MƯỜI BA
Một căn bệnh lây lan. Tàu rời trạm khẩn cấp. Chúng ta đang đối mặt với việc gì đây?
Gió thổi cuốn tung đám bụi khi Jack đi qua đường trải đá dăm đến chỗ đợi máy bay trực thăng. Anh nheo mắt vì những bụi đá, bước lên những bậc thang và chui vào máy bay. Đó là chiếc máy bay của hãng Gulfstream IV chứa được mười lăm hành khách. Đây là một trong số những phương tiện rất cứng cáp và vững chắc được NASA dùng để đưa đón nhân viên qua lại giữa các trung tâm hoạt động rộng lớn của hãng, đã có gần chục người trên máy bay, trong đó có mấy y tá và bác sĩ thuộc Phòng y tế điều hành bay. Vài người trong số họ vẫy tay chào Jack.
– Chúng ta phải đi thôi, thưa các vị. – viên phi công nói. – Đóng khóa an toàn ngay!
Jack ngồi cạnh cửa sổ, gần đầu trước máy bay.
Roy Bloomfeld là người cuối cùng lên máy bay. Mái tóc đỏ rực của anh cứng lại vì gió. Khi Bloomfeld vừa ngồi xuống thì người đồng lái đóng sập cửa vào.
– Todd không đến à? – Jack hỏi.
– Anh ấy đang phụ trách bảng điều khiển lúc hạ cánh. Có vẻ như chúng ta là một đội quân cấp tốc.
Máy bay bắt đầu di chuyển đến đường bay. Họ không để phí chút thời gian nào, chuyến bay đến khu Cát Trắng sẽ mất một tiếng rưỡi.
– Anh biết có chuyện gì không? – Jack lo lắng hỏi. – Tôi chẳng biết chuyện gì cả.
– Tôi được thông báo ngắn gọn. Anh có biết đã có một chất rò rỉ trên tàu Discovery hôm qua không? Chất lỏng mà họ đã cố xác định ấy? Hóa ra đó là những chất lỏng thoát ra từ cái túi đựng xác Kenichi.
– Túi đó đã được buộc chặt rồi cơ mà. Sao nó rỉ ra được?
– Túi nhựa bị rách. Phi hành đoàn nói dường như phần bên trong đã bị áp lực. Quá trình phân hóa quá nhanh nào đó đang xảy ra.
– Kittredge miêu tả chất lỏng đó có màu xanh lá cây và có mùi như cá. Điều đó nghe không giống với mùi một xác chết bị phân hủy.
– Tất cả chúng tôi đều phân vân. Cái túi đã được đóng chặt lại. Chúng ta phải chờ đến khi họ hạ cánh mới biết có chuyện gì xảy ra trong đó. Đây là lần đầu tiên chúng ta xử lý những gì còn lại của một con người trong môi trường trọng lực siêu nhỏ. Có thể quá trình phân hủy đã xảy ra điều gì đó khác thường. Có thể các vi khuẩn kỵ khí đã chết và đó là lý do tại sao nó không phát ra mùi khó chịu.
– Phi hành đoàn sao rồi?
– Cả Hewitt và Kittredge đều bị đau đầu khủng khiếp. Giờ Mercer bị nôn mửa nhiều và O’Leary bị đau bụng. Chúng tôi không chắc việc đó có phải do tâm lý không. Chắc chắn sẽ có phản ứng về mặt tâm lý khi người ta nuốt một phần của đồng nghiệp đang phân hủy vào trong bụng.
Các yếu tố tâm lý chắc chắn là một vấn đề phức tạp. Bất cứ khi nào có tình trạng ngộ độc thức ăn thì thực tế một nửa trong số các bệnh nhân không bị ảnh hưởng gì. Những lời đồn có sức mạnh đến mức nó có thể khiến người ta nôn mửa như bị ngộ độc thật.
– Họ đã phải hoãn việc tách tàu. Khu Cát Trắng cũng có vấn đề. – một trong số các khu điều khiển hàng không quan trọng của họ đã phát đi các tín hiệu sai lệch. Họ cần mấy tiếng nữa mới phục hồi và khiến nó hoạt động bình thường trở lại.
