờ chúng tôi đã theo dõi nó được một ngày rưỡi. Căn cứ vào lần đốt cháy nhiên liệu cuối cùng của tàu, tôi nghĩ họ đưa tàu đến trạm gần hơn họ đã nói.
– Gần mức nào?
– Còn tùy vào lần đốt nhiên liệu tiếp theo.
– Có đủ gần để hạ cánh xuống trạm không?
– Đó là điều không tưởng với loại tàu như vậy. Chúng tôi có máy do thám trên quỹ đạo của họ. Nó chỉ là một con tàu mô phỏng, không có hệ thống hạ cánh. Quá lắm thì con tàu đó chỉ có thể bay gần và tạo ra sóng dao động.
– Sóng dao động à? – Profitt ngồi bật dậy trên giường. – Không phải ông đang nói với tôi là con tàu này có người lái đấy chứ?
– Không thưa ngài, đó chỉ là cách nói văn vẻ. Công tyApogee nói tàu đó không có người. Có vài con vật trên tàu, bao gồm một con khỉ nhện nhưng không có phi công. Chúng tôi không thấy bất cứ liên lạc nào giữa tàu và mặt đất.
Một con khỉ nhện, Profitt nghĩ. Sự hiện diện của nó trên tàu có nghĩa là họ không thể loại trừ khả năng có người trên tàu. Các bảng điều khiển môi trường, nồng độ cacbon đi-ô-xít không có gì khác giữa động vật hay con người. Ông cảm thấy không an tâm khi thiếu thông tin. Thậm chí ông thấy bất an khi nghĩ đến thời gian phóng tàu.
– Tôi không chắc có báo động gì không. – Gregorian nói tiếp. – Nhưng ông phải chú ý nếu tàu đó có ý định lại gần trạm.
– Hãy cho tôi thêm thông tin về hãng Apogee! – Profitt ngắt lời.
Gregorian khịt mũi.
– Một công ty nhỏ với mười hai kỹ sư ở Nevada. Họ không được may mắn cho lắm. Cách đây một năm rưỡi, mẫu tên lửa của họ đã bị nổ tung hai mươi giây sau khi cất cánh. Và toàn bộ các nhà đầu tư của họ bốc hơi hết. Tôi hơi ngạc nhiên khi họ vẫn trụ lại ở đó. Các động cơ đẩy tên lửa của họ dựa trên công nghệ của Nga. Con tàu đó rất đơn giản, chỉ là một hệ thống khung thô sơ và có dù trở về trái đất. Trọng tải tối đa chỉ là ba trăm pao, cộng thêm một phi công.
– Tôi sẽ bay đến Nevada ngay. Chúng ta nên can thiệp ngay vào vụ này.
– Thưa ngài, chúng ta có thể kiểm soát mọi động thái của con tàu. Ngay lúc này chúng ta không có lý do nào để hành động. Họ chỉ là một công ty nhỏ, cố gây ấn tượng với các nhà đầu tư. Nếu con tàu có bất cứ dấu hiệu đáng nghi nào, chúng ta có thể dùng hệ thống tên lửa tiêu diệt tầm xa để bắn hạ con chim đó.
Tổng tư lệnh Gregorin có lẽ đúng. Việc một công ty cố đưa một con khỉ vào vũ trụ không thể là một báo động toàn quốc. Ông phải hành động cẩn trọng trong việc này. Cái chết của Luther Ames đã gây nên làn sóng phản đối trên toàn nước Mỹ. Đây không phải là lúc thích hợp để bắn hạ một con tàu vũ trụ nữa được chế tạo bởi công ty ở Mỹ.
Nhưng có quá nhiều điều về việc phóng tàu của hãngApogee lần này khiến ông quan tâm. Đó là thời gian, là khả năng tự lái và gặp tàu khác, và cả việc công ty đó không xác nhận hay phủ nhận sự hiện diện của con người trên đó.
Nó có thể là gì khác nếu không phải để cứu người?
Ông nói.
– Tôi sẽ đi Nevada.
Bốn mươi lăm phút sau, Profitt đã lên xe và ra đường chính. Đêm đó trời rất quang, những ngôi sao sáng như những chiếc đinh ghim trên bầu trời trong như nhung. Có lẽ có hàng trăm tỉ thiên hà trong vũ trụ, mỗi thiên hà lại có hàng trăm tỉ ngôi sao. Bao nhiêu vì sao có hành tinh và bao nhiêu hành tinh có sự sống? Thuyết tha sinh, thuyết về sự sống tồn tại và hiện diện ở mọi nơi trong vũ trụ giờ không còn là suy đoán. Học thuyết tin rằng chỉ có sự sống trên dấu chấm màu xanh nhạt, trong hệ mặt trời này giờ đã trở nên lố bịch như niềm tin ngây thơ của người xưa khi họ cho rằng mặt trời và các vì sao quay quanh trái đất. Yếu tố tiên quyết duy nhất để có sự sống là có các hợp chất được hình thành từ cacbon, cộng thêm một chút nước. Cả hai thứ đó đều có rất nhiều trong vũ trụ. Điều đó nghĩa là sự sống, dù nguyên thủy đến đâu cũng rất phong phú. Trong đám bụi giữa các vì sao có thể gieo mầm cho các vi khuẩn và các bào tử. Từ các sinh vật nguyên thủy đó mà toàn bộ sự sống khác sinh sôi.