Khu điều khiển hàng không quan trọng là một chuỗi các trạm thu phát trên mặt đất truyền cho tàu vũ trụ các thông tin cập nhật về hàng không mới nhất. Một tín hiệu không rõ từ khu điều khiển hàng không quan trọng có thể khiến tàu chệch hoàn toàn đường đi.
– Giờ thì họ quyết định không thể chờ được nữa. – Bloomfeld nói. – Trong nửa giờ qua, cả phi hành đoàn đã bị bệnh nặng hơn. Cả Kittredge và Hewitt đều bị đỏ mắt. Đó chính là điều đã xảy ra đầu tiên với Hirai.
Máy bay bắt đầu chuyển bánh để cất cánh. Tai họ ù ù tiếng gầm của động cơ và mặt đất lùi lại phía dưới.
Jack hét lên át âm thanh đó.
– Còn Trạm vũ trụ quốc tế thì sao? Có ai trên đó bị ốm không?
– Không. Họ vẫn đóng cửa giữa hai tàu để tránh chất lỏng lan ra.
– Vậy là nó đã bị chặn lại trong tàu Discovery.
– Đến giờ là như vậy.
Emma vẫn ổn, anh nghĩ và thở phào nhẹ nhõm. Emma được an toàn. Nhưng nếu một loại bệnh lây lan đã được đưa lên tàu Discovery khi chuyển thi thể của Hirai lên đó thì tại sao các phi hành gia trên trạm lại không bị lây bệnh?
– Tàu con thoi thế nào rồi? – Jack hỏi.
– Giờ họ đang tách tàu. Đốt cháy mục tiêu sẽ mất khoảng bốn mươi lăm phút và việc hạ cánh dự kiến sẽ vào lúc năm giờ chiều.
Điều đó khiến đội dưới mặt đất không có nhiều thời gian chuẩn bị. Anh nhìn những đám mây bị họ xuyên qua vào một khu vực đầy nắng. Mọi thứ đang bất lợi cho chúng ta, anh nghĩ. Hạ cánh khẩn cấp. Hệ thống định vị hàng không bị hỏng. Một phi hành đoàn bị bệnh.
Và tất cả những điều đó sẽ không đi đến đâu cả.
Đầu Jill Hewitt rất đau, mắt cô đau đến nỗi hầu như cô không thể tập trung vào danh sách những việc cần làm khi tách tàu. Chỉ trong một giờ qua, sự đau đớn đã luồn lách vào mọi thớ cơ trong cơ thể cô và giờ cô có cảm giác những cục lởm chởm đang bò khắp lưng và đùi. Cả hai bên mắt cô đã biến hết thành màu đỏ và hai mắt của Kittredge cũng vậy. Cả hai mắt anh trông như những túi máu giống hệt nhau, rực lên và đỏ au. Anh cũng đau đớn, cô nhận thấy điều đó trong dáng đi của anh, anh quay đầu chậm và từ từ. Cả hai đều đau đớn. Nhưng không ai dám tiêm mũi thuốc mê. Việc tách tàu và hạ cánh đòi hỏi phải cảnh giác cao độ và họ không thể liều lĩnh để bỏ lỡ bất cứ một hình ảnh nhỏ nhất của việc đó.
Hãy đưa chúng tôi về. Hãy đưa chúng tôi về! Đó là một nỗi ám ảnh cứ bám mãi trong đầu Jill khi cô cố gắng làm nhiệm vụ, khi mồ hôi thấm đẫm áo và sự đau đớn khiến cô mất tập trung.
Họ đang làm việc gấp để nhanh chóng duyệt qua toàn bộ danh sách những việc cần làm. Cô đã cắm chiếc máy tính IBM Think Pad vào cổng dữ liệu bảng điều khiển, khởi động và mở chương trình Gặp gỡ và hoạt động tầm gần.
– Không có dòng dữ liệu nào. – cô nói.
– Sao?
– Cổng nối này chắc chắn đã bị chất lỏng đó làm hỏng. Tôi sẽ thử máy tính tại khoang giữa. – cô rút dây cáp. Mỗi đốt xương trên khuôn mặt cô đang kêu gào vì đau đớn khi cô đi qua khu kết nối các khoang và mang theo chiếc máy tính Think Pad. Mắt cô đang đập mạnh đến nỗi dường như chúng sắp nổ tung và nhảy ra khỏi hốc mắt. Khi xuống đến khoang giữa, cô thấy Mercer đã mặc bộ quần áo khi cất cánh và đã buộc mình vào ghế. Anh bất tỉnh. – có lẽ là do liều thuốc mê. O’Leary cũng đã vào vị trí, vẫn còn tỉnh táo nhưng có vẻ kinh ngạc khi Jill bay ngang qua khoang giữa, đến cổng dữ liệu của khoang giữa và cắm máy tính.
Vẫn không có các dòng dữ liệu.
– Chết tiệt!
Giờ cô cố gắng tập trung và quay trở lại khoang lái.
– Không may à? – Kittredge hỏi.
– Tôi sẽ thay cáp nguồn và thử lại cổng này. – Giờ đầu cô đập mạnh đến nỗi nước mắt chảy ra. Cô nghiến răng, lôi cáp ra, thay một cái mới, khởi động lại. Từ chương trình Windows, cô mở chương trình Trở về và hoạt động ở tầm gần.
Biểu tượng của chương trình Trở về và hoạt động ở tầm gần hiện trên màn hình.
Môi trên của cô vã mồ hôi khi cô bắt đầu đánh máy thời gian cần thiết để thực hiện nhiệm vụ. Ngày, giờ, phút, giây. Những ngón tay của cô không còn tuân theo sự điều khiển của não. Chúng run rẩy và vụng về. Cô phải cố gắng lắm mới sửa lại đúng các con số. Cuối cùng, cô chọn mục “Lựa chọn chương trình” rồi ấn “OK”.
– Chương trình Trở về và hoạt động ở tầm gần đã được kích hoạt. – cô thở phào nói. – Sẵn sàng xử lý dữ liệu.
Kittredge nói.
– Chỉ huy, chúng tôi đã sẵn sàng tách tàu.
– Chờ đã, tàu Discovery!
Việc chờ đợi kéo dài quá lâu. Jill nhìn xuống những ngón tay mình và thấy chúng bắt đầu co lại, những đám cơ trên cẳng tay cứ cuộn lên như có hàng nghìn con sâu dưới da, như thể có một sinh vật sống nào đó đang luồn lách trong những thớ thịt. Cô cố giữ cho hai tay bình thường nhưng các ngón tay co thắt lại như bị điện giật. Hãy đưa chúng tôi về trong lúc chúng tôi còn điều khiển được con chim khổng lồ này!
– Discovery! – Chỉ huy nói. – Các bạn sẵn sàng tách tàu.
– Rõ! Bộ phận lái tự động đã hạ xuống mức Z. Chuẩn bị tách tàu. – Kittredge nhẹ nhõm nhìn Jill. – Giờ chúng ta sẽ đưa thứ quái quỷ này về nhà. – Anh lẩm bẩm và nắm cần điều khiển.
Giám đốc điều hành bay Randy Carpenter đứng như bức tượng thần Colossus. Mắt anh dán chặt vào màn hình. Bộ não một kỹ sư của anh bình thản quan sát những dòng dữ liệu chạy trên màn hình và nghe những cuộc nói chuyện. Như mọi khi, Carpenter đang nghĩ trước vài bước. Bệ đỗ tàu hiện đang được rút dần áp lực. Các khớp nối giữa tàu con thoi và Trạm vũ trụ sẽ mở ra. Các lò xo trong hệ thống tách tàu sẽ nhẹ nhàng đẩy hai con tàu ra xa nhau và làm chúng trôi về hai phía khác nhau. Chỉ lúc nào cả hai tàu đã tách ra thì hệ thống điều khiển theo phản xạ của tàu Discovery mới được kích hoạt để lái tàu về trái đất. Mọi việc có thể bị rắc rối ở bất cứ công đoạn nào của một chuỗi các sự kiện nhỏ đó. Nhưng đối với mỗi thất bại có thể xảy ra, Carpenter đã có một kế hoạch dự phòng. Nếu các khóa không mở ra, họ sẽ đốt các đầu điện hoạt động theo cơ chế pháo hoa để đốt cháy các mối hàn giữ các khóa. Nếu điều đó cũng thất bại thì hai thành viên trên Trạm vũ trụ quốc tế sẽ đi bộ bên ngoài trạm để tháo các mối hàn theo cách thủ công. Họ có những kế hoạch hỗ trợ cho những kế hoạch dự phòng khác, có sự chuẩn bị trước cho mọi sự cố có thể xảy ra.