Và chuyện gì sẽ xảy ra nếu những dạng sống đó đến như những mảnh bụi thiên hà khác, rồi nảy nở ở một hành tinh đã có sự sống trên đó?
Đó là ác mộng với Jared Profitt.
Trước kia ông từng nghĩ các vì sao thật đẹp. Đã có thời ông tận hưởng vũ trụ một cách ngạc nhiên và băn khoăn. Giờ khi nhìn bầu trời đêm, ông thấy mối đe dọa bất tận. Ông thấy trận chiến bất phân thắng bại giữa cái thiện và cái ác.
Kẻ thù của chúng ta từ trên trời rơi xuống.
Đã đến lúc từ biệt.
Tay Emma run lẩy bẩy. Cô đấm vào đầu mạnh đến nỗi cô phải nghiến răng để không kêu gào. Liều mooc-phin cuối cùng không thể giảm đau cho cô. Cô chóng mặt do liều thuốc đó và hầu như không thể tập trung vào màn hình hay bàn phím nằm ngay dưới tay mình. Cô dừng lại để tay không run nữa. Rồi cô bắt đầu đánh máy.
Thư riêng gửi: Jack McCallum.
Nếu em có một điều ước, em sẽ ước được nghe thấy giọng nói của anh một lần nữa. Em không biết anh ở đâu hay tại sao em không thể nói chuyện với anh. Em chỉ biết thứ trong cơ thể em sắp chiến thắng. Ngay cả khi viết những dòng này, em có thể cảm nhận thấy chúng sắp thắng thế. Em có thể thấy sức lực của em đang cạn dần. Em phải chống lại nó đến khi nào có thể. Em muốn đi ngủ rồi.
Khi viết những dòng này, đây là điều em muốn nói nhất. Em yêu anh. Em chưa bao giờ thôi yêu anh. Người ta nói không ai đứng trước cánh cửa dẫn tới thiên đàng mà còn mang theo lời nói dối. Họ nói rằng lời thú nhận lúc sắp chết luôn đáng tin. Và đây là lời thú nhận của em.
Tay cô run đến nỗi cô không còn đánh máy được nữa. Cô ghi tên và nhấn nút “gửi”.
Trong hộp dụng cụ y tế, cô thấy một liều Valium. Còn hai viên nữa. Cô uống một ngụm nước và nuốt cả hai viên. Khóe mắt cô bắt đầu nhòe đi. Chân tê dại như thể chúng không còn thuộc về cô nữa, mà thuộc về một người xa lạ.
Không còn nhiều thời gian.
Cô không còn sức mặc bộ đồ đi ngoài không gian nữa. Hơn nữa bây giờ cô chết ở đâu cũng không còn quan trọng. Trạm vũ trụ đã bị nhiễm bệnh. Xác cô chỉ là một vật thể khác cần được dọn đi.
Cô đi lại trong trạm lần cuối.
Cô muốn đến mái vòm để tận hưởng những giây phút cuối cùng, lơ lửng trong bóng tối và ngắm nhìn vẻ đẹp của trái đất bên dưới. Từ những ô cửa đó, cô sẽ thấy màu xanh của biển Caspia. Những đám mây cuộn trên Kazakhstan và tuyết trên đỉnh Himalayas. Dưới đó hàng tỉ người đang tiếp tục sống, cô nghĩ. Còn mình ở đây, chết giữa vũ trụ bao la.
– Emma? – đó là Todd Cutler, đang nói trên điện đàm. – Cô sao rồi?
– Không… không khỏe lắm. – cô lẩm bẩm. – Tôi đau lắm. Mắt mờ dần. Tôi đã uống liều Valium cuối cùng.
– Cô phải chờ ở đó, Emma. Hãy nghe tôi! Đừng bỏ cuộc. Chưa đến lúc đâu.
– Tôi thua rồi, Cutler.
– Không! Cô sẽ không thua. Cô phải có niềm tin.
– Vào phép màu ư? – cô cười. – Phép màu thực sự là tôi đang ở đây và ngắm trái đất từ nơi mà ít ai được đến…. – cô chạm vào cửa sổ mái vòm và cảm nhận thấy hơi ấm mặt trời qua tấm kính. – Tôi chỉ ước tôi có thể nói chuyện với Jack.
– Chúng tôi đang cố để điều đó xảy ra.
– Anh ấy đang ở đâu? Tại sao các anh không liên lạc được với anh ấy?
– Anh ấy đang làm việc như điên để đưa cô về. Cô phải tin điều đó.
Cô khóc. Tôi tin chứ.
– Tôi làm gì được cho cô? – Todd dịu dàng hỏi. – Cô muốn nói chuyện với ai không?
– Không. – cô thở dài. – Chỉ Jack thôi.
Cô im lặng.
– Tôi nghĩ điều tôi muốn nhất lúc này là…
– Là gì? – Todd hỏi.
– Tôi muốn ngủ. Thế thôi. Tôi chỉ muốn ngủ.
Anh hắng giọng.
– Tất nhiên rồi. Cô nên nghỉ ngơi. Tôi luôn ở đây khi cô cần. – Anh kết thúc cuộc nói chuyện rất nhẹ nhàng. – Chúc ngủ ngon. Trạm vũ trụ quốc tế!
Chúc ngủ ngon, Houston, cô nghĩ. Cô tháo tai nghe, để mặc nó trôi trong bóng tối.