Ít nhất thì họ cũng đoán trước được mọi sự cố có thể xảy ra. Điều Carpenter lo sợ là một trục trặc mà không ai nghĩ đến. Và giờ anh hỏi mình câu hỏi mà anh luôn đặt ra trước khi bắt đầu một khâu mới trong nhiệm vụ bay: Chúng ta đã không tính đến điều gì?
– Hệ thống ghép tàu đã tắt. – Anh nghe thấy Kittredge thông báo. – Các khóa đã mở. Giờ chúng tôi đang trôi tự do.
Viên điều hành bay bên cạnh Carpenter giơ nắm đấm thể hiện sự thành công.
Carpenter nghĩ tiếp về việc hạ cánh. Thời tiết tại khu Cát Trắng đang ổn định, gió thổi cấp mười lăm. Hệ thống truyền tín hiệu hàng không sẽ được phục hồi và hoạt động kịp lúc cho tàu hạ cánh. Đội trên mặt đất lúc này đang trên đường đến đó. Anh không thấy có biến cố nào mới nhưng anh biết một rắc rối nào đó đang lẩn quất đâu đây.
Trên Trạm vũ trụ quốc tế, Emma và các bạn cùng đoàn đang quan sát và chờ đợi. Toàn bộ hoạt động nghiên cứu đang tạm ngưng. Họ đều tập trung hết tại mái vòm ở nút số 1 để nhìn con tàu khổng lồ đang tách ra. Griggs cũng đang quan sát việc đó trên máy tính IBM Think Pad. Nó hiển thị cùng một chương trình hiện đang được chiếu trong phòng điều hành của trung tâm Houston.
Qua các cửa sổ ở khu mái vòm. Emma thấy tàuDiscovery bắt đầu trôi xa và cô thở phào nhẹ nhõm. Giờ con tàu đã trôi tự do và trên đường về nhà.
Nhân viên y tế O’Leary lơ lửng khi còn đang ngủ vì thuốc mê. Anh đã tự tiêm năm mươi miligram thuốc mê Demerol vào cánh tay, chỉ vừa đủ để giảm đau, để anh có thể buộc Mercer lại và chuẩn bị khoang để chui vào. Chỉ một liều nhỏ đó cũng đủ khiến các quá trình hoạt động của não anh bị ngưng trệ.
Anh ngồi và buộc mình vào ghế trong khoang giữa. Căn phòng dường như đang lơ lửng và biến mất như thể anh đang quan sát nó dưới nước. Ánh sáng làm anh đau mắt nên anh nhắm mắt lại. Một lúc trước đó, anh đã nghĩ anh nhìn thấy Jill Hewitt bay qua, mang theo chiếc máy tính Think Pad. Giờ cô ấy đi rồi nhưng anh vẫn nghe thấy giọng nói căng thẳng của cô trên bộ đàm, cùng giọng nói của Kittredge và chỉ huy. Họ đã tách khỏi bệ.
Ngay cả khi tâm trí không còn rõ rệt, anh vẫn có cảm giác bất lực và xấu hổ khi anh bị buộc trong ghế như một kẻ tàn tật trong khi các bạn cùng đoàn đang trên khoang lái và làm việc vất vả để tất cả đều được trở về. Lòng tự trọng khiến anh đấu tranh chống lại cơn buồn ngủ dễ chịu và anh nhìn chằm chằm vào ánh sáng mạnh trong khoang giữa. Anh cảm thấy các dây buộc tháo ra và chúng trôi tự do, anh trôi ra khỏi chỗ ngồi. Khoang giữa bắt đầu trôi quay tròn và anh nhắm mắt để ngăn một cơn buồn nôn khác. Hãy đấu tranh với nó, anh nghĩ. Lý trí thắng mọi rắc rối. Mình sẽ luôn là người có dạ dày sắt. Nhưng anh không sao mở mắt được để ngăn không cho mình trôi nổi trong căn phòng.
Cho tới khi anh nghe thấy một âm thanh. Đó là tiếng cót két. Nó gần đến nỗi anh cứ nghe đó chắc chắn là Mercer đang quấy rầy giấc ngủ của anh. O’Leary quay về chỗ có tiếng động. – và thấy không phải là anh đang đối diện với Mercer. Anh đang nhìn chiếc túi đựng thi thể của Kenichi Hirai.
Nó đang phồng lên, đang nở to ra.
Mắt mình, anh nghĩ. Chúng đang giỡn mình.
Anh nháy mắt, cố tập trung. Cái túi đựng xác vẫn đang phồng lên, phần nhựa đang căng lên ở chỗ bụng nạn nhân. Mấy giờ trước đó, họ đã gắn lại chỗ thủng nên bây giờ chắc chắn áp lực bên trong lại tăng lên.
Anh đi lại như trong mơ và bay ngang chỗ ngủ. Anh đặt tay vào cái túi đựng xác đang phồng to.
Anh rũ hết mọi sợ hãi. Trong một giây phút ngắn ngủi chạm vào nó, anh cảm thấy nó đang phồng lên, xẹp xuống, rồi lại phồng lên.
Cái xác đang co giãn.
Mồ hôi lấm tấm trên môi, Jill Hewitt nhìn qua ổ cửa sổ phía trên khi tàu Discovery được mở khóa và tách khỏi bệ Trạm vũ trụ quốc tế. Khoảng cách giữa họ ngày càng lớn. Cô nhìn nhanh những dòng dữ liệu chạy ngang màn hình. Tách ba mươi centimet, sáu mươi centimet. Mình đang về nhà. Cơn đau đớn lại đột ngột cuộn lên đầu cô. Nó tra tấn cô mạnh đến nỗi cô bắt đầu cảm thấy mình sắp ngất. Cô cố chống lại nó, cố giữ sự tỉnh táo với thái độ kiên quyết của một con hổ dữ.
– Hệ thống gắn bệ với tàu đã tắt. – cô nói, răng nghiến chặt.
Kittredge trả lời.
– Hãy chuyển sang hệ thống điều khiển theo phản xạ, ở mức thấp nhất Z.
Khi sử dụng các bộ phận đẩy của hệ thống điều khiển theo phản xạ, giờ Kittredge có thể lái cho tàu ra xa Trạm vũ trụ quốc tế và di chuyển tới một điểm cách trạm chín trăm mười lăm mét. Ở điểm đó, các tàu khác nhau của họ sẽ tự động kéo chúng ra xa nhau.
Jill nghe thấy tiếng ầm ầm của các động cơ bị đốt cháy và cảm thấy con tàu rung chuyển mạnh khi Kittredge đang từ từ chuyển sang thanh gạt R tại bảng điều khiển. Tay anh run rẩy, mặt anh căng thẳng vì đang cố kiểm soát tay lái. Anh, chứ không phải chiếc máy tính đang điều khiển con tàu. Chỉ cần bánh lái lạng đi một chút thôi thì toàn bộ con tàu sẽ bị lật nghiêng sang bên.
Đã cách một phẩy năm mét. Giờ họ đã qua giai đoạn tách tàu quan trọng và ngày càng đi xa hơn khỏi Trạm vũ trụ.
Jill bắt đầu nghỉ ngơi.
Rồi cô nghe thấy một tiếng thét lớn ở khoang giữa. Một tiếng thét sợ hãi và kinh hoàng. Đó là O’Leary.
Cô quay lại vừa lúc một núi những mảnh xác người bay vọt vào khoang lái và nổ tung ngay trước mắt cô.
Kittredge đang ngồi cạnh chỗ thông giữa các khoang nên chịu áp lực nổ, bị đánh văng ra khỏi cần điều khiển. Jill lộn lại phía sau, tai nghe của cô văng ra. Toàn bộ cơ thể cô dính đầy những mảnh vụn bốc mùi hôi thối toàn ruột, da và các mớ tóc đen vẫn bám vào hộp sọ. Tóc của Kenichi. Cô nghe thấy tiếng phụt của động cơ đẩy, dường như con tàu đang chao đảo. Một đống toàn các bộ phận cơ thể người quấn vào nhau đang trôi nổi khắp buồng lái. Một đám thiên hà trong cơn ác mộng quay vòng. Lơ lửng trong không trung là những đám túi nhựa, lục phủ ngũ tạng bắn tung tóe và những đám nước màu xanh lá cây kỳ dị. Một đám chất đó trông như chùm nho bay ngang qua rồi bắn tung tóe vào bức tường gần đó.
Khi những giọt nước đó va chạm và tiếp xúc với bề mặt phẳng trong môi trường trọng lực siêu nhỏ, chúng hơi run rẩy vì lực va chạm rồi đứng im. Các chất này không ngừng di chuyển.
Cô kinh hãi nhìn những giọt nước xuất hiện ngày càng nhiều như những gợn sóng làm xao động bề mặt. Rồi sau đó cô mới thấy được bao bọc sâu trông đám chất nhầy đó là một lõi màu đen, một thứ gì đó đang chuyển động. Nó oằn lên như ấu trùng muỗi.
Đột nhiên, một hình ảnh khác kinh hoàng hơn đập vào mắt cô. Cô ngước lên nhìn ô cửa sổ trên khoang lái và nhìn thấy trạm không gian đang ngày càng to dần lên trước mắt họ. Nó lại gần đến nỗi cô gần như có thể thấy những chiếc đinh tán trên giàn năng lượng mặt trời.
– Sắp va chạm! – Griggs hét lên trên điện đàm liên lạc trong vũ trụ. – Tàu Discovery, các bạn sắp đâm vào chúng tôi rồi!
Không ai trả lời.
– Tàu Discovery! Hãy chuyển hướng!
Emma sợ hãi nhìn thảm họa đang tiến về phía họ. Qua cửa sổ quan sát tại mái vòm của Trạm vũ trụ, cô thấy tàu con thoi đang đột ngột tăng tốc và rẽ sang bên trái. Cô thấy cánh tàu hình tam giác của tàu Discovery đang đâm sầm về phía họ và tốc độ của nó đủ để chém đứt thân tàu bằng nhôm của Trạm vũ trụ. Khi vụ va chạm sắp xảy ra, cô thấy cái chết đang cận kề.
Các cột khói từ động cơ tên lửa bị kích hoạt đột nhiên phụt ra từ bộ phận đẩy của hệ thống điều khiển tự động phía trước tàu con thoi. Tàu Discovery bắt đầu lao vọt xuống dưới, lấy lại đà, cánh trái của tàu đột ngột lao về phía trước nhưng không đủ nhanh để làm vỡ hết giàn thu nhiệt mặt trời của Trạm vũ trụ. Cô thấy tim mình ngừng đập.
Cô nghe thấy Luther thì thào.
– Lạy Chúa!
– Phương tiện di dời khẩn cấp! – Griggs hoảng loạn hét lên. – Tất cả đến phương tiện di dời khẩn cấp!
Tay chân họ khua loạn lên trong không trung, bàn chân bay tứ tung khi phi hành đoàn nháo nhào di chuyển về nút có phương tiện khẩn cấp. Nicolai và Luther là những người đi qua cửa đầu tiên vào phòng sinh hoạt. Emma vừa nắm được tay cầm của cửa thì nghe thấy tiếng kim khí va vào nhau, tiếng nhôm bị vặn kêu ken két và nó bị biến dạng khi hai vật thể khổng lồ va vào nhau.
Trạm vũ trụ rung chuyển dữ dội. Và đúng lúc đó cô chỉ kịp nhìn thấy các bức vách của nút số 1 bong ra, chiếc máy tính hiệu Think Pad của Griggs lộn nhào trong không trung và khuôn mặt sợ hãi của Diana ướt đẫm mồ hôi.
Những bóng đèn nhấp nháy rồi tắt hẳn. Trong bóng tối, bóng đèn cảnh báo màu đỏ cứ tắt rồi lại bật.
Một tiếng còi rợn người rú lên.